TiĨu ln T tëng
tëng Hå ChÝ Minh vỊ gi¶i phãng d©n téc
“Bác Hồ, Người là niềm tin thiết tha nhất, trong lòng dân
và trong trái tim nhân loại”.
Lời bài hát này từ bao nhiêu năm vẫn làm tất cả những con
dân chân chính của nước Việt phải xúc động. Khơng phải dân tộc
nào thời đại nào cũng may mắn có được một vị lãnh tụ mang tình
yêu bao la đến như thế tới mn nhà.
Hồ Chí Minh là người đã tạo ra và là hiện thân của quá
trình gặp gỡ lịch sử giữa một dân tộc là dân tộc VN, một thời đại
là thời đại quá độ trên toàn thế giới từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội, mở đầu bằng cách mạng tháng Mười Nga và được
soi sáng bởi chủ nghĩa Mác – Lê nin, làm nên một sự nghiệp là
sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, dân chủ nhân dân tiến
lên cánh mạng xã hội chủ nghĩa ở VN tiêu biểu cho sự vùng lên
của các dân tộc thuộc thế giới thứ ba, góp phần to lớn vào sự
nghiệp hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội
trên thế giới.
***
1
TiĨu ln T tëng
tëng Hå ChÝ Minh vỊ gi¶i phãng d©n téc
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho
thanh bạch, yêu nước ở một đất nước có nhiều dân tộc, sớm hình
thành quốc gia - dân tộc thống nhất. Trong quá trình dựng nước
và giữ nước hàng nghìn năm, dân tộc ta đã hình thành và phát
triển nền văn hoá dân tộc rực rỡ mà tiêu biểu là chủ nghĩa yêu
nước VN, ý chí đấu tranh bất khuất, tinh thần nhân ái khoan dung
và ý thức cộng đồng để làm chủ thiên nhiên làm chủ xã hội.
Chính nền văn hố ấy cùng với những ảnh hưởng tích cực của
văn hố phương Đơng đã hun đúc nên nhân cách Hồ Chí Minh và
góp phần to lớn vào sự hình thành và phát triển tư tưởng của
Người.
Giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, các
phong trào chống Pháp đã diễn ra sôi nổi, liên tục, người trước
ngã xuống người sau đứng đứng lên sẵn sàng “đúc gan sắt để rời
non lấp biển, xối máu rửa vết nhơ nô lệ” ( Phan Bội Châu ).
Điển hình là phong trào Cần Vương,… do các sỹ phu, văn thân
yêu nước lãnh đạo, nhưng tất cả đều bị thất bại. Đến đầu thế kỷ
XX cùng với những biến chuyển của nền kinh tế và xã hội là
những ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản từ Trung Quốc và
cuộc vận động Duy Tân ở Nhật Bản dội vào, phong trào cách
mạng ở VN lại bùng lên mạnh mẽ. Mặc dù vẫn do các sỹ phu,
văn thân yêu nước lãnh đạo nhưng do ảnh hưởng của hệ tư tưởng
2
TiĨu ln T tëng
tëng Hå ChÝ Minh vỊ gi¶i phãng d©n téc
tư sản nên các phong trào đấu tranh của dân tộc ta so với thời kỳ
trước đã có tiến bộ hơn, nhưng vẫn chưa kết hợp được việc giải
quyết hai mâu thuẫn của xã hội VN. Họ không hiểu rằng đấu
tranh để thực hiện dân chủ ở một nước thuộc địa, ở một nước
nông nghiệp lạc hậu như ở VN là làm cho người cày có ruộng,
cho nên họ chỉ chống đế quốc đến một mức độ nhất định chứ
chưa nhằm xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến, họ chưa nhận
thức rõ đối tượng của cách mạng VN là đế quốc và phong kiến
cho nên có người đã dựa vào đế quốc này để đánh đế quốc kia có
người lại dựa vào đế quốc để cách tân đất nước. Ngun nhân thì
có rất nhiều, nhưng suy cho cùng, nguyên nhân chủ yếu là chưa
có một đường lối lãnh đạo đúng. Yêu cầu bức thiết nhất của toàn
thể dân tộc VN là cứu nước và giải phóng dân tộc được đặt ra
một cách cấp bách.
Chứng kiến những thất bại đau đớn của các vị yêu nước tiền
bối, cảnh nhân dân sông lầm than cực khổ dưới ách thực dân tàn
bạo, người thanh niên ưu tú Nguyễn Tất Thành quyết trí ra đi tìm
đường cứu nước. Với hành trang ban dầu là lòng yêu nước nồng
nàn, thương dân sâu sắc, khát vọng độc lập, tự do. Rút kinh
nghiệm những thất bại của các sỹ phu yêu nước đương thời
Người không đi về phương Đông mà đi sang phương Tây – nơi
có khoa học kỹ thuật phát triển với một nhận thức đúng đắn là
3
TiĨu ln T tëng
tëng Hå ChÝ Minh vỊ gi¶i phãng d©n téc
muốn đánh đuổi kẻ thù thì phải biết rõ kẻ thù ấy. Điều này có có
tầm quan trọng to lớn để Nguyễn Aí Quốc đi đến với chủ nghĩa
Mác – Lê nin sau này.
Bước chân của Người đã đặt đến những trung tâm văn
minh nhất của thế giới thời đó và cũng đặt dến những nơi bần
cùng, khốn khổ nhất trên trái đất này. Nơi đầu tiên Người bước
chân đến là nước Pháp, một trung tâm văn minh của thế giới và
cũng là đất nước của kẻ thù đang thống trị dân tộc mình.
Suốt nhiều năm xơng pha, Người có mặt ở nhiều nước, tiếp
xúc với nhiều lớp người, thuộc nhiều dân tộc khác nhau. Khi đến
các nước tư bản phát triển ở châu Âu và bắc Mỹ, Người nhìn thấy
cảnh giai cấp cơng nhân bị áp bức, bóc lột thậm tệ, khi sang các
nước châu Á, châu Phi và Mỹ La Tinh, Người lại tận mắt thấy
nhiều dân tộc bị bị thực dân thống trị hết sức hà khắc, dã man.
Người thấy rõ được ý chí quật cường, bất khuất của các dân tộc
bị áp bức, tinh thần đấu tranh kiên cường của giai cấp công nhân,
những người cùng khổ ở khắp mọi nơi, kể cả nhân dân lao động
ở chính nước Pháp. Nhận ra kẻ thù chung, Người đi dến một kết
luận quan trọng: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có
hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột
…”. Từ lòng yêu nước, thương dân, đến sự phân biệt xã hội có “
hai giống người”, ở Nguyễn Quốc – Hồ Chí Minh có sự
4
TiĨu ln T tëng
tëng Hå ChÝ Minh vỊ gi¶i phãng d©n téc
chuyển biến sâu sắc, hình thành ý thức giai cấp rõ rệt khiến
Người đến một cách tự nhiên, như một tất yếu lịch sử, với chủ
nghĩa Mác – Lê nin, đỉnh cao trí tuệ của nhân loại , và được chủ
nghĩa Mác – Lê nin soi sáng.
Những năm hoạt động trong phong trào cộng sản, phong
trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc, Người đã đi đến
khẳng định: “ Muốn cứu nước giải phóng dân tộc khơng có con
đường nào khác con đường cách mạng vơ sản”.
Mùa xuân năm 1930, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản,
Hồ Chí Minh đã thành lập Đảng Cộng sản VN, Cương lĩnh chính
trị được Người soạn thảo. Đó là là “chủ trương làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng…”. Đường lối ấy gắn
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn chủ nghĩa yêu nước với
chủ nghĩa quốc tế chân chính, gắn cách mạng VN với trào lưu
cách mạng vô sản. Đường lối cách mạng VN cơ bản được hình
thành, con đường cứu nước giải phóng dân tộc đã được Hồ Chí
Minh vạch ra. Sự đúng đắn ngay từ đầu của Nguyễn Ái Quốc đã
được thực tế cách mạng khảo nghiệm, chứng minh và khẳng
định. Từ đó cách mạng VN đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác, mở ra thời đại mới, thời đại rực rỡ nhất trong tịch sử của
dân tộc VN, đó là thời đại Hồ Chí Minh.
5
TiĨu ln T tëng
tëng Hå ChÝ Minh vỊ gi¶i phãng d©n téc
Tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lê nin, nhận thức được xu thế
phát triển của thời đại, Người sớm chỉ ra rằng cách mạng giải
phóng dân tộc phải đi theo con đường của cách mạng vô sản và
cách mạng VN là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới
. Phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin vào điều kiện cụ thể
một nước thuộc địa Hồ Chí Minh đã đi đến một luận điểm mới:
cách mạng thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng ở chính
quốc mà có thể chủ động tự đứng lên “ đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta”.
Cách mạng ở thuộc địa , dù là nước nhỏ yếu , nhưng phải
do nhân dân làm lấy , do toàn dân đứng dậy đấu tranh, đời này
làm chưa xong thì đời sau làm, nhân dân giác ngộ đấu tranh thì
khơng vũ khí nào địch lại nổi.
Tự lực tự cường là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh.
Khơng trơng chờ, ỷ lại vào sự giúp đỡ của bên ngoài nhưng phải
chủ động đoàn kết với cách mạng và nhân dân tiến bộ thế giới,
trước hết là với cách mạng vơ sản chính quốc. Trong mối quan hệ
giữa yếu tố chủ quan và khách quan thì yếu tố chủ quan bao giờ
cũng giữ vai trò quyết định nhất. Cuộc đấu tranh của dân tộc ta
phải do dân tộc ta thực hiện là chính. Mặc dầu ta vẫn coi trọng
sự giúp đỡ của bên ngoài.
6
TiĨu ln T tëng
tëng Hå ChÝ Minh vỊ gi¶i phãng d©n téc
Cách mạng VN và cách mạng vơ sản chính quốc có quan hệ
khăng khít với nhau, tác động với nhau nhưng cách mạng thuộc
địa có thể thắng lợi trước, không chờ đợi không lệ thuộc vào cách
mạng vô sản chính quốc, tư tưởng này đã có từ rất sớm ở Hồ Chí
Minh.
Đầu năm 1941, nhận thấy tình hình thế giới có nhiều thuận
lợi, Người về nước cùng với trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo
cách mạng VN, tại Hội nghị trung ương 8, Người đã quyết định
chuyển hướng chiến lược cách mạng VN, đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên trên hết và trước hết. Trên cơ sở phân tích
đúng đắn mâu thuẫn chủ yếu nhất của xã hội nước ta lúc bấy giờ
là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc. Với khẳng định “trong lúc
này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng khơng
địi được độc lập, tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những
tồn thể quốc gia dân tộc cịn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền
lợi bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng khơng địi lại được” (Hội nghị trung ương 8 tháng 5/1941). Cách mạng giải phóng dân
tộc ở thuộc địa phải xoá bỏ ách thống trị của đế quốc phong kiến,
thưc hiện độc lập dân tộc dân chủ cho nhân dân. Ơ thuộc địa kẻ
thù nguy hiểm nhất là chủ nghĩa đế quốc nên nhiệm vụ chống đế
quốc để giải phóng dân tộc phải đặt lên hàng đầu. Nếu khơng
giành được độc lập cho dân tộc thì quyền lợi các giai cấp, các bộ
7
TiĨu ln T tëng
tëng Hå ChÝ Minh vỊ gi¶i phãng d©n téc
phận nhân dân cũng khơng thể thực hiện được. Do lực lượng
cách mạng có hạn nên nhiệm vụ chống phong kiến để giải quyết
ruộng đất cho nông dân phải thực hiện từng bước và phục vụ cho
nhiệm vụ chống đế quốc. Đó là quy luật chống đế quốc, phong
kiến của cách mạng VN, khác với cách mạng ở các nước tư bản
phát triển và cũng khác với chống đế quốc phong kiến ở các nước
thuộc địa khác.
Cách mạng giải phóng dân tộc là sự ngiệp của tồn dân do
giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng đó là nguyên lý
phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lê nin.
Vận dụng ngun lý đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ : Cách mạng là việc
chung của cả dân chúng chứ không phải riêng của một người nào.
Tuy nhiên để vận dụng ngun lý đó vào hồn cảnh từng lúc,
từng nơi thì khơng phải dễ dàng.
Trong điều kiện VN Hồ Chí Minh đã làm như thế nào.
Khác với các nước, VN là nước thuộc địa nửa phong kiến. Trong
xã hội đó tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuần dân tộc và
mâu thuẫn dân chủ, trong đó mâu thuẫn dân tộc là chủ yếu.
Với tính chất mâu thuẫn trên, Hồ Chí Minh đã xác định kẻ
thù chung của nhân dân VN là đế quốc xâm lược và bè lũ tay sai
của chúng. Cách mạng VN phải đánh đổ đế quốc xâm lược và bè
lũ tay sai, giành độc lập tụ do cho dân tộc.
8
TiĨu ln T tëng
tëng Hå ChÝ Minh vỊ gi¶i phãng d©n téc
Để thực hiện nhiệm vụ trên chúng ta cần phải phát huy
truyền thống yêu nước của dân tộc. Truyền thống yêu nước được
hun đúc từ hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Đặc biệt mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì truyền thống ấy càng
được phát huy cao độ.
Để phát huy truyền thống yêu nước của tồn dân tộc chúng
ta khơng chỉ tập hợp được công nhân, nông dân là lực lượng cơ
bản của cách mạng mà cịn phải dồn kết các lực lượng dân chủ
khác.
Có thể nói Hồ Chí Minh là người đầu tiên có quan điểm
đúng đắn sáng tạo về quần chúng cách mạng ở VN. Nhờ đó cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc đã tập hợp được lực lượng quần
chúng đông đảo nhất trong xã hội, nhiều tầng lớp phú nông, trung
nông, địa chủ, tư sản dân tộc đã tham gia cách mạng tích cực ủng
hộ kháng chiến, thậm chí đã trở thành người cách mạng, họ đã trở
thành lực lượng đồng minh của giai cấp cơng nhân VN.
Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao sức mạnh của động lực dân
tộc, chủ trương phải đoàn kết mọi lực lượng dân tộc. Trong tư
tưởng của Người dân tộc được xác định trên lập trường tư tưởng
của giai cấp công nhân, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng. Đó là “chủ nghĩa dân tộc hướng tới
chủ nghĩa cộng sản”.
9
TiĨu ln T tëng
tëng Hå ChÝ Minh vỊ gi¶i phãng d©n téc
Với ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc khơng chỉ đem lại độc lập, tự do cho tổ
quốc, mà từng bước phải đem lại tự do hạnh phúc cho tồn dân.
Vì vậy đã động viên và phát huy cao độ sức mạnh của động lực
dân tộc và giai cấp, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của nhân
dân lao động và phong trào công nhân quốc tế, phong trào giải
phóng dân tộc và cả lồi ngừơi tiến bộ để đánh thắng các kẻ thù
mạnh hơn mình gấp bội. Đó cũng là cơ sơ của tư tưởng Hồ Chí
Minh về cách mạng phải dựa vào sức mạnh của toàn dân “ có dân
là có tất cả”. Điều này đã được thực tế chứng minh qua hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Với
khẩu hiệu toàn dân kháng chiến, “mỗi người dân là một chiến sĩ,
mỗi làng xã là một pháo đài”, toàn dân, toàn quân ta đã làm một
cuộc trường chinh trường kỳ chín năm chống thực dân Pháp.
Xuất phát từ truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta,
xuất phát từ mục đích của cuộc cách mạng và từ quan điểm
“cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” của chủ nghĩa Mác –
Lê nin và tưởng chiến tranh nhân dân toàn dân đánh giặc của chủ
tịch Hồ Chí Minh.
Lực lượng quyết định của cách mạng là đại đoàn kết toàn
dân, trên cơ sở khối liên minh vững mạnh của công nhân, nơng
dân và trí thức, sức mạnh đó được sử dụng để thực hiện bạo lực
10
TiĨu ln T tëng
tëng Hå ChÝ Minh vỊ gi¶i phãng d©n téc
cách mạng để dành chính quyền, để thực hiện chiến tranh nhân
dân đánh đuổi xâm lược. Vận dụng lý luận chung và từ kinh
nghiệm của lịch sử dân tộc, của bản thân, Hồ Chí Minh khơng
chút ảo tưởng về lòng nhân từ của bọn áp bức và xâm lược. Theo
Người “Độc lập tự do không thể cầu xin mà có đựơc, chủ nghĩa
thực dân tự bản thân nó đã là một hành động bạo lực của kẻ
mạnh đối với kẻ yếu…”, cho nên để chiến thắng thực dân dành
độc lập - tự do cho dân tộc, chúng ta không có con đường nào
khác là phải sử dụng đến bạo lực cách mạng của quần chúng. Hồ
Chí Minh khẳng định “trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ
thù của của giai cấp và dân tộc cần dùng bạo lực cách mạng
chống lại bạo lực phản cách mạng giành lấy chính quyền và bảo
vệ chính quyền”. Đó là quan điểm cơ bản mà Người luôn nắm
vững trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Để quán triệt quan
điểm này trong Đảng, ngay từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên được
thơng qua, Người đã đề ra nhiệm vụ cho cách mạng VN là: đánh
đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp, bọn phong kiến, thành lập chính
quyền cơng nơng binh. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành
công đã được chuẩn bị qua ba cao trào. Đặc biệt trong cao trào
cách mạng 1939 - 1945 có sự chỉ đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh,
Người chỉ rõ “cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng cuộc
khởi nghĩa vũ trang”. Từ năm 1954 nước ta bị chia làm hai miền,
11
TiĨu ln T tëng
tëng Hå ChÝ Minh vỊ gi¶i phãng d©n téc
đế quốc Mỹ đã cố tình vi phạm hiệp định Giơnevơ, biến miền
Nam thành thuộc địa kiểu mới mặc dù lúc này so sánh lực lượng
đang có lợi thế về phía kể thù, thế giới lại đang trong xu thế hồ
hỗn, sợ chiến tranh, nhưng qn triệt tư tưởng bạo lực cách
mạng của Hồ Chí Minh, Đảng ta vẫn chủ trương dùng bạo lực
cách mạng để giải phóng miền Nam, khẳng định quyết tâm đánh
thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng hoàn toàn
khác với tư tưởng hiếu chiến của bọn đế quốc xâm lược đối với
Hồ Chí Minh, bạo lực cách mạng là phương thức dấu tranh để
giành và giữ dộc lập dân tộc, để nhân dân có thể sống hồ bình
trong hạnh phúc, tự do. Cịn chiến tranh chỉ là điều bất đắc dĩ.
Xuất phát từ lòng yêu nước thương dân, quý trọng sinh
mệnh của con người, Hồ Chí Minh bao giờ cũng tranh thủ những
phương thức ít đổ máu nhất để giành và giữ chính quyền. Khi đối
thủ gây chiến, Người tìm mọi cách ngăn chặn hoặc đẩy lủi chiến
tranh, khi khơng cịn con đường nào khác thì phải dùng chiến
tranh chính nghĩa để chống chiến tranh phi nghĩa. Tuy nhiên Hồ
Chí Minh cũng khơng bỏ lỡ cơ hội đàm phán hồ bình để sớm kết
thúc chiến tranh trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta.
12
TiĨu ln T tëng
tëng Hå ChÝ Minh vỊ gi¶i phãng d©n téc
Trong cách mạng tháng Tám 1945 nhờ nắm vững và vận
dụng sáng tạo quan điểm bạo lực cách mạng, nắm vững thời cơ,
Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân kịp thời nổi dậy
trên cả nước, với hình thức tổng khởi nghĩa vũ trang và đã giành
được chính quyền với tổn thất ít nhất.
Tuy nhiên thực dân Pháp đã trở lại hòng cướp nước ta một
lần nữa. Dưới sự dẫn dắt của chủ Hồ Chí Minh, chúng ta đã nhiều
lần hồ hỗn, nhân nhượng với Pháp để có hồ bình, từ Hiệp định
sơ bộ 6 - 3 - 1946 đến Tạm ước 14 - 6 - 1946, nhưng Pháp vẫn cố
tình cướp nước ta.
Khi thực dân Pháp bộc lộ trắng trợn dã tâm xâm lựợc, gửi
tối hậu thư buộc ta phải đầu hàng. Chúng ta không còn con
đường nào khác là phải chiến đấu. Ngày 19 - 12 - 1946 Hồ Chí
Minh ra lời kêu gọi : “Chúng ta muốn hồ bình, chúng ta phải
nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân
Pháp càng lấn tới, vì chúng chúng quyết tâm cướp nước ta một
lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Mặc dù chiến tranh đã xảy ra, Người vẫn tìm mọi cách cứu
vãn hồ bình, Người đề nghị: chính phủ Pháp và nhân dân Pháp
chỉ cần có một cử chỉ công nhận độc lập và thống nhất của nước
13
TiĨu ln T tëng
tëng Hå ChÝ Minh vỊ gi¶i phãng d©n téc
VN là chấm dứt được tai biến này. Hồ binh và trật tự sẽ trở lại
ngay tức khắc.
Cũng với quan điểm đó, trong cuộc cách mạng ở miền Nam
thời kỳ 1954 - 1975, một mặt Hồ Chí Minh ln kiên trì địi đối
phương nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Giơnevơ, thực hiện
tổng tuyển cử thống nhất đất nước, mặt khác khi Mỹ cố tình xâm
lược thì phải quyết chiến đấu “đánh cho Mỹ cút đánh cho Ngụy
nhào”. Trong khi đánh Mỹ, Người cũng không quên mở cho Mỹ
một lối thốt, sẵn sàng đàm phát để Mỹ có thể rút qn bất cứ lúc
nào, nhằm lập lại hồ bình, thống nhất Tổ quốc.
Những hoạt động thực tiễn trên đây của Hồ Chí Minh thể
hiện quan điểm bạo lực cách mạng của Người rất kiên định và
đúng đắn, luôn thống nhất giữa tư tưởng bạo lực và tư tửơng
nhân văn, nhân đạo và hồ bình.
***
Có những vĩ nhân mà người đời phải ở xa mới thấy hết tầm
vĩ đại nhưng cũng có những vĩ nhân mà ta càng ở gần thì ta lại
14
TiĨu ln T tëng
tëng Hå ChÝ Minh vỊ gi¶i phãng d©n téc
càng thêm phần u kính. Bác Hồ là một vĩ nhân. Càng ở xa Bác
người ta càng thấm thía hơn sự vĩ đại của Bác trong những nỗ lực
hoạt động cách mạng dành cho dân tộc, cho nhân loại. Càng ở
gần Bác ta càng yêu quý và cảm phục Bác hơn. Những bài học tư
tưởng mà Bác đã dạy cho chúng ta được truyền tụng từ thế hệ
này sang thế hệ khác và đấy cũng chính là niềm tin là điều kiện
để chúng ta, những người trẻ tuổi, những con dân của đất Việt
luôn phấn đấu noi theo để xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
15