Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Các mô hình tổ chức, hoạt động của chính phủ tư sản và những kinh nghiệm có thể áp dụng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (725.1 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ HOÀI PHƯƠNG

CÁC MÔ HÌNH TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA
CHÍNH PHỦ TƯ SẢN VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM
CÓ THỂ ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp
Mã số: 60 38 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Thái Vĩnh Thắng

HÀ NỘI - 2010


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cám ơn Quý
thầy cô giáo lớp Cao học Luật khóa XV Trường Đại học Luật Hà
Nội – Những người đã truyền đạt, vun đắp kiến thức cho tôi trong
suốt những năm trên giảng đường đại học.
Tôi cũng xin gửi lời cám ơn đến Quý thầy cô giáo Khoa Sau đại
học – Đại học Luật Hà Nội, các thầy cô giáo, đồng nghiệp công tác
tại Khoa Luật – Đại học Huế đã nhiệt tình giúp đỡ, đóng góp ý kiến
và cung cấp cho tôi những tài liệu cần thiết giúp tôi có thể hoàn


thành tốt luận văn này
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy giáo –
PGS.TS – Thái Vĩnh Thắng, người đã trực tiếp hướng dẫn và dìu
dắt tôi từng bước trong quá trình hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng chắc hẳn luận văn không
thể tránh khỏi những thiếu sót, có những vấn đề lý luận và thực tiễn
đang và sẽ nảy sinh mà tôi chưa cập nhật được. Rất mong sự đóng
góp ý kiến của Quý thầy cô và toàn thể bạn đọc để luận văn đạt kết
quả cao hơn.
Hà Nội, ngày 16 tháng 1 năm 2010
Tác giả đề tài
Nguyễn Thị Hoài Phương


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1. CHÍNH PHỦ TRONG CƠ CẤU BỘ MÁY NHÀ NƯỚC TƯ SẢN.... 7
1.1. Khái niệm về Chính phủ tư sản ............................................................ 7
1.2. Vị trí, vai trò của Chính phủ trong bộ máy nhà nước tư sản ................. 9
1.3. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Chính phủ tư sản ............... 13
1.4. Cơ cấu tổ chức, chức năng, thẩm quyền của Chính phủ tư sản ........... 20
Chương 2. CÁC MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
CHÍNH PHỦ TƯ SẢN ............................................................................... 24
2.1. Mô hình tổ chức và hoạt động của Chính phủ trong chính thể quân
chủ nghị viện ...................................................................................... 24
2.2. Mô hình tổ chức và hoạt động của Chính phủ trong chính thể cộng
hòa nghị viện ...................................................................................... 30
2.3. Mô hình tổ chức và hoạt động của Chính phủ trong chính thể cộng
hòa tổng thống .................................................................................... 35

2.4. Mô hình tổ chức và hoạt động của Chính phủ trong chính thể cộng
hòa lưỡng tính .................................................................................... 40
Chương 3. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM VẬN DỤNG VÀO VIỆC
ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM .... 46
3.1. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam ................ 46
3.2. Sự cần thiết phải đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ .......... 55
3.3. Những bài học kinh nghiệm về cách thức tổ chức và hoạt động của
Chính phủ tư sản có thể vận dụng vào việc đổi mới tổ chức và hoạt
động của Chính phủ Việt Nam ........................................................... 58
KẾT LUẬN ................................................................................................. 73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

.................................75


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Chúng ta thừa nhận những chân lý tự nhiên rằng tất cả mọi người
đều sinh ra bình đẳng, rằng tạo hóa trao cho họ những quyền không thể
tước đoạt, đó là quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Để đảm bảo những quyền này, các Chính phủ được lập ra trong
nhân dân và có được những quyền lợi chính đáng trên cơ sở nhất trí của
nhân dân, rằng bất cứ khi nào, một thể chế chính quyền đó phá vỡ những
mục tiêu này, thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó
và lập nên một chính quyền mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc cũng
như tổ chức thực thi quyền hành theo một thể thức sao cho có hiệu quả tốt
nhất đối với an ninh và hạnh phúc của họ” [17, tr. 9].

Những dòng chữ trên trong Bản Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ đã
khẳng định với thế giới một chân lý rằng: Chính phủ ngày nay, tồn tại
không phải để buộc nhân dân phục vụ nó như trong các xã hội chuyên chế,
độc tài trước đây đã từng tuyên bố mà chính các Chính phủ tồn tại để bảo
vệ nhân dân, bảo vệ các quyền của họ và có tác dụng làm cho xã hội phát
triển thông qua sự phát triển của mọi người.
Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền nổi tiếng của nước Pháp
năm 1789 cũng đã khẳng định: “Tất cả chủ quyền tối cao của Nhà nước
thuộc về dân tộc, không một cá nhân hay một tổ chức nào được vi phạm
chủ quyền tối cao của dân tộc” [17] và “Mục đích của tất cả các tổ chức
chính trị là bảo vệ các quyền tự nhiên và bất khả xâm phạm của con người.
Đó là các quyền: tự do, sở hữu, an toàn và sự chống lại áp bức” [17]. Cùng
với Bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776, Bản tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 đã đặt nền móng cho những
nguyên tắc mới trong việc xây dựng Chính phủ của các Nhà nước dân chủ
hiện đại.


2

Trong bộ máy nhà nước, Chính phủ giữ vai trò hết sức quan trọng.
Chính phủ được lập ra để tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước trên thực
tế, tiến hành hoạt động quản lý, điều hành và đứng đầu hệ thống cơ quan
hành chính của Nhà nước. Không những vậy, Chính phủ còn là trung tâm
của đời sống chính trị của mỗi quốc gia. Một Chính phủ tốt, hữu hiệu là
điều kiện cần thiết, sống còn cho sự phát triển ổn định cả về mặt kinh tế lẫn
về mặt xã hội của một đất nước.
Nhận thức được vị trí hết sức quan trọng của Chính phủ trong cơ cấu
bộ máy nhà nước nên trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền việc
đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ luôn được Đảng và Nhà nước

ta quan tâm, coi trọng. Để làm cơ sở cho việc nghiên cứu cải cách bộ máy
nhà nước ta hiện nay thì những kinh nghiệm và thực tiễn tổ chức, hoạt động
của Chính phủ ở một số nước trên thế giới, đặc biệt là ở các nước tư sản là
hết sức cần thiết và bổ ích đối với chúng ta.
Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về phương thức tổ chức và hoạt
động của các mô hình Chính phủ tư sản, qua đó rút ra những hạt nhân hợp
lý, học hỏi những kinh nghiệm trong cách thức tổ chức hoạt động của
Chính phủ tư sản để có thể vận dụng có hiệu quả ở Việt Nam, hy vọng có
thể góp một phần nhỏ bé vào công cuộc đổi mới, hoàn thiện bộ máy hành
pháp mà Nhà nước ta đang đặt ra trong giai đoạn hiện nay nên tác giả đã
mạnh dạn lựa chọn vấn đề: “Các mô hình tổ chức, hoạt động của Chính
phủ tư sản và những kinh nghiệm có thể áp dụng tại Việt Nam” để làm đề
tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong xu hướng hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa hiện nay cùng với
nhiệm vụ cải cách mạnh mẽ bộ máy nhà nước nhằm phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước thì việc nghiên cứu bộ máy nhà
nước nước ngoài mà trọng tâm là nghiên cứu về bộ máy hành pháp có vai
trò đặc biệt quan trọng. Việc nghiên cứu này sẽ tạo điều kiện để Việt Nam


3

có thể hướng tới việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, thiết lập cơ chế phân
công, phối hợp và kiểm tra giám sát quyền lực nhà nước, bảo vệ các quyền
công dân và quyền con người, chống tham nhũng cho bộ máy nhà nước.
Xuất phát từ nhu cầu đó, thời gian qua các nhà khoa học pháp lý
nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của
Chính phủ tư sản. Trước hết phải kể đến các sách chuyên khảo sau: “Tổ
chức và hoạt động của Chính phủ một số nước trên thế giới” của TS. Vũ

Hồng Anh; “Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại” của PGS.TS Thái
Vĩnh Thắng; “Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền” của PGS.TS
Nguyễn Đăng Dung; “Mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của
Quốc hội, Chính phủ” của GS.TS Trần Ngọc Đường và TS. Ngô Đức
Mạnh.
Bên cạnh các tác phẩm nêu trên, trên các tạp chí chuyên ngành có một
số bài viết đề cập đến mảng đề tài này như: Bài “Về những hạt nhân hợp lý
trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ tư sản” của PGS.TS Thái Vĩnh
Thắng đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số tháng 2 năm 2004; Bài “Xu
hướng cải cách bộ máy nhà nước ở một số nước tư bản phát triển hiện nay”
của Ths. Lưu Văn Quảng đăng trên tạp chí Quản lý nhà nước, số tháng 6 năm
2006.
Những công trình, tài liệu này là nguồn tư liệu nghiên cứu, tham
khảo có giá trị, mang tính lý luận và thực tiễn cao. Các công trình khoa học
trên đã nghiên cứu ở góc độ lý luận chung về các vấn đề tổ chức và hoạt
động của Chính phủ tư sản song chưa có công trình nào trên cơ sở nghiên
cứu một cách toàn diện và có hệ thống về phương thức tổ chức, hoạt động
của Chính phủ tư sản chỉ rõ những hạt nhân hợp lý của từng mô hình để áp
dụng có hiệu quả vào việc cải cách bộ máy nhà nước ta. Như vậy, có thể
nói rằng việc nghiên cứu về mô hình tổ chức, hoạt động của Chính phủ tư
sản và kinh nghiệm áp dụng vào Việt Nam mới chỉ dừng lại ở những bước
đi ban đầu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn


4

Luận văn có mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống cách thức tổ
chức và hoạt động của Chính phủ tư sản trong mỗi hình thức chính thể để
rút ra những hạt nhân hợp lý, trên cơ sở đó đề xuất những những kiến nghị

góp phần hoàn thiện cách thức tổ chức và hoạt động của Chính phủ nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn có những nhiệm
vụ chủ yếu sau:
- Trình bày có hệ thống những vấn đề cơ bản nhất về Chính phủ tư
sản: khái niệm, vị trí, vai trò, chức năng, thẩm quyền của Chính phủ tư sản,
các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Chính phủ tư sản.
- Phân tích các đặc điểm về cách thức tổ chức và hoạt động của
Chính phủ tư sản theo từng hình thức chính thể. Qua đó rút ra những hạt
nhân hợp lý trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ tư sản có thể vận
dụng ở Việt Nam.
- Trên cơ sở đánh giá một cách khái quát thực trạng tổ chức và hoạt
động của Chính phủ Việt Nam, đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần
hoàn thiện Chính phủ Việt Nam theo nhu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về các mô hình tổ chức và hoạt động
của Chính phủ tư sản đương đại căn cứ theo tiêu chí hình thức chính thể:
mô hình Chính phủ trong chính thể quân chủ nghị viện, mô hình Chính phủ
trong chính thể cộng hoà nghị viện, mô hình Chính phủ trong chính thể
cộng hòa tổng thống và mô hình Chính phủ trong chính thể cộng hòa lưỡng
tính.
Tuy nhiên, do luận văn không có điều kiện đi sâu phân tích mô hình
Chính phủ của nhiều nước tư sản mà chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu ở
mỗi chính thể chọn một (hoặc hai) nước tiêu biểu làm điển hình để phân
tích (Anh, Italia, Đức, Mỹ, Pháp, Nga).


5


Bên cạnh việc nghiên cứu mô hình tổ chức và hoạt động của Chính
phủ tư sản, luận văn cũng tập trung nghiên cứu và đánh giá cách thức tổ
chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam theo Hiến pháp hiện hành.

5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chung có tính chất chủ đạo và nền tảng của
luận văn là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác – Lênin, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ
thể: phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải và quy nạp, hệ thống hoá, mô
hình hoá, tư duy lôgic và phương pháp lịch sử.
Phương pháp phân tích được áp dụng để phân tích các mô hình tổ
chức Chính phủ trên thế giới. Phương pháp so sánh và tổng hợp nhằm so
sánh, đối chiếu để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt trong các mô
hình tổ chức Chính phủ. Phương pháp diễn giải và qui nạp được áp dụng
nhằm lý giải và rút ra những kết luận cần thiết sau mỗi phần nghiên cứu,
phương pháp lịch sử nhằm xem xét các vấn đề trong luận văn theo nguồn
gốc xuất xứ và quá trình phát triển của nó. Các phương pháp hệ thống hoá,
mô hình hoá, tư duy lôgic nhằm hỗ trợ các phương pháp nói trên để trình
bày các vấn đề có hệ thống, lôgic và dễ hiểu.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Thông qua việc trình bày một cách cụ thể, toàn diện và có hệ thống
về tổ chức và hoạt động của các mô hình Chính phủ tư sản, luận văn đã góp
phần bổ sung, làm phong phú hơn sự hiểu biết về khái niệm, vị trí, vai trò
của Chính phủ, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Chính phủ tư sản
đặc biệt là những đặc điểm của từng mô hình Chính phủ từ cách thức thành
lập cho đến cơ cấu thành phần và cơ chế hoạt động của Chính phủ.
Đồng thời, luận văn phân tích những điểm tích cực và hạn chế về
cách thức tổ chức hoạt động trong từng mô hình Chính phủ tư sản đương
đại. Qua đó rút ra những hạt nhân hợp lý, học hỏi những kinh nghiệm trong



6

cách thức tổ chức và hoạt động của Chính phủ tư sản như nguyên tắc phân
chia quyền lực, việc đề cao vai trò của người đứng đầu Chính phủ, xác lập
cơ chế chịu trách nhiệm của tập thể Chính phủ, của từng thành viên Chính
phủ, việc xây dựng một Chính phủ công khai, minh bạch…để có thể vận
dụng có hiệu quả vào Việt Nam nhằm đổi mới, hoàn thiện Chính phủ của
Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm có 3 chương, 11 mục.


7

Chương 1
CHÍNH PHỦ TRONG CƠ CẤU BỘ MÁY NHÀ NƯỚC TƯ SẢN
1.1. KHÁI NIỆM VỀ CHÍNH PHỦ TƯ SẢN
Tư tưởng tổ chức quyền lực nhà nước theo hình thức phân lập quyền
lực đã xuất hiện từ lâu. S.L. Montesquieu (1689-1766) trên cơ sở kế thừa tư
tưởng của các nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại Aristot, của nhà tư tưởng Anh
J.Locke đã xây dựng nên thuyết phân chia quyền lực còn gọi là thuyết
“Tam quyền phân lập”. Theo nguyên tắc phân quyền, quyền lực nhà nước
được phân chia thành các quyền khác nhau là lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Trong đó quyền hành pháp do Chính phủ đảm nhiệm đóng một vai
trò vô cùng quan trọng, bởi vì thực hiện quyền hành pháp chính là hoạt
động đưa pháp luật vào cuộc sống, đụng chạm đến mọi mặt của đời sống xã
hội. Chính vì vậy mà Chính phủ được xác định là trung tâm của bộ máy
nhà nước.

Vậy Chính phủ là gì? Khái niệm “Chính phủ” được hiểu như thế nào?
Để làm rõ được vấn đề này, chúng ta phải tiếp cận dưới nhiều bình diện khác
nhau.
Rousseau trong tác phẩm Khế ước xã hội, để trả lời cho câu hỏi
Chính phủ là gì? Ông đã khẳng định: “Chính phủ là một cơ thể trung
gian giữa các thần dân với các cơ quan quyền lực tối cao, để hai bên
tương ứng với nhau, thi hành luật, giữ gìn các quyền tự do dân sự cũng
như tự do chính trị” [36, tr. 122].
Như vậy, theo quan điểm của Rousseau thì Chính phủ đó là “cơ
quan cai trị tối cao”[36, tr. 123]. Cơ quan này được thiết lập như là một
cầu nối trung gian giữa cơ quan quyền lực tối cao (Nghị viện) với thần dân
(ngày này là công dân). Mối quan hệ giữa ba chủ thể này được thể hiện
bằng việc: Chính phủ nhận mệnh lệnh của cơ quan quyền lực tối cao,
truyền tới dân chúng (công dân). Ở góc độ này Chính phủ không những


8

được hiểu là cơ quan cai trị tối cao mà còn được hiểu là một phần của bộ
máy nhà nước có nhiệm vụ tổ chức thực hiện các quyết định của lập pháp
nên là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực tối cao và Chính phủ chỉ
tồn tại khi còn được sự tín nhiệm của cơ quan này.
Xét dưới góc độ ngôn ngữ, từ “Chính phủ” ở đây có nguồn gốc từ
tiếng Hán; trong các tiếng phương Tây như tiếng Anh là (Government),
tiếng Pháp là (Gouvernement), tiếng Đức (Regierung) từ này có nguồn gốc
từ tiếng Hy Lạp là Kubernites với nghĩa “thuyền trưởng” (steersman), “chủ
quản” (governor). Nhìn chung, dù ở phương Đông hay phương Tây thì
Chính phủ thường được hiểu là một chủ thể có quyền lực để thi hành luật
pháp trong một quốc gia. Ở Việt Nam theo định nghĩa của Hội học giả đưa
ra thì “Chính phủ là cơ quan hành pháp, cơ quan quyền lực cao nhất quản

lý công việc ở trung ương” [14, tr. 113]. Xét theo nghĩa pháp lý, Chính phủ
được hiểu là “tập thể các Bộ trưởng thực hiện công quyền của mỗi nước”
[14, tr. 114].
Tùy thuộc vào qui định của Hiến pháp của từng nước mà Chính phủ
các nước khác nhau có những tên gọi khác nhau: Ở Cộng hòa Séc,
Cômlômbia là Chính phủ; ở Nhật, Anh là Nội các; ở Đức là Hội đồng
Chính phủ; ở Thụy Sỹ là Hội đồng liên bang; ở Vênêzuêla là Chính phủ
dân tộc; ở Áo là Chính phủ liên bang trong khi ở Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ là
Hội đồng Bộ trưởng; ở Nauy, Phần Lan, Thụy Điển là Hội đồng Nhà
nước….nhưng theo nghĩa chung nhất thì Chính phủ là cơ quan hành pháp
của mỗi quốc gia.
Hiện nay, trong nhận thức của nhiều người đã đồng nhất khái niệm
“Chính phủ” với khái niệm “hành pháp”. Điều này không hợp lý bởi lẽ
“hành pháp là một danh từ có nghĩa là thi hành luật pháp,không hẳn phù
hợp với các quyền hạn về sự điều hành, chỉ huy, lãnh đạo quốc gia mà
Chính phủ hiện nay đang đảm nhận” [9, tr. 444]. Chính phủ ngoài nhiệm
vụ phải thi hành và thực hiện pháp luật còn phải tự đặt ra pháp luật (dưới


9

dạng là các văn bản dưới luật) theo nhu cầu của việc quản lý đất nước.
Những loại văn bản này chiếm tỷ trọng lớn trong hệ thống pháp luật của
mỗi quốc gia. Chính việc ban hành các văn bản dưới luật mà Chính phủ
được gọi là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Như vậy, trong khi
danh từ “hành pháp” chỉ giới hạn ở nghĩa là thi hành pháp luật thì Chính
phủ lại được hiểu ở cả hai nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Ở nghĩa rộng, Chính
phủ bao gồm toàn bộ các cơ quan nhà nước (bao gồm những tổ chức của
Quốc hội, các Ủy ban, các nhân vật) nắm quyền lực công cộng của quốc
gia. Còn theo nghĩa hẹp được dùng trong qui định của Hiến pháp thì

“Chính phủ có nghĩa là Nội các, hay là thành phần của Chính phủ tương
đương với Nội các ở các nước không có chế định Nội các” [8, tr. 231]. Bản
luận văn này đề cập đến Chính phủ dưới góc độ là khái niệm hẹp. Tức là
nói đến Chính phủ là nói đến Nội các hay là thành phần của Chính phủ
tương đương với Nội các ở các nước không có chế định Nội các.
Tóm lại, Chính phủ là cơ quan tập thể có thẩm quyền chung thực
hiện việc quản lý hoạt động thừa hành và điều hành (tức là hoạt động hành
chính) trong phạm vi cả nước, là cơ quan tối cao của chính quyền hành
pháp.
1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ TRONG BỘ MÁY
NHÀ NƯỚC TƯ SẢN
1.2.1. Vị trí của Chính phủ trong bộ máy nhà nước tư sản
Bộ máy nhà nước tư sản dù tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước
theo bất kỳ hình thức nào đi nữa thì luôn xác định Chính phủ là cơ quan
thực thi quyền hành pháp và đứng đầu hệ thống các cơ quan thực thi quyền
hành pháp. Với tính chất là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, Chính
phủ giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong bộ máy nhà nước của bất kỳ
quốc gia nào. Bởi lẽ, quyền hành pháp do Chính phủ đảm nhiệm là quyền
lực nhà nước về tổ chức thực thi quyền lực, đưa pháp luật vào đời sống xã
hội. Bên cạnh đó, hoạt động quản lý của Chính phủ bao trùm toàn bộ các


10

lĩnh vực trong phạm vi cả nước từ kinh tế, văn hóa xã hội cho đến lĩnh vực
đối ngoại và an ninh quốc phòng. Vì thế, hoạt động của Chính phủ luôn
trực tiếp đụng chạm đến mọi ngóc ngách của đời sống xã hội, của các lợi
ích thiết thân nhất của mọi công dân và của con người. Do vậy có thể nói,
sức mạnh của quyền lực nhà nước và hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà
nước trên thực tế được thể hiện trực tiếp và trước hết thông qua việc thực

thi quyền hành pháp mà đứng đầu là Chính phủ.
Vị trí trung tâm của Chính phủ trong cơ cấu bộ máy nhà nước tư sản
không chỉ được quyết định bởi Chính phủ là cơ quan tối cao của chính
quyền hành pháp mà còn được thể hiện thông qua mối quan hệ giữa Chính
phủ với các thiết chế chính trị khác trong xã hội tư sản, trong đó đầu tiên
phải kể đến mối quan hệ của Chính phủ với các đảng phái chính trị.
Cần phải khẳng định rằng đảng phái chính trị có vị trí hết sức quan
trọng trong đời sống chính trị hiện nay của nhà nước tư sản. Các đảng phái
chính trị được thành lập với mục đích và nhiệm vụ chủ yếu là phấn đấu trở
thành đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền tức là đảng nắm được quyền lập
pháp và hành pháp. Ở mỗi nước khác nhau có những điểm khác nhau về
cách thức thành lập Chính phủ nhưng có nguyên tắc chung là dựa trên cơ
sở đảng chiếm ưu thế qua bầu cử. Chính phủ của các nước tư sản chỉ có thể
hoạt động được được khi có sự ủng hộ, hậu thuẫn của đảng cầm quyền và
các thành viên chủ yếu của Chính phủ là đảng viên của đảng cầm quyền.
Điều đó cho thấy mối quan hệ mật thiết giữa đảng cầm quyền với cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất. Mối quan hệ này chính là rường cột của việc
thực thi quyền lực nhà nước ở bất kỳ quốc gia nào.
Trong chính thể cộng hòa nghị viện và quân chủ nghị viện, nhân dân
tham gia các cuộc bầu cử Nghị viện đích thực là tham gia lựa chọn đảng
cầm quyền cho Nhà nước mình vì Chính phủ được thành lập ra bởi đảng
chiếm đa số hay liên minh các đảng phái có ưu thế trong Nghị viện. Đảng
đứng ra thành lập Chính phủ trở thành đảng cầm quyền. Trong trường hợp


11

này mối quan hệ giữa đảng cầm quyền, Chính phủ và Nghị viện là hết sức
gắn bó. Trong khi đó mối quan hệ giữa Chính phủ và đảng phái chính trị
trong chính thể cộng hòa tổng thống lại có xu hướng mềm dẻo hơn, không

quá mật thiết như trong chính thể đại nghị. Bởi lẽ, khác với các nước theo
chính thể đại nghị, các nước theo chính thể cộng hòa tổng thống áp dụng
cứng rắn nguyên tắc phân chia quyền lực, theo đó Chính phủ trong các
nước này thuộc về Tổng thống do dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu chứ
không không phụ thuộc vào đảng chiếm đa số trong Nghị viện. Nên có thể
có trường hợp Chính phủ thì thuộc về đảng này những quyền lập pháp
thuộc về đảng khác. Tuy nhiên, ứng cử viên muốn đắc cử Tổng thống phải
là ứng cử viên của đảng thắng cử trong cuộc bầu cử Tổng thống và sau khi
đắc cử thì Tổng thống đứng ra thành lập Nội các ưu tiên trước hết các
những thành viên của đảng mình. Như vậy, giữa Tổng thống (Chính phủ)
và đảng phái chính trị vẫn có sự gắn bó chặt chẽ, dù vậy, ở chính thể này
không đi đến việc thiết lập chính quyền đảng trị như ở các nước theo chính
thể đại nghị.
Trong mối quan hệ giữa Chính phủ với nhánh quyền lập pháp và
hành pháp thì Chính phủ tư sản luôn có xu hướng can thiệp sang nhiều lĩnh
vực khác của Nhà nước kể cả lập pháp và tư pháp. Nghị viện muốn có một
đạo luật tốt, chất lượng phải nhờ đến quyền trình dự án luật của Chính phủ,
một số đạo luật của Nghị viện ban hành thông thường phải đợi các văn bản
qui phạm pháp luật do Chính phủ ban hành để hướng dẫn thi hành thì mới
thực sự đi vào cuộc sống. Ở một số nước khi các cơ quan điều tra, truy tố
nằm trong hệ thống cơ quan hành pháp thì Tòa án muốn có một quyết định,
một bản án khách quan, đúng pháp luật thì cũng phải dựa trên cơ sở các
hoạt động điều tra, truy tố từ phía hệ thống các cơ quan thực thi quyền hành
pháp. Không chỉ can thiệp vào hai lĩnh vực nói trên, Chính phủ với với
những ưu thế đặc biệt mà không thiết chế chính trị nào có được, đó là một
bộ máy được thiết lập một cách hoàn chỉnh, với một đội ngũ đông đảo,


12


chuyên nghiệp, đa dạng, được trả lương một cách đầy đủ, nhiều nhất thậm
chí còn đứng ra đảm nhận nhiều nhiệm vụ, quyền hạn mà Hiến pháp, pháp
luật của các nước đã không trù liệu cho bất kỳ nhánh quyền lực nhà nước
nào mà Nhà nước cần phải đảm nhận. Vì vậy, xét cho cùng, trung tâm hoạt
động của Nhà nước, của mỗi quốc gia là hoạt động của Chính phủ.
1.2.2. Vai trò của Chính phủ trong bộ máy nhà nước tư sản
Với vị trí là cơ quan đứng đầu hệ thống thực thi quyền hành pháp,
Chính phủ trong cơ cấu bộ máy nhà nước tư sản có những vai trò quan trọng
sau:
- Chính phủ có vai trò thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm
vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của
Nhà nước. Quản lý nhà nước có nội dung đa dạng, phong phú được nhiều
chủ thể khác nhau thực hiện. Vì thế, quản lý nhà nước thống nhất là nhân tố
bảo đảm cho toàn bộ đời sống Nhà nước và đời sống xã hội vận hành một
cách đều đặn, nhịp nhàng, ăn khớp như một guồng máy. Nhiệm vụ này
thuộc về Chính phủ, do vậy, có thể nói thống nhất quản lý nhà nước là vai
trò quan trọng hàng đầu của Chính phủ.
- Để đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động quản lý nhà nước,
Chính phủ thực hiện vai trò lãnh đạo, chỉ đạo hướng dẫn thực hiện và kiểm
tra hoạt động của các Bộ, cơ quan ngang Bộ và các cơ quan khác thuộc
Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước các cấp ở địa phương. Ở
khía cạnh này có thể khẳng định, Chính phủ là nhân tố hàng đầu bảo đảm
hiệu lực và hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến
cơ sở. Với vị trí là cơ quan đứng đầu hệ thống các cơ quan quản lý hành
chính, Chính phủ có trách nhiệm trong việc bảo đảm cơ sở vật chất cũng
như đội ngũ cán bộ, công chức trong toàn hệ thống. Vì thế, hiệu lực và hiệu
quả tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tốt hay xấu, mạnh hay yếu
phụ thuộc phần lớn vào Chính phủ.
- Chính phủ có vai trò to lớn trong việc bảo đảm tôn trọng và chấp



13

hành Hiến pháp và pháp luật.
Việc bảo đảm sự tôn trọng và chấp hành Hiến pháp là vai trò to lớn
của Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền. Hiến pháp, luật do Nghị viện
ban hành là phương tiện hàng đầu để quản lý nhà nước và xã hội nên phải
được sự chấp hành của mọi công dân và cả chính các cơ quan nhà nước.
Chính Chính phủ với vị trí là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất phải
có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống.
Chính phủ thực hiện vai trò này của mình thông qua quyền lập quy. Các
văn bản của Chính phủ phải cụ thể hóa đúng đắn các văn bản luật do Nghị
viện ban hành. Bên cạnh đó, Chính phủ phải đảm đương công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật nhằm nâng cao ý thức và văn hóa pháp lý của
quần chúng nhân dân.
Pháp luật do Nghị viện ban hành không chỉ phương tiện hàng đầu mà
Nhà nước sử dụng để quản lý nhà nước và xã hội mà còn là công cụ ghi
nhận và bảo vệ các quyền tự do dân chủ của người dân. Chính vì vậy mà
việc Chính phủ tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp cũng chính là Chính phủ tôn
trọng và bảo vệ các quyền tự do dân chủ của nhân dân. Chính phủ trong
Nhà nước tư sản một mặt là “cơ quan cai trị tối cao” [36], mặt khác nó
cũng là động cơ của dân chủ. Chính phủ là cơ quan được thiết lập ra để
bênh vực và bảo vệ các quyền lợi công của tập thể cộng đồng. Do đó, một
Chính phủ không công khai và minh bạch, hoạt động không hiệu quả thì
không thể đảm đương được vai trò này và lúc đó quốc gia sẽ không vững
mạnh và các quyền công dân có thể sẽ bị chà đạp.
1.3. CÁC NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
CHÍNH PHỦ TƯ SẢN
Tùy thuộc vào từng mô hình chính thể mà việc tổ chức và hoạt động
của các Chính phủ tư sản đương đại có những khác biệt nhất định. Tuy

nhiên, nhìn một cách tổng quát thì tổ chức và hoạt động của Chính phủ tư
sản dù ở chính thể nào cũng có những nguyên tắc chung xuất phát từ chính


14

những nguyên tắc được xác lập trong việc tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước tư sản. Theo đó, Chính phủ tư sản được tổ chức và hoạt động dựa
trên những nguyên tắc chung, cơ bản sau:

1.3.1. Nguyên tắc phân chia quyền lực
Nguyên tắc phân chia quyền lực là một trong những nguyên tắc cơ
bản và quan trọng nhất của Nhà nước tư sản, là nền tảng cho việc xác định
vị trí, chức năng của nhánh quyền hành pháp. Nguyên tắc này được xây
dựng dựa trên cơ sở thuyết tam quyền phân lập của Montesquieu. Theo
quan điểm của Montesquieu thì quyền lực nhà nước bao gồm ba nhánh
quyền là quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp và nếu cả ba thứ quyền này
tập trung vào trong tay một người hoặc một cơ quan sẽ tạo ra sự lạm dụng
quyền lực, một chính thể độc tài và tất yếu lúc đó các quyền công dân, các
quyền con người sẽ bị xâm phạm. Do vậy, ông đòi hỏi ba nhánh quyền này
phải được chia tách nhau hay phải được trao cho các cơ quan khác nhau
đảm trách thực hiện, trong đó quyền lập pháp thuộc về Nghị viện, quyền
hành pháp thuộc về Chính phủ và quyền tư pháp được trao cho Tòa án. Ba
nhành quyền lực này kiềm chế và đối trọng lẫn nhau, có vậy mới chống
được sự lạm quyền, mới đảm bảo được các quyền của công dân.
Tuy nhiên, nguyên tắc này trong Nhà nước tư sản hiện đại có sự áp
dụng khác nhau. Ở các nước theo chính thể đại nghị, nguyên tắc này được
áp dụng một cách khá mềm dẻo trong khi đó các nước theo chính thể cộng
hòa tổng thống lại áp dụng một cách cứng rắn hơn nguyên tắc phân quyền.
Ở các nước tư sản việc phân chia quyền lực được thể hiện trên cả hai

chiều. Theo chiều dọc thì quyền lực nhà nước được phân chia giữa chính
quyền trung ương với chính quyền địa phương. Theo chiều ngang, quyền
lực chia thành ba nhánh là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy giữa các
nhánh quyền lực có sự phân chia quyền lực rõ ràng nhưng giữa các cơ quan
này cũng có mối liên hệ khăng khít, mật thiết với nhau thể hiện qua việc


15

hiệu quả hoạt động của cơ quan này dựa trên cơ sở hiệu quả hoạt động của
cơ quan khác và ngược lại. Vì thế mà muốn cho bộ máy nhà nước vận hành
có hiệu quả thì cả ba hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước đều phải hoàn
thành tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Muốn vậy thì cần phải
xác định rạch ròi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chúng để “cơ quan
này không làm công việc của cơ quan khác, không nhầm lẫn hay tranh
giành quyền lực của cơ quan khác; giữa các hệ thống cơ quan có sự phối
hợp, hỗ trợ lẫn nhau để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình mà không cản
trở nhau khi thi hành nhiệm vụ” [37, tr. 27]. Chính việc phân quyền như
vậy một mặt khắc phục được tình trạng chuyên chế, độc tài khi quyền lực
tập trung vào trong tay một người hoặc một cơ quan; mặt khác bảo đảm
cho việc phân định rõ ràng, cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho các
cơ quan nhà nước khác nhau, nhờ vậy mà tình trạng chồng chéo, lẫn lộn
quyền lực giữa các nhành quyền lực được hạn chế. Như vậy, việc áp dụng
nguyên tắc phân quyền của Nhà nước tư sản “không những không làm ảnh
hưởng đến việc thống nhất quyền lực mà còn là điều kiện đảm bảo cho sự
thống nhất quyền lực” [38, tr. 63]. Thiết nghĩ, đây chính là hạt nhân hợp lý
của thuyết phân quyền mà Việt Nam cần lĩnh hội để áp dụng có hiệu quả
trong việc tổ chức bộ máy nhà nước ta nói chung và đặc biệt là trong công
tác cơ cấu, sắp xếp lại Chính phủ trong giai đoạn hiện nay.
1.3.2. Chủ quyền tối cao của Nhà nước thuộc về nhân dân

Nguyên tắc này được ghi nhận một cách trang trọng trong các điều
khoản của Hiến pháp các nước tư sản: Điều 3 Hiến pháp Pháp 1958, Điều 1
Hiến pháp 1975 của Thụy Điển…… Nội dung của nguyên tắc này được thể
hiện ở chỗ: Tất cả các công việc quan trọng nhất của Nhà nước và những
công việc liên quan đến vận mệnh, lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc thì do
nhân dân định đoạt. Chủ quyền tối cao của Nhà nước chỉ giao cho một chủ
thể duy nhất là toàn thể nhân dân chứ không thuộc về một tầng lớp hay một
cá nhân nào. Nhân dân có thể thực hiện chủ quyền tối cao của mình bằng


16

các phương pháp dân chủ trực tiếp như trưng cầu dân ý, bầu cử phổ thông
đầu phiếu hay các biện pháp dân chủ gián tiếp thông qua Nghị viện và cơ
quan dân cử ở địa phương. Hiện nay, ở các nước tư sản phát triển đã hình
thành một thói quen hết sức dân chủ là tổ chức trưng cầu dân ý những vấn
đề quan trọng của quốc gia như sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, quyết định
việc tham gia liên minh Châu Âu, quyết định phê chuẩn Hiệp ước Lisbon
(Hiến pháp Liên minh Châu Âu)…. Thông qua trưng cầu dân ý, ý kiến của
nhân dân được thể hiện và buộc các cơ quan nhà nước phải quan tâm đến ý
kiến của toàn thể nhân dân. Ngoài việc tiến hành trưng cầu dân ý khi quyết
định những vấn đề quan trọng của quốc gia, nhân dân của các Nhà nước tư
sản có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia cùng với Chính phủ vào quá
trình hoạch định chính sách của quốc gia hay địa phương. Thiết nghĩ, đây
là một thói quen tốt mà Việt Nam cũng cần học hỏi để tạo điều kiện cho
nhân dân tham gia vào việc quản lý Nhà nước một cách hiệu quả hơn.
1.3.3. Nguyên tắc đa nguyên chính trị và đa đảng
Nguyên tắc đa nguyên chính trị và đa đảng là một trong những
nguyên tắc cơ bản và phổ biến của nền dân chủ tư sản, đồng thời cũng là
nguyên tắc cơ bản của tổ chức Nghị viện và Chính phủ tư sản. Nguyên tắc

đa nguyên chính trị cho phép công dân có quyền tự do chính kiến, có thể
công khai thể hiện quan điểm chính trị của mình thậm chí có quyền chỉ
trích đường lối chính trị của Chính phủ. Chính vì thừa nhận nguyên tắc đa
nguyên, đa đảng nên Nhà nước tư sản cho phép sự tồn tại của nhiều đảng
phái chính trị. Mục đích của các đảng phái chính trị là thông qua các cuộc
bầu cử trở thành đảng cầm quyền hoặc có tiếng nói của mình trong Nghị
viện. Tất cả các đảng phái chính trị đều được tự do tranh cử, bình đẳng và
có cơ hội ngang nhau trong việc được tham gia thực hiện quyền lực tại
Nghị viện hay trong việc đề cử ứng cử viên của đảng mình tranh cử các
chức danh cao cấp của bộ máy nhà nước với một điều kiện quan trọng là
mỗi đảng phải cố gắng bảo đảm cho mình một sự ủng hộ rộng rãi của nhân


17

dân.

Chính sự tồn tại của chế độ đa nguyên, đa đảng nên trong tổ chức và
hoạt động của Nhà nước tư sản bên cạnh sự tồn tại của đảng cầm quyền còn
thừa nhận sự tồn tại của đảng đối lập ví dụ như “Nội các bóng” của Anh
quốc. Việc thừa nhận cơ chế đảng đối lập buộc Chính phủ trong quá trình
điều hành, quản lý đất nước phải thận trọng hơn, phải cảnh giác hơn với
những biểu hiện sai lầm, trì trệ, tham nhũng…Có vậy, mới được nhân dân
tín nhiệm bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử kế tiếp. Như vậy, quyền lực nhà
nước không chỉ được phân chia giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp mà còn
thể hiện sự phân chia quyền lực giữa các đảng phái chính trị. Với sự phân
chia quyền lực trên nhiều góc độ như vậy, việc chống lạm quyền một cá
nhân, một nhóm người sẽ được thể hiện ở mức độ tốt nhất.
1.3.4. Nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền được xây dựng dựa trên cơ sở của học thuyết

về Nhà nước pháp quyền do các học giả tư sản tự do Châu Âu khởi xướng:
J.Locke, S.L. Montesquieu, I.Kant, Hegel… Học thuyết này là một trong
những giá trị chung của nhân loại, có lịch sử phát triển lâu dài, gắn liền với
cuộc đấu tranh của nhân dân các dân tộc Châu Âu vì tự do, dân chủ. Chính
vì vậy mà Nhà nước pháp quyền đã được chuyển hóa từ một học thuyết
thành nguyên tắc hiến định được ghi nhận trong đạo luật cơ bản của các
quốc gia.
Theo quan điểm chung của các học giả tư sản, Nhà nước pháp quyền
được nhận thức là một Nhà nước với những dấu hiệu đặc trưng cơ bản sau:
- Nhà nước pháp quyền là Nhà nước thừa nhận và tôn trọng sự thống
trị của pháp luật trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hiến pháp, luật và
các văn bản dưới luật phải được các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội
và mọi công dân tôn trọng và thực hiện một cách nghiêm chỉnh, đầy đủ,
thống nhất và đều phải chịu trách nhiệm pháp lý như nhau khi vi phạm
pháp luật. Nghĩa là trong Nhà nước pháp quyền không chỉ có công dân có


18

nghĩa vụ tuân theo pháp luật mà ngay cả Nhà nước cũng phải biết tự hạn
chế quyền lực của mình trong khuôn khổ pháp luật.
- Nhà nước pháp quyền là Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền
tự do, những lợi ích hợp pháp khác của công dân đồng thời cũng phải chịu
trách nhiệm pháp lý đối với những hành vi xâm hại tới các quyền tự do và
lợi ích hợp pháp của công dân. Như vậy trong Nhà nước pháp quyền pháp
luật không chỉ là công cụ mà Nhà nước sử dụng để quản lý xã hội mà nó
còn là công cụ để mọi công dân đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
- Nhà nước pháp quyền là Nhà nước mà quyền lực nhà nước được
phân định rõ ràng theo ba chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp và

giao cho ba cơ quan quyền lực khác nhau đảm trách nhằm kiểm soát, kiềm
chế lẫn nhau trong thực thi quyền lực, tránh sự tùy tiện và lạm quyền
Hiện nay, việc vận dụng học thuyết về Nhà nước pháp quyền ở các
nước tư sản diễn ra theo các hướng chính sau:
- Nâng cao vai trò điều hành của các cơ quan hành chính đứng đầu là
Chính phủ nhưng không lấn át quyền lập pháp của Nghị viện.
- Nhấn mạnh công việc kiểm tra sự hoạt động các cơ quan hành chính
nhà nước từ phía người dân (chủ yếu là thông qua các kênh báo chí và truyền
thông).
- Nâng cao khả năng bảo đảm và bảo vệ các quyền tự do và lợi ích
hợp pháp của công dân, đặc biệt là hoàn thiện cơ chế khiếu nại tố cáo và
giải quyết các khiếu nại tố cáo này bằng con đường Tòa án hành chính.
- Củng cố các thiết chế đã có để kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản
qui phạm pháp luật do Nghị viện và Chính phủ ban hành. Tùy vào đặc điểm
riêng mà mỗi quốc gia thiết lập cơ quan bảo hiến theo các mô hình khác
nhau.
- Điểm đặc biệt là trong các nước tư sản có thiết chế kiểm tra, giám
sát các nhánh quyền lực tối cao trong bộ máy nhà nước nhất là nhánh


19

quyền hành pháp khá hữu hiệu. Ở Mỹ nếu Thẩm phán Tòa án tối cao, các
quan chức hành pháp thậm chí là Tổng thống vi phạm pháp luật thì có thể
bị xét xử theo thủ tục đàn hạch, có thể bị cách chức và truy cứu trách nhiệm
hình sự tại một Tòa án thông thường; một đạo luật của Quốc hội có thể bị
Tòa án tối cao tuyên bố vi hiến. Hiện nay để giám sát Chính phủ có hiệu
quả hơn, đa số các nước tư sản trong cơ cấu của Nghị viện đã thành lập
thêm Kiểm toán Nghị viện và Thanh tra Nghị viện. Thanh tra Nghị viện có
thể tiến hành thanh tra đối với bất kỳ nhân vật cao cấp nào trong bộ máy

nhà nước khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Qua đó có thể thấy, thông qua
các thiết chế kiểm tra, giám sát các nhánh quyền lực tối cao của bộ máy
nhà nước đã làm cho không một quan chức cao cấp nào trong bộ máy nhà
nước nằm ngoài sự kiểm soát của pháp luật. Đây cũng là hạt nhân hợp lý
mà Việt Nam cần học hỏi để áp dụng thành công vào nước mình trong giai
đoạn hiện nay.
1.3.5. Nguyên tắc tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí,
tự do xuất bản
Sự tôn trọng của Nhà nước đối với các quyền này của công dân được
ghi nhận trong Hiến pháp của các nước tư sản. Điều 13 Hiến pháp Liên bang
Nga 1993 tuyên bố:“Liên bang Nga thừa nhận hệ tư tưởng đa dạng. Không
một hệ tư tưởng nào được coi là hệ tư tưởng của Nhà nước và bắt buộc”. Về
cơ bản, nguyên tắc này được xác định là nguyên tắc đặc biệt quan trọng để
thiết lập chế định quyền công dân và quyền con người trong Nhà nước tư sản
và mặc dù không trực tiếp liên quan đến việc tổ chức bộ máy nhà nước
nhưng đối với chức năng quản lý nhà nước của Chính phủ nó lại có sự liên
quan trực tiếp.
Chính bởi tồn tại nguyên tắc này nên các Nhà nước tư sản không
thiết lập bất kỳ một hệ tư tưởng nào là thống soái trong xã hội, “Chính phủ
không can thiệp vào hoạt động báo chí, xuất bản đồng thời báo chí có thể
phê phán Chính phủ khi Chính phủ có những quyết sách không đúng đắn,


20

có hiện tượng tham nhũng hay bê bối” [38, tr. 66-67]. Chính nhờ sự hoạt
động độc lập của hệ thống báo chí, xuất bản nên hệ thống này được xem
như là một kênh “phản biện xã hội” đối với Chính phủ buộc Chính phủ
trong quá trình hoạt động phải cẩn trọng và có trách nhiệm hơn.


1.4. CƠ CẤU TỔ CHỨC, CHỨC NĂNG, THẨM QUYỀN CỦA
CHÍNH PHỦ TƯ SẢN
1.4.1. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ tư sản
Tùy thuộc vào hình thức chính thể, cách thức tổ chức bộ máy nhà
nước của từng quốc gia nên cơ cấu tổ chức của Chính phủ ở mỗi nước có
sự khác nhau, nhưng tựu chung lại, gồm những thành phần chủ yếu sau:
* Người đứng đầu Chính phủ
Ở những nước khác nhau, người đứng đầu Chính phủ được gọi bằng
những tên khác nhau. Tuy vậy, đa số các nước theo chính thể đại nghị và
cộng hòa lưỡng tính gọi người đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng tức là Bộ
trưởng thứ nhất trong số các Bộ trưởng. Trong khi đó ở chính thể cộng hòa
tổng thống, Tổng thống vừa là Nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu
chính quyền hành pháp. Người đứng đầu Chính phủ là biểu tượng của toàn
bộ Chính phủ, là người lãnh đạo Chính phủ, có nhiệm vụ cụ thể hóa đường
hướng hoạt động của Chính phủ, có trách nhiệm nhắc nhở và tổng thể điều
phối sự hoạt động của các Bộ trưởng, đòi hỏi họ phải tuân thủ chính sách
chung. Chính vì vậy mà thông thường người đứng đầu Chính phủ có quyền
tuyển lựa toàn bộ thành viên của Chính phủ và các thành viên đó tiếp tục
làm việc khi người đứng đầu Chính phủ còn tín nhiệm. Mỗi thành viên của
Chính phủ này hay Chính phủ khác đều phụ thuộc nhất định vào người
đứng đầu Chính phủ. Thực tiễn cho thấy, việc chấm dứt quyền hạn của
người đứng đầu Chính phủ dù do nguyên nhân nào cũng dẫn đến việc chấm
dứt quyền hạn của toàn bộ Chính phủ.
* Nội các: Trong chính thể quân chủ nghị viện, cộng hòa nghị viện


21

và cộng hòa lưỡng tính thì Nội các thường bao gồm Thủ tướng, Phó Thủ
tướng (nếu có) và các Bộ trưởng. Trong khi đó, Nội các trong chính thể

cộng hòa tổng thống chỉ gồm các Bộ trưởng. Tuy nhiên, Nội các thông
thường chỉ có các thành viên Chính phủ đứng đầu các Bộ quan trọng nhất.
* Bộ trưởng: là người được giao quyền lãnh đạo một Bộ hay đặc
trách công tác của Chính phủ có thẩm quyền cao nhất về lĩnh vực, ngành
mình phụ trách. Bộ trưởng bảo đảm thực hiện chức năng hành chính trên
hai mặt: một là, lập quy; hai là, quản lý các cơ quan trong ngành, lĩnh vực
mình phụ trách.
* Bộ trưởng không Bộ: là thành viên của Chính phủ, vị Bộ trưởng
không phụ trách Bộ nào mà phụ trách một số nhiệm vụ đặc biệt do Thủ tướng
giao.
* Quốc Vụ khanh: mang hàm Bộ trưởng, thường phụ trách Văn
phòng Chính phủ, giúp Thủ tướng về một số lĩnh vực quan trọng như: tổ
chức và quản lý hành chính nhà nước, chiến lược kinh tế - xã hội, phát triển
khoa học kỹ thuật.
* Bộ, Ủy ban nhà nước (gọi chung là Bộ): là cơ quan hành chính ở
cấp trung ương, chịu trách nhiệm điều hành chiều hướng chính trị và chiến
lược phát triển ở một hay một số lĩnh vực nhất định trong phạm vi cả nước,
có quyền thay mặt Chính phủ trong lĩnh vực được giao. Nhìn chung trong
cơ cấu tổ chức của Chính phủ hiện đại đều có các Bộ để quản lý các lĩnh
vực về quân sự, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, xã hội…. Có những Bộ mà
nước nào cũng có như Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư
pháp, Bộ Tài chính, Bộ Y tế.
1.4.2. Chức năng, thẩm quyền của Chính phủ tư sản
1.4.2.1. Chức năng của Chính phủ tư sản
Chính phủ với tính chất là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của
bất kỳ quốc gia nào nên chức năng quản lý nhà nước là chức năng cơ bản nhất
của Chính phủ, chức năng này của Chính phủ có những nội dung chủ yếu sau


22


đây:
- Tổ chức thực hiện các quy định của Hiến pháp và luật.
- Nghiên cứu, xây dựng chính sách có tính chất tham mưu cho Nghị
viện, cho chính mình và các cấp, các ngành định hướng phát triển.
- Ban hành các quyết định nhằm quản lý đất nước.
- Điều hành mang tính chất hành chính công quyền. Hoạt động này
mang tính chất điều hành tác nghiệp, mang tính chất hành chính công quyền
ở tầm vĩ mô; vừa có tính chất thực thi, vừa có tính chất kiểm tra, thanh tra,
xử lý.
1.4.2.2. Thẩm quyền của Chính phủ tư sản
Hiến pháp của đa số các nước tư sản chỉ qui định thẩm quyền chung
mà không qui định rõ những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Chính phủ. Bởi
lẽ theo quan niệm của các nhà lập hiến tư sản thì hoạt động hành pháp là
hoạt động phong phú, phức tạp và đa dạng đến mức không thể trù liệu trước
được các hành vi của hành pháp bằng các qui phạm pháp luật, vì vậy mà mọi
sự liệt kê thẩm quyền của Chính phủ đều thể hiện sự hạn hữu của chúng.
Bên cạnh đó, việc các Nhà nước tư sản áp dụng nguyên tắc phân quyền trong
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đã vừa đủ cho việc xác định
thẩm quyền của nhánh hành pháp. Thực tiễn cho thấy rằng, chính việc Hiến
pháp tư sản không qui định rõ ràng, cụ thể thẩm quyền của Chính phủ là điều
kiện cho Chính phủ nới rộng các quyền hạn của mình. Vì rằng những việc
liệt kê thì hết sức ngắn gọn, hạn hữu còn những việc không được liệt kê thì
không thể nào biết hết được.
Theo qui định pháp luật, tập quán, truyền thống của các nước tư sản,
Chính phủ có các thẩm quyền chung, quan trọng sau:
- Trước hết, Chính phủ có nhiệm vụ khởi thảo, vạch ra chính sách
đối nội và đối ngoại của Nhà nước.
- Chính phủ thực hiện chức năng quản lý. Để thực hiện chức năng
này, Chính phủ thành lập bộ máy hành pháp và sau đấy là lãnh đạo hoạt



×