Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể trong pháp luật dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.52 KB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHÙNG THỊ TUYẾT TRINH

QUYỀN BẢO ĐẢM AN TOÀN VỀ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE,
THÂN THỂ TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đinh Văn Thanh

HÀ NỘI - 2012


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan luận văn này là do chính tác giả nghiên cứu và thực
hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Đinh Văn Thanh. Các nội dung
được trình bày trong bản luận văn có tham khảo và sử dụng một số tài liệu, thông
tin đã được công bố theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phùng Thị Tuyết Trinh



DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLDS 1995

Bộ luật Dân sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 1995

BLDS 2005

Bộ luật Dân sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 2005

BTTH

Bồi thường thiệt hại

CHXHCN

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

HSST


Hình sự sơ thẩm

Nxb

Nhà xuất bản

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân Tối cao

Tr

Trang

WHO

Tổ chức Y tế thế giới


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN
BẢO ĐẢM AN TOÀN VỀ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE, THÂN THỂ


6

1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể 6
1.2. Cơ sở quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể

14

1.3. Sơ lược lịch sử pháp luật Việt Nam về quyền bảo đảm an toàn
về tính mạng, sức khỏe, thân thể

17

Chương 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VỀ QUYỀN BẢO ĐẢM AN TOÀN VỀ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE,
THÂN THỂ

23

2.1. Nội dung quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể
trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành

23

2.2. Xác định hành vi xâm phạm quyền bảo đảm an toàn về tính mạng,
sức khỏe, thân thể

30

2.3. Các biện pháp bảo vệ quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe,

thân thể

33

Chương 3: THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN BẢO ĐẢM AN TOÀN VỀ TÍNH MẠNG,
SỨC KHỎE, THÂN THỂ THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ
VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

49

3.1. Thực tiễn bảo vệ quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể.

49

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền bảo đảm an toàn về tính mạng,
sức khỏe, thân thể

59

KẾT LUẬN

66

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Con người luôn là trung tâm của xã hội, mọi hoạt động xã hội đều do
con người thực hiện. Chính vì lẽ đó, sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào
những cá nhân trong xã hội và con người cũng là đối tượng trung tâm mà pháp
luật hướng tới bảo vệ. Đối với sự tồn tại của mỗi con người, sức khỏe, tính
mạng, thân thể là những yếu tố vô cùng quan trọng, thậm chí rất thiêng liêng.
Chính vì thế, Điều 71 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1999 (đã sửa
đổi, bổ sung năm 2001) quy định “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe,…”. Từ đó, BLDS năm
2005 đã cụ thể hóa bằng việc ghi nhận quyền bảo đảm an toàn về tính mạng,
sức khỏe, thân thể là một trong những quyền nhân thân cơ bản.
Hiện nay, sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xu hướng hội nhập
với thế giới đem lại nhiều cơ hội thuận lợi nhưng cũng có những tác động tiêu
cực mà chúng ta không thể bỏ qua. Khi kinh tế phát triển, điều kiện sống của
con người được nâng cao nhưng không đi đôi với sự phát triển toàn diện, con
người ngày càng quan tâm đến lợi ích của bản thân mà quên đi việc tôn trọng
lợi ích của người khác, lợi ích của cộng đồng, thậm chí là xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, thân thể của người khác. Lối sống vô cảm, thờ ơ, bàng quan
trước tình cảnh hoạn nạn của đồng loại đang ngày càng trở thành một trong
những vấn đề nhức nhối trong xã hội hiện đại.
Trong mọi giai đoạn phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn
coi trọng việc bảo đảm điều kiện sống của người dân, bảo vệ quyền bảo đảm an
toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể thông qua các đường lối, chính sách cũng
như những hoạt động thực tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt
được, còn tồn tại nhiều vấn đề hạn chế ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng
của người dân. Để quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể
được thực hiện hiệu quả, đòi hỏi phải nghiên cứu khoa học để giải quyết những


2


vấn đề lý luận về quyền này và từ đó là cơ sở để định hướng hoàn thiện pháp
luật. Do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Quyền bảo đảm an toàn về tính
mạng, sức khỏe, thân thể trong pháp luật dân sự Việt Nam” cho luận văn
cao học chuyên ngành Luật Dân sự của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể trong
pháp luật dân sự Việt Nam đến nay đã được một số tác giả quan tâm, tuy nhiên
hầu hết các công trình chỉ nghiên cứu tập trung vào một nội dung nào đó mà
chưa có tính khái quát, chuyên sâu, hệ thống về quyền này. Quyền bảo đảm an
toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể đã được đề cập đến trong một số nghiên
cứu về hệ thống quyền nhân thân nói chung. Ví dụ như trong đề tài nghiên cứu
của trường Đại học Luật Hà Nội “Quyền nhân thân của cá nhân và bảo vệ
quyền nhân thân theo pháp luật dân sự” năm 2008, luận văn thạc sĩ “Quyền
nhân thân liên quan đến thân thể của cá nhân theo quy định trong BLDS năm
2005” của tác giả Lê Thị Hoa năm 2006, hay bài viết “Khái niệm và phân loại
quyền nhân thân” của tác giả Bùi Đăng Hiếu đăng trên Tạp chí Luật học số 7
năm 2009. Đặc biệt, vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, thân thể đã được nghiên cứu khá kỹ lưỡng, cụ thể như các
công trình nghiên cứu sau:
- Sách chuyên khảo: “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản,
sức khoẻ và tính mạng” của tác giả Phùng Trung Tập, năm 2009;
- Luận văn thạc sĩ: “Bồi thường thiệt hại trong trường hợp sức khoẻ và
tính mạng bị xâm phạm một số vấn đề về lý luận và thực tiễn” của tác giả Trần
Minh Châu năm 2006;
- Một số bài viết đăng trên tạp chí như: “Những bất cập trong quy định
về bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm” của tác giả An Văn Khoái
đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 23 năm 2010; “Về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại sức khoẻ bị xâm phạm khi người bị thiệt hại có hành vi trái
pháp luật” của tác giả Hoàng Quảng Lực đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân số



3

8 năm 2008; “Xác định thiệt hại trong bồi thường thiệt hại do tính mạng bị
xâm phạm” của tác giả Dương Quỳnh Hoa đăng trên Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật số 3 năm 2006…
Nhìn chung, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu
về mặt lý luận và thực tiễn bảo vệ quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức
khỏe, thân thể trong pháp luật dân sự Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu một cách tổng quát những vấn đề pháp lý liên quan
đến quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể. Quyền này được
bảo vệ bởi nhiều ngành luật chuyên ngành như Luật Hình sự, Luật Hành
chính,… nhưng trong phạm vi đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu chủ yếu quy
định của pháp luật dân sự.
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là tìm hiểu quy định của pháp luật
Việt Nam, đặc biệt là quy định trong BLDS về quyền bảo đảm an toàn về tính
mạng, sức khỏe, thân thể; tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật để bảo vệ quyền
này, phát hiện những bất cập, trên cơ sở phân tích, đánh giá để đưa ra phương
hướng hoàn thiện pháp luật.
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là giải quyết các vấn
đề:
- Nghiên cứu để làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về quyền bảo đảm an
toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể như: Phân tích nội hàm khái niệm, đặc
điểm quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể;
- Nghiên cứu quá trình phát triển các quy định pháp luật Việt Nam về
quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể; các quy định của
pháp luật thực định về nội dung, cơ chế bảo vệ quyền, giải quyết tranh chấp…;

- Bên cạnh phân tích các quy định pháp luật, tìm hiểu thực tiễn thực hiện
để chỉ ra những bất cập, hạn chế của pháp luật hiện hành, tìm ra nguyên nhân;


4

- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện về quyền bảo đảm an toàn về tính
mạng, sức khỏe, thân thể nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền này.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài “Quyền bảo đảm an
toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể trong pháp luật dân sự Việt Nam” được
nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Ngoài ra,
đề tài còn được nghiên cứu bằng các phương pháp phân tích, tổng hợp các quy
định pháp luật dân sự Việt Nam về quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức
khỏe, thân thể. Việc nghiên cứu quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức
khỏe, thân thể được đặt trong mối quan hệ với các điều kiện kinh tế xã hội và
sự tương quan với các quyền nhân thân khác.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện,
đầy đủ các vấn đề lý luận trọng tâm liên quan đến quyền bảo đảm an toàn về
tính mạng, sức khỏe, thân thể trong pháp luật dân sự Việt Nam, cụ thể là làm rõ
nội hàm khái niệm bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể; đặc điểm
của quyền này và mối quan hệ với một số quyền nhân thân khác; cơ sở quyền
bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể.
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống sự phát triển
các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam về quyền bảo đảm an toàn về tính
mạng, sức khỏe, thân thể; nội dung của các quy định pháp luật Việt Nam hiện
hành về quyền này.
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản và tìm hiểu thực tiễn áp
dụng các quy định pháp luật về bảo vệ quyền bảo đảm an toàn về tính mạng,

sức khỏe, thân thể, luận văn xác định các tồn tại, nguyên nhân và đề xuất giải
pháp nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế của pháp luật dân sự Việt Nam
hiện hành về quyền này.
7. Kết cấu luận văn


5

Luận văn bao gồm ba phần: phần Mở đầu, phần Nội dung và Kết luận.
Phần nội dung của luận văn được bố cục thành ba chương, có kết luận của từng
chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền bảo đảm an toàn về
tính mạng, sức khỏe, thân thể
Chương 2: Quy định pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành về quyền bảo
đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể
Chương 3: Thực tiễn bảo vệ quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức
khỏe, thân thể theo pháp luật dân sự và phương hướng hoàn thiện pháp luật


6

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN
BẢO ĐẢM AN TOÀN VỀ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE, THÂN THỂ

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM QUYỀN BẢO ĐẢM AN TOÀN VỀ TÍNH
MẠNG, SỨC KHỎE, THÂN THỂ

1.1.1. Khái niệm quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể
Các chủ thể trong xã hội tham gia các quan hệ xã hội để đạt được những

quyền lợi mà họ quan tâm và thúc đẩy xã hội phát triển nhưng đó cũng có thể
là nguồn cơn của những mâu thuẫn trong xã hội. Mâu thuẫn dẫn đến tranh
chấp, nếu không được giải quyết thì sẽ gây ra bất ổn trong xã hội. Cách giải
quyết hiệu quả nhất chính là điều chỉnh hài hòa quyền, lợi ích của các chủ thể
trong xã hội. Nhà nước xuất hiện cũng là để thực hiện vai trò này thông qua
công cụ hữu hiệu nhất đó là pháp luật, trong đó ghi nhận, bảo hộ các quyền lợi
chính đáng của các chủ thể trong xã hội.
Quyền, theo khoa học pháp lý, là “điều pháp luật công nhận và bảo đảm
thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó, cá nhân, tổ chức được hưởng,
được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn chế” [40]. Quyền của
các chủ thể được pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Tùy thuộc vào sự phát triển của
xã hội, bản chất của Nhà nước mà quyết định số lượng, phạm vi quyền của
công dân. Cùng với sự phát triển của xã hội, các giá trị nhân thân ngày càng
được coi trọng và được bảo vệ dưới hình thức ghi nhận các quyền nhân thân
trong các quy phạm pháp luật.
Điều 24 BLDS quy định “quyền nhân thân được quy định trong bộ luật
này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho
người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Quy định này đưa ra
khái niệm về quyền nhân thân dựa trên đặc điểm cơ bản đó là gắn liền với mỗi
cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác. Các quyền nhân thân được
quy định tại các điều từ Điều 26 đến Điều 51 BLDS đều mang đặc điểm này


7

bởi quyền nhân thân là quyền đối với các yếu tố gắn liền với bản thân mỗi cá
nhân. Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng đặc điểm này chỉ là đặc điểm cơ bản
của quyền nhân thân chứ chưa đủ để trở thành tiêu chí để phân biệt quyền nhân
thân với các quyền dân sự khác. Quan điểm này là có cơ sở, có một số quyền
tài sản cũng mang đặc điểm trên như quyền yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu BTTH

do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín là những
quyền tài sản nhưng Điều 309 BLDS có quy định cụ thể đó là một trong những
trường hợp không thể chuyển giao cho người khác. Có thể thấy, chính đối
tượng của quyền nhân thân, là các giá trị tinh thần gắn liền với cá nhân con
người như danh dự, nhân phẩm, uy tín, họ tên, quốc tịch, tính mạng, sức khỏe,
thân thể,… quyết định đặc điểm của quyền nhân thân. Các giá trị này gắn liền
với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, cũng không định giá
được. Vì vậy, nên định nghĩa cụ thể hơn về quyền nhân thân đó là quyền dân
sự đối với các giá trị về tinh thần gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển
giao cho người khác.
BLDS ghi nhận khá nhiều quyền nhân thân khác nhau và quyền bảo
đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể là một trong những quyền nhân
thân cơ bản. Tính mạng, sức khỏe, thân thể là những yếu tố gắn liền với mỗi
con người kể từ khi sinh ra. Sức khỏe là “trạng thái không có bệnh tật của cơ
thể” [43], theo định nghĩa của Tổ Chức Y Tế Thế Giới WHO thì sức khỏe còn
được hiểu rộng hơn, đó là một tình trạng hoàn toàn thoải mái cả về thể chất,
tâm thần và xã hội, chứ không phải chỉ là không có bệnh. Thoải mái về thể chất
là bao gồm các hoạt động bình thường về mặt sinh học, thoải mái về tâm thần
là biết cách chấp nhận, giải quyết các căng thẳng trong cuộc sống, thoải mái về
xã hội là các quyền lợi an sinh xã hội.
Tính mạng là “mạng sống, sự sống của con người” [43], một cơ thể sống
khi còn có sự trao đổi chất với môi trường bên ngoài. Sức khỏe và tính mạng
có mối quan hệ với nhau, khi một con người lâm vào tình trạng sức khỏe suy
kiệt tức là nguy kịch đến tính mạng.


8

Thân thể là “cơ thể con người” [43], bao gồm các bộ phận riêng lẻ có
các chức năng khác nhau nhưng các bộ phận đó hợp lại thành tổng thể cơ thể

hoàn chỉnh. Cơ thể con người có cấu tạo rất phức tạp, từ các thành phần rất nhỏ
như tế bào, mô, nơron thần kinh đến các thành phần như xương, mạch máu…;
các hệ cơ quan như hệ vận động, hệ thần kinh, hệ hô hấp, hệ tuần hoàn…; các
bộ phận như đầu, chân, tay, thân,… Thân thể con người thực chất cũng là một
bộ phận của thế giới vật chất, là loại vật chất hữu hình, tuy nhiên, thân thể con
người thể hiện sự tồn tại của con người - thực thể đặc biệt của thế giới vật chất.
Thân thể cũng có mối quan hệ mật thiết đến sức khỏe, tính mạng, khi thân thể
không toàn vẹn, có khiếm khuyết thì cũng ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe
và tính mạng. Cơ thể con người vốn là thực thể tự nhiên, nhưng cùng với sự
phát triển của khoa học kỹ thuật, ngày nay, con người đã có thể sản xuất các bộ
phận cơ thể nhân tạo thay thế được cho các bộ phận cơ thể người bị khiếm
khuyết. Các bộ phận cơ thể nhân tạo có thể được làm bằng các chất liệu thay
thế như gỗ, hợp kim, chất dẻo,… và thậm chí ngày nay trên thế giới còn có thể
tạo ra các bộ phận cơ thể người từ các mô, bộ phận lấy từ cơ thể người, khi
chúng được gắn với cơ thể người thì có thể thích nghi và gắn liền với cơ thể
như là một bộ phận tự nhiên. Khi các bộ phận đó còn chưa gắn với cơ thể con
người thì tất nhiên chúng cũng chỉ là đồ vật, vậy còn khi chúng đã được gắn
với cơ thể con người để thay thế các bộ phận tự nhiên bị thiếu để hỗ trợ cho
cuộc sống lao động, học tập, sinh hoạt của con người thì chúng có được coi là
bộ phận thân thể con người hay không. Theo quan điểm của chúng tôi, các bộ
phận nhân tạo để thay thế cho các bộ phận cơ thể của con người bị thiếu hụt
nếu như chỉ là các bộ phận có thể dễ dàng tháo rời, thay thế thì chúng vẫn được
coi như đồ vật, một loại tài sản. Còn nếu là bộ phận đã được gắn liền với cơ thể
người thì nên coi chúng cũng như thân thể con người. Đối với bộ phận cơ thể
nhân tạo trên thi thể của người chết thì dù nó được gắn liền hay có thể dễ dàng
tháo rời thì cũng nên coi đó là bộ phận của thi thể.


9


Đối với bộ phận cơ thể người, khi còn gắn kết với chỉnh thể cơ thể thì bộ
phận cơ thể cũng được coi như thân thể nhưng khi đã được tách rời khỏi cơ thể
thì có chế độ pháp lý khác. Khi còn là một chỉnh thể thì thân thể của cá nhân
thuộc về bản thân cá nhân đó, gắn liền với cá nhân đó, là yếu tố nhân thân,
không thể chuyển giao cho người khác. Khi bộ phận cơ thể đã được tách ra
khỏi cơ thể thì theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành cũng như pháp
luật của nhiều nước trên thế giới thì có thể chuyển giao cho người khác. Như
vậy, khi tách khỏi chỉnh thể cơ thể thì bộ phận cơ thể giống như vật – một loại
tài sản. Chế độ pháp lý đối với loại tài sản này thường hạn chế, khắt khe hơn so
với các tài sản thông thường. Trên thực tế đã có rất nhiều trường hợp lợi dụng
việc hiến bộ phận cơ thể người để trao đổi, mua bán, trong đó, phổ biến nhất là
thận, giác mạc.
Tính mạng, sức khỏe gắn với cá nhân còn sống, còn thân thể thì gắn với
cá nhân cả khi còn sống lẫn khi đã chết. Khi cá nhân chết mà chưa được mai
táng thì thân thể của cá nhân là thi thể hay tử thi. Thân thể con người là yếu tố
vật chất hữu hình, còn sức khỏe, tính mạng là trạng thái tồn tại của con người
mà chỉ có bản thân mỗi người cảm nhận được và được nhận biết thông qua các
hiện tượng biểu hiện trên thân thể.
Tính mạng, sức khỏe, thân thể là những yếu tố quyết định sự sống còn,
tồn tại của con người, ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình sống, chất lượng cuộc
sống của mỗi người. Do đó, bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể
là vấn đề vô cùng quan trọng.
Theo từ điển tiếng Việt, bảo đảm là “cam đoan chịu trách nhiệm về việc
gì đó”, “làm cho có đủ, trọn vẹn các điều cần thiết”. An toàn là “tình trạng yên
ổn hoàn toàn” [43], không bị nguy hiểm, không bị xâm phạm. Bảo đảm an toàn
là áp dụng các biện pháp nằm trong khả năng có thể để duy trì trạng thái an
toàn hoặc đưa trở về trạng thái an toàn.
Như vậy, bảo đảm an toàn về sức khỏe là bảo đảm duy trì trạng thái sức
khỏe bình thường cả về thể chất, tâm thần lẫn xã hội, ngăn chặn những yếu tố



10

gây tổn hại đến sức khỏe. Bảo đảm an toàn về tính mạng là bảo đảm duy trì sự
sống tự nhiên của mỗi con người về mặt sinh học. Bảo đảm an toàn về thân thể
là bảo đảm duy trì sự bất khả xâm phạm và sự toàn vẹn của một cơ thể con
người.
Tuy nhiên, trên thực tế chỉ có an toàn tương đối, không thể có an toàn
tuyệt đối. Xung quanh chúng ta luôn tồn tại những yếu tố có nguy cơ gây ảnh
hưởng, tổn thương đến bản thân. Trong mỗi hoàn cảnh với những điều kiện
khác nhau thì con người có thể được an toàn ở những mức độ khác nhau và có
thể áp dụng những biện pháp phù hợp với điều kiện khách quan để duy trì trạng
thái an toàn. Như vậy, để xem xét thế nào là trạng thái an toàn thì cần phải căn
cứ vào các điều kiện khách quan xung quanh chứ không thể áp dụng một tiêu
chuẩn cụ thể cho mọi trường hợp.
1.1.2. Đặc điểm quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể
Vì quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể là một quyền
nhân thân nên mang các đặc điểm chung của quyền nhân thân như là quyền dân
sự được pháp luật quy định, gắn liền với cá nhân, không thể chuyển giao cho
người khác, không xác định được bằng tiền. Ngoài ra, quyền bảo đảm an toàn
về tính mạng, sức khỏe, thân thể còn có những đặc điểm riêng:
Thứ nhất, đối tượng quyền này là tính mạng, sức khỏe, thân thể - những
yếu tố gắn liền với một cơ thể con người, đây là các yếu tố như là thuộc tính tự
nhiên mà một con người khi sinh ra đã có, không cần phải có sự ghi nhận, công
nhận của bất kỳ chủ thể nào khác. Khác với các yếu tố giá trị của con người
trong xã hội (danh dự, nhân phẩm, uy tín) hay các yếu tố để cá biệt hóa chủ thể
(họ tên, hình ảnh, dân tộc…) phát sinh trong quá trình phát triển nhận thức của
con người, phát triển của xã hội loài người.
Tính mạng, sức khỏe, thân thể có mối liên hệ chặt chẽ với nhau: Khi sức
khỏe bị xâm phạm đến mức nghiêm trọng thì có khả năng tính mạng cũng sẽ bị

xâm phạm. Khi cá nhân còn sống, nếu thân thể bị xâm phạm thì tức là sức
khỏe, tính mạng cũng bị xâm phạm.


11

Thứ hai, chủ thể quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể
là cá nhân. Các yếu tố như danh dự, uy tín, họ tên, hình ảnh… của cá nhân
được bảo vệ bởi pháp luật dưới hình thức ghi nhận quyền nhân thân của cá
nhân nhưng cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, các yếu tố này dần được đánh
giá là giá trị của các tổ chức, cần được ghi nhận và bảo hộ, ví dụ: Điều 604,
Điều 611 BLDS năm 2005 có quy định liên quan đến “danh dự, uy tín của
pháp nhân, chủ thể khác”. Còn đối tượng của quyền bảo đảm an toàn về tính
mạng, sức khỏe, thân thể là các yếu tố gắn với một cơ thể con người nên chủ
thể chỉ có thể là cá nhân, mỗi con người. Một nhóm người hay một tổ chức
không phải là chủ thể của quyền này.
Thứ ba, quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể là
quyền nhân thân mà hành vi xâm phạm tác động vào chủ thể quyền. Dựa vào
căn cứ đặc điểm hành vi xâm phạm có thể phân loại các quyền nhân thân thành
ba nhóm: quyền nhân thân mà hành vi xâm phạm tác động vào vật phẩm liên
quan đến chủ thể mang quyền (hình ảnh, chỗ ở, thư tín, sách báo…); quyền
nhân thân mà hành vi xâm phạm tác động vào các chủ thể khác (không phải
chủ thể quyền, làm ảnh hưởng đến sự đánh giá của các chủ thể khác về chủ thể
quyền); quyền nhân thân mà hành vi xâm phạm tác động vào chủ thể quyền
[12]. Đối với quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể, hành vi
xâm phạm tác động vào bản thân chủ thể quyền gây ra những thiệt hại trực tiếp
trên thân thể của chủ thể quyền.
Thứ tư, quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe được bảo hộ khi
chủ thể quyền – cá nhân lúc còn sống, quyền bảo đảm an toàn về thân thể được
bảo hộ khi cá nhân còn sống và khi cá nhân chết nhưng thân thể vẫn còn. Khi

cá nhân chết hoặc thân thể của cá nhân không còn nữa tức là đối tượng của
quyền này không còn, vì vậy không thể bị xâm phạm. Khi cá nhân chết thì địa
vị pháp lý chấm dứt, tuy nhiên, thi thể của người chết vẫn là đối tượng bảo vệ
của pháp luật bởi theo các quan niệm tôn giáo, phong tục, tập quán, thi thể
người chết mang ý nghĩa tình cảm và linh thiêng, không thể bị xâm phạm. Vì


12

vậy, khi cá nhân chết đi thì thân thể của họ vẫn được bảo đảm an toàn, trước
khi mai táng có thể được người thân thích trông giữ, bảo quản tại nhà hoặc tại
bệnh viện. Dù cá nhân có đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi
chết thì khi cá nhân đó chết, việc lấy mô, bộ phận cơ thể, lấy xác cũng phải
nằm trong phạm vi mà họ đã đăng ký, phải phù hợp với quy định pháp luật,
phải được bảo quản, khi không còn sử dụng thì có thể trả về cho gia đình họ để
mai táng.
Thứ năm, quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể được
bảo vệ không phụ thuộc vào yêu cầu. Đối với hầu hết các quyền nhân thân như
quyền đối với hình ảnh, quyền bí mật đời tư, quyền tự do nghiên cứu, sáng
tạo..., khi chủ thể quyền cho rằng quyền nhân thân của mình bị xâm phạm và
có yêu cầu thì Nhà nước mới xem xét và bảo vệ. Còn đối với quyền bảo đảm
an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể thì Nhà nước chủ động can thiệp khi
phát hiện có hành vi xâm phạm dù không có yêu cầu của chủ thể có quyền. Bởi
bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể có liên quan mật thiết với
việc bảo đảm an ninh, an toàn xã hội, hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
thân thể con người ảnh hưởng đến sự tồn tại của con người.
Thứ sáu, quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể nằm
trong hệ thống quyền nhân thân và có mối quan hệ với các quyền nhân thân
khác.
Quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể và quyền hiến

bộ phận cơ thể; quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết; quyền nhận bộ
phận cơ thể người; quyền xác định lại giới tính đều nằm trong nhóm quyền
nhân thân liên quan đến thân thể của cá nhân, tức là các quyền của cá nhân đối
với cơ thể của mình được pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Có thể nói, các quyền
này không mâu thuẫn với quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân
thể mà bổ sung, củng cố cho quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe,
thân thể. Nhờ sự phát triển của kinh tế xã hội và trình độ y học, việc cấy, ghép
mô, bộ phận cơ thể của người đã chết thay thế cho bộ phận cơ thể người khác


13

để giúp người đó hồi phục sự toàn vẹn của cơ thể, điều trị y tế để xác định lại
giới tính không còn là viễn tưởng mà đã trở thành hiện thực. Nhưng tình trạng
mua bán mô, bộ phận cơ thể người, hay phẫu thuật để thay đổi giới tính mặc dù
đã có giới tính rõ ràng, không có khuyết tật bẩm sinh về giới tính không phù
hợp với đạo đức xã hội đã ảnh hưởng không ít tới quyền lợi của người dân và
trật tự công cộng. Do đó, pháp luật ghi nhận và bảo hộ quyền hiến bộ phận cơ
thể; quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết; quyền nhận bộ phận cơ thể
người; quyền xác định lại giới tính, đồng thời quy định việc hiến bộ phận cơ
thể khi còn sống, hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết, nhận bộ phận cơ thể
hay xác định lại giới tính đều nhằm mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy
hoặc nghiên cứu khoa học và có sự tự nguyện của người hiến, người ghép,
người xác định lại giới tính. Mọi hành vi vì mục đích thương mại hoặc không
có sự tự nguyện của người hiến, người ghép, người xác định lại giới tính hoặc
không đảm bảo các yêu cầu về y tế theo quy định pháp luật liên quan đều bị
nghiêm cấm.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa công nhận quyền được chết bởi
nhiều lý do về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… nhưng đây cũng là một vấn
đề còn có nhiều tranh luận và đang được quan tâm, nghiên cứu. Trên thế giới

mới có một số quốc gia đã thông qua đạo luật về an tử như Hà Lan, Bỉ, một số
bang của Hoa Kỳ [24]. Còn hầu hết pháp luật các quốc gia đều chưa công nhận
quyền này nhưng ở những mức độ khác nhau như coi hành vi trợ giúp người
khác thực hiện cái chết là hành vi phạm tội, có quốc gia không xử phạt hành vi
này nhưng lại không thông qua hay ngấm ngầm chấp nhận mà không hợp pháp
hóa, có quốc gia không cấm hoặc chỉ cho phép chủ thể quyền chủ động thực
hiện hành vi đối với bản thân mình. Quyền được chết cần phải được nhìn nhận
đúng đắn là quyền của người đang rơi vào tình trạng bệnh tật mà phải chịu đau
đớn kéo dài về thể chất hoặc tinh thần không thể cứu chữa. Đối với người đang
trong tình cảnh phải chịu đau đớn mà không thể cứu chữa được thì việc kéo dài
sự sống chỉ khiến họ phải chịu đựng một cách khổ sở trong những ngày tháng


14

cuối đời. Việc thực hiện quyền được chết, được ra đi thanh thản theo mong
muốn của họ là giải pháp hợp lý cho bản thân họ. Như vậy, quyền được chết
không phải là mâu thuẫn với quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe,
thân thể bởi khi đã không còn khả năng để bảo đảm cho cá nhân có thể sống
khỏe mạnh thì mới thực hiện quyền được chết. Vấn đề là ý chí của chủ thể đó
hay vai trò của người thân thích.
Trên cơ sở các quan niệm đạo đức, tôn giáo, truyền thống, tập quán,…
thân thể con người là một thực thể tự nhiên, sinh học nhưng đồng thời cũng
mang ý nghĩa xã hội và tinh thần nhất định. Do đó, việc xâm phạm thân thể con
người trong một số trường hợp cũng có thể dẫn đến xâm phạm đến các giá trị
tinh thần. Vì vậy, trách nhiệm BTTH do hành vi xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, thân thể bao gồm cả BTTH về vật chất và BTTH về tinh thần.
Như vậy, quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể mang
những đặc điểm cơ bản của quyền nhân thân và có những điểm khác biệt về đối
tượng, hành vi xâm phạm, thời hạn bảo hộ, phương thức bảo vệ so với các

quyền nhân thân khác, đồng thời có mối liên hệ với quyền hiến bộ phận cơ thể;
quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết; quyền xác định lại giới tính;
quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền được chết.

1.2. CƠ SỞ QUYỀN BẢO ĐẢM AN TOÀN VỀ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE,
THÂN THỂ

Theo quan điểm triết học Mác – Lênin, con người là một thực thể thống
nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội. Con người giống các thực thể tự nhiên ở
chỗ là sản phẩm của tự nhiên, là bộ phận của thế giới tự nhiên nhưng thông qua
hoạt động lao động sản xuất, con người thể hiện mặt xã hội – là “đặc trưng bản
chất để phân biệt con người với loài vật” [1]. Các yếu tố tự nhiên như tính
mạng, sức khỏe, thân thể là tiền đề, là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại của con
người, chỉ khi các yếu tố này được đảm bảo thì con người mới có thể hiện diện,
lao động và phát triển. Con người sống trong xã hội, có mối quan hệ chặt chẽ,


15

tác động qua lại với nhau, quyết định lẫn nhau, hay nói cách khác, “bản chất
con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” [1]. Trong xã hội, việc công
nhận và tôn trọng các quyền lợi chính đáng của mỗi cá nhân là cơ sở cho sự tồn
tại, phát triển của xã hội loài người.
Cùng với sự phát triển của con người và xã hội loài người, khái niệm
quyền con người dần được hình thành và phát triển. Quyền con người là một
quyền tự nhiên, vốn có của con người nhưng đồng thời cũng là giá trị của con
người nảy sinh trong mối quan hệ với xã hội. Quyền con người bị chi phối bởi
hoàn cảnh lịch sử xã hội. Lịch sử loài người đã trải qua nhiều hình thái kinh tế
xã hội khác nhau, trong đó có những xã hội mà mọi quyền lực kinh tế, chính trị
nằm trong tay giai cấp thống trị bóc lột, còn những người thuộc giai cấp bị trị

không được coi là con người mà họ chỉ như đồ vật, như “công cụ lao động biết
nói”. Do đó, họ không được hưởng quyền con người mà bị bóc lột sức lao
động, bị chà đạp lên thân thể và thậm chí tính mạng cũng bị coi rẻ. Giai đoạn
từ thế kỷ XI-XIV ở Việt Nam, thời Lý-Trần, thái ấp, điền trang là những hình
thức sở hữu ruộng đất phổ biến mà lực lượng sản xuất chính là các nông nô, nô
tỳ hoặc nông dân lệ thuộc. Trong đó, tầng lớp quý tộc ngày càng ra sức bóc lột,
tầng lớp nông nô, nô tỳ bị áp bức một cách tàn khốc. Chỉ trong xã hội mà mọi
người đều có quyền tự do, bình đẳng thì quyền về tính mạng, sức khỏe, thân
thể mới được coi trọng và bảo vệ.
Theo quan niệm đạo đức, truyền thống lâu đời của dân tộc ta, con người
luôn là vốn quý của xã hội, sức khỏe, sự sống, thân thể của con người là thiêng
liêng, vô giá, những hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, thân thể con
người bị coi là vô nhân đạo.
Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 – văn bản đầu tiên đề cập
đến quyền sống của con người đã khẳng định: “Tất cả mọi người sinh ra đều
có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
được. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do và quyền
được mưu cầu hạnh phúc…”


16

Tuyên ngôn Thế giới về nhân quyền năm 1948 của Liên Hợp Quốc đã đề
cập “Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và
quyền...” (Điều 1), cùng các nội dung cụ thể: mọi người đều có quyền sống,
quyền tự do và an toàn cá nhân (Điều 3), không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử
phạt một cách tàn bạo (Điều 5).... Trên cơ sở Tuyên ngôn Thế giới về nhân
quyền, Liên Hợp Quốc đã thông qua Công ước quốc tế về quyền dân sự năm
1966, trong đó quy định “Mọi người đều có quyền được sống...” (Điều 6),
“Không ai có thể bị tra tấn, hoặc phải chịu những hình phạt hay đối xử tàn ác,

vô nhân đạo... nếu không có sự ưng thuận tự do của đương sự, không ai có thể
bị dùng vào những cuộc thí nghiệm y học hay khoa học” (Điều 7) và Công ước
quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 cũng quy định “Các
quốc gia hội viên ký kết Công ước này thừa nhận cho mọi người quyền được
hưởng một mức sống khả quan cho bản thân và gia đình, đủ cơm ăn, áo mặc
và nhà ở...” (Điều 11), “Các quốc gia hội viên ký kết Công ước này thừa nhận
cho mọi người được hưởng tiêu chuẩn cao nhất về sức khỏe thể chất và tâm
thần...” (Điều 12). Hơn nữa, theo Công ước quốc tế về quyền dân sự, việc áp
dụng hình phạt tử hình cần phải hạn chế, chỉ áp dụng với các tội ác nghiêm
trọng, không được tuyên án tử hình với người phạm tội dưới mười tám tuổi và
không được thi hành với phụ nữ đang mang thai.
Như vậy, pháp luật quốc tế đã khẳng định quyền về tính mạng, sức khỏe,
thân thể là một nội dung cơ bản của quyền con người. Trong pháp luật quốc
gia, quyền con người được hiện thực hóa thành các quyền và nghĩa vụ của
công dân ghi nhận tại Hiến pháp và tiếp tục được cụ thể hóa bởi các luật
chuyên ngành, trong đó có BLDS. Pháp luật dân sự ghi nhận quyền về tính
mạng, sức khỏe, thân thể trong hệ thống quyền nhân thân với những phương
thức bảo vệ đặc trưng riêng.
Con người có cuộc sống khỏe mạnh, an toàn thì mới có thể yên tâm lao
động, hưởng thụ cuộc sống, góp phần phát triển xã hội. Nhưng cuộc sống của
con người luôn tồn tại những yếu tố có thể gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính


17

mạng, thân thể. Để bảo đảm sự tồn tại của mình, con người không ngừng tìm
tòi, nghiên cứu, phát triển khoa học để tạo ra môi trường sống an toàn. Những
thành tựu đã đạt được trong y học đã giúp con người có thể sống khỏe mạnh,
chống chọi với nhiều loại bệnh tật, gia tăng tuổi thọ.
Từ những cơ sở trên, quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe,

thân thể được hình thành và phát triển.

1.3. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN BẢO ĐẢM AN
TOÀN VỀ TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE, THÂN THỂ

Sự hình thành pháp luật nói chung, pháp luật dân sự Việt Nam nói riêng
luôn gắn liền với quá trình phát triển của Nhà nước, của xã hội. Vì vậy, việc
nghiên cứu các quy định pháp luật dân sự về quyền bảo đảm an toàn về tính
mạng, sức khỏe, thân thể phải gắn liền với hoàn cảnh xã hội, tình hình đất nước
qua các thời kỳ lịch sử. Theo đó, có thể chia các giai đoạn phát triển quy định
pháp luật dân sự Việt Nam về quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe,
thân thể như sau:
1.3.1. Giai đoạn 1945 - 1959
Sau thời gian dài chịu ách thống trị của chế độ phong kiến, thực dân,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã thực hiện thành công Cách mạng
tháng Tám năm 1945, mở ra trang sử mới của dân tộc. Ngay từ những ngày
đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một số văn bản pháp luật đã
được ban hành kịp thời để củng cố chính quyền và ổn định trật tự xã hội. Sắc
lệnh 47 ngày 10/10/1945 đã quy định cho giữ tạm thời các luật lệ hiện hành ở
miền Bắc, Trung, Nam bộ về kinh tế, xã hội, dân sự, hình sự mà không trái với
nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa đến khi
ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn quốc. Tiếp theo, Nhà nước ban
hành các Sắc lệnh ngày 22/9/1945, ngày 20/5/1946 xóa bỏ mọi hiệp ước bất
bình đẳng, mọi đặc quyền đặc lợi… của thực dân đế quốc. Để đảm bảo an ninh


18

trật tự, Chính phủ ban hành các sắc lệnh về việc trấn áp, trừng trị các đội bắt
cóc, ám sát, tra tấn người trái phép… Đồng thời khôi phục sản xuất, diệt giặc

đói, ổn định từng bước đời sống nhân dân.
Một tháng sau khi giành chính quyền, Chính phủ lâm thời đã khẩn
trương bắt tay vào xây dựng bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa – Hiến pháp năm 1946. Hiến pháp năm 1946 được xây dựng trên
nguyên tắc đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn
giáo, đảm bảo các quyền tự do dân chủ, thực hiện chính quyền mạnh mẽ và
sáng suốt của nhân dân.
Cùng với sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trên
cơ sở Hiến pháp năm 1946, Chính phủ ban hành một số văn bản pháp luật cụ
thể hóa quyền tự do dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công bố bản Tám điều
mệnh lệnh của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó, bảo vệ
tính mạng của nhân dân, của kiều dân nước ngoài là một trong những nội dung
cơ bản.
Nhìn chung, pháp luật thời kỳ này là pháp luật thời chiến, nhằm phục vụ
kịp thời cho những công việc cấp bách, chủ yếu của cách mạng nên chưa thể
xây dựng một cách có hệ thống đầy đủ. Những quy định về quyền nhân thân
nói chung, quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể nói riêng
chưa được quy định cụ thể nhưng cũng đã thể hiện sự quan tâm nhất định của
Nhà nước tới vấn đề này.
1.3.2. Giai đoạn 1959 - 1980
Cuối những năm 50 của thế kỉ XX, đời sống xã hội ở miền Bắc khi đó đã
được hoàn toàn giải phóng có nhiều biến chuyển, cùng với sự phát triển của
cuộc đấu tranh thống nhất đất nước đòi hỏi phải có một bản hiến pháp mới thay
thế cho Hiến pháp năm 1946. Từ đó, Hiến pháp năm 1959 ra đời, là bản hiến
pháp của thời kỳ chống Mỹ cứu nước, hiến pháp của thời kỳ quá độ lên CNXH.
Trong đó, Hiến pháp năm 1959 ghi nhận mọi công dân có quyền bình đẳng
trước pháp luật, có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, người lao động có


19


quyền nghỉ ngơi… Trên cơ sở Hiến pháp, Hội đồng Chính phủ đã ban hành
nhiều văn bản về bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động, y tế…
Trong khi đó, chính quyền Sài Gòn cũng đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật nhưng chủ yếu việc thực hiện chúng lại bảo vệ lợi ích của một nhóm
người phục vụ trong chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
1.3.3. Giai đoạn 1980 - 1992
Năm 1975, miền Nam được giải phóng, đất nước hoàn toàn độc lập, đòi
hỏi khôi phục sự thống nhất đất nước và Nhà nước CHXHCN Việt Nam được
thành lập. Cùng với sự thống nhất đất nước là thống nhất bộ máy nhà nước và
hệ thống pháp luật. Ngày 18/12/1980, Hiến pháp năm 1980 đã ra đời, là bản
hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, thống nhất. Hiến pháp năm
1980 đã quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó, “người
lao động có quyền nghỉ ngơi”, “được hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội” (Điều
59), “công dân có quyền được bảo vệ sức khỏe”, “Nhà nước thực hiện chế độ
khám bệnh và chữa bệnh không phải trả tiền” (Điều 61), “công dân có quyền
được pháp luật bảo hộ về tính mạng” (Điều 70), “nghiêm cấm mọi hình thức
truy bức, nhục hình” (Điều 69).
Những quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp đã
được cụ thể hóa tại các văn bản pháp luật chuyên ngành. Ví dụ trong lĩnh vực
văn hóa xã hội, Pháp lệnh về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ban hành
ngày 14/11/1979. Theo đó trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, có
quyền được bảo vệ sức khoẻ, được khám bệnh và chữa bệnh không phải trả
tiền, được vui chơi, giải trí lành mạnh.
Mặc dù trong giai đoạn này, công tác xây dựng và thực hiện pháp luật đã
đạt được những thành tựu nhất định, tuy nhiên, cũng bộc lộ nhiều yếu kém bởi
ảnh hưởng của trình độ lập pháp, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chủ quan
nóng vội, cùng sự bao vây cấm vận của đế quốc Mỹ, sự phá hoại của các thế
lực thù địch. Thời gian này, hệ thống pháp luật còn thiếu nhiều văn bản pháp
luật quan trọng, thiếu đồng bộ, chồng chéo, mâu thuẫn…, chưa có các bộ luật –



20

văn bản mang giá trị pháp lý cao điều chỉnh các quan hệ xã hội. Do đó, những
quy định về quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể cũng chưa
thực sự đầy đủ, cụ thể mà còn tản mạn, sơ sài. Trong giai đoạn này, quyền bảo
đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể chỉ được ghi nhận trong đạo luật
cơ bản là Hiến pháp mà chưa được cụ thể hóa trong các đạo luật nên chỉ có ý
nghĩa chính trị, còn giá trị pháp lý và thi hành không cao. Một số nội dung
quyền được chú trọng bảo vệ bằng các biện pháp hình sự, còn biện pháp dân sự
hầu như chưa được chú ý. Chỉ đến BLDS năm 1995 thì quyền bảo đảm an toàn
về tính mạng, sức khỏe, thân thể mới được quy định một cách có hệ thống và
tiếp tục được hoàn thiện trong BLDS năm 2005.
1.3.4. Giai đoạn 1992 – đến nay
Trước những khó khăn về kinh tế, chính trị, xã hội mà Việt Nam phải
đương đầu, đất nước rơi vào khủng hoảng, Đảng và Nhà nước đã phải đưa ra
những quyết sách về đường lối đổi mới, trong đó đổi mới pháp luật là một
trong những nội dung quan trọng. Và trước hết là phải xây dựng một bản hiến
pháp mới – Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp của thời kỳ đổi mới là cơ sở ban
hành, sửa đổi, điều chỉnh các văn bản pháp luật cho phù hợp với điều kiện đất
nước lúc đó, nhưng việc cụ thể hóa thành các văn bản luật, dưới luật cũng chưa
thống nhất, còn rời rạc, chồng chéo, mâu thuẫn dẫn đến việc áp dụng gặp nhiều
khó khăn.
Hiến pháp 1992 ghi nhận các quyền cơ bản của công dân mở rộng, đầy
đủ hơn so với Hiến pháp 1980. Trong đó ghi nhận công dân có quyền được
hưởng chế độ bảo vệ sức khỏe (Điều 61), công dân được pháp luật bảo hộ về
tính mạng, sức khỏe, thân thể (Điều 71). Nhằm thể chế hóa các quy định của
Hiến pháp, BLDS năm 1995 đã được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995.
Đây là BLDS đầu tiên của Nhà nước ta, có ý nghĩa hết sức quan trọng, tạo cơ

sở cho sự phát triển toàn diện, đồng bộ hệ thống pháp luật dân sự thời kỳ đổi
mới, đánh dấu bước phát triển của kỹ thuật lập pháp.


21

BLDS năm 1995 ra đời đã lần đầu tiên hệ thống các quyền nhân thân
một cách cụ thể, chi tiết từ Điều 26 đến Điều 47. BLDS 1995 đã ghi nhận
quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể là một quyền nhân
thân của cá nhân, với nội dung khá chi tiết tại Điều 32. Quyền bảo đảm an toàn
về tính mạng, sức khỏe, thân thể quy định tại điều này cũng như các quyền
nhân thân khác được bảo vệ khi bị xâm phạm bằng các biện pháp khác nhau,
nếu hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền nhân thân gây ra thiệt hại thì phải
chịu trách nhiệm BTTH cả về vật chất và tinh thần.
Tuy nhiên, các quy định về quyền nhân thân nói chung, quyền bảo đảm
an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể nói riêng còn tồn tại nhiều bất cập,
hạn chế. Quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 32 BLDS 1995 thực chất là
trùng lặp, không cần thiết, chỉ cần quy định “Cá nhân có quyền được bảo đảm
an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể” thì tức là đó là quyền được pháp luật
ghi nhận, bảo hộ mà không ai có quyền xâm phạm, trừ những trường hợp ngoại
lệ pháp luật quy định. Hay Khoản 4 điều này quy định việc thực hiện phương
pháp chữa bệnh mới trên cơ thể một người, việc gây mê, mổ, cắt bỏ, cấy ghép
bộ phận của thân thể của một người mà người đó chưa thành niên, mất năng
lực hành vi dân sự hoặc là bệnh nhân bất tỉnh, “thì phải được sự đồng ý của
cha, mẹ, người giám hộ hoặc người thân thích”. Quy định “người thân thích” ở
đây không rõ ràng là bao gồm những ai, đồng thời cũng là sự trùng lặp bởi thực
ra cha, mẹ cũng là người thân thích. Bên cạnh đó, Khoản 5 Điều 32 BLDS
1995 quy định việc mổ tử thi chỉ được thực hiện khi đã có sự đồng ý của người
quá cố “được thể hiện rõ ràng” trước khi người đó chết. Có thể thấy rằng quy
định mà không có giải thích cụ thể thế nào là “được thể hiện rõ ràng” thì quy

định đó cũng không hiệu quả. Ngoài ra, các quy định về BTTH tại BLDS 1995
và văn bản hướng dẫn cũng có sự thiếu sót, không hợp lý dẫn đến ảnh hưởng
đến quyền lợi hợp pháp của các chủ thể.
Sau khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung, BLDS cũng được
sửa đổi và được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực thi hành kể từ


×