Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước toà án trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (778.96 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
ĐẶNG THANH NGA

NGUYÊN TẮC
BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƢỚC TOÀ ÁN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ
MÃ SỐ: 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN:
TS. PHAN THỊ THANH MAI

HÀ NỘI 2011


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Đặng Thanh Nga


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

HĐXX

Hội đồng xét xử

KSV

Kiểm sát viên

NTGTT

Người tham gia tố tụng

TAND

Toà án nhân dân

THTT


Tiến hành tố tụng

THTT

Tiến hành tố tụng

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa




1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Xét xử là một chức năng đặc biệt của Toà án. Toà án là cơ quan duy nhất có
quyền xét xử và chỉ có Toà án mới có quyền phán quyết một người có tội hay
không và áp dụng hình phạt đối với họ. Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình
phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Phán quyết của
Toà án bằng bản án, quyết định có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Nếu không thận trọng, HĐXX có thể sẽ tước bỏ trái pháp luật
những quyền thiết thân của con người trong đó có quyền được sống. Vì vậy, để đảm
bảo việc xét xử được khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, Nhà nước
đã có quy định pháp lý nhằm điều chỉnh hoạt động xét xử của Toà án bằng việc ghi
nhận các nguyên tắc cơ bản trong BLTTHS, trong đó có nguyên tắc bảo đảm quyền
bình đẳng trước Toà án.
Trong Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã xác định: "Khi xét xử,
các Toà án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự
dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;
việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên
toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên,
của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi
ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có tính thuyết phục và
trong thời hạn luật định". Thể chế quan điểm này, BLTTHS năm 2003 đã sửa đổi bổ
sung nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án một cách đầy đủ và chặt
chẽ hơn. Việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc này cũng là đòi hỏi tất yếu khách quan
trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay. Tuy nhiên, một số các quy định của
BLTTHS năm 2003 cũng còn bất cập và chưa thống nhất làm hạn chế tính khả thi
của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án như tại quy định Điều 19
BLTTHS thể hiện quyền đưa ra chứng cứ của các chủ thể tố tụng (kể cả của người
tham gia tố tụng) trong khi đó theo Điều 64 BLTTHS quy định chứng cứ được thu


2


thập hợp pháp do cơ quan tiến hành tố tụng dùng làm căn cứ để xác định sự thật của
vụ án...Và trên thực tế, việc nhận thức cũng như thực hiện nghiêm túc nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án của các chủ thể TTHS còn nhiều hạn chế
như vi phạm quyền tham gia phiên toà, không xem xét đầy đủ các yêu cầu của các
chủ thể tố tụng, việc tranh luận dân chủ chưa được đảm bảo, còn mang tính hình
thức… Vì vậy để tiến trình cải cách tư pháp với việc mở rộng dân chủ trong hoạt
động tố tụng hình sự có hiệu quả, việc nghiên cứu các nguyên tắc đề cao tính dân
chủ, đảm bảo công bằng đặt ra lại càng cấp thiết. Theo đó phải nghiên cứu để hoàn
thiện những quy định của pháp luật cũng như đề xuất những giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả việc thực hiện nguyên tắc trong tố tụng hình sự.
Trong khoa học luật TTHS cũng đã có nhiều nghiên cứu khoa học về các
nguyên tắc trong TTHS, có đề tài khoa học nghiên cứu mang tính đại cương, khái
quát tất cả các nguyên tắc của TTHS như giáo trình luật TTHS của Trường Đại học
Luật Hà Nội, các cuốn sách Bình luận khoa học BLTTHS, "Những nguyên tắc cơ
bản của luật TTHS Việt Nam" của tác giả Hoàng Thị Sơn và Bùi Kiên Điện; có đề
tài khoa học nghiên cứu cụ thể, trực tiếp một trong các nguyên tắc đó như Luận án
tiến sỹ của tác giả Vũ Gia Lâm về nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS, Luận văn
thạc sỹ của tác giả Từ Thị Hải Đường về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong TTHS... nhưng chưa có đề tài khoa học nào nghiên
cứu trực tiếp, cụ thể về nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án trong TTHS.
Với những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: "Nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trước Toà án trong TTHS " làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án trong TTHS lần đầu tiên
được quy định tại Điều 20 BLTTHS năm 1988 và được sửa đổi bổ sung ghi nhận ở
Điều 19 BLTTHS năm 2003. Nguyên tắc này là biểu hiện nguyên tắc cơ bản của
pháp luật XHCN là mọi công dân bình đẳng trước pháp luật trong TTHS nhằm nâng
cao tính dân chủ trong việc xét xử của Toà án, đảm bảo cho phán quyết của Toà án
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nguyên tắc này đã được đề cập một cách khái



3

quát, đại cương trong giáo trình luật TTHS của các cơ sở đào tạo luật và trong các
tác phẩm bình luận khoa học luật TTHS. Từ sau khi có Nghị quyết 08 ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới và BLTTHS được sửa đổi theo tinh thần cải cách tư pháp, trên diễn đàn
khoa học pháp lý đã có nhiều đề tài khoa học nghiên cứu về vấn đề tranh tụng trong
đó có đề cập đến một số nội dung của quyền bình đẳng trước Toà án như cuốn sách
"Tranh luận tại phiên toà sơ thẩm" của TS. Dương Thanh Biểu, Luận văn thạc sỹ
của của tác giả Bùi Thị Thu Hà về "Tranh tụng tại phiên toà theo pháp luật TTHS
Việt Nam" hay các bài viết về đảm bảo việc tranh tụng, tranh luận trong TTHS, đảm
bảo quyền bào chữa của bị can bị cáo, vấn đề thay đổi người tiến hành tố tụng, vấn
đề trình tự phiên toà đăng trên các báo, tạp chí như bài viết "Hoàn thiện một số quy
định của BLTTHS về thủ tục phiên toà sơ thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp"
của TS Hoàng Thị Minh Sơn, "Hoàn thiện các quy định của BLTTHS hiện hành
nhằm nâng cao chất lưọng tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm" của TS. Nguyễn Đức
Mai, "Nâng cao vị thế của người bào chữa tại phiên toà hình sự" của ThS Nguyễn
Ngọc Khanh, "Những hạn chế trong việc thực hiện quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo" của TS. Hoàng Thị Minh Sơn hay "Thay đổi Thẩm phán,
Hội thẩm trong TTHS" của ThS. Mai Thanh Hiếu. Tuy nhiên các đề tài, bài viết này
đề cập đến từng khía cạnh của nguyên tắc, phần lớn làm rõ yếu tố tranh tụng dân
chủ tại phiên toà như làm thế nào để đảm bảo tranh tụng, chủ thể tranh tụng là ai,
cần sửa đổi các quy định như thế nào để đảm bảo cho các bên tham gia tranh tụng
một cách dân chủ... Như vậy, có thể khẳng định cho đến nay chưa có một công trình
nào nghiên cứu một cách toàn diện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà
án trong TTHS bằng việc phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn áp dụng nguyên tắc
trong giải quyết các vụ án hình sự, phân tích những yếu tố tác động đến việc bảo
đảm sự bình đẳng trước Toà án, từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu

quả thực hiện nguyên tắc trong giải quyết các vụ án hình sự dưới góc độ là một luận
án tiến sĩ hoặc luận văn thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


4

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án trong TTHS, tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả của việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án.
Với mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Làm rõ khái niệm, nội dung, ý nghĩa và những điều kiện bảo đảm thực hiện
nguyên tắc
- Phân tích thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà
án trong hoạt động giải quyết án hình sự của Toà án, phân tích nguyên nhân của
những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trước Toà án
- Kiến nghị một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm
quyền bình đẳng trước Tòa án.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu :
- Những vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án
- Quy định của BLTTHS năm 2003 về nội dung của nguyên tắc bảo đảm
quyền bình đẳng trước Tòa án và một số quy định có liên quan.
- Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án trong
TTHS Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu:
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án được ghi nhận trong các
văn bản pháp luật về tố tụng như BLTT Dân sự, BLTT Hình sự,… Luận văn chỉ tập
trung làm rõ nguyên tắc dưới góc độ là một nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong

BLTTHS năm 2003; và giới hạn trong phạm vi giai đoạn xét xử sơ thẩm; nghiên
cứu thực trạng áp dụng phápluật trong khoảng thời gian 5 năm từ khi Nghị quyết
49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020" được ban hành đến 2010
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện những niệm vụ đặt ra nhằm đạt được mục đích nghiên cứu của
luận văn, tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của triết học Mác -


5

Lê nin, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử,
phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp lý luận kết hợp với thực tiễn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu một cách hệ thống cả về cơ sở lý
luận cũng như thực tiễn áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án
trong TTHS. Luận văn đưa ra khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước
Toà án trong TTHS, phân tích sâu nội dung của nguyên tắc và những điều kiện bảo
đảm thực hiện nguyên tắc. Về giá trị thực tiễn, bằng việc phân tích thực trạng thực
hiện nguyên tắc và những nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện nguyên
tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án, từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao
hiệu quả thực hiện nguyên tắc góp phần vào việc nâng cao chất lượng xét xử của
Toà án, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tiến hành tố tụng và
tham gia tố tụng. Đồng thời luận văn có thể sử dụng làm tài liệu học tập và nghiên
cứu trong các cơ sở đào tạo luật.
7. Kết cấu dề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn chia
thành 2 chương, 6 mục
Chƣơng 1: Những vấn đề chung về nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước Toà án

1.1. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án
1.2. Nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án theo quy
định của BLTTHS năm 2003
1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án
1.4. Điều kiện để bảo đảm thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước Tòa án
Chƣơng 2: Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước
Toá án và kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc
2.1. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án
2.2. Kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm
quyền bình đẳng trước Toà án.


6

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC
BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƢỚC TOÀ ÁN
1.1. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trƣớc Toà án
Trong khoa học pháp lý hiện nay vẫn còn có những quan điểm không thống
nhất về các nguyên tắc cơ bản được quy định trong Chương II BLTTHS năm 2003,
ngay cả trong cách sử dụng thuật ngữ. Có quan điểm gọi đó là nguyên tắc cơ bản
của luật TTHS [12], có quan điểm gọi đó là nguyên tắc cơ bản của TTHS [26]. Tuy
nhiên, nguyên tắc là "những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở, chỗ dựa để
xem xét, làm việc" [14, tr.1217]. Từ đó có thể thấy rằng, nguyên tắc không thể thiếu
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người, đảm bảo cho hoạt
động đó đi đúng hướng và có hiệu quả. Khi nói đến nguyên tắc là đề cập đến quy
định có tính định hướng đối với hoạt động nào đó chứ không thể định hướng cho
quy định nào đó vì chỉ hoạt động mới có tính động, diễn biến theo thời gian còn quy
định có tính tĩnh, là kết quả của hoạt động nên không thể nói "nguyên tắc cơ bản

của luật" mà phải là "nguyên tắc cơ bản của hoạt động". Tố tụng hình sự với tư cách
là hoạt động pháp luật của các chủ thể trong việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội
phạm phải tuân theo những nguyên tắc nhất định là điều tất yếu. Vì vậy những
nguyên tắc cơ bản trong Chương II BLTTHS năm 2003 là những nguyên tắc của
TTHS được quy định trong luật để điều chỉnh các hoạt động của các chủ thể trong
lĩnh vực TTHS. Trong khoa học luật TTHS, nguyên tắc của TTHS được hiểu là
"những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hay một số hoạt động tố tụng
hình sự và được các văn bản pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận"[41, tr.5]. Không
chỉ mang tính định hướng mà nguyên tắc trong tố tụng hình sự còn mang tính đòi
hỏi khách quan đảm bảo cho hoạt động tố tụng hình sự đạt được mục đích. Vì vậy,
việc ghi nhận, thay đổi hay xoá bỏ một nguyên tắc nào đó trong TTHS cũng phải
xuất phát từ yêu cầu thực tế khách quan của hoạt động TTHS trên cơ sở mục đích
đặt ra đối với hoạt động đó thì mới bảo đảm tính khoa học và tính khả thi. Như vậy
có thể định nghĩa: " Nguyên tắc của TTHS là những phương châm, định hướng
được đặt ra trên cơ sở đòi hỏi khách quan, chi phối toàn bộ hay một số hoạt động
TTHS và được văn bản pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận".


7

Trong tiến trình cải cách tư pháp với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục
vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm
là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao đòi hỏi phải đề cao
những nguyên tắc phản ánh tính dân chủ, công bằng, nhân đạo và pháp chế. Các
nguyên tắc của TTHS cũng đã được sửa đổi bổ sung cho phù hợp với đòi hỏi mới.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án được ghi nhận lần đầu tiên tại
Điều 20 BLTTHS năm 1988 và được sửa đổi bổ sung tại Điều 19 BLTTHS năm 2003
Bảo đảm quyền bình đẳng là làm cho có được sự ngang nhau về quyền và
nghĩa vụ giữa những người được pháp luật quy định cho họ có những quyền và

những nghĩa vụ ngang nhau1. Quyền bình đẳng này được thực hiện trước Tòa án.
Trong giai đoạn xét xử hình sự, Toà án là cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm
xác định sự thật của vụ án và ra phán quyết đối với vụ án đó. Với quyền hạn của
mình, chỉ Toà án bằng hoạt động tố tụng của mình mới có thể cho phép chủ thể
khác thực hiện hay không thực hiện những gì pháp luật quy định cho họ. Vì vậy
việc bảo đảm quyền bình đẳng là trách nhiệm của Toà án.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án điều chỉnh các hoạt động
tố tụng của Toà án diễn ra tại phiên toà bởi vì việc tranh luận chỉ có thể diễn ra khi
các bên gặp nhau để có thể nghe ý kiến cũng như đáp lại ý kiến của ngưòi khác mà
trong tất cả các giai đoạn tố tụng chỉ có giai đoạn mở phiên toà thì các bên tham gia
tố tụng mới có mặt đầy đủ ở cùng một địa điểm, cùng một thời điểm và tại phiên toà
quyền và nghĩa vụ tố tụng của những người tham gia tố tụng được quy định và được
bảo đảm thực hiện đầy đủ bằng thủ tục tố tụng trực tiếp, công khai. Đồng thời thông
qua phân tích nội dung, ý kiến của các bên tham gia phiên toà, Toà án (cụ thể là
HĐXX) ra phán quyết về vụ án đảm bảo tính khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Trong một vụ án hình sự, có một số người tham gia tố tụng có lợi ích liên quan
đến vụ án nghĩa là lợi ích của họ có thể bị ảnh hưởng bởi các quyết định của các cơ

Theo Đại từ điển Tiếng Việt: Bảo đảm là " làm cho có được việc gì"; Quyền là "cái có
được do từ quy định của pháp luật"; Bình đẳng là "ngang nhau về nghĩa vụ và quyền lợi"
1


8

quan tiến hành tố tụng hay của những người tiến hành tố tụng trong đó có phán
quyết của Toà án vì vậy pháp luật quy định cho họ những quyền, nghĩa vụ khi tham
gia tố tụng để bảo vệ lợi ích của mình trong đó có quyền bình đẳng trước Tòa án.
Như vậy có thể đưa ra định nghĩa: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước Toà án trong TTHS là phương châm, định hướng thể hiện quan điểm của Nhà

nước được BLTTHS ghi nhận điều chỉnh hoạt động tố tụng của Toà án khi xét xử vụ
án hình sự phải bảo đảm cho kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự thực hiện
quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và
tranh luận dân chủ trước Toà án nhằm xác định sự thật của vụ án và nâng cao tính
dân chủ, công bằng trong TTHS .
1.2. Nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trƣớc Toà án theo
quy định của BLTTHS năm 2003
Điều 19 BLTTHS năm 2003 quy định: "Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương
sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu
cầu và tranh luận dân chủ trước Toà án. Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ
thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án". Như vậy có thể
xác định nguyên tắc này có những nội dung sau: chủ thể có quyền bình đẳng trước
Toà án, nội dung của quyền bình đẳng trước Toà án, chủ thể có trách nhiệm bảo
đảm quyền bình đẳng trước Toà án, cách thức thực hiện quyền bình đẳng trước Toà
án và thực hiện trách nhiệm bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án.
1.2.1. Chủ thể có quyền bình đẳng trƣớc Toà án
Chủ thể có quyền bình đẳng trước Toà án là : kiểm sát viên, bị cáo,người
bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự
- Kiểm sát viên:


9

Điều 1 Pháp lệnh kiểm sát viên năm 2002 quy định: "Kiểm sát viên là người
được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công

tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp". Chủ thể của quyền bình đẳng trước Toà án
không phải là kiểm sát viên nói chung mà chính là kiểm sát viên được phân công
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử đối với vụ án cụ thể được nêu trong
quyết định đưa vụ án ra xét xử. Kiểm sát viên là chủ thể có quyền bình đẳng bởi họ
là người đại diện cho Nhà nước để bảo vệ lợi ích công, bảo vệ trật tự xã hội bằng
việc yêu cầu Toà án phán quyết người có hành vi phạm tội nên họ có quyền đưa ra
các chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu cũng như tranh luận dân chủ trước Toà
án để bảo vệ quan điểm truy tố của mình.
Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của KSV được quy định tại Điều 37
BLTTHS. Theo đó, ở giai đoạn xét xử KSV có nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể như
sau: tham gia phiên toà, đưa ra chứng cứ và thực hiện việc luận tội, phát biểu quan
điểm về việc giải quyết vụ án, tranh luận với những người tham gia tố tụng tại phiên
toà. Kiểm sát việc tuân theo phápluật trong hoạt động xét xử của Tòa án, của những
người tham gia tố tụng và kiểm sát các bản án quyết định của Toà án. Theo quy
định tại Điều 202, 205, 216 BLTTHS năm 2003 thì KSV có quyền yêu cầu thay đổi
Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký, yêu cầu hoãn phiên toà, yêu cầu xét hỏi thêm. Với
vai trò là người tiến hành tố tụng đại diện cho Nhà nước thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử tại phiên toà, việc đưa ra chứng cứ, yêu cầu và tranh luận dân chủ
của KSV vừa là quyền nhưng cũng đồng thời là trách nhiệm của KSV. KSV căn cứ
vào các quy định của pháp luật để thực hiện các quyền và trách nhiệm đó nhằm bảo
đảm hoạt động xét xử diễn ra đúng quy định của pháp luật góp phần đảm bảo cho
phán quyết của Toà án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
- Bị cáo :
Theo Điều 50 BLTTHS năm 2003 quy định: "Bị cáo là người đã bị Tòa án
quyết định đưa ra xét xử". Bị cáo tham gia tố tụng từ khi có quyết định đưa vụ án ra
xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật. Một người
sẽ trở thành bị cáo khi bị Toà án quyết định đưa ra xét xử. Bị cáo cũng chưa phải là


10


người có tội, bị cáo chỉ bị coi là có tội nếu sau khi xét xử họ bị Toà án ra bản án kết
tội và bản án đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, trước Tòa án bị cáo có quyền đưa ra
những lý lẽ, tài liệu, đồ vật gỡ tội cho mình và tranh luận, phản bác những ý kiến
buộc tội mình để Toà án xem xét quyết định đối với bị cáo là điều tất yếu.
Quyền và nghĩa vụ của bị cáo được quy định tại Điều 50 BLTTHS năm 2003.
Theo đó khi tham gia phiên toà bị cáo có quyền: đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, đề
nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, trình bày ý kiến tranh luận tại phiên toà, nói
lời sau cùng trước khi nghị án. Theo quy định của Điều 201, 205, 216 BLTTHS năm
2003, bị cáo còn có quyền yêu cầu hoãn phiên toà, yêu cầu xét hỏi thêm.
- Người bào chữa cho bị cáo:
Người bào chữa cho bị cáo là người được Toà án chứng nhận tham gia tố tụng
bào chữa cho bị cáo bị đưa ra xét xử trong vụ án hình sự cụ thể. Sự tham gia tố tụng
của người bào chữa là rất cần thiết, bằng kinh nghiệm nghề nghiệp và sự hiểu biết
của mình, người bào chữa tham gia vào quá trình giải quyết vụ án nói chung và
phiên toà nói riêng để giúp bảo vệ lợi ích hợp pháp của người được bào chữa. Vì
vậy người bào chữa cần được bình đẳng trong việc đưa ra thông tin, tài liệu, đồ vật,
đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ như các chủ thể khác để bảo vệ quyền lợi của
bị cáo. Qua đó sự tham gia của người bào chữa góp phần vào việc xác định sự thật
của vụ án được đúng đắn, không để bị cáo bị buộc tội oan sai.
Người bào chữa cho bị cáo có quyền và nghĩa vụ quy định tại điều 58
BLTTHS năm 2003. Theo đó người bào chữa cho bị cáo có quyền và nghĩa vụ là:
Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo
quy định của BLTTHS năm 2003, đưa ra tài liệu, đồ vật , yêu cầu; tham gia hỏi,
tranh luận tại phiên toà. Nghĩa vụ của người bào chữa cho bị cáo: sử dụng mọi biện
pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị cáo vô tội,
những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Tuỳ theo giai đoạn tố tụng,
khi thu thập được các tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có
trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Việc giao nhận tài
liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập



11

thành biên bản theo quy định tại điều 95 BLTTHS; giúp bị cáo về mặt pháp lý nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; không được từ chối bào chữa cho bị cáo
mà mình đảm nhận nếu không có lý do chính đáng; có mặt theo giấy triệu tập của
Toà án. Như vậy, việc đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ
của người bào chữa theo nghĩa vụ bào chữa của họ. Theo quy định tại Điều 190,
khoản 2 Điều 217 BLTTHS năm 2003 thì việc tham gia phiên toà, trình bày lời bào
chữa là quyền đồng thời là nghĩa vụ của người bào chữa.
- Người bị hại:
Khoản 1 Điều 51 BLTTHS năm 2003 quy định: "Người bị hại là người bị thiệt
hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra". Mọi phán quyết của Toà án về
tội phạm đều ảnh hưởng đến lợi ích của họ. Vì vậy họ có quyền bình đẳng trong
việc đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Toà án để bảo vệ
quyền lợi của mình
Quyền và nghĩa cụ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLTTHS năm 2003. Theo
đó, quyền của người bị hại trong giai đoạn xét xử vụ án là: đưa ra tài liệu, đồ vật,
yêu cầu, đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch theo quy định của BLTTHS, đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo
đảm mức bồi thường; tham gia phiên toà, trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; trong trường hợp vụ án được khởi
tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại điều 105 BLTTHS thì người bị hại
trình bày lời buộc tội tại phiên toà. Nghĩa vụ của người bị hại: phải có mặt theo giấy
triệu tập của Toà án và có nghĩa vụ khai báo, cung cấp những thông tin cần thiết
giúp cho việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án, nếu từ chối khai báo mà không có lý do
chính đáng thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của BLHS. Như
vậy việc đưa ra tài liệu, đồ vật, cung cấp thông tin không chỉ là quyền mà còn là
nghĩa vụ của người bị hại. Người bị hại là người bị thiệt hại do tội phạm gây ra,

đồng thời cũng là người biết rõ về các tình tiết của vụ án nên ngoài tư cách người bị
hại họ còn là một công dân nên không chỉ có quyền bảo vệ lợi ích cho mình họ còn
có nghĩa vụ tôn trọng lợi ích của người khác, của xã hội vì vậy họ có nghĩa vụ cung


12

cấp thông tin giúp cho việc làm sáng tỏ sự thật vụ án. Việc đưa ra yêu cầu, tranh
luận là quyền của người bị hại.
- Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án:
Khoản 1Điều 52 BLTTHS năm 2003 quy định: "Nguyên đơn dân sự là cá
nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường
thiệt hại". Nguyên đơn dân sự có thể là các cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về vật chất
do hành vi phạm tội gây ra, nguyên đơn dân sự cũng có thể là cá nhân bị thiệt hại
nhưng khác với người bị hại, thiệt hại của nguyên đơn dân sự không phải là đối
tượng của tội phạm mặc dù cũng do hành vi phạm tội gây ra. Tư cách nguyên đơn
dân sự trong vụ án hình sự được xác định trên cơ sở yêu cầu bồi thường của họ và
được các cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập họ đến với tư cách nguyên đơn dân sự.
Khoản 1Điều 53 BLTTHS năm 2003 quy định: "Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ
quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường đối thiệt hại
do hành vi phạm tội gây ra". Tư cách tố tụng của bị đơn dân sự được xác định khi
cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập họ với tư cách bị đơn dân sự.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án là "người có quyền lợi,
nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các quyết định của cơ quan tiến hành tố
tụng"[55, tr134]. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có thể là người
không liên quan đến việc thực hiện tội phạm nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng
phải xử lý theo pháp luật những vấn đề có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
Theo quy định tại Điều 28 BLTTHS năm 2003 thì việc giải quyết vấn đề dân
sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Vì

vậy lợi ích của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án có thể bị ảnh hưởng bởi phán quyết của Toà án nên họ có quyền
bình đẳng trong việc đưa ra thông tin, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận
dân chủ tại phiên toà để bảo vệ lợi ích của mình.
Nguyên đơn dân sự có quyền và nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 52
BLTTHS năm 2003, bị đơn dân sự có quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 53


13

BLTTHS năm 2003, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có các
quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 54 BLTTHS năm 2003. Theo đó: họ có quyền
đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự còn có
quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng. Nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án là: phải có mặt theo
giấy triệu tập của Toà án và trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến quyền
lợi, nghĩa vụ của mình. Việc đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu cũng như tranh luận là
quyền của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
đến vụ án.
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo:
BLTTHS năm 2003 không quy định khái niệm về người đại diện hợp pháp của
bị cáo. Theo quy định tại Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 2/10/2004 của
Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định
trong phần thứ nhất " Một số quy định chung" của BLTTHS năm 2003 nêu: ''trong
trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên thì có người đại diện hợp pháp''
và "Đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất, thì họ và người đại diện hợp pháp của họ đều có quyền được lựa
chọn người bào chữa". Như vậy đối với vụ án có bị cáo là người chưa thành niên,
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì có người đại diện hợp pháp của

bị cáo tham gia tố tụng và họ là người đại diện đương nhiên nhằm đảm bảo quyền
lợi cho bị cáo vì những bị cáo này với đặc điểm thể chất, tâm thân chưa hay không
đầy đủ sẽ khó tự mình bảo vệ được quyền lợi. Chính vì vậy người đại diện hợp pháp
của bị cáo cũng có quyền bình đẳng để thực hiện bảo vệ quyền lợi cho bị cáo.
Quyền và nghĩa vụ của người đại diện cho bị cáo được quy định tại khoản 2
Điều 57, khoản 3 Điều 303, Điều 304, Điều 306 BLTTHS năm 2003. Theo đó, khi
tham gia ở giai đoạn xét xử, họ có quyền: đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị
thay đổi người tiến hành tố tụng, tham gia tranh luận.
- Người đại diện hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:


14

Người đại diện hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án (sau đây gọi tắt là người đại
diện hợp pháp của đương sự) là người theo quy định của pháp luật hoặc theo uỷ
quyền họ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại
diện hay của chính bản thân họ. Người đại diện hợp pháp của đương sự gồm: người
đại diện đương nhiên và người đại diện theo uỷ quyền. Người đại diện hợp pháp
đương nhiên của đương sự là người mà theo pháp luật họ đương nhiên được tham
gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đó là các trường hợp
đương sự bị chết, đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất, đương sự là cơ quan, tổ chức. Người đại diện hợp pháp đương
nhiên có các quyền và nghĩa vụ như người được đại diện. Người dại diện hợp pháp
theo uỷ quyền của đương sự là người được đương sự hoặc người đại diện hợp pháp
đương nhiên của đương sự uỷ quyền tham gia tố tụng. Họ tham gia trong phạm vi
quyền và nghĩa vụ của người đã uỷ quyền cho mình [39].
- Người bảo vệ quyền lợi của đương sự:
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự là "người được các cơ quan tiến hành tố

tụng chấp nhận tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án"[55, tr.143].
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự là chủ thể được bổ sung khi BLTTHS
năm 1988 được sửa đổi. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự mặc dù không có
quyền lợi bị ảnh hưởng bởi phán quyết của Toà án nhưng họ bảo vệ cho những
người có quyền lợi bị ảnh hưởng bởi phán quyết đó nên họ có quyền đưa ra những
lý lẽ, tài liệu, đồ vật và tranh luận với các chủ thể khác để bảo vệ cho thân chủ của
họ. Khi tham gia tố tụng, họ có quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 59 BLTTHS
năm 2003. Cụ thể: có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; tham gia hỏi, tranh luận
tại phiên toà, đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
phiên dịch theo quy định của BLTTHS. Nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi của
đương sự là sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự
thật khách quan của vụ án; giúp đương sự về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền, lợi


15

ích hợp pháp của họ. Như vậy việc đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và tranh luận tại
phiên toà là quyền nhưng đồng thời là nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi cho
đương sự theo nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi của họ.
1.2.2. Nội dung của quyền bình đẳng trƣớc Toà án
Sự thật của vụ án chỉ có thể xác định được khách quan, toàn diện và đầy đủ
khi HĐXX coi trọng mọi loại nguồn chứng cứ, mọi lập luận về các tình tiết của vụ
án cũng như mọi lập luận dẫn chiếu quy định của pháp luật. Vì vậy Điều 19
BLTTHS năm 2003 đã quy định: "Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có
quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh
luận dân chủ trước Toà án...". Như vậy quyền bình đẳng giữa Kiểm sát viên và
những người tham gia tố tụng có lợi ích liên quan thể hiện ở nội dung: bình đẳng

đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật; bình đẳng đưa ra yêu cầu; và bình đẳng tranh luận
dân chủ tại phiên toà.
* Bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật
Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 37 BLTTHS năm 2003 thì KSV có
quyền đưa ra chứng cứ. Theo quy định tại các điểm đ khoản 1 Điều 50, điểm a
khoản 2 Điều 51, điểm a khoản 2 Điều 52, điểm b khoản 2 điều 53, điểm a khoản 1
Điều 54, điểm đ khoản 2 Điều 58, điểm a khoản 3 Điều 59 BLTTHS năm 2003 thì
bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan và đại diện của họ, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự
có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật .
Tại khoản 1 điều 64 Bộ luật TTHS quy định: "Chứng cứ là những gì có thật,
được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi
phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết
cho việc giải quyết đúng đắn vụ án". Như vậy, chứng cứ phải có tính khách quan,
tính liên quan và tính hợp pháp. Trong đó tính hợp pháp được hiểu là "sự phù hợp


16

của nó với các quy định của pháp luật"[55, tr.158] mà một trong các mặt thể hiện
tính hợp pháp là phải được thu thập theo trình tự, thủ tục luật định. Tại điểm a
khoản 3 Điều 58 BLTTHS năm 2003 quy định: "Tuỳ theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi
thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm
giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật
đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập thành biên bản
theo quy định tại Điều 95 Bộ luật này". Tiếp đến, Điều 78 BLTTHS năm 2003 quy
định: "Những tình tiết có liên quan đến vụ án được ghi nhận trong các tài liệu cũng
như đồ vật do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp có thể được coi là chứng cứ.
Trong trường hợp những tài liệu, đồ vật có dấu hiệu quy định tại Điều 74 của Bộ

luật này thì được coi là vật chứng". Nghĩa là một thông tin, tài liệu, đồ vật có thật
trên thực tế liên quan đến vụ án hình sự chỉ trở thành chứng cứ khi nó được các cơ
quan tiến hành tố tụng thu thập theo trình tự thủ tục luật định thể hiện qua hình thức
văn bản tố tụng nhất định như biên bản thu giữ vật chứng, tài liệu, đồ vật, biên bản
lấy lời khai... và đưa vào hồ sơ vụ án. Như vậy theo quy định của luật TTHS Việt
Nam hiện hành, trong số các chủ thể có quyền bình đẳng trước Toà án chỉ có KSV
có quyền đưa ra chứng cứ vì hồ sơ vụ án chỉ do cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng lập trên cơ sở điều tra. Việc quy định chỉ có Kiểm sát viên có
quyền đưa ra chứng cứ là phù hợp với mô hình tố tụng của nước ta, trong đó có sự
phù hợp với các quy định của BLTTHS về trách nhiệm của của các cơ quan tiến
hành tố tụng (nghĩa là quyền luôn đi đôi với trách nhiệm và nghĩa vụ) vì theo quy
định tại Điều 10 BLTTHS năm 2003: "trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về
cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh".
Ngoài ra, khoản 2 Điều 65 BLTTHS năm 2003 quy định: "Những người tham
gia tố tụng, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra tài liệu, đồ
vật và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án". Như vậy, các chủ thể không
chỉ có quyền cung cấp tài liệu, đồ vật có liên quan mà còn có thể cung cấp thông tin
qua việc trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án để bảo vệ lợi ích hợp pháp
của mình nên việc cung cấp thông tin của họ cũng phải được bảo đảm thực hiện


17

bình đẳng. Vì vậy cần xác định thông tin là một nội dung được đảm bảo bình đẳng
trong việc cung cấp như tài liệu, đồ vật.
Như vậy Điều 19 BLTTHS năm 2003 quy định bình đẳng trong việc đưa ra
chứng cứ, tài liệu, đồ vật giữa KSV và những người có quyền lợi ích liên quan là
chưa hợp lý. Thực chất quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật của các chủ thể tham
gia phiên toà quy định tại điều 19 Bộ luật TTHS năm 2003 cần được hiểu là quyền
đưa ra thông tin, tài liệu, đồ vật . Theo đó, Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa,

người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương
sự đều có quyền đưa ra thông tin, tài liệu, đồ vật mới tại phiên toà để bảo vệ quyền
lợi cũng như quan điểm của mình. Khi họ đưa ra thông tin, tài liệu, đồ vật mới thì
Hội đồng xét xử có trách nhiệm tiếp nhận và xem xét giá trị chứng minh của những
thông tin, tài liệu, đồ vật đó trên cơ sở quy định của pháp luật. HĐXX không được
bỏ qua bất cứ sự cung cấp thông tin, tài liệu, đồ vật của bất cứ chủ thể nào. Bởi vì,
hồ sơ chứng cứ được xác lập trong giai đoạn điều tra là rất quan trọng cho việc xét
xử tại phiên toà. Tuy nhiên chứng cứ có trong hồ sơ là do các cơ quan tiến hành tố
tụng thu thập, nhiều trường hợp chưa thể đầy đủ và không loại trừ việc thiếu khách
quan nên để đảm bảo xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ
thì phải đảm bảo có đầy đủ các chứng cứ của vụ án. Việc thực hiện sự bình đẳng
đưa ra thông tin, tài liệu, đồ vật của các chủ thể sẽ tạo điều kiện cho các bên có đủ
căn cứ để bảo vệ quyền lợi cũng như quan điểm của mình đồng thời đảm bảo việc xét xử
của Tòa án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không phiến diện, một chiều.
* Bình đẳng trong việc đưa ra yêu cầu
Bình đẳng trong việc đưa ra yêu cầu đựơc hiểu là: Kiểm sát viên, bị cáo, người
bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của
đương sự tại phiên toà sơ thẩm đều có quyền và có thể đưa ra yêu cầu của mình về
những vấn đề mà pháp luật quy định cho họ có quyền yêu cầu.
Tại các Điều 201, 205, 216 BLTTHS năm 2003 quy định việc HĐXX phải
giải quyết yêu cầu của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng. Theo đó: các


18

chủ thể tham gia phiên toà có các yêu cầu sau: yêu cầu triệu tập thêm người làm
chứng, yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu ra xem xét, yêu cầu hoãn phiên toà khi
có người tham gia tố tụng vắng mặt, yêu cầu xét hỏi thêm. Ngoài ra, theo quy định

tại Điều 202 BLTTHS năm 2003, mặc dù sử dụng thuật ngữ "đề nghị thay đổi Thẩm
phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án,.." như các điều luật quy định tại
Chương IV BLTTHS năm 2003 nhưng trong phần nội dung nêu "Nếu có người yêu
cầu thì HĐXX xem xét…" nên có thể xác định những chủ thể có quyền bình đẳng
còn có quyền yêu cầu (đề nghị) thay đổi người tiến hành tố tụng. Tất cả các chủ thể
này khi bắt đầu phiên toà hay khi kết thúc xét hỏi (đối với yêu cầu xét hỏi thêm) đều
được HĐXX hỏi xem họ có yêu cầu nào trong các yêu cầu trên không và các chủ
thể được hỏi có quyền đưa ra yêu cầu, HĐXX phải có trách nhiệm tạo điều kiện cho
họ thể hiện yêu cầu đó và xem xét, quyết định tất cả những yêu cầu đưa ra, không
phân biệt yêu cầu của ai, yêu cầu về vấn đề gì. Tuy nhiên, theo quy định tại các
chương IV BLTTHS năm 2003 thì các chủ thể tham gia phiên toà không phải có các
quyền yêu cầu về những vấn đề như nhau. Tại Điều 54 BLTTHS năm 2003 quy
định thì người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có quyền yêu cầu thay đổi
người tiến hành tố tụng. Và các quy định trong BLTTHS cũng chưa quy định đầy
đủ về quyền yêu cầu hoãn phiên tòa như tại các điều quy định về người tham gia tố
tụng trong chương IV BLTTHS năm 2003 đều không quy định quyền yêu cầu hoãn
phiên toà của những người này.
* Bình đẳng trong việc tranh luận
Thể chế hoá đường lối của Đảng, quy định "tranh luận dân chủ" được bổ sung
vào nội dung của quyền bình đẳng trước Toà án tại Điều 19 BLTTHS năm 2003.
Tại Điều 37 và các Điều 50, 51, 52, 53, 54, 58, 59 BLTTHS năm 2003 quy định
Kiểm sát viên, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người đại diện hợp pháp của họ, người bào chữa,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền tranh luận dân chủ và Điều 217,
Diều 218 BLTTHS quy định thủ tục cho việc thực hiện quyền tranh luận của các
chủ thể này. Tranh luận là "bàn cãi về một vấn đề nào đó" [14]. Bình đẳng trong
việc tranh luận được hiểu là các Kiểm sát viên và các chủ thể tham gia tố tụng tại
phiên toà theo quy định có quyền phát biểu ý kiến của mình về đánh giá chứng cứ,
về pháp luật áp dụng để bảo vệ quyền lợi của mình hay đưa ra quan điểm của mình



19

về việc giải quyết vụ án và phản bác ý kiến của người khác. Thực tế, qua việc thẩm
tra công khai, chính thức tại phiên toà ở giai đoạn xét hỏi, mỗi chủ thể tố tụng đều
có cách nhìn nhận, đánh giá của mình về kết quả chứng minh. Để thực hiện chức
năng tố tụng, nhiệm vụ tố tụng, để bảo vệ quyền và lợi ích hợi pháp của mình, các
chủ thể tố tụng phải công khai đưa ra ý kiến đánh giá của mình về sự thật khách
quan của vụ án. Các đánh giá khác nhau, phản biện khác nhau của các bên tham gia
tố tụng tại phiên toà sẽ giúp Toà án khách quan hơn, thận trọng hơn, toàn diện hơn
khi đánh giá, phán quyết. Hơn nữa, do nhiều lý do khác nhau như kỹ thuật lập pháp
chưa tốt, quy định của pháp luật chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, trình độ nhận thức pháp
luật chưa sâu mà pháp luật được nhận thức rất khác nhau trong hoạt động tố tụng.
Do vậy việc quy định và tạo điều kiện cho các bên tham gia tố tụng thực hiện quyền
tranh luận tại phiên toà của mình và Toà án có trách nhiệm nghe từng ý kiến tranh
luận, cân nhắc trên cơ sở quy định của pháp luật để ra một phán quyết khách quan,
toàn diện, đầy đủ và đúng pháp luật.
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp
pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền chỉ ra các chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án cũng như các chứng cứ được thu thập tại phiên toà qua việc điều
tra chính thức, công khai tại phiên toà trên cơ sở nhận thức pháp luật áp dụng chứng
minh cho quan điểm, lập luận của mình về vụ án khi phát biểu tại phiên toà hoặc
trong bài bào chữa của mình. HĐXX phải tạo điều kiện thời gian cho họ phát biểu
và xem xét, cân nhắc tất cả các quan điểm đó trước khi ra phán quyết về vụ án. Bởi
vì các ý kiến đánh giá khác nhau, phản biện khác nhau của các chủ thể tố tụng tại
phiên toà sẽ giúp cho HĐXX khách quan hơn, toàn diện hơn và thận trọng hơn khi
đánh giá để ra phán quyết.
Mặc dù Điều 19 BLTTHS năm 2003 quy định Kiểm sát viên và các bên tham
gia tố tụng đều bình đẳng trong việc tranh luận dân chủ nhưng cũng cần nhấn mạnh

rằng trong quá trình tranh luận, những người tham gia tố tụng có quyền phát biểu ý
kiến và đáp lại ý kiến của người khác nhưng Kiểm sát viên với tư cách đại diện cho


20

Nhà nước thực hành quyền công tố không chỉ có quyền tranh luận mà còn có nghĩa
vụ đáp lại ý kiến của những người tham gia tố tụng như tại Điều 218 BLTTHS đã
quy định: "Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền
trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình. Kiểm sát
viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến". Việc quy định Kiểm
sát viên có nghĩa vụ tranh luận thể hiện đuợc tính dân chủ trong hoạt động xét xử vì
Kiểm sát viên là người đại diện cho Nhà nước thực hiện quyền truy tố bị can ra
trước Toà án để xét xử, những quan điểm, đề xuất của Viện kiểm sát đến khi công
bố cáo trạng mới chỉ là giả thiết trên cơ sở chứng cứ thu thập theo trình tự tố tụng
khép kín nên thường tạo ra sự nghi ngờ về tính khách quan. Do vậy, Kiểm sát viên
phải có nghĩa vụ đối đáp để chứng minh cho quan điểm của mình là đúng đắn, có cơ
sở đồng thời khi ý kiến của mình được đáp lại với đầy đủ những chứng cứ, quy định
của pháp luật được viện dẫn sẽ xoá bỏ cảm giác bất bình đẳng với Nhà nước của
những người tham gia tố tụng và việc truy tố, kết tội của Viện kiểm sát có tính
thuyết phục hơn đồng thời thể hiện sự tôn trọng ý kiến của những chủ thể khác
tham gia tố tụng.
* Mối quan hệ giữa các nội dung của quyền bình đẳng
Điều 19 BLTTHS năm 2003 quy định ba nội dung khác nhau của quyền
bình đẳng nhưng việc thực hiện ba nội dung này có mối quan hệ mật thiết với nhau,
không có sự phân biệt. Khi thực hiện nội dung yêu cầu là đảm bảo cho việc đưa ra
chứng cứ hoặc tạo điều kiện cho thực hiện tranh luận dân chủ. Ví dụ: Khi thực hiện
yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng đến phiên toà là đã thực hiện quyền đưa ra
thông tin có liên quan (thông tin này có ở người làm chứng cần triệu tập) và tạo điều
kiện sử dụng tất cả những thông tin cần thiết để tranh luận với các chủ thể khác bảo

vệ quan điểm hay lợi ích của mình. Vì vậy các nội dung của quyền bình đẳng cần
được thực hiện đồng bộ, bất cứ sự vi phạm nội dung nào cũng sẽ dẫn đến nội dung
khác không được bảo đảm thực hiện.
1.2.3. Chủ thể có trách nhiệm bảo đảm quyền bình đẳng trƣớc Toà án
Điều 19 BLTTHS năm 2003 quy định: " Kiểm sát viên, bị cáo, người bào
chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của


×