Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Chức năng giám sát của hội đồng nhân dân tỉnh ninh bình trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.57 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TÔ THỊ HỒNG VÂN

CHỨC NĂNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH NINH BÌNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN MINH ĐOAN

HÀ NỘI - 2011


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới
sự hướng dẫn của PGS. TS. Nguyễn Minh Đoan.
Hà Nội, ngày 21 tháng 1 năm 2011
Tác giả luận văn

Tô Thị Hồng Vân


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………

1

Chương I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG GIÁM SÁT CỦA
HĐND TỈNH …………………………………………………………
5
1.1. HĐND tỉnh trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước Việt
Nam…………………………………………………………………...
5
1.1.1. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của HĐND tỉnh ở Việt
Nam qua các thời kỳ……………………………………
5
1.1.2. Chức năng của HĐND tỉnh………………………………

9

1.2. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa chức năng giám sát của Hội đồng
nhân dân tỉnh……………………………………………….
10
1.2.1. Khái niệm chức năng giám sát của HĐND tỉnh…………

10

1.2.2. Đặc điểm chức năng giám sát của HĐND tỉnh……………

15

1.2.3. Mục đích, ý nghĩa việc thực hiện chức năng giám sát của HĐND tỉnh

……………………………………………………………………………. 21
1.3. Hậu quả pháp lý từ hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
tỉnh……………………………………………………………………
23
Chương II. THỰC TRẠNG CHỨC NĂNG GIÁM SÁT CỦA HĐND TỈNH
NINH BÌNH………………………………………………………
25
2.1. Thực trạng hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Ninh Bình tại các kỳ
họp…………………………………………………………………
26
2.2. Thực trạng hoạt động giám sát của Thường trực HĐND tỉnh Ninh
Bình………………………………………………………………
32
2.3. Thực trạng hoạt động giám sát của các ban của HĐND tỉnh Ninh
Bình……………………………………………………………………
37
2.4. Thực trạng hoạt động giám sát của đại biểu HĐND tỉnh Ninh
Bình…………………………………………………………………
44


2.5. Thực trạng hoạt động đôn đốc, theo dõi giải quyết kiến nghị sau công tác giám
sát………………………………………………………………
46
2.6. Nhận xét chung về nhũng nguyên nhân tồn tại, hạn chế trong hoạt động giám
sát của HĐND tỉnh Ninh Bình……………………………
47
Chương III. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HĐND TỈNH NINH BÌNH TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY……………………………………………………………

52
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Ninh Bình
trong giai đoạn hiện nay…………………………………
52
3.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Ninh
Bình…………………………………
54
3.2.1. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
HĐND…………………………………………………………....
54
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý về hoạt động giám sát của HĐND
cấp tỉnh…………………………………………
55
3.2.3. Nâng cao năng lực các chủ thể thực hiện chức năng giám sát của
HĐND tỉnh Ninh Bình……………………………………
57
3.2.4. Nâng cao chất lượng thực hiện các hình thức giám sát của HĐND tỉnh
Ninh Bình……………………………………………
61
3.3.5. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giám sát giữa các cấp, các ngành
và các đoàn thể…………………………………
65
3.3.6. Tạo các điều kiện thuận lợi cho HĐND trong hoạt động giám
sát………………………………………………………
67
KẾT LUẬN……………………………………………………………
TÀI LIỆU THAM KHẢO

69



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BMNN:

Bộ máy nhà nước

HĐND:

Hội đồng nhân dân

TAND:

Tòa án nhân dân

UBND:

Ủy ban nhân dân

VBQPPL: Văn bản quy phạm pháp luật
VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Bộ máy nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước
thống nhất có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước mỗi
cơ quan nhà nước đều có sự liên hệ với các cơ quan khác, chịu sự giám sát của các
cơ quan khác, của các tổ chức xã hội, của công dân. Trong cơ chế thực hiện quyền
lực nhà nước ở Việt Nam thì Hội đồng nhân dân (HĐND) “là cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của
nhân dân, do nhân dân dịa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa
phương và cơ quan nhà nước cấp trên”. HĐND có quyền quyết định các vấn đề
quan trọng ở địa phương đồng thời thực hiện chức năng giám sát việc tuân theo
pháp luật đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân.
Thực tiễn những năm gần đây cho thấy hoạt động giám sát của HĐND ngày
càng hiệu quả hơn, các hình thức, phương pháp và nội dung giám sát phong phú
hơn đã từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước ở địa
phương, góp phần vào việc thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế, xã hội, đảm
bảo quyền làm chủ của nhân dân. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì hoạt
động giám sát của HĐND cấp tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế, chưa phát huy hết vai
trò của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương dẫn đến Hiến pháp, pháp luật ở
một số nơi vẫn chưa được thực hiện nghiêm minh, kỷ cương hành chính chưa được
củng cố vững chắc, các hiện tượng tham nhũng, tiêu cực trong các cơ quan nhà
nước vẫn chưa được đẩy lùi, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân và hoạt động
của bộ máy nhà nước (BMNN) ở địa phương. Trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân, việc tìm hiểu và


2

làm rõ chức năng giám sát của HĐND tỉnh để thấy được những đóng góp to lớn
của HĐND tỉnh trong việc thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân qua hoạt

động giám sát và cả những bất cập trong hoạt động giám sát của HĐND tỉnh là
thực sự cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Vì những lý do này, đề tài: “Chức
năng giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay” đã
được lựa chọn làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học với mong muốn đóng
góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện lý luận và nâng cao hiệu quả hoạt động
giám sát thực tiễn của HĐND tỉnh Ninh Bình nói riêng và của HĐND cấp tỉnh nói
chung trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh đã là đối tượng nghiên cứu
của nhiều công trình khoa học khác nhau. Chẳng hạn như: Luận văn thạc sĩ Luật
học “Nâng cao hiệu lực giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong điều kiện
đổi mới ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Vũ Mạnh Thông năm 1998; Bài viết
“Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân các cấp” của tác giả Nguyễn Quốc Tuấn đăng trên Tạp chí Tổ chức nhà
nước, số 6/2002; Luận văn thạc sỹ “Nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng
nhân dân tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Hồ Thị Hưng năm
2006; Sách “Quyền giám sát của Hội đồng nhân dân và kỹ năng giám sát cơ bản”
của Tiến sỹ Phạm Ngọc Kỳ, nhà xuất bản Tư pháp, 2007. Ngoài ra còn có một số
bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành, các báo cáo tại các cuộc hội thảo về
hoạt động giám sát của HĐND...
Tuy nhiên, giám sát chỉ là đối tượng nghiên cứu trong phạm vi tổng thể chứ
chưa có những công trình nghiên cứu chuyên biệt về chức năng giám của HĐND
tỉnh. Có thể nói, ở nước ta chưa có công trình nghiên cứu quy mô, đầy đủ về chức
năng giám sát của HĐND tỉnh. Vì vậy, chức năng giám sát của HĐND tỉnh vẫn
cần được tiếp tục nghiên cứu làm rõ về cả lý luận và thực tiễn.


3

3. Phạm vi nghiên cứu đề tài

Chức năng giám sát của HĐND tỉnh là một vấn đề phức tạp nên nội dung
luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về chức năng và
việc thực hiện chức năng giám sát của HĐND tỉnh. Thực tiễn thực hiện chức năng
giám sát của HĐND tỉnh Ninh Bình từ năm 2004 tới nay, trên cơ sở đó để đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh Ninh Bình nói
riêng và của HĐND tỉnh nói chung.
4. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
- Mục đích nghiên cứu của đề tài: làm rõ chức năng và việc thực hiện chức
năng giám sát của HĐND tỉnh, thực tế thực hiện chức năng này của HĐND tỉnh
Ninh Bình.
- Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
+ Tìm hiểu và làm sáng tỏ các vấn đề lý luận chung để thực hiện chức năng
giám sát của HĐND tỉnh: khái niệm và vai trò của giám sát, chủ thể, nội dung mục
đích và các hình thức thực hiện hoạt động giám sát của HĐND tỉnh.
+ Phân tích, đánh giá khái quát hoạt động giám của HĐND tỉnh Ninh Bình
trong nhiệm kỳ 2004-2011 thông qua các hình thức giám sát cụ thể của HĐND
tỉnh tại kỳ họp, của Thường trực HĐND tỉnh, các Ban của HĐND tỉnh và các đại
biểu HĐND tỉnh; những kết quả đã đạt được; những bất cập trong hoạt động giám
sát của HĐND tỉnh hiện nay cần đổi mới và hoàn thiện.
+ Đề xuất phương hướng và giải pháp để không ngừng nâng cao hiệu quả
hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Ninh Bình nói riêng và của HĐND tỉnh nói
chung.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nhà nước xã


4

hội chủ nghĩa, về tổ chức và hoạt động của HĐND và chức năng giám sát của
HĐND.

- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng nghiên cứu đề tài của
luận văn gồm: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống
kê, phương pháp so sánh...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Đưa ra khái niệm, vai trò chức năng giám sát của HĐND tỉnh.
- Phân tích chủ thể, nội dung, hình thức, mục đích thực hiện hoạt động giám
sát của HĐND tỉnh.
- Đánh giá một cách hệ thống và toàn diện thực trạng hoạt động giám sát và
hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh Ninh Bình
- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của
HĐND nói chung và của HĐND tỉnh Ninh Bình nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu thành 3 chương với 11 mục.


5

Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH
1.1. HĐND TỈNH TRONG CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM
1.1.1. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của HĐND tỉnh ở
Việt Nam qua các thời kỳ
Xét về lịch sử hình thành chính quyền địa phương ở Việt Nam, chỉ 2 tháng
sau khi cách mạng tháng tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký
Sắc lệnh số 63 ngày 22 tháng 11 năm 1945, Điều thứ nhất Sắc lệnh nói rõ: “Để
thực hiện chính quyền nhân dân địa phương trong nước Việt Nam, sẽ đặt hai thứ
cơ quan: Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính. Hội đồng nhân dân do dân

bầu ra theo lối phổ thông và trực tiếp đầu phiếu là cơ quan thay mặt cho dân”.
Sắc lệnh cũng xác định sự hình thành của HĐND tỉnh, mối quan hệ giữa Uỷ ban
hành chính và HĐND, giữa HĐND tỉnh và chính quyền cấp trên. Uỷ ban hành
chính tỉnh do HĐND tỉnh bầu ra, HĐND có quyền bỏ phiếu tín nhiệm Uỷ ban hành
chính, quyết nghị của HĐND hàng tỉnh không được trái với chỉ thị của các cấp
trên, [19, Điều thứ 48, 80, 84, 90]. Như vậy, ngay từ văn bản đầu tiên, vị trí và vai
trò của HĐND tỉnh đã được xác nhận, theo đó, HĐND tỉnh là cơ quan do cử tri bầu
ra, nằm trong hệ thống BMNN thống nhất, chịu sự chỉ đạo của Uỷ ban hành chính
cấp trên (cấp kỳ) và HĐND tỉnh bầu ra cơ quan hành chính ở địa phương là Uỷ
ban hành chính tỉnh. Tư tưởng này xuyên suốt các quy định của pháp luật về tổ
chức HĐND và Ủy ban nhân dân (UBND) sau này. Sắc lệnh 63 là văn bản đầu tiên
của nhà nước cách mạng công nông để thành lập chính quyền ở địa phương, đặt
nền móng cho việc thành lập chính quyền địa phương ở nước ta.


6

Tiếp sau Sắc lệnh 63 năm 1945, Hiến pháp 1946 đã có một chương riêng
(chương VI gồm 6 điều, từ Điều 57 đến Điều 62) quy định rất rõ về việc thành lập
HĐND và Uỷ ban hành chính (UBND), trong đó, quy định HĐND được thành lập
ở cấp tỉnh và cấp xã. Sau 12 năm, đến ngày 31 tháng 5 năm 1958, Quốc hội thông
qua Luật tổ chức chính quyền địa phương gồm 5 chương, 43 điều. Luật tổ chức
chính quyền địa phương 1958 đã khẳng định HĐND là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương do nhân dân bầu ra. Như vậy, ở Việt Nam, bắt đầu từ 1958,
HĐND được xác định là cơ quan quyền lực của nhà nước ở địa phương.
Trong thời gian từ 1946 đến 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký một số sắc
lệnh như sắc lệnh 254, 255 ngày 19-11-1948 để chỉ ra cách tổ chức chính quyền
trong các vùng kháng chiến và trong các vùng tranh chấp. Trong đó, đối với những
vùng bị địch tạm kiểm soát hay uy hiếp chưa có HĐND, thì có thể chỉ định ra một
HĐND lâm thời (Điều 3, Sắc lệnh 255). Như vậy, dù trong thời kỳ chiến tranh,

việc bầu cử HĐND rất khó khăn nhưng về mặt tổ chức chính quyền vẫn phải tuân
thủ nguyên tắc ở bất cứ nơi nào có dân, có chính quyền thì phải có HĐND.
Hiến pháp 1959 có một chương với 19 điều quy định về cách thức tổ chức
của HĐND, chế độ hoạt động cũng như các mối quan hệ của HĐND. Hiến pháp
1959 cũng như Luật tổ chức HĐND và Uỷ ban hành chính năm 1962 đều quy định
vị trí của HĐND tỉnh vẫn được giữ nguyên, hầu như không có thay đổi so với Luật
tổ chức chính quyền địa phương năm 1958.
Hiến pháp 1980 đã hoàn thiện quy định về tổ chức HĐND và UBND lên
một bước rõ rệt. Sau đó, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức HĐND và UBND
năm 1983 gồm 9 chương, 71 điều. Cũng như trước đây, HĐND chỉ hoạt động chủ
yếu thông qua kỳ họp, cơ quan chịu trách nhiệm chung giữa hai kỳ họp HĐND là
UBND và kỳ họp HĐND do UBND triệu tập. Như vậy, vai trò của HĐND là
tương đối mờ nhạt, việc quy định quyền hạn phần nhiều mang tính hình thức.


7

Trong khi đang thực hiện Hiến pháp 1980 và Luật tổ chức HĐND và UBND
năm 1983, Đảng có chủ trương đổi mới, trong đó có việc sửa đổi về tổ chức
BMNN ở địa phương, dẫn đến việc ban hành Luật tổ chức HĐND và UBND năm
1989. Sự xuất hiện của Thường trực HĐND ở cấp tỉnh là bước ngoặt rất quan
trọng trong hoạt động của HĐND tỉnh, thúc đẩy hoạt động của HĐND đến một
bước mới, tạo cho hoạt động của HĐND linh hoạt hơn so với trước kia. HĐND
tỉnh đã ngày càng có vai trò và vị trí trong hệ thống cơ quan nhà nước, giảm bớt
tính hình thức thông qua hoạt động thường xuyên.
Hiến pháp 1992, tại Điều 119, một lần nữa khẳng định “Hội đồng nhân dân
là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm
trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên”. Năm 1994, khi sửa
đổi Luật tổ chức HĐND và UBND thì Thường trực HĐND tỉnh vẫn giữ nguyên

nhưng về tổ chức thì không còn chức danh Uỷ viên Thư ký mà gồm Chủ tịch và
Phó Chủ tịch HĐND, số Phó Chủ tịch do Chính phủ trình Uỷ ban thường vụ Quốc
hội quyết định. Năm 2003, Luật tổ chức HĐND và UBND được ban hành thay thế
luật năm 1994, vị trí và vai trò của HĐND tỉnh nói riêng và HĐND nói chung vẫn
được giữ nguyên nhưng có bước phát triển mới với nhiều quy định cụ thể về nhiệm
vụ và quyền hạn của HĐND, nhằm làm cho hoạt động của HĐND thực quyền hơn.
Như vậy, HĐND nói chung và HĐND tỉnh nói riêng dần dần từ những bước sơ khai
ban đầu đã được xác định rõ ràng vai trò, vị trí trong Hiến pháp và trong Luật tổ
chức HĐND và UBND. Trong đó, HĐND tỉnh luôn được đề cao và có vị trí, vai trò
to lớn trong bộ máy chính quyền địa phương, đã có thời kỳ cấp kỳ, cấp khu tự trị và
cấp huyện không có cơ quan dân cử nhưng từ khi thành lập nước đến nay, chưa thời
điểm nào không có HĐND tỉnh.
Cấp tỉnh là cấp trung gian giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương, nếu phân cấp giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương thì
cấp tỉnh là cấp đầu tiên của chính quyền địa phương. Nếu cấp trung ương là cấp đề


8

ra chính sách thì cấp địa phương là cấp thực hiện chính sách và cấp tỉnh là cấp
quan trọng chuyển tải chính sách từ trung ương xuống tới người dân và quyết định
những vấn đề quan trọng ở địa phương. Xét dưới góc độ tự chủ, quyền tự quản của
nhân dân, thì cấp tỉnh là cấp có quyền tự chủ tương đối cao so với cấp huyện và
cấp xã, quyền quyết định lớn, có tác động tới hoạt động của bộ máy nhà nước nói
chung. Chính vì vậy, HĐND tỉnh càng khẳng định vị trí quan trọng trong hệ thống
bộ máy nhà nước.
HĐND tỉnh là cơ quan đại diện cho nhân dân, do nhân dân cử ra, quyết định
những vấn đề quan trọng ở địa phương, một cấp ngay dưới cấp trung ương. Vì vậy,
HĐND tỉnh có vị trí, vai trò to lớn trong bộ máy chính quyền địa phương, quyết
sách những vấn đề trực tiếp ở địa phương, giải quyết những khó khăn vướng mắc

của nhân dân và quyết định đường hướng phát triển cho kinh tế – xã hội ở địa
phương mình.
HĐND có vai trò là cầu nối giữa cơ quan nhà nước cấp trên với nhân dân địa
phương, đồng thời có tính hai mặt: vừa đại diện cho nhân dân địa phương, vừa đại
diện cho quyền lực nhà nước ở cấp trên. Tổ chức quyền lực ở Việt Nam theo mô
hình phân công, phân nhiệm trong cùng cấp và thống nhất quyền lực từ trung ương
xuống địa phương. HĐND tỉnh nằm trong mối quan hệ đó, HĐND tỉnh có quyền
quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương nhưng phải tuân thủ quy định
của Quốc hội, Chính phủ theo hệ thống dọc. Xét theo chiều ngang, HĐND bầu ra
cơ quan chấp hành là UBND, và gần như có sự “phân công” nhiệm vụ giữa HĐND
và UBND, HĐND quyết định vấn đề quan trọng và UBND chịu trách nhiệm thi
hành. Khi đã có sự phân công rồi thì tất yếu phải có theo dõi, kiểm tra, giám sát để
bảo đảm cho các cơ quan hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ và hoàn thành tốt
công việc. HĐND tỉnh cũng giám sát một phần hoạt động của HĐND huyện bởi có
sự phân cấp, phân quyền giữa cấp tỉnh và cấp huyện.


9

Có thể thấy rằng về cơ bản, sự phát triển của HĐND tỉnh, vị trí và vai trò
của nó trong bộ máy nhà nước ở Việt Nam qua các thời kỳ hầu như không có sự
thay đổi, cụ thể như sau:
- HĐND tỉnh do cử tri trong tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bầu ra, là
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
- HĐND tỉnh chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước ở trung ương, chịu
sự giám sát và hướng dẫn hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, chịu sự
hướng dẫn và kiểm tra của chính phủ trong việc thực hiện các văn bản của cơ quan
nhà nước ở trung ương.
- HĐND tỉnh bầu ra UBND tỉnh là cơ quan chấp hành của HĐND tỉnh, cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương.

1.1.2. Chức năng của HĐND tỉnh
Chức năng của HĐND tỉnh là phương diện hoạt động chủ yếu của HĐND
tỉnh nhằm thực hiện vai trò, nhiệm vụ của HĐND. Xuất phát từ vị trí, vai trò của
HĐND tỉnh, HĐND tỉnh có 2 chức năng chính là: quyết định và giám sát. Hai chức
năng này có quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau. HĐND quyết định các vấn đề
quan trọng và giám sát việc thực hiện các quyết định đó, thông qua hoạt động giám
sát, phát hiện vấn đề cần sửa đổi, HĐND ban hành nghị quyết quyết định các vấn
đề quan trọng ở địa phương.
- Chức năng quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương: HĐND tỉnh
quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa
phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế, xã hội củng cố quốc phòng,
an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa
phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước. Nội dung chức năng
quyết định của HĐND tỉnh rất rộng, bao gồm tất cả các mặt của đời sống kinh tếxã hội, văn hoá, khoa học, quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh. Điều này khẳng
định rõ hơn vị trí, vai trò và tầm quan trọng của HĐND tỉnh trong chính quyền địa


10

phương. Mặt khác, đây cũng là những căn cứ pháp lý để tạo ra môi trường thuận
lợi cho chính quyền địa phương khai thác hết mọi tiềm năng, nội lực sẵn có của
mình, nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân địa phương, làm
tròn nghĩa vụ đối với cử tri và cấp trên giao cho. HĐND có thẩm quyền rất lớn
quyết định đối với sự phát triển toàn diện của địa phương.
- Chức năng giám sát: HĐND tỉnh thực hiện quyền giám sát đối với hoạt
động của thường trực HĐND, UBND, Tòa án nhân dân (TAND), Viện kiểm sát
nhân dân (VKSND) tỉnh; giám sát việc thực hiện nghị quyết của HĐND tỉnh; giám
sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân trên địa bàn tỉnh. Chức năng giám sát
của HĐND tỉnh bao giờ cũng gắn liền với chức năng quyết định những vấn đề cơ

bản về kinh tế, xã hội của HĐND tỉnh. Thực hiện tốt chức năng này cho phép
HĐND kiểm tra, đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc tuân thủ
Hiến pháp, pháp luật, các nghị quyết của HĐND tỉnh mà còn giúp HĐND phát
hiện được sự không phù hợp, thiếu thực tế của các nghị quyết do HĐND ban hành
để sửa đổi, bổ sung.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CHỨC NĂNG
GIÁM SÁT CỦA HĐND TỈNH
1.2.1. Khái niệm chức năng giám sát của HĐND tỉnh
Theo từ điển Tiếng việt: “Giám sát” được hiểu là “sự theo dõi, xem xét làm
đúng hoặc sai những điều đã quy định” [40, tr.305] hoặc “là chức quan thời xưa
trông nom, coi sóc một loại công việc nhất định” [47, tr.389]. Theo từ điển Luật
học: “Giám sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động, thường
xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng
hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế, nhằm đạt được
mục đích hiệu quả đã xác định từ trước, đảm bảo cho pháp luật được tuân theo
nghiêm chỉnh” [41, tr.174]. Theo từ điển Hán – Việt của Đào Duy Anh thì “Giám


11

sát là xem xét và đàn hạch”; Từ điển tiếng Nga “Giám sát được hiểu là một nhóm
hoặc một tổ chức để theo dõi người, việc nào cụ thể”. Theo Luật Hoạt động giám
sát của Quốc hội, khái niệm “giám sát” được giải thích “giám sát là việc Quốc hội,
Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội theo dõi,
xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong
việc thi hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
Uỷ ban thường vụ quốc hội”. [28, tr.1]. Mặc dù cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa
của từ “giám sát” có khác nhau nhưng đều đề cập tới nội dung cơ bản:
Thứ nhất: Giám sát là việc theo dõi, kiểm tra, xem xét một chủ thể nào đó về
một việc làm đã thực hiện đúng hoặc chưa thực hiện đúng những điều đã quy định

để từ đó có biện pháp điều chỉnh hoặc xử lý đối với những việc làm sai, nhằm đạt
được những hiệu quả xác định từ trước, bảo đảm cho các quyết định thực hiện
đúng và đầy đủ. Như vậy, “giám sát dùng để chỉ các hoạt động theo dõi, xem xét,
kiểm tra và đánh giá về một việc đã thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy
định” [26, tr.12].
Thứ hai: Nó luôn gắn liền với một chủ thể nhất định, tức là phải trả lời được
câu hỏi ai có quyền thực hiện việc theo dõi, xem xét, đánh giá về một việc đã được
thực hiện đúng hay sai với những điều đã quy định.
Thứ ba: Giám sát bao giờ cũng cần hai giai đoạn: Giai đoạn theo dõi, xem
xét, kiểm tra và giai đoạn đánh giá đưa ra kết luận. Trong đó giai đoạn thứ nhất là
cơ sở để thực hiện tốt giai đoạn thứ hai. Nếu giai đoạn theo dõi, xem xét, kiểm tra
làm tốt thì việc đánh giá, kết luận sẽ đúng đắn, chính xác và cuộc giám sát sẽ có
hiệu quả và ngược lại [23, tr.63].
Thứ tư: Giám sát luôn gắn liền với một đối tượng nhất định, tức là phải trả
lời được câu hỏi giám sát ai và giám sát việc gì.
Thứ năm: Giám sát phải thể hiện được quan hệ giữa chủ thể thực hiện hoạt
động giám sát với đối tượng chịu sự giám sát là quan hệ quyền lực nhà nước, tức là


12

chủ thể có những quyền và nghĩa vụ gì khi thực hiện hoạt động giám sát và ngược
lại.
Giám sát, kiểm tra, kiểm sát, thanh tra là những hoạt động mang tính tất yếu
khách quan của tất cả các Nhà nước ở mọi thời đại lịch sử trong quá trình thực hiện
quyền lực nhà nước. Theo Hiến pháp năm 1992, Nhà nước không chỉ ban hành
Hiến pháp, pháp luật để quản lý xã hội mà còn thường xuyên tiến hành hoạt động
giám sát, kiểm tra việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật. Để bảo đảm thực hiện một
cách có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, bảo đảm pháp chế
xã hội chủ nghĩa, có thể nêu ra một số hình thức giám sát, kiểm tra của các cơ quan

nhà nước như: giám sát của Quốc hội, HĐND và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; kiểm
tra, thanh tra của hệ thống cơ quan hành pháp; kiểm tra, kiểm sát của Viện kiểm sát
nhân dân các cấp; kiểm tra của Toà án nhân dân (thông qua hoạt động giám đốc
thẩm). Chức năng giám sát của cơ quan dân cử cần được phân biệt với với chức
năng kiểm sát, kiểm tra, thanh tra của các cơ quan nhà nước khác ở chỗ: Kiểm tra
là khái niệm rộng, được hiểu là hoạt động thường xuyên của cơ quan, tổ chức cấp
trên với cơ quan, tổ chức cấp dưới nhằm xem xét, đánh giá mọi mặt hoạt động của
cấp dưới khi cần thiết, hoặc kiểm tra một vấn đề cụ thể; Thanh tra là phạm trù dùng
chỉ hoạt động của các tổ chức có chức năng thanh tra, giữa chủ thể thanh tra và đối
tượng thanh tra thường không có quan hệ trực thuộc. Thanh tra là một chức năng
quan trọng của cơ quan quản lý nhà nước, là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng
cường kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa
(Điều 1, Pháp lệnh Thanh tra năm 1990). Đây là hoạt động tự kiểm tra, giám sát
của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thi hành Hiến pháp, pháp luật trong quá
trình điều hành của Chính phủ. Kết quả của công tác thanh tra là chỉ xử lý các vi
phạm pháp luật trong hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước chưa đến mức
tội phạm. Khác với hoạt động kiểm tra là trong hoạt động thanh tra, cơ quan, tổ
chức tiến hành thanh tra có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế để bảo đảm hoạt
động thanh tra được tiến hành thuận lợi; Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện


13

kiểm sát nhân dân tối cao là hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần
bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Đối tượng chịu
sự kiểm sát là hoạt động của các cơ quan tư pháp, bao gồm các cơ quan: điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án và các cơ quan thực hiện các hoạt động bổ trợ tư pháp.
Đây là mối quan hệ giữa các cơ quan tư pháp và chủ yếu là quan hệ về mặt tố tụng.
Khi phát hiện vi phạm, hậu quả pháp lý của hoạt động này là Viện kiểm sát nhân
dân tối cao có quyền ra kháng nghị đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có vi phạm

hoặc khởi tố về hình sự (nếu có dấu hiệu tội phạm); Quyền giám đốc xét xử của
Toà án nhân dân tối cao là hoạt động xem xét, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp
trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân các cấp, Tòa án quân sự theo trình tự
tố tụng. Như vậy, giám sát, kiểm sát, kiểm tra, thanh tra xét đến cùng là những
hoạt động kiểm sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật của các cơ quan nhà nước
có vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau. Sự khác nhau của hoạt động
giám sát, kiểm tra giữa các cơ quan chính là ở thẩm quyền, đối tượng, phạm vi, nội
dung, phương thức thực hiện và hậu quả pháp lý của nó.
Qua các phân tích trên, định nghĩa chức năng giám sát của HĐND tỉnh được
hiểu là tổng thể các phương diện hoạt động của HĐND, thường trực HĐND, các
ban của HĐND và các đại biểu HĐND tỉnh nhằm theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt
động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thực hiện các
nghị quyết của HĐND và việc tuân tuân theo Hiến pháp và Pháp luật.
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, không chỉ HĐND mới có chức năng giám
sát mà các cơ quan khác cũng có chức năng này như: Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, ... Trong đó, giám sát của cơ quan dân cử nói chung, hoạt động giám sát
của HĐND nói riêng mang tính đặc thù so với các hoạt động giám sát của các cơ
quan khác, ngay bản thân hoạt động giám sát của HĐND với hoạt động giám sát
của Quốc hội cũng có sự khác nhau.


14

Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có phạm
vi rộng lớn, bao trùm lên toàn bộ bộ máy nhà nước “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân .... giám sát
hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà
nước.” (Điều 9, Hiến pháp năm 1992). Nhưng hoạt động giám sát này không mang
tính quyền lực nhà nước, “Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là
giám sát mang tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của

Nhà nước, nhằm góp phần xây dựng và bảo vệ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân” (Điều 12, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam). Điều đó có nghĩa là không áp dụng các hình thức, cách thức, phương pháp
mang tính quyền lực nhà nước mà mang tính nhân dân dưới các hình thức theo dõi,
phát hiện, nhận xét, phản biện và kiến nghị. Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam có các điểm khác biệt so với giám sát của HĐND, đó là: Về tính chất, hoạt
động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát mang tính nhân dân, hỗ
trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra trong nội bộ BMNN. Về đối tượng
giám sát, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước,
đại biểu dân cử, cán bộ, công chức. Về hình thức thực hiện, hoạt động giám sát của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện dưới hình thức động viên nhân dân thực hiện
quyền giám sát, tham gia giám sát cùng với cơ quan quyền lực nhà nước. Về hậu
quả pháp lý: Mặt trận Tổ quốc không có quyền xử lý khi phát hiện sai phạm mà chỉ
kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Giám sát của Quốc hội và HĐND là hoạt động giám sát của cơ quan dân cử,
mang tính quyền lực nhà nước, đây là một khâu, một yếu tố cấu thành quyền lực
nhà nước, không tách rời quyền lực nhà nước. Xét về bản chất, việc thực hiện
quyền giám sát của Quốc hội và HĐND là các cơ quan này thay mặt nhân dân sử
dụng quyền lực nhà nước do chính nhân dân giao cho. Bởi nhân dân sử dụng
quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và HĐND là những cơ quan đại diện cho


15

ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước
nhân dân. Đối với hoạt động giám sát của Quốc hội là giám sát tối cao, “là việc
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội,
Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt
động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến

pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội.” (Điều 2, Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội). Quốc hội có quyền
giám sát tối cao đối với toàn bộ các cơ quan trong bộ máy nhà nước, còn hoạt động
giám sát của HĐND không mang tính tối cao, nó bó hẹp trong phạm vi địa phương
cấp của HĐND và cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn đó.
1.2.2. Đặc điểm chức năng giám sát của HĐND tỉnh
Chức năng giám sát của HĐND tỉnh có những đặc điểm cơ bản sau:
+ Chức năng giám sát của HĐND tỉnh vừa mang tính đại diện vừa mang
tính quyền lực nhà nước.
HĐND tỉnh là cơ quan do cử tri bầu ra, gồm những người đại diện tiêu biểu
cho các tầng lớp nhân dân ở địa phương, đại diện cho trí tuệ tập thể của nhân dân.
Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua người đại biểu là đại biểu
HĐND. HĐND tỉnh thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thay mặt nhân
dân quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương, bảo đảm những quyết định
đó phù hợp với lòng dân. Do đó hoạt động giám sát của HĐND tỉnh thực chất là
giám sát ủy quyền của nhân dân.
HĐND tỉnh cũng là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, được nhân
dân giao quyền quyết định các vấn đề quan trọng ở địa phương, biến ý chí của
nhân dân địa phương thành các quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc đối với dân
cư trong phạm vi mình quản lý. Ngoài việc quyết định những vấn đề quan trọng ở
địa phương, HĐND còn giám sát việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, nghị quyết
của HĐND của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân nhằm đảm bảo cho việc thực


16

thi Hiến pháp, pháp luật, các nghị quyết của mình được đảm bảo thi hành trên thực
tế.
+ HĐND tỉnh thực hiện chức năng giám sát thông qua nhiều chủ thể khác
nhau, đối với nhiều đối tượng khác nhau.

Chủ thể thực hiện chức năng giám sát của HĐND
Giám sát của HĐND bao gồm: giám sát của HĐND tại kỳ họp, giám sát của
Thường trực HĐND, giám sát của các Ban HĐND và giám sát của Đại biểu
HĐND. Như vậy chủ thể thực hiện chức năng giám sát của HĐND bao gồm: Hội
đồng nhân dân: một tập thể các đại biểu HĐND tại phiên họp Hội đồng; Thường
trực HĐND; các Ban của HĐND; đại biểu HĐND.
Đối tượng chịu sự giám sát của HĐND
Đối tượng chịu sự giám sát của HĐND bao gồm: Thường trực HĐND,
UBND, TAND, VKSND cùng cấp; Chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND, các thành
viên khác của UBND, thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Viện
trưởng VKSND, Chánh án TAND cùng cấp; các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân ở địa phương.
Đối tượng giám sát của HĐND tỉnh bao gồm tất cả các cơ quan nhà nước,
đơn vị kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân ở địa
phương. Tuy nhiên trong luật hiện hành không phân cấp giám sát giữa HĐND các
cấp, điều đó không có nghĩa HĐND mỗi cấp thực hiện thẩm quyền giám sát như
nhau đối với mọi hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát. Đối tượng, phạm vi,
mức độ giám sát của HĐND phụ thuộc vào vị trí, vai trò và sự phân cấp, tính chất
mối quan hệ của HĐND đối với đối tượng chịu sự giám sát.
+ Nội dung giám sát của HĐND tỉnh rất phong phú đa dạng.
Hoạt động giám sát của HĐND gồm 2 nội dung chính sau: Theo dõi, kiểm
tra tính hợp hiến, hợp pháp, tuân thủ nghị quyết của HĐND đối với các đối tượng
chịu giám sát và các văn bản do các đối tượng này ban hành; xử lý các hành vi vi


17

phạm bằng các biện pháp chế tài như: bãi nhiệm, miễn nhiệm, đình chỉ, bãi bỏ các
văn bản trái với Hiến pháp, pháp luật, nghị quyết của HĐND...
Như vậy nội dung giám sát của HĐND tỉnh rất rộng, toàn diện, bao quát

toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, kinh tế,
xã hội, an ninh, quốc phòng, xây dựng và củng cố chính quyền, thực hiện pháp
luật, bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân địa phương.
+ Các phương thức giám sát của HĐND tỉnh khá linh hoạt, đa dạng.
Phương thức giám sát là cách thức HĐND thực hiện chức năng giám sát
thông qua những hoạt động cụ thể. HĐND là một tập thể các đại biểu do nhân dân
trực tiếp bầu ra nên phương thức giám sát của HĐND được đảm bảo thực hiện
thông qua kỳ họp HĐND, hoạt động giám sát Thường trực HĐND, các ban của
HĐND và các đại biểu HĐND.
Giám sát của HĐND tại các kỳ họp được thực hiện thông qua các hoạt
động sau:
- Xem xét các báo cáo công tác của Thường trực HĐND, UBND, VKSND,
TAND cùng cấp.
Đây là một hoạt động giám sát trực tiếp rất quan trọng của HĐND. HĐND
xem xét, thảo luận các báo cáo công tác của Thường trực HĐND, UBND,
VKSND, TAND cùng cấp theo một trình tự chặt chẽ do luật định; trong đó có
thẩm tra, phản biện, thảo luận, tranh luận của đại biểu HĐND đối với các đối
tượng thuộc quyền giám sát của HĐND tỉnh. Báo cáo của các đối tượng giám sát
được chuyển cho các ban của HĐND thẩm tra, nghiên cứu trước. Trên cơ sở ý kiến
tham gia của các thành viên thì các ban phải chuẩn bị báo cáo thẩm tra thuyết trình
trước HĐND.
Trên cơ sở xem xét, thảo luận báo cáo của các cơ quan, HĐND có thể kiểm
soát tình hình thực thi Hiến pháp và pháp luật, các văn bản của cơ quan nhà nước
cấp trên cũng như nghị quyết của HĐND trong thực tiễn đời sống xã hội; tăng


18

cường trách nhiệm cá nhân của những người đứng đầu UBND và các ban ngành về
công tác của họ trước HĐND.

- Chất vấn và trả lời chất vấn
Đại biểu HĐND có quyền chất vấn Chủ tịch HĐND, Chủ tịch và các thành
viên khác của UBND, Chánh án TAND, VKSND và Thủ trưởng các cơ quan thuộc
UBND. Người bị chất vấn phải trả lời trước HĐND trong thời hạn do luật định.
Đối với việc chất vấn: đại biểu HĐND ghi rõ nội dung chất vấn, người bị
chất vấn vào phiếu ghi chất vấn và gửi đến Thường trực HĐND. Thường trực
HĐND chuyển nội dung chất vấn đến người bị chất vấn và tổng hợp các chất vấn
của đại biểu HĐND để báo cáo HĐND; Thường trực HĐND dự kiến danh sách
những người có trách nhiệm trả lời chất vấn và báo cáo HĐND quyết định. Ngoài
câu hỏi chính thì có thể nêu thêm câu hỏi bổ sung liên quan đến nội dung đã chất
vấn để người trả lời chất vấn trả lời.
Đối với việc trả lời chất vấn: người bị chất vấn phải trả lời trực tiếp, đầy đủ
về các nội dung mà đại biểu HĐND đã chất vấn và xác định rõ trách nhiệm cũng
như biện pháp khắc phục. Để đảm bảo hiệu quả của chất vấn cũng như trả lời chất
vấn, luật còn quy định khi đại biểu HĐND không đồng ý với nội dung trả lời thì có
quyền yêu cầu HĐND thảo luận và xem xét trách nhiệm của người bị chất vấn.
HĐND có thể ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị
chất vấn khi xét thấy cần thiết.
Hoạt động chất vấn thực chất là việc đại biểu HĐND đưa ra các câu hỏi chất
vấn cho các đối tượng bị chất vấn, nội dung của các câu hỏi này thường xoay
quanh các vấn đề nóng bỏng mà nhân dân địa phương quan tâm thuộc lĩnh vực
quản lý trực tiếp hoặc có liên quan đến đối tượng bị chất vấn. Chính vì vậy hoạt
động chất vấn phải được thực hiện một cách nghiêm túc; các nội dung, giải pháp
cụ thể trong vấn đề chất vấn cũng như trách nhiệm của người chất vấn phải được
coi trọng, đáp ứng được các yêu cầu, thắc mắc của người dân.


19

- Xem xét VBQPPL của UBND cùng cấp, nghị quyết của HĐND cấp dưới

trực tiếp khi phát hiện có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc
hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; văn bản quy phạm
pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp.
Đây là hình thức HĐND giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của các VBQPPL
do các đối tượng chịu sự giám sát của HĐND tỉnh ban hành. Để thực hiện tốt
nhiệm vụ trên, Thường trực HĐND, các ban của HĐND, đại biểu HĐND phải
thường xuyên thực hiện việc giám sát các văn bản thuộc thẩm quyền của mình
nhằm có những kiến nghị, đề xuất kịp thời.
- Thành lập đoàn giám sát.
Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, khi xét thấy cần
thiết phải xác minh làm rõ, hoặc muốn biết một số thông tin cụ thể trong quá trình
hoạt động của các đối tượng chịu sự giám sát thì HĐND thành lập đoàn giám sát.
Khi làm việc, đoàn giám sát có quyền xem xét, xác minh tất cả những vấn đề mà
đoàn thấy cần thiết; có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám
sát báo cáo bằng văn bản, cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến nội dung
giám sát; đồng thời giải trình tất cả những vấn đề mà đoàn quan tâm. Khi có phát
hiện ra hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích nhà nước; quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân đoàn giám sát có quyền yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp để chấm dứt hành vi vi phạm
và chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
- Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ các chức vụ do HĐND bầu.
Việc HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do
HĐND bầu là một công cụ giám sát mới của HĐND.
Người được đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm có quyền trình bày ý kiến của mình
trước HĐND, HĐND thảo luận và bỏ phiếu tín nhiệm. Trong trường hợp không
được quá nửa tổng số đại biểu HĐND tín nhiệm thì cơ quan hoặc người đã giới


20


thiệu để bầu người đó có trách nhiệm trình HĐND xem xét, quyết định việc miễn
nhiệm, bãi nhiễm người không được HĐND tín nhiệm.
Như vậy quy định bỏ phiếu tín nhiệm theo pháp luật Việt Nam chỉ áp dụng
đối với cá nhân chứ không áp dụng đối với tập thể. Đây là một đặc thù của quyền
giám sát của Việt Nam.
Giám sát của Thường trực HĐND
Thường trực HĐND giám sát hoạt động của UBND và các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND, hoạt động của TAND, VKSND cùng cấp; giám sát cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân trong việc thi hành
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của
HĐND cùng cấp.
Thường trực HĐND giám sát thông qua các hoạt động sau: thành lập Đoàn
giám sát căn cứ vào chương trình giám sát của mình hoặc theo yêu cầu của HĐND,
đề nghị của các ban của HĐND, các đại biểu HĐND; tổ chức nghiên cứu, xử lý và
xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; trình HĐND xem xét văn
bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp, nghị quyết của HĐND cấp dưới trực
tiếp trong trường hợp có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật và VBQPPL của cơ quan
nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp; trình HĐND bỏ phiếu tín
nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu theo đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cùng cấp hoặc khi có ít nhất một phần ba tổng số đại biểu HĐND
yêu cầu; tiếp nhận kiến nghị, chất vấn của đại biểu HĐND để chuyển đến người bị
chất vấn; thông báo cho người bị chất vấn thời hạn và hình thức trả lời chất vấn.
Giám sát của các Ban của HĐND tỉnh
Ban của HĐND có nhiệm vụ giúp HĐND giám sát hoạt động của UBND và
các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, hoạt động của TAND, VKSND cùng cấp;
giám sát cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân



×