Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Thừa phát lại một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.78 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BÔ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN MINH THÙY

THỪA PHÁT LẠI- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật

Mã số: 60.38.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. LÊ VĂN LONG

HÀ NỘI 2011


Lời cảm ơn !

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến giáo viên trực tiếp hướng dẫn, TS. Lê
Văn Long và các thầy, cô giáo đã giúp đỡ định hướng đề tài và nhiệt tình chỉ bảo
Tôi trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu và hoàn thành đề tài này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ, tạo
điều kiện cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn. Đồng thời tôi cũng cảm ơn
những người đã nhiệt tình giúp đỡ tôi thu thập tài liệu.
Tôi cũng xin cam đoan đây là công trình do chính tôi nghiên cứu và đã trực


tiếp hoàn thành, luận văn, danh mục tài liệu đều được trình bày đúng quy định.

Hà Nội, ngày 12 tháng 04 năm 2011
Học Viên

Nguyễn Minh Thùy


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

THADS

Thi hành án dân sự

THA

Thi hành án

TP. HCM

Thành phố Hồ Chí Minh



Nghị định


TT

Thông tư


MỤC LỤC

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2

3. Phạm vi nghiên cứu

4

4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5

5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

5

6. Điểm mới và ý nghĩa của Luận văn


6

7. Kết cấu của luận văn

6

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỪA PHÁT LẠI
1.1 Khái niệm, đặc điểm Thừa phát lại

7

1.1.1 Khái niệm

7

1.1.2 Đặc điểm

8

1.2 Cơ cấu, tổ chức và nội dung hoạt động của Thừa phát lại

12

1.2.1 Cơ cấu, Tổ chức

12

1.2.2 Nội dung hoạt động


14

1.3 Thực tế về Thừa phát lại ở VN trước năm 1975 và kinh nghiệm của
một số nước trên thế giới

21

1.3.1 Thực tế về Thừa phát lại ở VN trước năm 1975

21

1.3.2 Kinh nghiệm về Thừa phát lại ở một số nước trên thế giới

26

1.4 Các điều kiện bảo đảm cho hoạt động thừa phát lại

32

Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ TỔ CHỨC,
HOẠT ĐỘNG CỦA THỪA PHÁT LẠI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1 Thực trạng về quy định pháp luật đối với Thừa phát lại

34


2.1.1 Các quy định về tổ chức, hoạt động của Thừa phát lại

36


2.1.2 Những ưu điểm và hạn chế trong pháp luật về Thừa phát lại 50
2.2 Một số kết quả trong thực hiện thí điểm Thừa phát lại tại tp. Hồ Chí Minh

56

2.2.1 Công tác triển khai thí điểm

56

2.2.2 Tình hình tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại

59

2.2.3 Khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện thí điểm

60

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VỀ TỔ
CHỨC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA THỪA PHÁT LẠI
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1 Phương hướng

64

3.2 Giải pháp

67

3.2.1 Giải pháp về pháp luật


67

3.2.2 Giải pháp về con người

73

3.2.3 Các giải pháp khác

75

KẾT LUẬN
PHỤ LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

77


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Thi hành án nói chung, thi hành án dân sự nói riêng là một trong những hoạt
động quan trọng nhằm khôi phục, bảo vệ các quan hệ xã hội bị xâm hại. Việc thi
hành các bản án, quyết định của Tòa án là yếu tố quan trọng nhất của hoạt động
thực tiễn và áp dụng pháp luật. Nếu bản án, quyết định của Tòa án không được thi
hành đồng nghĩa với việc pháp luật mà bản án, quyết định căn cứ không có ý nghĩa
trên thực tế.
Do vậy, thi hành dứt điểm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay trên thực tế có một ý

nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo quyền và nghĩa vụ đối với người được
thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; bảo
đảm tính pháp chế của các bản án, quyết định; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Chính vì vậy Điều 136 Hiến pháp 1992 (được sửa đổi bổ sung năm 2001) khẳng
định: “Các bản án, quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải
được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang và
mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị vũ trang phải nghiêm chỉnh chấp
hành”.
Trong những năm qua Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính
sách và pháp luật, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thi hành án dân sự;
các cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án dân sự và cán bộ, công
chức ngành thi hành án đã nỗ lực phấn đấu để nâng cao kết quả và hiệu quả của
công tác thi hành án dân sự. Tuy nhiên lượng án tồn đọng trong công tác THADS là
rất lớn (xem phụ lục 1); đồng thời số lượng công việc của Tòa án cũng không
ngừng tăng lên khiến cho việc tống đạt giấy tờ cũng trở nên quá tải làm ảnh hưởng
trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, gây bức xúc trong xã hội,
làm ảnh hưởng tới tính nghiêm minh của pháp luật; uy tín, hiệu lực quản lý xã hội
của các cơ quan nhà nước giảm sút, đồng thời dẫn tới tình trạng khiếu nại kéo dài.
Do đời sống xã hội ngày càng được nâng lên, dân trí tăng cao cùng với nền kinh tế
thị trường, quá trình hội nhập kinh tế, quốc tế nhu cầu pháp lý từ phía các cơ quan,
tổ chức, cá nhân trong xã hội, đặc biệt là nhu cầu tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp


2

pháp của mình, ngăn ngừa vi phạm hoặc thiệt hại có thể xảy ra cho bản thân mình
hoặc cho cộng đồng cũng tăng lên.
Xã hội hóa dịch vụ công trong đó có xã hội hóa một số hoạt động tư pháp là
một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong giai đọan hiện nay nhằm đáp ứng
được nhu cầu khách quan trên của đời sống xã hội. Xã hội hóa một số hoạt động tư

pháp chính nhằm mục đích phục vụ tốt hơn nữa nhu cầu của nhân dân và đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp cho họ trong lĩnh vực này, do vậy tại Nghị quyết Đại hội
lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: “Cải cách hệ thống Tư pháp. Nâng cao việc giám sát
của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước...Hỗ trợ và khuyến khích các tổ chức
hoạt động không vì mục đích lợi nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của dân. Những tổ
chức này có thể được nhà nước ủy quyền thực hiện một số nhiệm vụ cung cấp một
số dịch vụ công với sự giám sát của cộng đồng. Thông qua đó nhà nước có thể tập
trung sức lực để có thể thực hiện những nhiệm vụ quan trọng hơn”.
Ngày 19/02/2009 Thủ tướng chính phủ đã có Quyết định số 224/QĐ-TTg
phê duyệt Đề án “ Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí
Minh”. Theo quyết định này, việc thực hiện đề án là nhằm xác định sự cần thiết và
tính hiệu quả của Thừa phát lại trong hoạt động tư pháp nói chung và THADS nói
riêng, xác định khả năng áp dụng mô hình này trên toàn quốc, thực hiện chủ
chương của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa một số hoạt động hành chính, tư
pháp. Sự ra đời của Thừa phát lại có thể chính là giải pháp hữu hiệu cho sự quá tải
trong công tác THADS và hoạt động của Tòa án, làm giảm gánh nặng cho ngân
sách nhà nước, cũng như đáp ứng được nhu cầu khách quan của nhân dân.
Mặc dù vậy, cho đến nay cũng chưa có một đề tài nào nghiên cứu một cách
hệ thống, toàn diện về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại ở Việt Nam.
Do đó, việc từng bước nghiên cứu về Thừa phát lại cả về phương diện lý luận và
thực tiễn trong giai đoạn thực hiện thí điểm ở nước ta là một vấn đề mang tính thiết
thực. Đây cũng là lý do để tác giả chọn đề tài “Thừa phát lại- Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tuy Thừa phát lại đã từng tồn tại ở Việt Nam từ trước năm 1975, nhưng đã
một thời gian dài mô hình này không được áp dụng nữa, vì vậy việc nghiên cứu về
Thừa phát lại là rất cần thiết và được sự quan tâm ủng hộ của Đảng, Nhà nước và
xã hội. Tuy nhiên cho tới nay có rất ít công trình nghiên cứu riêng biệt, có hệ thống



3

về vấn đề này. Một số công trình nghiên cứu liên quan tới nội dung của luận văn
như:
- Đề tài cấp bộ: Viện nghiên cứu khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp và Sở Tư
pháp thành phố Hồ Chí Minh (1996), Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định
Thừa phát lại, mã số 95-98-114/ĐT. Đề tài đã đưa ra một số mô hình thi hành án
của một số nước trên thế giới và đề xuất một số mô hình Thừa phát lại ở Việt Nam
để thảo luận.
- Luận văn thạc sĩ:
Tác giả Lê Xuân Hồng (2001), Xã hội hóa thi hành án dân sự, luận văn thạc
sĩ, trường Đại học Luật Hà Nội. Trong luận văn tác giả đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề
quan trọng mang giá trị lý luận cao như: Khái niệm về xã hội hóa, xã hội hóa
THADS; nội dung của xã hội hóa; đề xuất mô hình Thừa phát lại trong xã hội hóa
THADS...
Ngoài ra còn một số luận văn thạc sĩ khác liên qua tới vấn đề THADS:
Tác giả Lê Anh Tuấn (2004), Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự, luận văn
thạc sĩ, trường Đại học Luật Hà Nội. Tác giả Lê Anh Tuấn nghiên cứu đề tài sau
khi Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 đã được ban hành, tuy sửa đổi bổ sung
các quy định về thủ tục thi hành án của Pháp lệnh năm 1993 nhưng vẫn còn nhiều
bất cập so với tình hình thực tế, tác giả đã đề xuất giải pháp ban hành Luật thi hành
án dân sự để nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân
sự ở Việt Nam.
Tác giả Lê Thị Hồng Hạnh (2008), Mối quan hệ giữa các cơ quan trong thi
hành án dân sự, luận văn thạc sĩ, trường Đại học Luật Hà Nội. Công trình nghiên
cứu của tác giả được thực hiện trong khi đang chuẩn bị ban hành Luật thi hành án
dân sự, tác giả đưa ra một số khó khăn trong mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án
dân sự và các cơ quan liên quan, từ đó đưa ra những ý kiến đề xuất khi ban hành
Luật cần chú ý hơn các quy định của Luật về quy định các mối quan hệ giữa cơ
quan thi hành án dân sự và cơ quan liên quan để nâng cao hiệu quả hoạt động của

cơ quan thi hành án.
- Khóa luận tốt nghiệp: Tác giả Phạm Hùng Cường (2010), Mô hình Thừa
phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh – Bước đột phá trong việc thực hiện xã hội hóa
thi hành án dân sự ở Việt Nam, khóa luận tốt nghiệp, trường Đại học Luật Hà Nội.


4

Ngoài ra có sách tham khảo của Ts. Nguyễn Đức Chính (2006), Tổ chức
Thừa phát lại và một số các bài viết trên tạp chí, các bài báo mỗi bài viết nghiên
cứu về những lĩnh vực rất nhỏ trong tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại, các bài
viết này trên cơ sở trình bày quan điểm cũng đưa ra những ý kiến đề xuất để nhằm
xây dựng mô hình Thừa phát lại.
3. Phạm vi nghiên cứu.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài cao học Luật, tác giả tập trung nghiên
cứu quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động của của Thừa phát lại
ở Việt Nam hiện nay, đánh giá những kết quả đạt được, những mặt tồn tại và hạn
chế trong pháp luật và trong tổ chức hoạt động của Thừa phát lại, từ đó để xuất
những giải pháp góp phần hoàn thiện về pháp luật và nâng cao hiệu quả trong tổ
chức và hoạt động của Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay. Trong luận văn tác giả
có giới hạn nội dung chủ yếu tập trung nghiên cứu Thừa phát lại dưới góc độ là một
hoạt động; giới hạn về thời gian trong giai đoạn hiện nay; giới hạn về không gian là
ở Việt Nam.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
Đề tài này được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và nhà nước trong các văn kiện Đại hội
Đảng và Nghị quyết các hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng đề cập đến vấn
đề cải cách tư pháp, cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam. Đồng thời tác giả cũng nghiên cứu, tìm hiểu những tài liệu, những tác
phẩm chuyên khảo đã được công bố trong lĩnh vực THADS, Thừa phát lại và phân

tích những số liệu về tổ chức và hoạt động Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay để
làm sáng tỏ nội dung của luận văn.
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênnin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền. Kết hợp
phương pháp thống kê các số liệu cụ thể về tổ chức và hoạt động Thừa phát lại hiện
nay, trên cơ sở đó vận dụng phương pháp phân tích để phân tích các số liệu, nguyên
nhân của những tồn tại hạn chế. Từ đó để đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện
tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại ở Việt Nam. Ngoài ra luận văn còn sử dụng
các phương pháp: tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tế...
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.


5

Mục đích nghiên cứu: Thông qua việc nghiên cứu hoạt động của Thừa phát
lại nhằm đưa ra những lý luận chung cơ bản về Thừa phát lại như: Khái niệm, cơ
cấu tổ chức, nội dung hoạt động; đồng thời nghiên cứu thực tiễn tổ chức và hoạt
động của Thừa phát lại đang được thí điểm tại TP. HCM nhằm tìm ra hạn chế, khó
khăn, vướng mắc từ đó tìm hiểu những phương hướng giải pháp nhằm hoàn thiện
mô hình này, kiến nghị nhân rộng trong phạm vi các tỉnh, thành phố lớn trong cả
nước.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức và hoạt động
của Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay như: Khái niệm, cơ cấu tổ chức và nội dung
hoạt động, và những đặc điểm đặc trưng, từ đó thấy được vị trí, vai trò của Thừa
phát lại.
+ Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của Thừa phát lại ở Việt Nam,
tìm hiểu tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại một số nước trên thế giới.
+ Tìm hiểu thực trạng về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại, từ những

kết quả đạt được trong những năm qua, chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong giai đoạn
hiện nay.
+ Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật về Thừa phát
lại và một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Thừa phát lại.
6. Điểm mới và ý nghĩa của Luận văn
Về mặt lý luận, trong thời gian qua việc nghiên cứu Thừa phát lại đã có một
số đề tài, nhưng nhìn chung đây vẫn là hoạt động còn mới mẻ các đề tài nghiên cứu
chủ yếu mang tính chất thống kê, chưa đưa ra giải quyết những vấn đề lý luận cơ
bản về Thừa phát lại.
Luận văn là một trong những công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu tiên có
tính hệ thống, tìm hiểu toàn diện về Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay. Luận văn
đã đưa ra một số vấn đề lý luận chung về Thừa phát lại như: Khái niệm; đặc điểm;
tổ chức và nội dung hoạt động. Đồng thời luận văn cũng đưa ra và phân tích các số
liệu trong thực tiễn hoạt động của Thừa phát lại trong thời gian qua, từ đó đưa ra các
giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động của mô hình này.
Một số vấn đề lý luận về Thừa phát lại được đưa ra giải quyết trong luận văn
mang ý nghĩa tham khảo; các kết luận và kiến nghị được đưa ra trong luận văn có ý
nghĩa đối với việc hoàn thiện mô hình Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay; luận văn


6

còn là tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy nghiên cứu liên quan, cho các
Thừa phát lại và những người có quan tâm đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì luận văn được kết cấu làm ba
chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung về Thừa phát lại.
Chương 2. Thực trạng về quy định pháp luật và tổ chức, hoạt động của Thừa
phát lại ở nước ta hiện nay.

Chương 3. Phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện về tổ chức và nâng
cao hiệu quả hoạt động của Thừa phát lại ở nước ta hiện nay.


7

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỪA PHÁT LẠI
1.1 Khái niệm, đặc điểm Thừa phát lại
1.1.1 Khái niệm
Nhắc tới danh từ “Thừa phát lại” hẳn rất xa lạ với đa số người dân Việt Nam
hiện nay. Tuy nhiên danh từ này đã xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 1862 khi
người Pháp đặt chế độ cai trị thực dân và áp dụng quy chế về thuộc địa lãnh thổ và
coi 6 tỉnh Nam kỳ như một Hạt của Pháp.
Thuật ngữ Thừa phát lại theo các tài liệu văn bản chính thức được ghi nhận:
ở Nam kỳ bởi “Bộ dân sự tố tụng Việt Nam” ban hành kèm Nghị định ngày
16/3/1910; ở Trung kỳ bởi “bộ Dân luật Trung 1936- 1939, kèm bộ Hộ sự, Thương
sự tố tụng Trung Việt năm 1942”; ở Bắc kỳ bởi “bộ Dân luật Bắc năm 1931, kèm
bộ Dân sự tố tụng Bắc năm 1917”.
Tuy được quy định ở những văn bản luật khác nhau với các tên gọi khác
nhau theo mỗi miền, có nơi gọi là Trưởng tòa, có nơi gọi là Mõ tòa, có nơi gọi là
Thừa phát lại nhưng chúng đều có nguồn gốc từ tiếng Pháp là “HUISSIER”. [20]
Đó là xuất xứ của danh từ Thừa phát lại, tuy nhiên để nói tới khái niệm Thừa phát
lại thì có nhiều quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất: Thừa phát lại là người thuộc lại ở tòa án sơ cấp hay tòa
án địa phương, giữ việc phát tống các văn thư, chấp hành điều phán quyết của tòa
án, hay là thu một vật sản... Theo nghĩa này thì Thừa phát lại là người thi hành một
công việc hay một án lệnh của tòa án. [53]
Quan điểm thứ hai: Thừa phát lại là những viên chức chuyên tống đạt giấy
tờ và thi hành phán quyết của tòa án hay thu một sản vật: Thừa là giúp, phụ giúp,

theo, tuân theo lệnh của cấp trên; Phát là gửi đi, giao cho ai vật gì ; Lại là người làm
việc, cấp dưới. Thừa phát lại là những công lại do luật pháp giao cho các việc:
truyền phiếu, các việc biên chép, chuyển đưa các giấy tờ thuộc về Thẩm phán hoặc
ngoại Thẩm phán, các việc thi hành án, các công văn và các công việc nội bộ trong
các tòa án...
Thừa phát lại là công lại, nhiệm lại được nhà nước bổ nhiệm nhưng không là
công chức hưởng lương nhà nước, Thừa phát lại được tổ chức và hoạt động theo
quản hạt tòa án. Nhiệm vụ của Thừa phát lại rất rộng, không phải chỉ thi hành các


8

bản án- nghĩa là công việc sau xét xử mà còn thực hiện các công việc trước, trong
và sau xét xử. [49]
Quan điểm thứ ba cho rằng Thừa phát lại là một nghề tư pháp gọi là công
lại nghĩa là nhân viên có độc quyền hành một nghề do chính phủ tổ chức và kiểm
soát để giúp công lý, mở cho những người đủ điều kiện và năng lực chuyên môn
nhưng không có quyền từ chối sự triệu dụng mỗi khi công dân dùng tới. [50, tr.69]
Các quan điểm về Thừa phát lại tuy ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, trong
điều kiện của các nền pháp lý khác nhau nhưng đều tiếp cận Thừa phát lại dưới góc
độ là một chức danh tư pháp, trả lời cho câu hỏi: “Thừa phát lại là ai?”. Có quan
điểm cho rằng Thừa phát lại là “công lại, nhiệm lại” nhưng không phải công chức
nhà nước; lại có quan điểm cho rằng Thừa phát lại là “viên chức”... nhìn chung thì
Thừa phát lại là những người được nhà nước bổ nhiệm để làm một số công việc
như: Thi hành các bản án- nghĩa là công việc sau xét xử ; thực hiện các công việc
trước, trong và sau xét xử nhưng lại không phải là công chức nhà nước và cũng
không hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Quan điểm thứ tư được thể hiện trong quy định tại Khoản 1 Điều 2 Nghị
định số 61/2009/NĐ-CP của TTCP ngày 24/7/2009 về tổ chức và hoạt động của
Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại TP HCM: “Thừa phát lại là người được Nhà

nước bổ nhiệm để làm các công việc về thi hành án dân sự, tống đạt giấy tờ, lập vi
bằng và các công việc khác theo quy định của nghị định và pháp luật có liên
quan”. Quan điểm mới nhất này nhìn nhận Thừa phát lại dưới góc độ chủ thể và đã
phần nào làm rõ được câu hỏi : “Thừa phát lại là ai? Thừa phát lại làm những công
việc gì? ”.
Tuy nhiên khác với các quan điểm trên khi đi kiếm tìm một khái niệm về
Thừa phát lại, tác giả lại tiếp cận Thừa phát lại dưới góc độ hoạt động của chức
danh này, từ đó làm rõ thêm về bản chất hoạt động này, trả lời cho câu hỏi : “Thừa
phát lại là hoạt động gì? được làm bởi chủ thể nào? cách thức ra sao ?”.
Vậy, có thể đưa ra một khái niệm về Thừa phát lại như sau: “Thừa phát lại
là hoạt động mang tính bổ trợ tư pháp như: Các công việc về thi hành án dân sự,
tống đạt giấy tờ, lập vi bằng và các công việc khác theo quy định của pháp luật,
được người có chức danh Thừa phát lại thực hiện theo trình tự, thủ tục nhất định do
pháp luật quy định”.
1.1.2 Đặc điểm


9

1.1.2.1 Thừa phát lại là hoạt động mang tính bổ trợ tư pháp có nội dung
thực hiện các công việc về thi hành án dân sự, tống đạt giấy tờ, lập vi bằng và các
công việc khác theo quy định của pháp luật.
Sở dĩ tác giả cho rằng Thừa phát là hoạt động mang tính bổ trợ tư pháp là vì
những lý do sau:
Thứ nhất: Các công việc mà thừa phát lại thực hiện đều là những công việc
mang tính chất bổ trợ tư pháp hay “Tư pháp” (theo nghĩa rộng), ví dụ như: Các
công việc về thi hành án dân sự, tống đạt giấy tờ (cho cả các cơ quan thi hành án và
tòa án). Vì sao lại nói vậy? Quan điểm này xuất phát từ quan điểm “gốc” của hoạt
động thi hành án là bản án, quyết định dân sự của Tòa án, của Trọng tài thương mại,
hơn thế nữa tham gia vào quá trình thi hành án chủ yếu là các cơ quan tư pháp

nhằm mục đích là đưa ra và đảm bảo thi hành các bản án, quyết định của tòa án và
các quyết định khác theo quy định của pháp luật, đồng thời khi thực hiện nhiệm vụ
thi hành án các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải thi hành theo đúng Quyết định
của Tòa án, tổ chức Trọng tài thương mại...chứ không phải dựa trên mệnh lệnh
hành chính.
Hiện nay ở nước đang phổ biến quan điểm cho rằng: “Thi hành án dân sự
Việt Nam là hoạt động hành chính- tư pháp nhằm thực hiện đầy đủ, kịp thời những
bản án...”. Tuy nhiên như đã nêu ở trên thì khi thực hiện nhiệm vụ thi hành án các tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền phải thi hành theo đúng Bản án, Quyết định của Tòa
án, tổ chức Trọng tài thương mại...chứ không phải dựa trên mệnh lệnh hành chính.
Đồng thời với sự ra đời của Thừa phát lại là một cá nhân được nhà nước giao quyền
thực hiện các công việc về thi hành án dân sự, không phải là công chức nhà nước,
không thuộc cơ quan nào trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước Việt
Nam, cũng không hưởng lương từ ngân sách nhà nước, Thừa phát lại hoạt động độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật. Vì vậy hoạt động thi hành án dân sự chỉ nên hiểu đơn
thuần là hoạt động mang tính dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp dù có do cơ quan,
tổ chức, cá nhân nào thực hiện.
Thứ hai: Theo quy định hiện hành trong nội dung hoạt động thừa phát lại có
hoạt động lập vi bằng, có thể nói đây là hoạt động mang tính chất đặc thù so với
hoạt động luật sư, hoạt động công chứng hay hoạt động thi hành án. Vi bằng có ý
nghĩa tạo lập nguồn chứng cứ giúp cho hoạt động xét xử của Tòa án, hoạt động
công chứng và các hoạt động của các cơ quan hành chính khác được nhanh chóng,


10

chính xác hơn, do Vi bằng có giá trị pháp lý cao và đáng tin cậy hơn những văn bản
do các cá nhân, tổ chức tự lập không mang giá trị pháp lý. Chính vì vậy đây cũng là
hoạt động mang tính bổ trợ tư pháp.
1.1.2.2 Thừa phát lại được người có chức danh Thừa phát lại thực hiện.

Có thể khẳng định, các công việc trên được thực hiện bởi người có chức
danh Thừa phát lại mà không phải người nào khác. Vậy, người như thế nào thì
được bổ nhiệm chức danh trên? Tùy vào từng giai đoạn lịch sử khác nhau và các
quốc gia khác nhau mà các điều kiện này cũng có những khác biệt và có sự thay đổi
nhất định, ví dụ như ở Pháp: Đối với người là Thư kí trưởng (có điều kiện trên 25
tuổi, đã tập sự hai năm tại một văn phòng Thừa phát lại, văn phòng trưởng khế, văn
phòng luật sư và trúng tuyển kì thi theo quy định), sau hai năm thực tập trong một
văn phòng thừa phát lại, có quốc tịch Pháp, có đạo đức tốt và phải trải qua một kì thi
kiểm tra chuyên môn sẽ được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm làm Thừa phát lại.
Đối với những người đã từng là Thẩm phán, Luật sư, hoặc người có bằng cử nhân
luật thì có thể được bổ nhiệm thẳng vào chức vụ thừa phát lại... [49, tr. 71]
Hay ở Việt Nam trước năm 1975 thì Thừa phát lại phải hội đủ các điều kiện
như: Phải là người lương thiện, phải qua một kì thi chuyên nghiệp hoặc đã nắm giữ
một số chức vụ Tư pháp, đủ bảo đảm trình độ chuyên môn và đạo đức, phải tuyên
thệ trước tòa, phải kí quỹ một số tiền để đảm bảo các khoản tiền phạt mà họ có thể
bị tòa án bắt buộc phải nộp vì phạm lỗi trong khi thừa hành nhiệm vụ. [49, tr. 59]
Ở Việt Nam hiện nay thì điều kiện để được bổ nhiệm Thừa phát lại được
quy định tại Điều 10 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về Tổ chức và
hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh:
“1. Là công dân Việt Nam, có sức khỏe, có phẩm chất đạo đức tốt;
2. Không có tiền án;
3. Có bằng cử nhân luật;
4. Đã công tác trong nghành pháp luật trên 05 năm hoặc đã từng là Thẩm phán,
Kiểm sát viên, Luật sư; Chấp hành viên, Công chứng viên, Điều tra viên từ Trung
cấp trở lên;
5. Có chứng chỉ hoàn thành lớp tập huấn về nghề Thừa phát lại do Bộ Tư pháp tổ
chức;
6. Không kiêm nhiệm hành nghề Công chứng, Luật sư và những công việc khác do
pháp luật quy định.”



11

Vào giai đoạn lịch sử khác nhau thì thẩm quyền bổ nhiệm chức danh này
cũng được giao cho các cơ quan khác nhau nhưng đều là các cơ quan nhà nước
hoặc người đại diện cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ví dụ như tại Pháp hay ở
Việt Nam giai đoạn trước đây: Chức vụ Thừa phát lại do Tổng Trưởng Bộ Tư pháp
ra nghị định bổ nhiệm [49, tr. 11] ; ở Úc thì Chánh án tòa án địa phương được bổ
nhiệm hoặc chỉ định Thừa phát lại cho Tòa địa phương bằng văn bản đối với những
người có đủ tiêu chuẩn theo luật ... [49, tr. 76]
Tại nước ta hiện nay thì thẩm quyền bổ nhiệm Thừa phát lại do Bộ trưởng
Bộ Tư pháp bổ nhiệm trên cơ sở đề nghị của Giám đốc Sở Tư pháp Thành phố Hồ
Chí Minh. [8, Điều 11]
1.1.2.3 Hoạt động thừa phát lại được thực hiện theo trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định.
Các hoạt động của Thừa phát lại đều mang tính bổ trợ tư pháp như đã nói ở
trên, chính vì vậy việc tuân thủ theo trình tự, thủ tục nhất định do pháp luật quy định
đối với từng loại việc cụ thể nhằm đảm bảo giá trị pháp lý của các hoạt động này.
Trình tự, thủ tục có chặt chẽ, phù hợp thì hoạt động thừa phát lại mới có thể diễn ra
thuận lợi, nhanh chóng; trình tự, thủ tục trong hoạt động thừa phát lại cũng cần phù
hợp với tiến trình cải cách tư pháp và cải cách hành chính hiện nay.
Cụ thể đối với thực hiện các công việc về thi hành án dân sự (bao gåm cả
việc xác minh điều kiện thi hành án; tống đạt văn bản, giấy tờ của các cơ quan thi
hành án dân sự) thì hoạt động thừa phát lại phải tuân theo thủ tục về thi hành án dân
sự. Vậy, thủ tục thi hành án dân sự được hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ các bước
để đưa một bản án, quyết định của Toà án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ
việc cạnh tranh ra thi hành theo quy định của pháp luật, từ khi cấp bản án, quyết
định thi hành án đến khi chấm dứt việc thi hành án, quyền và nghĩa vụ của đương
sự được thực hiện trên thực tế. Theo quy định của Luật THADS năm 2008 thì thủ
tục thi hành án gồm: Trách nhiệm chuyển giao và giải thích bản án, quyết định của

toà án; thời hiệu yêu cầu thi hành án; phí thi hành án; thẩm quyền ra quyết định thi
hành án; thẩm quyền, điều kiện uỷ thác; hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ, trả đơn yêu
cầu THA; thông báo về THA, miễn giảm THA…
Tuy nhiên, nếu xem xét thủ tục THADS dưới góc độ tất cả các bước, các thủ
tục trong trình tự để đưa một bản án, quyết định của Toà án, Trọng tài thương mại,
Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra thi hành thì các quy định về thủ tục THADS


12

không chỉ đặt trong Chương III của Luật THADS năm 2008 mà còn được đề cập
tới trong các phần khác của Luật THADS năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi
hành.
Đối với thủ tục tống đạt theo yêu cầu của Toà án thì Thừa phát lại phải tiến
hành theo quy định của pháp luật tố tụng. Thủ tục cấp, tống đạt hoặc thông báo văn
bản tố tụng của Toà án được quy định rõ ràng, đầy đủ tại Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2005 (từ điều 146 đến điều 156). Tính hợp lệ của việc cấp, tống đạt hoặc thông
báo văn bản tố tụng của Toà án đ ược quy định tại khoản 1 Điều 150 BLTTDS như
sau: “Việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng được thực hiện theo quy
định của Bộ luật này thì được coi là hợp lệ…”
Đối với việc lập Vi bằng của Thừa phát lại được quy định cụ thể tại Điều 26
Nghị định 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính Phủ:
“1. Việc lập vi bằng phải do chính Thừa phát lại thừa phát lại thực hiện.
Thư ký nghiệp vụ có thể giúp Thừa phát lại thực hiện việc lập vi bằng, nhưng Thừa
phát lại phải chịu trách nhiệm về vi bằng do mình thực hiện.
2. Vi bằng chỉ ghi nhận những sự kiện, hành vi mà Thừa phát lại trực tiếp
chứng kiến; việc ghi nhận phải khách quan, trung thực.
3. Trong trường hợp cần thiết Thừa phát lại có quyền mời người làm chứng
chứng kiến việc lập vi bằng.
4. Vi bằng được lập thành 03 bản chính: 01 bản giao người yêu cầu; 01 bản

gửi Sở Tư pháp TPHCM để đăng ký trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ
ngày lập vi bằng; 01 bản lưu trữ tại văn phòng Thừa phát lại theo quy định
của pháp luật về chế độ lưu trữ đối với văn bản công chứng.
5. Trong thời hạn không quá 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được vi bằng,
Sở Tư pháp TPHCM phải vào sổ đăng ký vi bằng Thừa phát lại”.
1.2 Cơ cấu, tổ chức và nội dung hoạt động của Thừa phát lại
1.2.1 Cơ cấu, tổ chức
Cơ cấu, tổ chức là điều kiện quan trọng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động thừa phát lại. Đồng thời để xác định rõ cơ quan tổ chức có trách nhiện
quản lý, giám sát hoạt động thừa phát lại. Hiện nay về mặt cơ cấu, tổ chức của Thừa
phát lại vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng Thừa phát lại hoạt động dưới hình thức “Văn
phòng Thừa phát lại”: Chức danh Thừa phát lại do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ


13

nhiệm. Tiêu chuẩn để một người được bổ nhiệm chức danh Thừa phát lại phải có
những điều kiện như: Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức, phẩm chất, khả
năng tài chính, độ tuổi...phải qua thời gian tập sự tại một văn phòng Thừa phát lại
và phải trúng tuyển qua một kì thi tuyển chọn Thừa phát lại.
Mỗi chức danh Thừa phát lại được mở một văn phòng trong phạm vi địa
phương mà Thừa phát lại được hoạt động. Giám đốc Sở Tư pháp được quyền công
nhận cho mở Văn phòng Thừa phát lại trong địa phương thuộc mình quản lý. Trong
mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tùy theo địa bàn dân cư và nhu cầu xã hội
có thể có nhiều Văn phòng Thừa phát lại. Việc thẩm định thẩm quyền theo địa hạt
cho các Văn phòng Thừa phát lại hoạt động do Giám đốc Sở Tư pháp quyết định.
Tên của Văn phòng Thừa phát lại được lấy theo tên của chức danh Thừa
phát lại được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. Tại văn phòng này Thừa phát lại
được nhận một số nhân viên giúp việc. Nhân viên giúp việc Văn phòng thừa phát

lại được phân chia thành hai loại: Thư kí nghiệp vụ và nhân viên khác.
Thư kí nghiệp vụ phải qua lớp bồi dưỡng pháp lý, có nhiệm vụ giúp Thừa
phát lại thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và là nguồn để bổ sung tuyển chọn làm
Thừa phát lại. Còn các nhân viên khác như: kế toán, thủ quỹ, văn thư, đánh
máy...do Thừa phát lại tuyển chọn tùy theo yêu cầu công việc của văn phòng Thừa
phát lại.
Việc tuyển chọn Thư kí nghiệp vụ và các nhân viên khác do Thừa phát lại
quyết định sau đó lập danh sách báo cáo cho Sở Tư pháp để vào danh sách cập
nhật, theo dõi quản lý theo quy định chung
Thừa phát lại là người chịu trách nhiệm trong việc điều hành hoạt động Văn
phòng Thừa phát lại, quản lý nhân viên và tự xoay sở cơ sở vật chất để Văn phòng
đủ điều kiện hoạt động...và Thừa phát lại chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của
Văn phòng Thừa phát lại trước Sở Tư pháp tỉnh hoặc thành phố nơi đặt Văn phòng.
Văn phòng Thừa phát lại có con dấu riêng, mỗi Thừa phát lại chỉ được mở
một văn phòng (không được mở chi nhánh) và chỉ được sử dụng một con dấu. Con
dấu của Thừa phát lại được đăng kí với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nội
dung con dấu phải được Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp hướng dẫn quy định thống nhất.
Quan điểm thứ hai cho rằng Thừa phát lại nên hoạt động dưới hình thức
“Đoàn Thừa phát lại”: Đoàn Thừa phát lại là một tổ chức nghề nghiệp của Thừa


14

phát lại, được thành lập tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khi có từ hai
Thừa phát lại trở nên.
Giám đốc Sở Tư pháp là người có thẩm quyền cho phép thép thành lập
Đoàn thừa phát lại, sau khi đã trao đổi và có ý kiến trả lời bằng văn bản của Bộ Tư
pháp.
Hoạt động của Đoàn thừa phát lại được điều hành bởi Ban chủ nhiệm, do hội
nghị các Thừa phát lại bầu ra, được Giám đốc Sở Tư pháp chuẩn y. Nhiệm kì của

Ban chủ nhiệm là 03 năm. Ban chủ nhiệm gồm 01 Chủ nhiệm và 01 hoặc 02 phó
Chủ nhiệm (do hội nghị các Thừa phát lại quyết định).
Đoàn thừa phát lại có thể đặt trụ sở tại Văn phòng của Thừa phát lại chủ
nhiệm hoặc phó chủ nhiệm hay một địa điểm khác tùy theo quyết định của Hội
nghị các Thừa phát lại và sau khi được sự đồng ý của Giám đốc Sở tư pháp.
Đoàn thừa phát lại có con dấu riêng, có thể có tài khoản riêng ở ngân hàng.
Kinh phí hoạt động của thừa phát lại do sự thỏa thuận đóng góp hàng tháng của các
Thừa phát lại thành viên.
Đoàn thừa phát lại có thể nhận các nhân viên giúp việc cho đoàn. Số lượng
do Ban chủ nhiệm quyết định nhưng sau đó phải lập danh sách báo cáo lại cho Sở
Tư pháp.
Chúng tôi đồng tình với phương án Thừa phát lại được thành lập Văn phòng
Thừa phát lại, do mô hình văn phòng nhỏ, gọn, linh hoạt rất phù hợp với hoạt động
mang tính chất “bán công” như của Thừa phát lại. Hơn thế nữa với mô hình này
Thừa phát lại có thể chủ động trong công việc và có thể tuyển dụng nhân viên theo
nhu cầu và khả năng kinh tế của mình. Còn mô hình Đoàn Thừa phát lại thì đảm
bảo tính lãnh đạo tập thể nhưng lại cồng kềnh, như vậy chi phí trả công cho cán bộ
sẽ lớn gây khó khăn cho một đơn vị mới hoạt động, mang tính tự chủ về kinh tế.
1.2.2 Nội dung hoạt động
Nội dung hoạt động thừa phát lại sẽ giúp phân biệt hoạt động thừa phát lại
với một số hoạt động khác như: hoạt động chấp hành, hoạt động công chứng, hoạt
động luật sư... tùy nhu cầu xã hội ở các quốc gia và trong những thời điểm khác
nhau mà nội dung hoạt động thừa phát lại cũng có sự khác nhau.
Nói tới hoạt động thừa phát lại thì công việc mang tính quan trọng hàng đầu
là các công việc liên quan tới THADS. Vì chính nhu cầu thực tế trong THADS đã
dẫn tới sự ra đời của Thừa phát lại hay còn được nhiều người gọi là “Thi hành án tư


15


nhân”: số lượng công việc về THADS không ngừng tăng lên, số án tồn đọng cũng
rất lớn khiến cho các Cơ quan THADS trên khắp cả nước và đặc biệt là ở các tỉnh,
thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh luôn trong tình trạng quá tải. Các công
việc liên quan tới THADS của Thừa phát lại gồm: Xác minh điều kiện thi hành án;
trực tiếp thi hành các bản án, quyết định...; tống đạt văn bản, giấy tờ thi hành án.
Về vấn đề các công việc liên quan tới thi hành án được thực hiện bởi Thừa
phát lại vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Đồng thời THADS, việc tổ chức thi hành
bản án, quyết định lại gồm rất nhiều thủ tục và các hoạt động tác nghiệp khác nhau;
các vụ việc thi hành án cũng rất khác nhau, có việc đơn giản, có việc phức tạp, có
việc đương sự tự nguyện thi hành, cũng có việc phải sử dụng tới biện pháp cưỡng
chế; có việc cưỡng chế không cần huy động lực lượng bảo vệ, có việc cưỡng chế
cần huy động lực lượng bảo vệ… Chính vì tính chất đặc thù và phức tạp của công
việc này nên xung quanh nội dung hoạt động thừa phát lại mà đặc biệt là các nội
dung liên quan tới thi hành án vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.
Ý kiến thứ nhất cho rằng: Thừa phát lại nên thực hiện một số công việc mang
tính chất bổ trợ cho việc thi hành án như: Xác minh điều kiện thi hành án; tống đạt
quyết định, giấy tờ thi hành án và trực tiếp tổ chức thi hành các vụ, việc thi hành án
theo yêu cầu của đương sự, kể cả việc ra quyết định và áp dụng biện pháp cưỡng
chế thi hành án.
Ý kiến thứ hai theo quy định tại Nghị định số 61/2009/NĐ-CP cho rằng:
Thừa phát lại chỉ nên thực hiện các công việc mang tính chất bổ trợ cho việc thi
hành án và chỉ trực tiếp tổ chức thi hành các vụ việc về thi hành án theo yêu cầu của
đương sự. Đối với việc cần áp dụng biện pháp cưỡng chế, huy động lực lượng thì
Thừa phát lại đề nghị trưởng THADS thành phố Hồ Chí Minh phê duyệt.
Ý kiến thứ ba lại cho rằng: Thừa phát lại chỉ nên thực hiện một số công việc
mang tính chất bổ trợ tư pháp và trực tiếp thi hành một số vụ việc thi hành án đơn
giản, không phải áp dụng biện pháp cưỡng chế.
Đồng thời theo quy định tại Điều 3 nghị định 61/2009/NĐ-CP ngày
24/7/2009 về Tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại Thành
phố Hồ Chí Minh thì Thừa phát lại được làm các công việc sau đây:

“1. Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án hoặc cơ quan Thi hành án dân
sự;
2. Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức;


16

3. Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự;
4. Trực tiếp tổ chức thi hành án các bản án, Quyết định của tòa án theo yêu cầu của
đương sự. Thừa phát lại không tổ chức thi hành án các bản án , quyết định thuộc
diện Thủ trưởng cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án.”
Tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai ở nội dung: Thừa phát lại chỉ nên
thực hiện các công việc mang tính chất bổ trợ cho việc thi hành án và chỉ trực tiếp
tổ chức thi hành các vụ việc về THA theo yêu cầu của đương sự. Với các lý do sau:
Thứ nhất: Chế định Thừa phát lại tuy đã từng được áp dụng tại Việt Nam
nhưng đã một thời gian dài chúng ta không áp dụng, đồng thời hệ thống pháp luật,
tình hình kinh tế, chính trị, xã hội hiện nay ở nước ta cũng đã có nhiều thay đổi so
với thời kì trước nên cần có những bước đi thận trọng và thử nghiệm trước khi được
áp dụng rộng rãi.
Thứ hai: Các công việc mang tính chủ động do cơ quan thi hành án dân sự
thực hiện là những việc mà Thủ trưởng cơ quan THADS chủ động ra quyết định thi
hành theo quy định tại khoản 1 Điều 36 Luật THADS năm 2008, những công việc
này chủ yếu liên quan tới quyền và lợi ích của nhà nước, trong khi các Cơ quan
THADS lại là cơ quan công quyền, được nhà nước “bao cấp” chính vì vậy nên để
các cơ quan THADS vẫn thực hiện các công việc này, nhằm nêu cao tinh thần trách
nhiệm đối với các công việc thuộc về nhà nước, đồng thời mang tính răn đe đối với
các thành viên trong xã hội, nâng cao ý thức pháp luật cho người dân. Theo đó nội
dung hoạt động thừa phát lại hiện nay tại Việt Nam gồm:
Một là: Hoạt động xác minh điều kiện thi hành án.
Đây là một hoạt động đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình thi

hành bản án, quyết định của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng giải quyết vụ
việc cạnh tranh nhằm xác định khả năng thực hiện nghĩa vụ về hành vi, về tài sản
của người phải THA. Kết quả xác minh điều kiện thi hành án là căn cứ để xác định
một bản án, quyết định có điều kiện thi hành hay chưa có điều kiện thi hành để từ
đó Thừa phát lại kịp thời áp dụng biện pháp thi hành phù hợp và ra các quyết định
theo đúng quy định của pháp luật. Thực hiện tốt công tác xác minh giúp Thừa phát
lại cũng như cơ quan Thi hành án dân sự định hướng được quy trình tổ chức THA
cụ thể sao cho hiệu quả nhất.
Theo quy định tại Khoản 1 điều 31 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì
trong đơn yêu cầu của người được thi hành án phải phải có thông tin về tài sản hoặc


17

điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, điều này chỉ có thể làm được khi
có kết quả của hoạt động xác minh điều kiện thi hành án. Đồng thời tại Khoản 1
điều 6 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định: “Người
được thi hành án có quyền tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh điều
kiện thi hành án...Kết quả xác minh được công nhận và làm căn cứ để tổ chức việc
thi hành án...”.
Việc thừa phát lại có thể thực hiện công việc xác minh điều kiện thi hành án
theo yêu cầu của đương sự một mặt đã tháo gỡ bớt “gánh nặng” xác minh của Chấp
hành viên một mặt sẽ nâng cao hiệu quả của công tác xác minh trong thi hành án
dân sự bởi lẽ: Nếu phải tự mình tiến hành xác minh người được thi hành án sẽ gặp
nhiều khó khăn, đặc biệt là các trường hợp người được THA không biết rõ về người
phải THA và các nơi cần tiến hành xác minh điều kiện THA. Hơn thế nữa có nhiều
trường hợp Người được thi hành án không hiểu biết các nội dung cần phải tiến hành
xác minh, cũng như tới cơ quan nào để có được thông tin cần xác minh, cá biệt có
những trường hợp không biết chữ...

Về hình thức xác minh: Thừa phát lại có thể thực hiện xác minh thông qua
02 hình thức là trực tiếp hoặc gián tiếp. Trực tiếp xác minh: Thừa phát lại hoặc nhân
viên của Văn phòng Thừa phát lại đến trực tiếp nơi có thông tin về điều kiện thi
hành án của người phải thi hành án để thực hiện xác minh; gián tiếp xác minh:
Thừa phát lại gửi văn bản yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cung cấp các thông tin về
nhân thân hoặc tài sản của người phải thi hành án cần phải xác minh.
Về nội dung xác minh: Nội dung của việc xác minh căn cứ vào nội dung xác
minh đã được thỏa thuận trong hợp đồng giữa Thừa phát lại và đương sự hoặc
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; nội dung xác minh cũng có thể do Thừa
phát lại chủ động xác định nhằm làm rõ điều kiện thi hành án của người phải thi
hành án để phục vụ quá trình trực tiếp thi hành bản án, quyết định do đương sự yêu
cầu.
Muốn kết quả xác minh được chính xác thì Thừa phát lại phải có khả năng
phán đoán về nội dung cần xác minh: Xác minh tại đâu, nội dung xác minh nhằm
chứng minh vấn đề gì, cách thức tiến hành xác minh như thế nào…Tóm lại Thừa
phát lại tiến hành xác minh cần nhạy bén, nắm chắc nghiệp vụ xác minh.


18

Hai là: Hoạt động trực tiếp tổ chức thi hành án các bản án, quyết định của
tòa án theo yêu cầu của đương sự.
Thi hành án là hoạt động làm cho bản án, quyết định của Tòa án, Trọng tài
thương mại, Hội đồng chống cạnh tranh có hiệu lực trên thực tế, là một trong những
hoạt động quan trọng nhằm khôi phục, bảo vệ các quan hệ xã hội bị xâm hại; đảm
bảo quyền và nghĩa vụ đối với người được THA, người phải THA, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan; bảo đảm tính pháp chế của các bản án, quyết định; bảo đảm
trật tự, an toàn xã hội.
Các công việc hiện nay đang được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự
được quy định tại Điều 1 Luật thi hành án dân sự năm 2008.

Hiện nay số lượng án đang ngày một tăng cao vì vậy các cơ quan Thi hành
án dân sự không thể làm hết dẫn tới tình trạng số lượng án tồn đọng vẫn còn quá
lớn khiến cho quyền và lợi ích của người được thi hành án, người có quyền và
nghĩa vụ liên quan không được đảm bảo, tính pháp chế của bản án cũng không
được đảm bảo làm cho một bộ phận không nhỏ nhân dân mất lòng tin vào Nhà
nước, pháp luật. Thừa phát lại trực tiếp thi hành bản án, quyết định của tòa án sẽ
phần nào giảm bớt gánh nặng cho các cơ quan thi hành án, đồng thời đáp ứng được
nhu cầu của người dân trong việc THADS.
Tuy nhiên đây là một hoạt động mang tính đặc thù có sử dụng quyền lực tư
pháp thông qua việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với những vụ
việc mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành. Khi Thừa phát lại thực
hiện công việc thi hành án cũng cần có những quyền hành như một Chấp hành viên
để có thể bảo đảm hiệu quả của công việc này.
Đồng thời theo quy định tại NĐ số 61/NĐ-CP trong trường hợp cưỡng chế
có huy động lực lượng bảo vệ Văn phòng Thừa phát lại cần lập kế hoạch trình Thủ
trưởng cơ quan THADS xem xét giải quyết và ra quyết định, tác giả thiết nghĩ là
chưa hợp lý vì như vậy chưa thực sự tạo được tính chủ động và tự chịu trách nhiệm
cho Thừa phát lại, đồng thời cũng có thể dẫn tới tình trạng cố tình gây khó khăn từ
phía cơ quan phê duyệt hồ sơ xin cưỡng chế. Vì vậy tác giả cho rằng nên để Thừa
phát lại thực hiện từ công đoạn đầu tới công đoạn cuối của quá trình thi hành án.
Ba là : Hoạt động lập vi bằng.
Về tên gọi “vi bằng”, trong khoa học pháp lý hiện nay hầu như không sử
dụng hai từ “vi bằng”. Tuy nhiên trước đây nó từng được sử dụng rộng rãi ở nước


19

ta với nội dung là ghi nhận các sự kiện xảy ra trong đời sống xã hội và “vi bằng” có
giá trị chứng cứ. Về tên gọi này cũng có hai luồng ý kiến khác nhau: Một cho rằng
vẫn lấy tên gọi cũ là : “vi bằng”; một cho rằng nên lấy tên gọi: “Văn bản ghi nhận

một sự kiện pháp lý”. Nhìn chung đa số các nhà khoa học đồng tình với ý kiến thứ
nhất vẫn lấy tên gọi là “vi bằng” vì nó vừa ngắn gọn vừa thể hiện được tính chất và
nội dung của văn bản do Thừa phát lại lập, ghi nhận một sự kiện pháp lý, còn tên
gọi “Văn bản ghi nhận một sự kiện pháp lý” quá dài dòng, không thể hiện được tính
chất đặc thù của loại văn bản này.
Trong hoạt động tố tụng nói chung và tố tụng dân sự, kinh tế nói riêng, vai
trò quan trọng của chứng cứ là không thể phủ nhận. Nó là cơ sở để Tòa án áp dụng
pháp luật trong một quan hệ pháp luật cụ thể, nhằm xác định trách nhiệm pháp lý
của các bên tham gia tố tụng và từ đó xác định hậu quả pháp lý, quyền và nghĩa vụ
của mỗi bên. Chứng cứ có thể đem lại hoặc làm mất đi cả một gia tài; danh dự, uy
tín; thậm chí ảnh hưởng tới tính mạng của một hoặc nhiều người.
Một nguyên tắc có tính chất đương nhiên khi giải quyết tranh chấp dân sự,
kinh tế là các bên phải đưa ra chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình, hoặc để phản
bác những yêu cầu hay bằng chứng mà đối phương đưa ra. Tuy nhiên, các bên
tranh tụng đưa ra chứng cứ không có nghĩa là họ có thể tự lập chứng cứ, điều này
đã gây nhiều khó khăn cho quá trình giải quyết của Tòa án và các cơ quan khác.
Chính vì vậy việc ghi nhận các sự kiện trong đời sống xã hội là rất cần thiết làm
phong phú thêm nguồn chứng cứ trong quá trình xét xử của Tòa án và bảo vệ thân
chủ của Luật sư, hơn thế nữa theo Khoản 2 Điều 58 Bộ luật Tố tụng dân sự quy
định: Khi tham gia tố tụng, đương sự có các quyền và nghĩa vụ sau đây: “Cung cấp
chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
Nếu đương sự không đưa ra được hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải
chịu hậu quả của việc không chứng minh hoặc không chứng minh được đầy đủ đó.
Vì vậy việc lập vi bằng đã hỗ trợ hoạt động công chứng khi công chứng các giao
dịch; giúp Tòa án và các cơ quan hành chính nhà nước khác giải quyết chính xác
các việc liên quan tới người dân. Vì vậy việc lập vi bằng là cần thiết và là nhu cầu
chung của xã hội để bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, để
người dân thực sự được làm chủ.
Nội dung của Vi bằng: Trước hết cần hiểu rằng Thừa phát lại không lập vi
bằng với mọi sự việc trong đời sống xã hội mà trừ một số sự kiện mà pháp luật cấm



20

như: Ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự công cộng hay những sự kiện ảnh
hưởng nghiêm trọng tới đạo đức xã hội mà chủ yếu xác nhận một sự kiện như: Xác
nhận nơi ở, nơi làm viêc hoặc nơi kinh doanh; xác nhận một công trình có khiếm
khuyết hoặc bàn giao chậm; xác nhận việc vi phạm một cam kết, hợp đồng; xác
nhận tình trạng đình công; xác nhận việc chiếm giữ nhà....
Hình thức của Vi bằng: Vi bằng do Thừa phát lại lập phải theo một hình
thức nhất định, thống nhất, đảm bảo là nội dung khách quan, chính xác và có cam
kết của Thừa phát lại về nội dung đã lập vi bằng. Vi bằng phải thể hiện đầy đủ, cụ
thể ngày, giờ, địa điểm, người chứng kiến (nếu có); kết thúc phải có chữ ký của
những người tham gia và có thể có chữ ký của người có hành vi bị lập vi bằng; kèm
theo vi bằng có thể là video, ảnh.
Bốn là: Thừa phát lại tống đạt các giấy tờ của Tòa án và cơ quan Thi hành
án dân sự cho đương sự.
Việc tống đạt giấy tờ của Tòa án và cơ quan Thi hành án cho các bên đương
sự là hết sức quan trọng nhằm thông báo cho các bên liên quan biết về vụ án mà
Tòa án, Cơ quan Thi hành án đang giải quyết, thụ lý, điều tra, xét xử, những nghĩa
vụ mà họ phải thực hiện, những quyền mà họ được hưởng. Tống đạt kịp thời, đúng
người nhận sẽ giúp cho các bên chủ động trong việc thực hiện các quyền và nghĩa
vụ cuả mình như: Thực hiện nghĩa vụ thi hành án đúng thời hạn, chuẩn bị chứng cứ,
lý lẽ, nhờ người biện hộ...để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Chính vì vậy việc tống đạt là rất cần thiết phải tuân theo một thể thức nhất
định như phải giao tận tay người nhận, có ghi rõ thời gian và địa điểm tống đạt, có
chữ kí của người nhận; nếu không gặp được người nhận thì phải giao cho thân nhân
hoặc người đã thành niên ở cùng địa chỉ, nếu không được thì phải lập bên bản đã
phát hành giấy báo lần thứ mấy, làm các thủ tục niên yết công khai tại chính quyền
địa phương hoặc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng....

Thực tế cho thấy việc tống đạt giấy tờ của hai cơ quan trên làm mất rất nhiều
thời gian và công sức của các cán bộ khiến cho họ không thể tập trung vào công
việc chuyên môn chính, nên hiệu quả công việc không cao và việc tống đạt giấy tờ
không đảm bảo về mặt thời gian.
Thừa phát lại sẽ là cánh tay đắc lực làm giảm tải công việc này đồng thời
cũng nâng cao hiệu quả của việc tống đạt nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của các đương sự.


×