Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Toà án nhân dân trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (745.76 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ XUÂN HOÀNG

TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN VIỆT NAM

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Minh Đoan

HÀ NỘI - 2011


LỜI CẢM ƠN
------***----Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tâm, nhiệt tình của PGS-TS.
Nguyễn Minh Đoan; cảm ơn sự giúp đỡ, động viên cả về vật chất lẫn tinh thần
của Bố, Mẹ và những người thân trong gia đình đã giúp em hoàn thành tốt luận
văn này.
Em cũng xin tỏ lòng cảm ơn ông Chánh án và ông Trưởng phòng tổ chức cán bộ TAND tỉnh Thanh Hóa; Chánh án và Phó Chánh án TAND huyện Vĩnh
Lộc là nơi em đang công tác, đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn
thành khóa học và luận văn.
Nhân dịp này, cho phép em gửi lời cảm ơn tới các Thầy, Cô trong Bộ môn
Lý luận nhà nước và pháp luật, khoa sau đại học - Trường đại học luật Hà Nội,


các cá nhân và tổ chức khác đã giúp đỡ trong quá trình em làm luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2011
Học viên

Lê Xuân Hoàng


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
---------***---------

HP

: Hiến pháp

LTCTAND : Luật tổ chức Tòa án nhân dân
TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự


BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

01

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÒA ÁN TRONG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN

06

1.1. Khái quát chung về nhà nước pháp quyền và những tiếp thu của
Việt Nam

06

1.2. Những yêu cầu, đòi hỏi đối với Tòa án trong Nhà nước pháp quyền.

18

1.3. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về xây dựng và phát
triển hệ thống Tòa án trong điều kiện xây dựng Nước nhà pháp

quyền.

27

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG TAND TRONG TIẾN TRÌNH
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN Ở VIỆT NAM

33

2.1. Sơ lược về Hệ thống TAND Việt Nam trước khi xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân

33

2.2. Những thay đổi về tổ chức và hoạt động của TAND Việt Nam trong
tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN

37

2.3. Đánh giá chung về tính chất pháp quyền trong tổ chức và hoạt động
của Hệ thống TAND ở Việt Nam hiện nay

56

CHƯƠNG III: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TAND ĐÁP ỨNG YÊU CẦU, ĐÒI HỎI
CỦA TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY

60


3.1. Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND ở Việt Nam
đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của tiến trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam hiện nay

60

3.2. Một số giải pháp tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND
đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của tiến trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam hiện nay

65

KẾT LUẬN

78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

79


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Kể từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994)
Đảng ta đã chính thức thừa nhận khái niệm Nhà nước pháp quyền và thấy rõ sự cần
thiết phải xây dựng Nhà nước đó như là điều kiện không thể thiếu để có nền dân
chủ thực sự. Liên tục trong các kỳ đại hội tiếp theo Đảng ta luôn khẳng định nhiệm
vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân là một trong

những nhiệm vụ trọng tâm trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Tuy nhiên, việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong điều kiện và xuất phát điểm của Việt
Nam hiện nay là một nhiệm vụ chưa có tiền lệ trong lịch sử. Chính vì vậy mà quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải có lộ trình với những bước đi
thận trọng, phù hợp, vừa thực hiện vừa bổ sung lý luận cho hoàn chỉnh. Đảng ta đã
xác định: “xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo
đảm Nhà nước ta thực sự là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân” là mục tiêu và là nhiệm vụ
trọng yếu mà chúng ta phải thực hiện.
Bộ máy Nhà nước phải được tổ chức sao cho quyền lực của Nhà nước thuộc
về đông đảo quần chúng nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất ở nơi nhân
dân nhưng có sự phân công, phối hợp trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Trong đó các cơ quan tư pháp đặc biệt là TAND có vị trí và vai
trò quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật, sẽ là một đảm bảo
vững chắc cho Việt Nam xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền. Nhận thức
rõ điều này nên từ nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã tích cực đổi mới tổ
chức và hoạt động của Tòa án theo tinh thần xây dựng Nhà nước pháp quyền. Tuy
nhiên quá trình này diễn ra còn chậm và chưa có nhiều chuyển biến toàn diện,
đồng bộ, hoạt động xét xử của Tòa án chưa theo kịp với diễn biến phức tạp của
tình hình tội phạm và các quan hệ pháp luật phát sinh cần có sự can thiệp của Tòa
án. Trong tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án hiện nay còn tồn tại nhiều bất
cập chưa được khắc phục một cách kịp thời. Điều này đã được phản ánh trong
Nghị quyết 49–NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị "Về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020" cụ thể như sau: “Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn
chế… Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư
pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ
nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một
số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình
trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương
tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu”. Những hạn chế này của



2
cơ quan tư pháp nói chung và Tòa án nói riêng cũng được Đảng ta thẳng thắn chỉ
rõ trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI là: "Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp
ứng được yêu cầu cả về phẩm chất và năng lực", quá trình "cải cách tư pháp còn
chậm, chưa đồng bộ. Công tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số
trường hợp chưa chính xác; án tồn đọng, án bị hủy, bị sửa còn nhiều". Chính vì
vậy, việc cải cách tư pháp mà trọng tâm là đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của
hệ thống cơ quan Tòa án, xác định đúng vị trí và vai trò của Tòa án phù hợp với
tình hình mới của đất nước là vấn đề cần có sự tiếp tục nghiên cứu để từng bước
xây dựng hệ thống Tòa án đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền Việt
Nam.
Nghị quyết số 49–NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị cũng xác định
mục tiêu chiến lược của cải cách tư pháp là: “Xây dựng nền Tư pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ
nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là
hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Đây cũng là cơ sở
quan trọng cho việc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện Hệ thống TAND Việt Nam hiện
nay.
Xuất phát từ những đòi hỏi của công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện
nay, và để góp phần xây dựng Tòa án tương xứng với vị trí và vai trò của nó trong
Nhà nước pháp quyền, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài: “Toà án nhân dân trong
tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” để làm đề tài luận văn
thạc sĩ với mong muốn góp phần làm phong phú thêm cơ sở lý luận cho việc xây
dựng Tòa án Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ những định hướng cải cách tư pháp, trọng tâm là cải cách Tòa án
mà Đảng ta đã đề ra trong các văn kiện của Đảng, Tòa án đã là đối tượng nghiên

cứu của nhiều công trình khoa học, như đề tài cấp nhà nước: "Vị trí, vai trò và
chức năng của TAND trong Bộ máy Nhà nước ta qua các thời kỳ cách mạng
Việt Nam", do TS. Trịnh Hồng Dương chủ nhiệm đề tài, năm 1996; đề tài cấp nhà
nước: "Cải cách cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp,
nâng cao hiệu lực xét xử của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân" do TS Uông Chu Lưu làm chủ nhiệm đề tài, năm 2006; Luận
án tiến sĩ luật học của Nguyễn Thành Dương: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của
TAND ở nước ta giai đoạn hiện nay”, năm 2002; Luận án tiến sĩ luật học của tác
giả Trần Huy Liệu: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp


3
theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam”, năm 2003. Gần đây
cũng có một số công trình luận văn thạc sĩ luật học đã nghiên cứu những khía cạnh
khác nhau về hoàn thiện hệ thống Tòa án theo tinh thần cải cách tư pháp như: Luận
văn thạc sĩ của Đặng Công Cường với đề tài: "Vai trò của Tòa án trong Nhà
nước pháp quyền XHCN", năm 2007; Luận văn thạc sĩ của Hoàng Chí Nguyện
với đề tài: "Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của TAND cấp
huyện đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", năm 2009;...
Bên cạnh đó, liên quan đến vấn đề Nhà nước pháp quyền cũng đã có nhiều
công trình nghiên cứu, bài viết đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp việc hoàn thiện Tòa
án đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền. Nổi bật lên đó là luận văn thạc sĩ
của Trần Thị Ánh Tuyết với đề tài: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam”, năm 2000, với những đóng
góp nhất định trong việc đưa ra và phân tích tương đối đầy đủ các giá trị phổ biến
của Nhà nước pháp quyền; đồng thời luận văn đã phân tích rất sâu sắc tính khách
quan, hợp quy luật của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam,
cũng như sự vận dụng của Việt Nam vào quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì dân, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.

Ngoài ra còn có rất nhiều bài viết, ấn phẩm sách, báo, tạp chí đã được xuất
bản đề cập đến việc hoàn thiện hệ thống cơ quan tư pháp cũng như Tòa án dưới
nhiều góc độ khác nhau, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân,
vì dân. Có thể kể đến một số bài viết nổi bật của một số tác giả như: ThS. Vũ Gia
Lâm – Tạp chí luật học số 6/2007: “Đổi mới hệ thống Tòa án nhằm nâng cao
hiệu quả thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử”; TS. Nguyễn Thị Minh Sơn – Tạp
chí luật học số 10/2009: “Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự về thủ tục tại phiên tòa sơ thẩm đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp”;
ThS. Nguyễn Văn Khoa - Tạp chí Luật học số 01/2009: "Quá trình nhận thức
của Đảng về đổi mới tổ chức TAND", và nhiều bài viết khác đã được công bố
trong thời gian qua...
Nhìn chung các công trình nghiên cứu kể trên đều đã đề cập đến việc hoàn
thiện hệ thống TAND với nhiều hướng tiếp cận khác nhau: có thể tiếp cận từ góc
độ đổi mới, hoàn thiện hệ thống các cơ quan tư pháp mà trong đó có đề cập đến
việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của TAND; cũng có thể là
theo góc độ hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt động của Bộ máy Nhà nước Việt
Nam theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền, trong đó việc hoàn thiện hệ
thống TAND như là một yêu cầu không thể thiếu, vv... Tuy nhiên, hầu hết các
công trình cũng như các bài viết kể trên đã được công bố từ trước khi có Nghị


4
quyết 49–NQ/TW của Bộ chính trị. Ngoài ra cũng có một số công trình, bài viết
được công bố gần đây nhưng cũng chỉ đề cập đến một vài khía cạnh nhất định của
việc hoàn thiện hệ thống TAND, chủ yếu là hoàn thiện một số quy định của pháp
luật liên quan đến các thủ tục tố tụng cụ thể của Tòa án đáp ứng kịp thời yêu cầu
cải cách tư pháp, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể việc
đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND trong tiến trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền. Hơn nữa, các công trình kể trên đều chưa đưa ra được những
tiêu chí rõ ràng, làm cơ sở cho việc hoàn thiện hệ thống Tòa án trong tiến trình xây

dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, cũng như chưa xác định được đúng vị trí,
vai trò của TAND sát với tình hình thực tế của Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy,
việc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện hệ thống Tòa án, xác định lại vị trí, vai trò, kiện
toàn lại cơ cấu tổ chức và hoạt động của TAND, đáp ứng kịp thời với tình hình
mới của đất nước để thực thiện thành công mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân là điều cần thiết. Luận văn cũng sẽ là một
sự tham khảo hữu ích, bổ sung và làm sáng rõ thêm lý luận về Nhà nước pháp
quyền XHCN khi quá trình xây dựng ở Việt Nam theo mô hình này chưa hề có tiền
lệ.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài.
Trên cơ sở các giá trị phổ biến của Nhà nước pháp quyền cùng những vận
dụng của Việt Nam vào quá trình xây dựng Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, và từ việc phân tích chân thực thực trạng hệ thống TAND của
Việt Nam hiện nay, luận văn muốn đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện tổ
chức và hoạt động của Hệ thống TAND đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của Nhà
nước pháp quyền, đồng thời góp phần xây dựng nền tư pháp Việt Nam trong sạch,
vững mạnh, hiệu lực và hiệu quả.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Do đây là một vấn đề lý luận trải dài trên hai mảng đề tài rộng lớn
là Nhà nước pháp quyền và cơ cấu tổ chức và hoạt động của TAND, mà với khuân
khổ của một luận văn thạc sĩ không thể giải quyết trọn vẹn được cả hai, nên luận
văn chỉ khái quát một số vấn đề lý luận về Nhà nước pháp quyền và sự vận dụng
của Việt Nam trong quá trình xây dựng, hoàn thiện Bộ máy Nhà nước. Trên cơ sở
đó, luận văn chủ yếu tập trung làm sáng rõ những yêu cầu, đòi hỏi của TAND
trong Nhà nước pháp quyền; phản ánh thực trạng cơ cấu tổ chức và hoạt động của
hệ thống Tòa án Việt Nam hiện nay, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn
thiện TAND, góp phần xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền Việt Nam của
dân, do dân và vì dân.



5
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, các quan điểm lý luận và những nhận định đánh
giá thực tiễn được trình bày trong luận văn đều dựa chủ yếu trên nền lý luận của
Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các chủ
trương, chính sách của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền cũng như những
phương hướng chỉ đạo của Đảng về cải cách hệ thống tư pháp trong sạch, vững
mạnh, hoạt động hiệu lực và hiệu quả.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp
logic, phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa duy vật
biện chứng để làm sáng rõ các giá trị cơ bản của Nhà nước pháp quyền, làm rõ
những kinh nghiệm quý báu xây dựng hệ thống Tòa án trong Nhà nước pháp quyền
của các nước trên thế giới, đảm bảo cho sự vận dụng các giá trị, kinh nghiệm đó
vào quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam không bị máy móc mà
luôn có sự sáng tạo, mang đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
của dân, do dân, vì dân.
6. Các kết quả mới đạt được của luận văn
Luận văn đã đưa ra một cách nhìn tổng thể về hệ thống Tòa án Việt Nam
hiện nay, trên cơ sở đó chỉ ra các yêu cầu, đòi hỏi của việc hoàn thiện hệ thống
TAND, làm cơ sở xây dựng hệ thống TAND trong Nhà nước pháp quyền.
Luận văn đã đưa ra cách lý giải phù hợp về sự cần thiết thành lập Tòa án khu
vực trong thời gian tới. Nó sẽ khắc phục được những bất cập, hạn chế đang tồn tại
trong cách thức tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án Việt Nam hiện nay, đáp
ứng được những đòi hỏi của một Hệ thống Tòa án trong Nhà nước pháp quyền như
ở Việt Nam.
Luận văn này là một công trình nghiên cứu khoa học với tinh thần nghiêm
túc, có trách nhiệm nên sẽ là một tài liệu tham khảo rất hữu ích cho việc hoàn thiện
hệ thống TAND, đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, góp phần quan trọng trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, trong phần nội
dung của luận văn được kết cấu gồm 3 chương với 8 mục.


6
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÒA ÁN TRONG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN
1.1. Khái quát chung về Nhà nước pháp quyền và những tiếp thu của
Việt Nam
1.1.1. Khái quát chung về Nhà nước pháp quyền
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền xuất hiện từ rất sớm ngay từ thời kỳ cổ
đại, tại các nước có nền dân chủ phát triển như ở Nhà nước dân chủ chủ nô Aten,
nhà nước La Mã, vương quốc Babilon ở phía bắc vùng Lưỡng Hà, rồi ở Ấn Độ, ở
Trung Quốc... Ban đầu tư tưởng này chỉ xuất hiện với ý nghĩa là việc cai trị dân
chúng bằng pháp luật, lấy pháp trị làm công cụ để quản lý xã hội và duy trì địa vị
của giai cấp thống trị. Quá trình hình thành tư tưởng về Nhà nước pháp quyền là
quá trình đấu tranh của các lực lượng tiến bộ trong xã hội để đưa quyền lực nhà
nước về đúng vị trí của nó - là của nhân dân, và khẳng định nhân dân mới là chủ
thể có quyền lực tối cao chứ không phải giai cấp cầm quyền. Nó cũng gắn liền với
sự phát triển dân chủ, chống lại sự chuyên quyền, độc đoán của những người cầm
quyền và sự vô pháp luật. Mặc dù manh nha của tư tưởng về Nhà nước pháp quyền
đã có từ rất lâu như vậy nhưng các nước chủ nô và sau này là các nước phong kiến
đều không thể trở thành Nhà nước pháp quyền vì chúng đều được xây dựng trên
một nền dân chủ hạn chế, pháp luật được ban hành xuất phát từ ý chí chủ quan của
giai cấp cầm quyền mà không phải từ nhu cầu và lợi ích của nhân dân, cách thức tổ
chức quyền lực mang tính độc tài, quyền lực tập trung vào một người hoặc một
nhóm người có cùng lợi ích và dùng quyền lực đó để bóc lột nhân dân.
Từ thế kỷ XVII, cùng với sự hình thành và phát triển của nền dân chủ tư sản,

ý tưởng về một Nhà nước pháp quyền lại được trỗi dậy và đã trở thành sức mạnh
tinh thần quan trọng, góp phần không nhỏ trong thắng lợi của giai cấp tư sản đấu
tranh chống sự bảo thủ, trì trệ và độc tài của chế độ phong kiến cũng như quá trình
kiến thiết Nhà nước tư sản sau khi dành được thắng lợi. Thời kỳ này, tư tưởng tiến
bộ về Nhà nước pháp quyền xuất hiện ở nhiều tác phẩm của nhiều học giả khác
nhau, trong đó điển hình là John Locke - Nhà tư tưởng vĩ đại Anh thế kỷ XVII,
Montesquieu và Rousseau là những người xuất sắc nhất trong việc tiếp thu và hoàn
thiện học thuyết về Nhà nước pháp quyền. Các ông đều cho rằng: muốn hạn chế
được sự độc tài, chuyên chế và đưa quyền lực nhà nước về tay nhân dân thì phải tổ
chức quyền lực nhà nước thành các quyền khác nhau và trao cho các cơ quan độc
lập với nhau nắm giữ, tồn tại trong sự kiềm chế, đối trọng để không cho bất kỳ một
cơ quan nào hay người nào nắm giữ quá nhiều quyền hạn dễ dẫn đến chuyên


7
quyền, độc đoán. Quyền lực của các cơ quan nhà nước là quyền lực của nhân dân
trao cho và khẳng định tính tối cao của quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Nhà nước và nhân dân có mối liên hệ mật thiết với nhau thông qua một "Khế ước"
- Hiến pháp. Trong đó, Nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép
còn nhân dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Nhà nước pháp
quyền chỉ có thể được xây dựng trên nền một xã hội dân chủ rộng rãi, đề cao và coi
trọng các giá trị cao cả của con người, là nơi mà mọi người dân đều được hưởng
các quyền tự do, dân chủ, được đối xử bình đẳng không có bất kỳ sự phân biệt hay
kỳ thị nào.
Chính từ những giá trị ưu việt của nó mà ngày nay mô hình về Nhà nước
pháp quyền đã được áp dụng rộng rãi ở hầu khắp các nước trên thế giới và trở
thành xu thế tất yếu của thời đại. Tư tưởng Nhà nước pháp quyền là một trong
những giá trị chung của nhân loại về một cách thức tổ chức nhà nước đáp ứng yêu
cầu vận động, phát triển khách quan của nhiều dân tộc và thời đại nhằm từng bước
giải phóng con người khỏi sự áp bức, bất công, hướng tới một xã hội công bằng,

dân chủ, con người được hưởng cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc thực sự. Nhà
nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước mới mà là một phương thức tổ
chức nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Nhà nước đó có đầy đủ các đặc
điểm của một Nhà nước nói chung, đồng thời mang trong mình những giá trị phổ
biến làm cho nó có thể áp dụng xây dựng ở nhiều Nhà nước khác nhau với các thể
chế chính trị khác nhau. Dưới đây xin đề cập đến các giá trị phổ biến của Nhà nước
pháp quyền đã được thừa nhận rộng rãi và được áp dụng trong quá trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam:
Thứ nhất, trong Nhà nước pháp quyền, nhân dân là chủ thể của quyền lực
nhà nước. Nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước,
có quyền kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước. Theo đó, các cơ
quan nhà nước chỉ là những người được nhân dân ủy quyền thực hiện những nhiệm
vụ nhất định trên cơ sở các quy định của pháp luật, vì lợi ích của nhân dân.
Thứ hai, Hiến pháp và các đạo luật chiếm vị trí tối thượng trong mọi hoạt
động của nhà nước và xã hội. Trong Nhà nước pháp quyền, mọi hoạt động của cơ
quan nhà nước cũng như mọi người dân đều phải tuyệt đối tuân thủ theo Hiến pháp
và pháp luật. Mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân được thể hiện tập trung
thông qua pháp luật theo đó, Nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho
phép, còn nhân dân có quyền được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm.
Nó thể hiện mối quan hệ tương xứng qua lại và có trách nhiệm giữa các chủ thể:
Nhà nước có trách nhiệm chăm lo cho nhân dân, bảo vệ nhân dân nhưng nhân dân
cũng phải có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, sống trong sự quản lý điều hành của Nhà


8
nước, quyền tự do của nhân dân phải trong khuôn khổ của pháp luật, vượt ra khỏi
khuôn khổ đó là vi phạm pháp luật và phải bị trừng trị.
Thứ ba, quyền lực nhà nước được phân chia thành 3 quyền là quyền lập
pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp và được trao cho các cơ quan độc lập với
nhau quản lý để không cho cơ quan nào nắm trọn quyền lực, nhằm hạn chế sự

chuyên quyền, độc đoán. Tư tưởng phân chia quyền lực đã trở thành nền tảng của
một xã hội dân chủ, đồng thời là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước tư sản từ khi chủ nghĩa tư bản hình thành cho tới ngày nay, từ lâu
đã là một giá trị phổ biến của nhân loại được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước trên
thế giới.
Thứ tư, Nhà nước pháp quyền được tổ chức theo nguyên tắc dân chủ. Dân
chủ là một thuộc tính vốn có của Nhà nước pháp quyền. "Sự ra đời của Nhà nước
pháp quyền luôn gắn với quá trình dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội. Dân chủ
vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện của Nhà nước pháp quyền. Pháp luật quy định các
thiết chế dân chủ để nhân dân lập nên Nhà nước, ủy quyền cho Nhà nước thực hiện
quyền làm chủ của mình như bầu cử, ứng cử, kiểm tra và giám sát của nhân dân
đối với mọi mặt hoạt động của Nhà nước"1. Quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội
cũng chính là quá trình xây dựng và hoàn thiện không ngừng của Nhà nước pháp
quyền.
Thứ năm, trong Nhà nước pháp quyền thì quyền con người, quyền công dân
được tôn trọng và bảo vệ. Nhà nước pháp quyền đề cao phẩm giá của con người,
tôn trọng các quyền tự nhiên vốn có của con người và xem đó là những quyền bất
khả xâm phạm. Bất kỳ một người nào cũng đều phải được đối xử bình đẳng như
nhau đối với các quyền ấy. Nhà nước có trách nhiệm cụ thể hóa các quyền tự nhiên
đó của con người thành các quy tắc xử sự chung, thống nhất và có tính bắt buộc
thực hiện, làm cơ sở pháp lý bảo vệ quyền con người. Chỉ có trong Nhà nước pháp
quyền thì quyền con người, quyền công dân mới được đảm bảo, xuất phát từ chính
bản chất xã hội rộng rãi của Nhà nước pháp quyền mà không một nhà nước chủ nô
hay phong kiến nào có được.
Thứ sáu, Nhà nước pháp quyền gắn bó mật thiết với xã hội dân sự: Xã hội
dân sự là tập hợp các tổ chức xã hội tự nguyện, hoạt động vì lợi ích chung của
cộng đồng mà không mang yếu tố kinh tế hay chính trị. Đó là nơi phản biện của
nhân dân đối với các chính sách, pháp luật của Nhà nước, cũng như giám sát mọi
hoạt động của công chức và các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ
1

"Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ luật
học của Trần Thị Ánh Tuyết, Hà Nội - 2000, tr37


9
của mình. Nhà nước pháp quyền liên hệ chặt chẽ với các tổ chức của xã hội dân sự
trong việc thực hiện các hoạt động vì cộng đồng, thường xuyên lắng nghe ý kiến
phản hồi từ phía xã hội dân sự để điều chỉnh chính sách của mình cho phù hợp, tạo
mối quan hệ hài hòa giữa nhà nước và quần chúng nhân dân, góp phần làm giảm
bớt gánh nặng cho Nhà nước, đồng thời thể hiện tính dân chủ rộng rãi trong Nhà
nước pháp quyền.
Các giá trị trên cũng được coi là những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp
quyền. Về lý thuyết thì bất kỳ Nhà nước nào thỏa mãn được các đặc trưng cơ bản
nêu trên thì đều có thể được coi là Nhà nước pháp quyền. Nhưng trên thực tế, các
nhà nước này phải làm rất nhiều việc để duy trì cho được các đặc trưng cơ bản đó,
cũng như duy trì sự tồn tại và phát triển của Nhà nước pháp quyền. Một trong
những việc mà nhà Nước pháp quyền phải thực hiện và ưu tiên hàng đầu là xây
dựng được một hệ thống Tòa án hoạt động có hiệu lực và hiệu quả. Chỉ có như vậy
thì tinh thần thượng tôn pháp luật cùng với các giá trị của Nhà nước pháp quyền
mới trở thành hiện thực trong đời sống xã hội mà không phải là những lời nói
suông, chỉ tồn tại trên giấy. Hơn nữa, trong Nhà nước pháp quyền vẫn còn có
những kẻ vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của nhân dân và phải bị trừng
trị nghiêm khắc để đưa các quan hệ pháp luật về đúng quỹ đạo. Chính vì vậy, Nhà
nước pháp quyền luôn đề cao vị trí, vai trò của Tòa án, đảm bảo cho Tòa án luôn
được độc lập với các cơ quan nhà nước khác. Có thể nói, hiệu quả trong hoạt động
xét xử của Hệ thống Tòa án chính là một bảo đảm cho Nhà nước pháp quyền tồn
tại và phát triển bền vững.
Như vậy, Nhà nước pháp quyền là cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực
nhà nước trong một xã hội dân chủ, trong đó nhân dân là người chủ đích thực của
quyền lực nhà nước. Các cơ quan nhà nước và mọi người dân tôn trọng và tự giác

thực hiện pháp luật. Cơ quan, cán bộ công chức trong cơ quan nhà nước chỉ được
làm những gì mà pháp luật cho phép, còn người dân được làm tất cả những gì mà
pháp luật không cấm. Ngoài ra, Nhà nước pháp quyền luôn đề cao vị trí và vai trò
của quyền tư pháp, bảo đảm cho hệ thống Tòa án hoạt động hiệu lực và hiệu quả
nhằm duy trì một xã hội có trật tự, pháp luật được thực thi một cách nghiêm chỉnh,
tự giác từ mọi chủ thể có liên quan.
1.1.2. Sự vận dụng các giá trị phổ biến của Nhà nước pháp quyền vào
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Lịch sử phát triển của các Nhà nước pháp quyền trên thế giới cho thấy, ngoài
những giá trị phổ biến, các Nhà nước pháp quyền còn bao hàm trong nó những
giá trị đặc thù được quy định bởi các điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa, tâm lý xã


10
hội và đặc thù về địa lý của mỗi quốc gia, dân tộc. "Các giá trị đặc thù không chỉ
thể hiện tính đặc sắc, tính riêng biệt của mỗi dân tộc trong quá trình dựng nước,
giữ nước và phát triển mà còn quyết định mức độ tiếp thu các giá trị phổ biến của
Nhà nước pháp quyền. Như vậy, Nhà nước pháp quyền vừa là giá trị chung của
nhân loại, vừa là giá trị riêng của mỗi dân tộc, quốc gia. Do vậy không thể có một
mô hình Nhà nước pháp quyền chung thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc. Mỗi
quốc gia, dân tộc, tùy thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội và
trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mô hình Nhà nước pháp quyền thích
hợp".2
Ở Việt Nam, trải qua một thời gian dài vừa đổi mới vừa học hỏi, để phù hợp
với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã sáng suốt lựa
chọn xây dựng Nhà nước Việt Nam thành nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân, vì dân. Điều này đã được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp hiện hành, đó là:
“Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí

thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều
2-HP 1992). Xét một cách toàn diện, quá trình vận dụng các giá trị phổ biến của
nhà nước pháp quyền vào xây dựng nhà nước XHCN Việt Nam mang những dấu
hiệu đặc thù sau:
Thứ nhất: Nhà nước pháp quyền mà Việt Nam xây dựng là Nhà nước
của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Đây là nguyên tắc hiến định trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước,
được quy định xuyên suốt trong 4 bản Hiến pháp của Việt Nam. Dù trong bất kỳ
hoàn cảnh nào thì chúng ta vẫn kiên định nguyên tắc "tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân". Điều này đã chứng tỏ kể cả những khi nhà nước ta chưa thừa
nhận về việc xây dựng Nhà nước pháp quyền thì tinh thần của nhà nước pháp
quyền hay các yếu tố hợp lý của nhà nước pháp quyền vẫn tồn tại trong nhà nước
Việt Nam, trở thành mục đích đấu tranh của dân tộc Việt Nam. Toàn thể nhân dân
Việt Nam thông qua pháp luật mà giao phó một phần quyền lực của mình cho các
cơ quan nhà nước. Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất, nhưng cơ quan này không phải có toàn quyền. Mọi quyền hạn và
nhiệm vụ của Quốc hội đều nằm trong giới hạn ủy quyền của nhân dân thông qua
Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội, tập trung thực hiện các quyền lập hiến, lập
2
Trích Báo cáo Ban bí thư về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Theo công văn số 289-CV/TW
ngày 22/10/2009 của Ban bí thư.


11
pháp, quyền giám sát và quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước. Chính
phủ được nhân dân trao nắm giữ cao nhất quyền hành pháp và cùng với hệ thống
các cơ quan hành pháp ở địa phương tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, thực
hiện chức năng quản lý điều hành vĩ mô mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
Quyền tư pháp được giao cho Tòa án và một số cơ quan khác như Viện kiểm sát,

các cơ quan điều tra với chức năng bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật. Mặc dù
các cơ quan đó có chức năng, nhiệm vụ và vai trò riêng nhưng chúng thống nhất ở
một điểm là vì lợi ích của nhân dân. Do đó trong hoạt động của mình, các cơ quan
này phải có sự phối hợp với nhau một cách chặt chẽ để hoàn thành nhiệm vụ được
giao.
Việc thực hiện quyền lực của nhân dân rất đa dạng. Nhân dân có thể thực
hiện quyền lực của mình một cách trực tiếp thông qua việc tham gia quản lý nhà
nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của đất nước và của địa
phương, kiến nghị với nhà nước những vấn đề mà mình thấy bất hợp lý để sửa đổi,
hay biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân. Nhân dân còn là người bầu ra các cơ
quan đại diện cho mình để gián tiếp thực hiện quyền lực nhân dân. Theo đó, các cơ
quan dân cử có chức năng giám sát mọi hoạt động của Bộ máy Nhà nước để đảm
bảo cho việc thực hiện quyền lực nhà nước của các cơ quan này vì lợi ích của nhân
dân.
Bảo đảm cho nhà nước thật sự dân chủ cũng là một yêu cầu rất quan trọng để
giữ vững chủ quyền nhân dân. Nhà nước phải đa dạng hóa các hình thức dân chủ,
tạo điều kiện cho nhân dân tích cực, chủ động tham gia vào các hình thức dân chủ
đó. Thông qua các hình thức dân chủ mà người dân giám sát được hoạt động của
cơ quan nhà nước, cán bộ công chức, giữ gìn sự trong sạch của Bộ máy nhà nước,
bảo đảm cho nhà nước đó thực sự là của dân và vì dân.
Như vậy: Quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam thuộc
về toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, giới
tính, tuổi tác, trình độ văn hóa... Quyền lực đó không phải là đặc quyền của giai
cấp thống trị vì ở Việt Nam khái niệm "giai cấp thống trị" hay "giai cấp cầm
quyền" đã hòa quyện trong khái niệm "dân tộc"; lợi ích của giai cấp thống trị và lợi
ích của dân tộc không tách rời nhau. Chính vì vậy, quyền lực nhà nước ở Việt Nam
mang bản chất xã hội sâu sắc, mang tính nhân dân rộng rãi.
Thứ hai: Trong nhà nước pháp quyền Việt Nam tất cả các cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, các tổ chức xã hội khác và mọi người dân đều sống và
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.



12
Dấu hiệu này vừa là đặc trưng của một nhà nước pháp quyền nói chung,
nhưng đồng thời cũng là một dấu hiệu đặc thù của Việt Nam. Thể hiện ở chỗ: Khi
Đảng và nhà nước ta chưa đề ra việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, nhưng quy
định về việc mọi công dân, cá nhân, tổ chức phải tôn trọng và thực hiện nghiêm
chỉnh pháp luật đã là một nguyên tắc cơ bản được quy định ngay từ bản Hiến pháp
đầu tiên năm 1946. Tại Điều 4 Hiến pháp quy định mỗi công dân Việt Nam ngoài
việc phải có nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc còn phải "tôn trọng Hiến pháp" và "tuân theo
pháp luật". Nguyên tắc này đã được kế thừa và phát triển qua các bản Hiến pháp
của nước ta, đến bản Hiến pháp năm 1992 đã tương đối hoàn chỉnh. Tại Điều 12
Hiến pháp 1992 quy định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng
tăng cường pháp chế XHCN. Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến
pháp, pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến
pháp và pháp luật. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật".
Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật không chỉ là nghĩa vụ mà còn
là quyền của công dân. Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật, công
dân có quyền bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của mình; được bảo vệ tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản trước mọi hành vi xâm hại. Trong nhà nước
pháp quyền Việt Nam, quyền và nghĩa vụ không tách rời. Việc thực hiện nghĩa vụ
của người này là điều kiện để người khác được hưởng quyền và ngược lại, chính vì
vậy để hưởng quyền thì công dân phải nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ của mình.
Quyền và nghĩa vụ của mỗi người đều được thực hiện theo quy định của pháp luật,
mang tính ràng buộc chung đối với mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan. Ở
Việt Nam, pháp luật là công bằng với tất cả các thành viên trong xã hội. Bất kỳ ai,
dù ở cương vị nào, nếu phạm tội thì đều phải bị xét xử và phải chịu hình phạt
tương xứng với hành vi phạm tội của mình đã gây ra. Tuy vậy, việc áp dụng hình

phạt cũng phải xét đến khả năng giáo dục, cải tạo, đến những đóng góp của người
phạm tội mà tuyên lượng hình phạt cho phù hợp, vừa thể hiện sự nghiêm minh của
pháp luật nhưng đồng thời thể hiện được sự khoan hồng trong chính sách pháp luật
của nhà nước ta.
Các cơ quan nhà nước cùng với cán bộ, công chức, viên chức phải thực sự
gương mẫu sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, phải "cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư" như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở. Trong công
việc, họ phải tận tâm phục vụ nhân dân, không màng lợi ích riêng, làm việc đúng
chức năng, nhiệm vụ, đúng thẩm quyền mà pháp luật đã quy định, không lợi dụng
chức vụ quyền hạn mà sách nhiễu, hách dịch nhân dân. Trong đời thường, mỗi cán


13
bộ, công chức nhà nước phải là tấm gương mẫu mực, tích cự tuyên truyền, giáo
dục ý thức pháp luật cho nhân dân, giúp nhân dân hiểu và làm theo pháp luật.
Chính từ tầm quan trọng của pháp luật đòi hỏi Nhà nước ta phải xây dựng
được một hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội Việt
Nam, và có tính khả thi cao. Hệ thống pháp luật đó phải xuất phát từ thực tiễn cần
điều chỉnh các quan hệ xã hội, đồng thời phải sử dụng các phương pháp điều chỉnh
phù hợp với từng loại quan hệ pháp luật, tránh tình trạng mệnh lệnh hành chính đối
với các quan hệ dân sự, thương mại. Quá trình xây dựng phải tôn trọng các quy
luật khách quan, tránh bệnh chủ quan, hình thức, kể cả tư tưởng cục bộ chỉ biết đến
lợi ích của ngành mình, lĩnh vực thuộc quyền mình quản lý mà đẩy hết khó khăn
sang cho ngành khác, lĩnh vực khác; phải biết vì lợi ích chung, đặt lợi ích của nhân
dân lên trên hết. Đồng thời không ngừng tuyên truyền, giáo dục ý thức tôn trọng
pháp luật cho người dân, làm cho họ được tiếp cận với pháp luật một cách nhanh
nhất thông qua các phương tiện truyền thông như đài, báo, tivi, internet... với nhiều
hình thức đa dạng, phong phú, kích thích sự chủ động sáng tạo của người dân trong
quá trình thực hiện pháp luật. Làm tốt những điều này sẽ giúp pháp luật không còn
là thứ khô khan cứng nhắc, xa lạ với người dân mà sẽ trở thành người bạn của mỗi

người, mỗi nhà, trở thành miếng cơm, thức uống, hơi thở của họ hàng ngày.
Thứ ba: Quyền lực nhà nước thống nhất, trên cơ sở có sự phân công
và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
Mặc dù mãi đến Hiến pháp 1992 nước ta mới ghi nhận đây là nguyên tắc tổ
chức quyền lực nhà nước cơ bản nhưng cách thức tổ chức quyền lực nhà nước này
đã được áp dụng ngay từ những ngày đầu lập nước và được kế thừa trong các bản
Hiến pháp 1946, 1959, 1980. Các bản Hiến pháp này đều quy định Quốc hội là cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất, được quyền lập hiến, lập pháp và quyết định
những vấn đề trọng đại của đất nước; Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc
hội và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất; với quyền tư pháp thì chỉ có Hiến
pháp năm 1946 mới quy định giao cho Tòa án, các bản Hiến pháp sau này đều giao
cho nhiều cơ quan, trong đó Tòa án là trung tâm của quyền tư pháp.
Đây là sự biểu hiện cụ thể nhất của việc vận dụng các giá trị phổ biến của
nhân loại vào quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Tại Điều 2
Hiến pháp 1992 đã quy định: "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công
và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp". Như vậy, so với nội dung của học thuyết tư sản về phân chia
quyền lực, Đảng ta đã chọn lọc và chỉ kế thừa các yếu tố hợp lý sau: thừa nhận


14
việc phân chia quyền lực nhà nước thành ba quyền, bao gồm quyền lập pháp,
quyền hành pháp và quyền tư pháp; các quyền này được phân công cho các cơ
quan nhà nước khác nhau, có vị trí độc lập tương đối với nhau đảm nhiệm thực
hiện; riêng với yếu tố dùng quyền lực để kiềm chế, đối trọng quyền lực thì vẫn
chưa được thừa nhận. Thực tế hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tổ
chức quyền lực này trong hơn 65 năm qua đã góp phần hạn chế có hiệu quả sự
chuyên quyền, độc đoán, đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Ngày nay, khi nước ta đang tích cực hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới

thì cách thức tổ chức quyền lực như trên đang ngày càng khẳng định tính ưu việt
của nó, góp phần to lớn vào sự phát triển lớn mạnh của Việt Nam, đưa nền kinh
tế Việt Nam thoát ra khỏi các cuộc khủng hoảng kinh tế, phản ứng linh hoạt trong
quá trình điều hành kinh tế đất nước, giữ vững nền chính trị ổn định, tạo lòng tin
cho các nhà đầu tư khi họ đầu tư kinh doanh vào Việt Nam. Nhà nước ta đang làm
tốt quá trình hội nhập quốc tế trong khi vẫn kiên định lập trường xây dựng nhà
nước XHCN của dân, do dân, vì dân và định hướng cho xã hội phát triển không đi
trệch quỹ đạo tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư: Nhà nước phải tôn trọng và bảo đảm các quyền con người,
quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa nhà nước và công dân,
bảo đảm xây dựng xã hội công bằng, dân chủ trong đó mọi người dân thực sự
có quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
Tôn trọng và bảo vệ quyền con người là một giá trị cơ bản trong nhà nước
pháp quyền, nhưng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam lại
trở thành một giá trị mang tính đặc thù. Bởi vì, quyền con người của Việt Nam có
được từ chính trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm dành lại độc lập dân tộc,
do vậy ở Việt Nam quyền con người gắn bó mật thiết với chủ quyền dân tộc. Trải
qua 1000 năm Bắc thuộc và hơn 80 năm bị thực dân Pháp đô hộ, người dân Việt
Nam hiểu hơn ai hết: chỉ khi nào có độc lập, tự do cho dân tộc thì họ mới có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, người dân Việt Nam mới được hưởng các quyền con
người, quyền công dân.
Nếu trước đây sự nghiệp giải phóng con người là sự nghiệp giải phóng dân
tộc thì ngày nay việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người gắn liền với việc xây
dựng một đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, với
một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Ngoài ra, chăm lo phát triển
mọi mặt đời sống của con người, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo
ra những điều kiện thuận lợi cần thiết đáp ứng các nhu cầu của con người phù hợp
với xu hướng phát triển của thời đại cũng là mục tiêu hướng tới của nhà nước pháp



15
quyền Việt Nam, thể hiện trách nhiệm của nhà nước đối với đất nước, với nhân
dân.
Hiện nay Việt Nam đã là thành viên chính thức của 4 công ước quốc
tế về quyền con người gồm: Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị;
Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; Công ước quốc tế về xóa bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ; Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
Chính vì vậy việc thể chế hóa các quy định về quyền con người cũng như việc tổ
chức thực hiện chúng trên thực tế còn là biểu hiện phù hợp với xu thế hội nhập của
nước ta hiện nay.
Ở Việt Nam các quyền con người được pháp luật tôn trọng và bảo vệ, biểu
hiện trước hết ở việc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân. Hiến
pháp 1992 đã dành hẳn chương V quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân, và
chỉ rõ: "Ở nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và
được quy định trong Hiến pháp và luật" (Điều 50-HP 1992). Theo quy định, mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không có sự phân biệt dân tộc, nam nữ,
thành phần xã hội, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, tín ngưỡng, tôn giáo... Công dân
được quyền bầu cử và ứng cử khi có đủ những điều kiện nhất định do luật định;
bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội trong khuôn khổ pháp
luật; được quyền học tập, lao động, được bảo đảm về tính mạng sức khỏe. Đặc biệt
Hiến pháp đã thể chế các quy định trong các điều ước quốc tế về quyền con người
bằng việc ghi nhận nguyên tắc: "Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt
khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật" (Điều 72-HP1992)
và "Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về
tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt, nếu không có quyết
định của TAND, quyết định hoặc phê chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội
quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình
thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân" (Điều 71HP1992). Bên cạnh đó pháp luật cũng rất quan tâm đến các đối tượng yếu thế, cần
được bảo vệ như trẻ em, phụ nữ, người già, người tàn tật... Tuy nhiên, pháp luật

Việt Nam luôn gắn quyền với nghĩa vụ của công dân. Công dân ngoài việc được
hưởng quyền thì đồng thời phải có ý thức tôn trọng các quyền của người khác, thực
hiện đầy đủ các nghĩa vụ công dân của mình. Việc quy định công dân có quyền và
nghĩa vụ tạo cho xã hội vận động theo một trật tự nhất định, ngăn chặn sự tự do vô
chính phủ, mạnh thắng yếu cũng là yếu tố quan trọng để cho quyền con người có
điều kiện phát triển đầy đủ. Với những việc làm cụ thể của mình, nhà nước ta đang


16
tích cực thể hiện trách nhiệm trong việc đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho
nhân dân, cũng chính là những biểu hiện cụ thể và có ý nghĩa nhất trong việc tôn
trọng và bảo vệ các quyền con người.
Thứ năm: Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với
nhà nước pháp quyền XHCN.
Yêu cầu về bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với nhà
nước pháp quyền là giá trị đặc thù trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
ở Việt Nam, thể hiện sự lựa chọn phù hợp với điều kiện lịch sử, chính trị cụ thể của
Việt Nam. Lịch sử hình thành và phát triển của nhà nước Việt Nam luôn gắn liền
với sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Nguyên tắc Đảng là lực lượng duy nhất lãnh
đạo nhà nước đã trở thành một nguyên tắc hiến định. Những thành công của hai
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và trong quá trình đổi mới đất nước hơn 65
năm qua, đưa nước Việt Nam trở thành một đất nước có tỷ lệ tăng trưởng khá trong
khu vực và trên thế giới, thoát khỏi tình cảnh một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc
hậu, điều kiện sống của đại bộ phận nhân dân không ngừng được cải thiện, các
quyền tự do dân chủ được mở rộng, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày
càng được nâng cao. Tất cả những thành tựu to lớn đó đã khẳng định vị trí và vai
trò không thể thiếu của Đảng cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển đất nước.
Để không biến mình thành một Đảng chuyên quyền, độc đoát trong cơ chế
một Đảng lãnh đạo, trong quá trình lãnh đạo của mình, Đảng luôn tự đổi mới cho

phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước, giữ cho Đảng luôn xứng đáng là
một Đảng chân chính cách mạng, trong sạch, vững mạnh, đủ sức đảm đương sứ
mệnh cao cả lãnh đạo đất nước. Đảng phải không ngừng hoàn thiện mình thành
một Đảng dân chủ, mạnh dạn phê bình và tự phê bình, kiên quyết sửa chữa những
khuyết điểm sai lầm, quyết tâm làm cho bằng được những việc có lợi cho nhân
dân. Tuy vậy, Đảng không làm thay nhà nước mà thực hiện sự lãnh đạo của mình
bằng việc vạch ra đường lối, chính sách phù hợp với từng thời kỳ lịch sử nhất định
và cụ thể hóa chúng thông qua pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng còn được thực
hiện thông qua các đảng viên giữ các chức vụ nhất định trong nhà nước. Hơn ai
hết, họ phải là những người gần dân, học dân, thấu hiểu nhân dân, tận tâm phục vụ
nhân dân; tuyệt đối tránh bệnh quan liêu, hách dịch, cửa quyền. Trong đó, mỗi
đảng viên phải là một tấm gương "cần, kiệm, liêm, chính chí công vô tư". Lúc sinh
thời chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: "Đảng không phải là một tổ chức để làm


17
cho quan phát tài. Nó phải ... làm cho tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng"3.
Lời căn dặn của Người vẫn còn nguyên giá trị với Đảng ta trong quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay. Khi đảng viên không còn giữ được
phẩm chất của mình, làm hại nước hại dân thì họ phải bị loại ra khỏi bộ máy nhà
nước.
Đảng phải thực sự dân chủ, lắng nghe ý kiến phê bình của nhân dân để ngày
càng hoàn thiện mình. Chỉ có yêu dân, kính dân thì nhân dân mới quý trọng và tin
vào sự lãnh đạo của Đảng. Phải ghi nhớ rằng sự tin yêu của nhân dân vào tổ chức
Đảng là điều kiện tiên quyết cho việc giữ vững vai trò lãnh đạo trong nhà nước
pháp quyền. Sự lãnh đạo của Đảng trong nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay
gắn bó chặt chẽ với xã hội dân sự. Điều này vừa làm cho sự lãnh đạo của Đảng trở
nên sâu rộng, thực chất và hiệu quả, vừa bảo đảm được cơ sở xã hội rộng rãi của
nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Thứ sáu: Nhà nước luôn tôn trọng và thực hiện đầy đủ các điều ước

quốc tế mà cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên.
Đây cũng chính là yêu cầu khách quan, xuất phát từ tình hình thực tế của
Việt Nam trên bước đường hội nhập quốc tế. Một nhà nước pháp quyền đã mang
trong mình những giá trị tốt đẹp của nhân loại thì không thể chỉ biết tôn trọng pháp
luật của nước mình, bảo vệ công dân của nước mình mà phải có tinh thần đại đồng,
sống hài hòa với các nước khác. Việc ký kết các điều ước quốc tế song phương và
đa phương là một bảo đảm cho quá trình sống chung hòa bình giữa các dân tộc,
quốc gia trên thế giới. Theo đó chúng ta chủ trương: "thực hiện chính sách hoà
bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới,
không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và
quan hệ hợp tác với các nước XHCN và các nước láng giềng; tích cực ủng hộ và
góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội" (Điều 14 - HP1992).
Với chủ trương trên, Việt Nam đã tích cực tham gia vào quá trình đấu tranh
cho quyền con người và đã là thành viên của 4 công ước quốc tế về quyền con
người. Ngoài ra, Việt Nam còn là thành viên chính thức của nhiều tổ chức, diễn
đàn hợp tác quốc tế như Tổ chức Liên hợp quốc, Tổ chức thương mại thế giới
WTO, Tổ chức ASEAN, Diễn đàn hợp tác Châu Á - Thái Bình Dương AFEC,... và
3

Hồ Chí Minh toàn tập - Nxb Chính trị quốc gia - 1995, Tập 5, tr 249


18
tham gia ký kết nhiều hiệp định song phương, đa phương với những cam kết hợp
tác trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam đã tích cực, chủ động nội luật hóa các cam kết
quốc tế trên, cụ thể hóa chúng thành những điều luật và nghiêm chỉnh thực hiện.
Hơn nữa, khi chúng ta tôn trọng và thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế mà Việt

Nam đã ký kết hoặc gia nhập thì các nước khác mới tôn trọng và nghiêm chỉnh
thực hiện những cam kết với chúng ta. Đó cũng chính là yêu cầu tự thân của Việt
Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
Tóm lại: Nói đến Nhà nước pháp quyền là nói đến những giá trị phổ biến
của nó, nhưng để áp dụng mô hình nhà nước pháp quyền vào từng nước cụ thể lại
phải phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội đặc thù của từng nước, tạo ra
sự phong phú cho khái niệm nhà nước pháp quyền. Đối với thực tế xã hội Việt
Nam, việc áp dụng các giá trị của nhà nước pháp quyền để tổ chức bộ máy nhà
nước nhằm từng bước dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là một sự lựa chọn sáng
suốt. Nhà nước Việt Nam ra đời từ chính sự đấu tranh không tiếc máu xương của
đông đảo quần chúng nhân dân, nhà nước ấy đi ra từ nhân dân, được nuôi dưỡng
trong lòng nhân dân nên bộ máy nhà nước đó phải được tổ chức để phục vụ trước
hết cho lợi ích của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
1.2. Những yêu cầu, đòi hỏi đối với Tòa án trong nhà nước pháp quyền
Tòa án với hoạt động xét xử của nó là không thể thiếu trong một nhà nước
pháp quyền. Bản chất cũng như những đặc tính tốt đẹp của nhà nước sẽ được thể
hiện trước tiên và cụ thể nhất qua hoạt động xét xử của Tòa án đối với từng vụ án
cụ thể. Vì vậy để Tòa án chuyển tải được đúng bản chất của nhà nước pháp quyền
trong hoạt động xét xử của mình đòi hỏi cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án
đó phải đáp ứng được các yêu cầu nhất định, cụ thể là:
+ Tòa án trong nhà nước pháp quyền phải là một thiết chế độc lập. Vì nếu
Tòa án không độc lập thì sẽ thành công cụ nằm trong tay thế lực cầm quyền để đàn
áp dân chúng. Khi đó Tòa án không còn là thiết chế bảo vệ công bằng, lẽ phải nữa
mà sẽ trở nên độc tài, bảo hộ cho sự bất bình đẳng trong xã hội. Nhưng để cho Tòa
án độc lập đòi hỏi một cách thức tổ chức quyền lực hợp lý, quyền tư pháp của Tòa
án không bị các quyền lập pháp và hành pháp can thiệp thô bạo, đồng thời Tòa án
cũng phải trở thành đối trọng quyền lực với các cơ quan lập pháp, hành pháp. Khi
các nhánh quyền lực có sự cân bằng, có sự kiểm soát lẫn nhau thì không chỉ Tòa án
được độc lập và sự vận hành của cả hệ thống chính trị cũng trơn tru hơn, hoạt động

hiệu quả hơn. Nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước được coi là nền tảng của
chế độ dân chủ - đặc trưng phổ biến của nhà nước pháp quyền.


19
+ Hoạt động xét xử của Tòa án phải thể hiện tính dân chủ, khách quan, công
khai, minh bạch. Tòa án trong nhà nước pháp quyền tồn tại và phát triển trong một
xã hội dân chủ, vì vậy Tòa án trước hết phải thể hiện tính dân chủ trong hoạt động
xét xử của mình. Tòa án phải lắng nghe ý kiến của tất cả các bên, không vì thiên vị
mà trù dập hay làm lợi cho bên nào.
+ Phán quyết của Tòa án phải thể hiện sự công bằng, tôn trọng tính tối cao
của Hiến pháp và tuân thủ các quy định của pháp luật. Phán quyết của Tòa án cũng
thể hiện tập trung nhất tính thượng tôn pháp luật trong nhà nước pháp quyền. Tòa
án chỉ được căn cứ vào các quy định của pháp luật để xác định tính đúng sai của sự
việc, xác định một người có tội hay không, tội nặng hay nhẹ. Khi gặp những
trường hợp pháp luật chưa dự liệu điều chỉnh quan hệ phát sinh thì Tòa án có
quyền sử dụng tập quán pháp hoặc tiền lệ pháp nhưng vẫn phải dựa trên các
nguyên tắc pháp lý chung, không được áp dụng tùy tiện. Đây cũng là yêu cầu bảo
đảm tính có căn cứ trong mỗi phán quyết của Tòa án.
+ Hoạt động xét xử của Tòa án phải được kiểm soát một cách chặt chẽ thông
qua một cơ chế giám sát hiệu quả, đảm bảo cho Tòa án hoạt động trong giới hạn do
pháp luật quy định. Mặc dù các nước khác nhau có cách thức tổ chức giám sát
khác nhau nhưng việc phải có một cơ chế giám sát hoạt động của Tòa án luôn là
yêu cầu bắt buộc đối với Tòa án trong một nhà nước pháp quyền. Bên cạnh đó, Tòa
án vừa là đối tượng bị giám sát nhưng cũng vừa là chủ thể giám sát các cơ quan
nhà nước khác thông qua hoạt động xét xử của mình.
Từ sự phân tích như trên và soi vào điều kiện thực tế của Việt Nam, để xây
dựng Tòa án phù hợp với tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện
nay đòi hỏi Tòa án nước ta phải đáp ứng những yêu cầu cụ thể như sau:
Thứ nhất: Tòa án phải là thiết chế tài phán thực sự độc lập.

Hoạt động xét xử của Tòa án khác với hoạt động của các cơ quan nhà nước
khác là hoạt động theo sự vụ, giải quyết công việc theo yêu cầu trực tiếp của
người dân và là hoạt động áp dụng pháp luật cho từng trường hợp cụ thể. Quá trình
áp dụng pháp luật của Tòa án ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người dân.
Chính vì vậy, việc áp dụng phải theo trình tự thủ tục chặt chẽ, hợp pháp, không thể
tùy tiện, càng không thể bị tác động từ ý chí hoặc quyền lực của bất kỳ một chủ thể
nào ngoài ý chí và hiệu lực của pháp luật. Do đó, hầu hết các nước trên thế giới khi
thiết lập bộ máy nhà nước theo nguyên tắc phân quyền thì đều đề cao và bảo đảm
sự độc lập cho Tòa án, tránh sự can thiệp không cần thiết của các cơ quan khác,
chủ thể khác vào hoạt động xét xử của Tòa án. Ở Việt Nam, từ khi Tòa án ra đời
năm 1945 đến nay thì sự độc lập của Tòa án luôn được ghi nhận và bảo đảm thực


20
hiện phù hợp với nhiệm vụ chính trị của nó trong từng thời kỳ. Ngày nay, để đáp
ứng với hoàn cảnh mới của đất nước thì tính độc lập của Tòa án phải được đề cao
hơn nữa, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền.
Sự độc lập của Tòa án phải được hiểu theo hai nghĩa: Tòa án độc lập với
nhánh quyền lập pháp, hành pháp và mọi cá nhân, tổ chức khác; và độc lập trong
chính nội bộ của mình: cấp dưới không bị lệ thuộc bởi cấp trên về đường lối xét
xử, độc lập với ý kiến của đồng nghiệp, độc lập trong việc đưa ra quan điểm và bảo
vệ quan điểm giữa các thành viên trong Hội đồng xét xử. Bảo đảm tính độc lập cho
Tòa án làm cho pháp luật được thực thi một cách nghiêm minh, công lý được lên
tiếng và bảo vệ, khuyến khích cho tinh thần nói thẳng, nói thật, tránh bệnh hình
thức giả dối cũng chính là mục đích lớn lao mà cuộc cải cách tư pháp của nhà nước
ta hướng tới.
Tòa án phải là một thiết chế tài phán thực sự độc lập là một yêu cầu quan
trọng nhất của một nhà nước pháp quyền, phù hợp với nguyên tắc phân chia quyền
lực. Vì vậy, trong nhà nước pháp quyền, Tòa án không chỉ có chức năng xét xử mà
còn phải có chức năng giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước khác, đặc biệt

là giám sát đối với hoạt động của các cơ quan hành pháp để các cơ quan này không
được làm trái quy định của pháp luật, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, chống
lộng quyền, lạm quyền và sách nhiễu dân chúng. Những hiện tượng này sẽ là phổ
biến nếu Tòa án không phải là cơ chế thực sự độc lập, nếu việc giám sát của Tòa
án đối với hoạt động của các cơ quan hành pháp không thực sự hiệu quả.
Sự độc lập của Tòa án gắn bó chặt chẽ với pháp luật. Chỉ khi nào pháp luật
phân định cụ thể, rõ ràng thẩm quyền của các cơ quan nhà nước, trong đó
có Tòa án một cách rõ ràng, không bị chồng chéo và phân rõ trách nhiệm của các
cơ quan này trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình thì khi đó Tòa án
mới thực sự được độc lập.
Tuy nhiên sự độc lập của Tòa án cũng chỉ mang tính chất tương đối. Tòa án
vẫn phải chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội, của các cơ quan dân cử và toàn thể
nhân dân để hoạt động xét xử của Tòa án không mang tính tùy tiện. Tính độc lập
của Tòa án cũng phải được hiểu là độc lập trong khuôn khổ pháp luật, Tòa án chỉ
căn cứ vào các quy định của pháp luật để ra phán quyết, không thiên vị, không bị
chi phối bởi thế lực nào chính là sự biểu hiện cụ thể của tính độc lập trong hoạt
động xét xử của Tòa án. Ngoài ra để bảo đảm cho Tòa án được độc lập cũng cần có
một đội ngũ cán bộ, Thẩm phán tận tâm với công việc, không bị tha hóa trước sự
cám dỗ của đồng tiền, quyền lực, có lối sống chính trực, đúng mực.


21
Thứ hai: Tòa án phải được xây dựng phù hợp với nguyên tắc tổ chức
quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền.
Sự phân chia quyền lực nhà nước thành 3 quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp là yêu cầu mang tính chất nguyên tắc của nhà nước pháp quyền. Tuy
nhiên để phù hợp với lịch sử, truyền thống pháp lý của Việt Nam, nguyên tắc tổ
chức quyền lực nhà nước được vận dụng sáng tạo theo hướng: "Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp". Trên cơ sở nguyên tắc

trên, hệ thống Tòa án Việt Nam cũng phải được xây dựng phù hợp với vị trí là cơ
quan duy nhất có thẩm quyền xét xử trong nhà nước pháp quyền.
Trong quá trình hoạt động, Tòa án chịu sự giám sát của các cơ quan dân
cử và các cơ quan hành pháp để hạn chế sự tùy tiện của Tòa án từ chính sự độc lập
của nó. Ngược lại, thông qua hoạt động áp dụng pháp luật của mình, Tòa án cũng
có quyền giám sát đối với hoạt động của các cơ quan hành pháp để các cơ quan
này và người của họ không thể làm trái quy định của pháp luật gây thiệt hại cho
dân, không sách nhiễu nhân dân làm giảm lòng tìn của nhân dân vào chính quyền;
Tòa án có thể giám sát Quốc hội thông qua việc phán quyết tính hợp hiến của các
điều luật do Quốc hội ban hành. Quá trình giám sát lẫn nhau giữa các nhánh quyền
lực giúp làm hạn chế sự độc quyền chuyên chế, đồng thời bảo đảm cho pháp luật
được nghiêm chỉnh thực hiện ngay từ chính các cơ quan công quyền đến từng
người dân. Mặc dù có sự phân chia và giám sát lẫn nhau trong việc thực hiện
quyền lực của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp nhưng không ngoài mục
đích phục vụ nhân dân, dùng quyền lực của nhân dân để đem lại lợi ích cho nhân
dân, vì vậy mà Tòa án thống nhất với các cơ quan khác ở nơi quyền lực nhân dân,
là công bộc của dân. Tòa án phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan lập pháp và
hành pháp trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình để bảo vệ nhân dân, bảo đảm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, các quyền tài sản và quyền tự do của
nhân dân, bảo vệ lợi ích cho nhân dân.
Ngoài ra, để đảm bảo tính thống nhất trong việc thực hiện quyền lực
nhà nước rất cần thiết đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong hoạt động tư pháp
nói chung và Tòa án nói riêng. Đảng lãnh đạo không chỉ mang tính truyền thống ở
Việt Nam mà nó đã trở thành đặc điểm nổi bật của nhà nước pháp quyền Việt
Nam. Đây cũng chính là nguyên tắc quan trọng trong tổ chức bộ máy nhà nước
Việt Nam, được ghi nhận tại Điều 4 của Hiến pháp 1992. Chính vì vậy, trong quá
trình tổ chức và hoạt động của mình, Tòa án phải chịu sự chỉ đạo của Đảng từ
trung ương đến địa phương. Tuy vậy, trong quá trình lãnh đạo của mình, Đảng
tuyệt đối không làm thay nhiệm vụ xét xử của Tòa án mà chỉ định hướng cho hoạt



×