Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Chất vấn của đại biểu quốc hội ở việt nam hiện nay những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (599.03 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ HỒNG

CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY- NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

MÃ SỐ: 603801

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
GS.TS TRẦN NGỌC ĐƯỜNG

HÀ NỘI 2010


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thiện luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy, cô
giáo, bạn bè và đồng nghiệp. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành của mình với các thầy, cô giáo Trường Đại học Luật Hà Nội- nơi tôi đã
học tập ba năm qua và các bạn bè, đồng nghiệp.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình với Thầy giáo, Giáo sưTiến sĩ Trần Ngọc Đường đã tận tình hướng dẫn khoa học, giúp đỡ tôi trong
quá trình hoàn thiện luận văn này.



Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

1. Đại biểu Quốc hội: ĐBQH
2. Ủy ban Thường vụ Quốc hội: UBTVQH
3. Tòa án nhân dân tối cao: TANDTC
4. Viện kiểm sát nhân dân tối cao: VKSNDTC.


MỤC LỤC

Nội dung

Trang

Lời nói đầu

1

Chương 1: Cơ sở lý luận về chất vấn của ĐBQH

6

1.1. Chất vấn – quyền cơ bản của ĐBQH


6

1.1.1. Khái niệm chất vấn và bản chất của quyền chất vấn của

6

ĐBQH
1.1.2. Chế định pháp luật về quyền chất vấn của ĐBQH và vai

17

trò của nó trong việc thực hiện quyền chất vấn của ĐBQH
1.2. Vai trò của chất vấn và các bảo đảm thực hiện quyền chất

20

vấn của ĐBQH
1.2.1. Vai trò của chất vấn của ĐBQH

20

1.2.2. Các bảo đảm thực hiện quyền chất vấn của ĐBQH

21

Chương 2: Thực trạng chất vấn của ĐBQH và yêu cầu, giải

24

pháp nâng cao chất lượng chất vấn của ĐBQH Việt Nam

2.1. Thực trạng pháp luật về quyền chất vấn của ĐBQH

24

2.1.1. Quy định của pháp luật về chất vấn của ĐBQH trước khi

24

có Hiến pháp 1992
2.1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về chất vấn của ĐBQH

26

2.2. Thực hiện quyền chất vấn của ĐBQH nước ta trong thực

35

tiễn
2.2.1. Thực hiện quyền chất vấn của ĐBQH nước ta trước khi có

35

Hiến pháp 1992
2.2.2. Thực hiện quyền chất vấn của ĐBQH nước ta hiện nay

39

2.2.2.1 Chất vấn tại kỳ họp Quốc hội

39


2.2.2.2 Chất vấn tại phiên họp của UBTVQH

55

2.3. Các yêu cầu nâng cao chất lượng chất vấn của ĐBQH

56


2.4. Giải pháp nâng cao chất lượng chất vấn của ĐBQH

59

2.4.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý về chất vấn và trả lời chất vấn

59

của ĐBQH
2.4.2. Các giải pháp khác nâng cao chất lượng chất vấn của

62

ĐBQH
2.4.2.1 Đảm bảo điều kiện về chính trị- pháp lý theo định hướng

62

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.4.2.2 Đảm bảo điều kiện về thông tin


63

2.4.2.3 Đảm bảo điều kiện về bộ máy tham mưu, giúp việc

63

2.4.2.4 Đảm bảo điều kiện về tài chính

64

2.4.2.5 Đảm bảo về công cụ phục vụ chất vấn

65

2.4.2.6 Các giải pháp về ĐBQH

65

Kết luận

68

Danh mục tài liệu tham khảo

70


1


LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) khẳng định: “Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Điều 2). “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà
nước thông qua Quốc hội và HĐND là những cơ quan đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước
nhân dân” (Điều 6). Ở tầm cao và rộng nhất, nhân dân sử dụng quyền lực nhà
nước thông qua Quốc hội. “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”. Vì vậy, Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ
hoạt động của Nhà nước. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình
tại kỳ họp Quốc hội trên cơ sở hoạt động giám sát của UBTVQH, Hội đồng
dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn ĐBQH và ĐBQH. Trong đó, chất vấn
của ĐBQH đối với Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ,
Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án TANDTC, Viện
trưởng VKSNDTC là một hình thức giám sát rất quan trọng và hiệu quả. Đây
là hình thức giám sát trực tiếp, thể hiện bản lĩnh của ĐBQH và năng lực điều
hành, lãnh đạo của những người đứng đầu cơ quan nhà nước. Hoạt động chất
vấn của ĐBQH có ý nghĩa quan trọng như vậy nhưng về mặt lý luận, trong
những năm đổi mới, cùng với chủ trương tăng cường vai trò của Quốc hội, đã
có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến các chức năng của Quốc hội, trong
đó có chức năng giám sát, song có rất ít công trình nghiên cứu cụ thể về chất
vấn của ĐBQH. Do vậy, những vấn đề lý luận về hoạt động này dường như
còn bỏ ngỏ.



2

Mặt khác, về mặt pháp luật, chất vấn và trả lời chất vấn của ĐBQH được
ghi nhận trong bốn bản Hiến pháp của nước ta và các luật như: Luật tổ chức
Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và các văn bản có liên quan.
Có thể nói, Hiến pháp và Luật đã quy định hoạt động chất vấn của ĐBQH
nhưng còn cần hoàn thiện để nâng cao chất lượng của hoạt động này.
Về mặt thực tiễn, qua các khoá Quốc hội, đặc biệt là các khoá Quốc hội
gần đây thì hoạt động chất vấn của ĐBQH đã có nhiều tiến bộ, nhưng cũng
còn nhiều hạn chế, có những chất vấn chưa thể hiện xứng tầm; chưa thật sự
phát huy vai trò là phương thức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc
hội, chưa phản ánh được lòng mong mỏi và nguyện vọng của nhân dân.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu “Chất vấn của ĐBQH ở Việt Nam
hiện nay - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” là cần thiết, góp phần xây
dựng và hoàn thiện cơ sở lý luận; cơ sở pháp lý về hoạt động này nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả của chất vấn và trả lời chất vấn, đóng góp vào việc
đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động giám sát của Quốc hội, ĐBQH;
phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nâng cao hiệu quả của hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn được Đảng,
Nhà nước, các ĐBQH và nhân dân quan tâm. Tuy nhiên, chất vấn là vấn đề
mới ở nước ta, không thuần tuý mang tính chất pháp lý mà còn mang tính chất
chính trị và kỹ năng của từng Đại biểu nên việc nghiên cứu vấn đề này còn
hạn chế. Liên quan đến đề tài luận văn, có thể kể đến một số công trình sau:
- “Quyền chất vấn của ĐBQH tại kỳ họp: thực trạng và kiến nghị giải
pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả” của Tiến sĩ Phan Trung Lý; “Luận cứ
khoa học để xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Quốc
hội”- đề tài khoa học cấp Nhà nước do Văn phòng Quốc hội chủ trì.
- Luận văn thạc sĩ luật học: “Hoàn thiện pháp luật về ĐBQH” của tác giả
Nguyễn Đình Quyền; Luận án tiến sĩ luật học: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của



3

việc đổi mới cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội Việt
Nam trong điều kiện hiện nay” của tác giả Lê Thanh Vân.
- Các sách: “Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện
nay” của PGS,TS. Bùi Xuân Đức (2007), Nxb. Tư pháp, Hà Nội; “Quốc hội
Việt Nam trong nhà nước pháp quyền” do PGS,TS. Nguyễn Đăng Dung chủ
biên (2007), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội…
- Một số bài báo chuyên khảo đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp
như: “Một vài suy nghĩ về hoạt động chất vấn của Quốc hội” của tác giả
Tuyết Mai; “Hoạt động chất vấn - nhìn từ thực tế một kỳ họp Quốc hội” của
tác giả Nguyên Thành; “Hoạt động chất vấn của ĐBQH- một số vấn đề cần
quan tâm” của tác giả Trần Hoàng Minh…
Với những mức độ và cách tiếp cận khác nhau, các công trình nêu trên
đều đề cập đến Quốc hội, chất vấn của ĐBQH. Tuy nhiên, các công trình này
chỉ nói rất ít đến chất vấn và trả lời chất vấn của ĐBQH mà chưa coi hoạt
động này như là một vấn đề nghiên cứu độc lập. Do đó, chất vấn của ĐBQH
chưa được nghiên cứu một cách toàn diện để phục vụ hoạt động của ĐBQH,
của Quốc hội được tốt hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận
và pháp lý, đặc biệt là thực tiễn chất vấn và trả lời chất vấn của ĐBQH theo
pháp luật hiện hành. Ngoài ra, luận văn có đề cập đến pháp luật và thực tiễn
hoạt động chất vấn ở một số nước nhằm tìm kiếm những yếu tố hợp lý góp
phần hoàn thiện hoạt động chất vấn của ĐBQH nước ta.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước, pháp luật.

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn: được sử dụng để nghiên cứu
lý luận về chất vấn của ĐBQH và đánh giá hoạt động chất vấn, trả lời chất


4

vấn trong thực tiễn. Đồng thời, từ xem xét, đánh giá thực tiễn mà khái quát
thành những vấn đề có tính chất lý luận về chất vấn, trả lời chất vấn và đề
xuất các phương hướng hoàn thiện hoạt động này.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để tìm hiểu các quan
điểm, quy định của pháp luật và thực tiễn của hoạt động chất vấn; khái quát
để rút ra những cái thuộc về bản chất của chất vấn và trả lời chất vấn. Từ đó
rút ra các kết luận và kiến nghị phù hợp.
- Phương pháp hệ thống được sử dụng xuyên suốt toàn bộ luận văn nhằm
trình bày các vấn đề, các nội dung trong luận văn theo một trình tự, bố cục
hợp lý, chặt chẽ, có sự gắn kết, kế thừa, phát triển các vấn đề, các nội dung để
đạt được mục đích, yêu cầu xác định cho luận văn
- Phương pháp thống kê và phương pháp luật học so sánh được sử dụng
để liệt kê các chất vấn trong một số kỳ họp Quốc hội và so sánh các chất vấn
để có những đánh giá và kết luận thích hợp. Ngoài ra, phương pháp luật học
so sánh còn được vận dụng khi tham khảo kinh nghiệm chất vấn của các nước
để tìm kiếm những yếu tố hợp lý góp phần hoàn thiện hoạt động chất vấn và
trả lời chất vấn của ĐBQH nước ta.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của Luận văn là phân tích làm rõ cơ sở lý luận, pháp lý và thực
tiễn về hoạt động chất vấn của ĐBQH để đề xuất các quan điểm, giải pháp
nhằm tiếp tục hoàn thiện hoạt động này. Để thực hiện mục đích trên, luận văn
có các nhiệm vụ sau:
Một là: phân tích, làm rõ cơ sở lý luận của chất vấn và trả lời chất vấn

như: nguồn gốc, bản chất, vai trò của chất vấn và trả lời chất vấn trong việc
thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội.
Hai là: khái quát quá trình hình thành và việc áp dụng các quy định của
pháp luật về chất vấn và trả lời chất vấn của ĐBQH. Từ đó rút ra những ưu
điểm, hạn chế của hoạt động này trong thực tiễn.


5

Ba là: đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện chất vấn và trả lời
chất vấn của ĐBQH.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Lần đầu tiên luận văn xây dựng cơ sở lý luận về chất vấn và trả lời chất
vấn của ĐBQH tương đối hệ thống, làm rõ bản chất, vai trò của chất vấn
trong mối quan hệ với việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội.
Luận văn đã tập trung đánh giá thực trạng chất vấn và trả lời chất vấn của
ĐBQH hiện nay và đề xuất phương hướng, giải pháp khả thi, nâng cao chất
lượng chất vấn và trả lời chất vấn của ĐBQH.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn ngoài mục lục, lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, thì phần nội dung gồm hai chương.


6

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI

1.1. Chất vấn – quyền cơ bản của ĐBQH
1.1.1. Khái niệm chất vấn và bản chất của quyền chất vấn của ĐBQH

“Chất vấn (interpelation), theo định nghĩa của Từ điển Webster’s 1913
Dictionary là yêu cầu quan chức giải thích hoạt động, hành động của mình; là
những câu hỏi buộc phải trả lời; là vấn đề nổi lên trong khi tranh luận. Còn Từ
điển mạng (WordNet Dictionary) giải thích đó là quy trình trong Nghị viện
nhiều nước nhằm yêu cầu Chính phủ giải thích một động thái hoặc chính sách
của mình. Đó là yêu cầu bằng văn bản của cả Nghị viện hoặc một nhóm nghị
sỹ đối với Chính phủ hoặc Bộ trưởng giải trình về một vấn đề chính trị lớn,
hoặc đường lối chính trị chung của Chính phủ. Quy chế của Hạ viện Italy
định nghĩa chất vấn như một yêu cầu “dưới hình thức văn bản buộc Chính
phủ giải trình về kết quả hoạt động của mình và dự định tiếp theo của Chính
phủ”. Nói cách khác, có thể coi chất vấn là yêu cầu của nghị sỹ đối với Thủ
tướng, hay các thành viên của Chính phủ trước phiên họp toàn thể của Nghị
viện để trả lời về việc thực thi chính sách, hay một vấn đề nào đó của quốc
gia”[47]. Ở nước ta, theo Từ điển tiếng Việt, chất vấn là “yêu cầu phải giải
thích rõ ràng- ĐBQH chất vấn Chính phủ”[33, tr. 200]. Điều 2 của Luật Hoạt
động giám sát của Quốc hội năm 2003 đã giải thích cụ thể hơn rằng: "Chất
vấn là một hoạt động giám sát, trong đó ĐBQH nêu những vấn đề thuộc trách
nhiệm của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án TANDTC, Viện
trưởng VKSNDTC và yêu cầu những người này trả lời”.
Có thể nói, chất vấn gắn liền với quyền giám sát của Nghị viện. Trong
một Báo cáo nghiên cứu của Viện Dân chủ Quốc gia, giám sát của Nghị viện
được định nghĩa: “là những hoạt động đương nhiên tiếp theo hoạt động lập
pháp. Sau khi tiến hành các hoạt động lập pháp, vai trò cơ bản của cơ quan


7

lập pháp là xem xét liệu các đạo luật đó có được thực thi hiệu quả hay không
và liệu trên thực tế các đạo luật có định rõ và giải quyết được các vấn đề như

dự định của các nhà soạn thảo hay không”[18, tr.181].
Ở nước ta, chất vấn gắn liền với quyền giám sát tối cao của Quốc hội
được quy định tại Điều 83 của Hiến pháp 1992. Theo Khoản 1, Điều 2 của
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội thì, giám sát là việc Quốc hội,
UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn ĐBQH và ĐBQH
theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự
giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của UBTVQH.
Giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước là một trong ba
chức năng quan trọng của Quốc hội. Trong đó chất vấn là một hình thức thực
hiện quyền giám sát của Quốc hội. Thực chất, chất vấn của ĐBQH là yêu cầu
của đại biểu với tư cách là đại diện có thẩm quyền của nhân dân đối với người
bị chất vấn, buộc người bị chất vấn phải giải thích trước Quốc hội về những
khuyết điểm, tồn tại trong hoạt động, công tác của cơ quan mà cá nhân đó phụ
trách, trả lời về nguyên nhân và biện pháp khắc phục các khuyết điểm đó.
Chất vấn thể hiện cụ thể, trực tiếp quyền giám sát tối cao của Quốc hội. Nó
không phải là một cuộc hỏi đáp thông thường. Nó là một cuộc tranh luận
chung ở Quốc hội mà tất cả các ĐBQH đều có quyền tham gia. Thông qua
hoạt động chất vấn, Quốc hội biểu thị mức độ thỏa mãn của mình đối với câu
trả lời của các quan chức có liên quan. Chất vấn không phải là hỏi đáp vì hỏi
đáp không dẫn đến việc Quốc hội biểu quyết về sự thỏa mãn hay không thỏa
mãn với các câu trả lời. Hỏi đáp đơn thuần chỉ là việc đề nghị giải thích một
vấn đề hoặc yêu cầu cho biết thông tin, yêu cầu giải quyết. Chất vấn được coi
là một trong các công cụ giám sát mạnh nhất của Quốc hội và ĐBQH vì mục
đích của chất vấn là làm rõ trách nhiệm chính trị của người được chất vấn.
Trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý là hai loại trách nhiệm khác
nhau. “Trách nhiệm pháp lý là sự gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi (thể hiện


8


ở việc tước đoạt hoặc hạn chế những quyền, lợi ích) của chủ thể vi phạm pháp
luật hoặc có liên quan đến việc gây ra hậu quả xấu vì những nguyên nhân
được pháp luật quy định”[32]. Chúng ta không thể áp dụng điều luật về tội
thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng cho quyết sách liên
quan đến một ngành nhất định, vì hậu quả thì có, nhưng sự thiếu tinh thần
trách nhiệm, vi phạm pháp luật thì không. “Những quyết sách rất có tinh thần
trách nhiệm thì vẫn có thể thiếu một tầm nhìn. Mà thiếu tầm nhìn, thì người ta
chỉ có thể chịu trách nhiệm về chính trị.
Trách nhiệm chính trị là trách nhiệm về chính sách, không phải trách
nhiệm về hành vi. Hoạt động chất vấn vì vậy sẽ lạc đề nếu tập trung vào các
vụ việc cụ thể mà không làm rõ được các vấn đề ở tầm chính sách. Ngoài ra,
một chính sách được cải thiện, lợi ích sẽ đến với hàng triệu người. Một vụ
việc được giải quyết, lợi ích có thể chỉ đến được với một hoặc một vài người.
Giải quyết được công việc cho một người cũng tốt, thế nhưng công việc của
muôn người thì sao? Nếu chất vấn vào các vụ việc cụ thể, Quốc hội sẽ không
bao giờ có đủ thời gian để xem xét những vấn đề to lớn của đất nước”[48].
Mục đích của chất vấn là nhằm kiểm tra, đánh giá hoạt động quản lý,
điều hành của những người được chất vấn. Qua hoạt động này, Quốc hội thấy
được năng lực của những người được Quốc hội bầu một cách thực chất nhất.
Hoạt động này cũng phản ánh tiếng nói, sự cảnh báo về một vấn đề hoặc một
tình trạng cần giải quyết, tạo sức ép để Chính phủ, Tòa án, Viện kiểm sát hoạt
động đúng đắn hơn. Mặt khác, chất vấn còn tạo cho Quốc hội cơ hội tiếp cận
được các thông tin từ thực tiễn cuộc sống để từ đó quay lại hoàn thiện hoạt
động của chính mình.
Với khái niệm và mục đích như vậy, để ĐBQH không bị nhầm lẫn chất
vấn với các hoạt động khác, người bị chất vấn không ngụy biện trong trả lời
chất vấn thì phải có các tiêu chí để xác định một chất vấn và câu trả lời chất
vấn đạt yêu cầu. Từ trước đến nay, lý luận cũng như pháp luật thực định chưa
đưa ra tiêu chí chuẩn cho câu chất vấn và trả lời chất vấn. Xuất phát từ bản



9

chất là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân của Quốc hội; xuất phát từ bản chất ĐBQH là người đại diện cho ý
chí và nguyện vọng của cử tri cả nước đồng thời đại diện cho cử tri địa
phương bầu ra mình, từ bản chất hoạt động giám sát của Quốc hội, thì một
câu hỏi của ĐBQH được coi là chất vấn khi:
- Nó phản ánh đầy đủ ý chí và nguyện vọng của nhân dân cả nước về
những vấn đề lớn, ở tầm khái quát, vĩ mô hoặc những vấn đề nổi cộm, bức
xúc được cử tri, nhân dân đang rất quan tâm, hoặc những vấn đề đang cần tập
trung giải quyết chứ không sa vào những vấn đề vụn vặt, nhỏ lẻ.
- Nội dung chất vấn phải nêu rõ vấn đề đang xảy ra, người bị chất vấn có
biết không? Nguyên nhân của tình trạng này? Giải pháp khắc phục? Các kinh
nghiệm từ sự việc này? Chế độ trách nhiệm của người bị chất vấn? Vì vậy,
chất vấn phải gửi đến đúng người có thẩm quyền. Không thể chất vấn một vấn
đề mà người được chất vấn không có thẩm quyền giải quyết. Mặt khác, chất
vấn phải không liên quan đến bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật.
Việc trả lời chất vấn phải đi đúng vào trọng tâm chất vấn, nghĩa là phải
trả lời được câu hỏi nguyên nhân của vấn đề, giải pháp khắc phục; người bị
chất vấn có biết vấn đề hay không và trách nhiệm của người bị chất vấn đến
đâu. Điều này rất quan trọng để Quốc hội bày tỏ thái độ của mình đối với
người bị chất vấn. Ở nhiều nước, việc chất vấn và trả lời chất vấn còn là cơ sở
để Quốc hội bày tỏ thái độ đối với cả nội các chứ không riêng gì một thành
viên nội các.
Hoạt động chất vấn của ĐBQH có thể diễn ra tại kỳ họp Quốc hội hoặc
diễn ra giữa hai kỳ họp Quốc hội (ở nước ta, việc chất vấn giữa hai kỳ họp
của Quốc hội còn được tiến hành tại phiên họp của UBTVQH). Chất vấn có
thể bằng văn bản hoặc chất vấn miệng (chất vấn trực tiếp).

Về sâu xa, quyền chất vấn của ĐBQH bắt nguồn từ bản chất quyền lực
của Quốc hội. Từ xưa đến nay, quyền lực và tổ chức quyền lực luôn luôn là
vấn đề phức tạp. Trong thời kỳ phong kiến, toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc


10

về vua. Các cuộc cách mạng tư sản đã lật đổ chế độ phong kiến, xác lập chính
thể dân chủ. Tuy nhiên, thời kỳ đầu (thế kỷ XIII), Nghị viện ở Anh, Pháp chỉ
là cơ quan tư vấn cho nhà vua trước khi vua ra các quyết định quan trọng, chủ
yếu là vấn đề tài chính, thuế để phục vụ cho các cuộc chiến tranh. Do sự phát
triển của xã hội, nghị viện ngày càng có địa vị pháp lý cao hơn và càng trở
nên độc lập với nhà vua. Đến thế kỷ XV-XVI, Nghị viện Anh có toàn quyền
lập pháp. Đó là giai đoạn mà “Nghị viện có quyền được làm tất cả, chỉ trừ
việc biến đàn ông thành đàn bà”. Trong cuộc tranh chấp quyền lực giữa nghị
viện và nhà vua đã xảy ra biết bao cuộc nội chiến, cách mạng. Có khi nghị
viện bị giải tán hoặc tạm đình chỉ hoạt động, lãnh tụ nghị viện bị tống giam
(trường hợp vua Charles I giải tán Nghị viện Anh năm 1629 và tống giam Sir
John Eliot lãnh tụ Hạ nghị viện và nhiều nghị sĩ khác). Dưới thời vua Lui
XIV, một ông vua tiêu biểu cho tư tưởng thần quyền ở Pháp với câu nói nổi
tiếng “quốc gia là Trẫm” thì suốt 72 năm cai trị của ông ta (1643-1715), Nghị
viện không hội họp gì cả. Khi nghị viện thắng thế, Nghị viện đã lập tòa án đặc
biệt để xét xử nhà vua (vua Charles I bị tử hình ở Anh năm 1649).
Trên cơ sở nghiên cứu các mô hình tổ chức quyền lực thời kỳ phong
kiến, các nhà tư tưởng thời kỳ khai sáng (thế kỷ XVIII) đã xây dựng học
thuyết phân chia quyền lực với những thiết chế mới thay cho chế độ cũ- đó là
chính thể dân chủ.
Montesquieu trong Bàn về tinh thần pháp luật có viết: “Chính thể dân
chủ là chính thể mà dân chúng hay một bộ phận dân chúng có quyền lực tối
cao”[46, tr. 46]. “Trong chính thể dân chủ, theo một cách nhìn nào đó, có thể

coi dân chúng như vua, mà cũng có thể coi là thần dân. Dân là “vua” bởi họ
được thể hiện ý chí của mình bằng các cuộc đầu phiếu. Ý chí của vua chính là
ông vua”[46, tr. 47]. “Dân chúng cần được như ông vua, và còn hơn thế, cần
được sự hướng dẫn của một hội đồng, hoặc một nghị viện. Hội đồng hay nghị
viện này phải được dân tin cậy, cho nên nó phải do dân bầu ra như ở Athen,


11

hoặc do các vị pháp quan được dân chỉ định và giao cho thành lập nghị viện
như một đôi trường hợp ở Rome”[46, tr. 48].
Jean Rousse trong Bàn về khế ước xã hội cũng khẳng định: “Quyền lực
tối cao được thiết lập từ những cá thể thành viên hợp lại tạo ra nó, cho nên nó
không có và không thể có lợi ích nào trái ngược với các thành viên”[43].
Dân trao quyền cho Nghị viện vì “ưu thế lớn của các đại biểu là họ có
thể bàn cãi về mọi công việc. Dân chúng thì không làm như thế được”[46, tr.
110]. Vì vậy, “dân chúng chỉ nên tham gia việc nước bằng cách chọn đại biểu
của mình là những người đủ năng lực làm việc. Chẳng mấy ai hiểu rõ được
trình độ cụ thể của tất cả mọi người, cho nên mỗi người lại có thể tin rằng
mình chọn làm đại biểu là sáng suốt hơn cả người khác.
Cơ quan đại biểu dân chúng không nên giải quyết các công việc cụ thể,
vì họ không thể làm tốt điều này. Cơ quan đại biểu cho dân chỉ nên làm ra
luật, và xem xét người ta thực hiện luật như thế nào. Điều này thì có thể làm
tốt, và không ai có thể làm tốt hơn là cơ quan đại biểu của dân”[46, tr. 111].
Đó là làm luật và thực hiện quyền giám sát.
Như vậy, trong các chế độ dân chủ, quyền lực nhà nước không thể thuộc
về một người, không thuộc về một cơ quan nào đó. Quyền lực nhà nước chỉ
thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể duy nhất và tối cao của quyền lực nhà
nước. Nhân dân thực hiện quyền chủ thể quyền lực của mình thông qua hai
hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Trong đó, nhân dân qua bầu

cử bầu ra Quốc hội (Nghị viện) - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Ví
dụ: theo Hiến pháp năm 1987 của Cộng hoà Phi-lip-pin, Thượng nghị viện
gồm 24 vị Thượng nghị sĩ được các cử tri có đủ điều kiện trên cả nước bầu ra;
trong khi các hạ nghị sĩ lại được bầu ra ở các khu vực bầu cử. Điều 147 của
Hiến pháp năm 1997 của Thái Lan quy định: “Các thành viên của Hạ nghị
viện và Thượng nghị viện là đại diện của người Thái, và thực hiện một cách
trung thực các bổn phận vì lợi ích chung của người Thái”[45].


12

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin luôn quan tâm đến việc
làm như thế nào để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân. Tổng kết phong trào
Công xã Pari, trong tác phẩm “Nội chiến ở Pháp”, Mác cho rằng: “Công xã
không phải là cơ quan đại nghị, mà là một cơ quan hành động, vừa hành
chính, vừa lập pháp”. Lê nin trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” đã cho
rằng: “…phương pháp thoát khỏi chế độ đại nghị không phải là phá hủy
những cơ quan đại diện và nguyên tắc tuyển cử, mà là biến những cơ quan đại
diện ấy từ chỗ là những cái máy nói thành những “cơ quan hành động”…
Chúng ta không thể quan niệm một nền dân chủ, dẫu là một nền dân chủ vô
sản, mà lại không có cơ quan đại diện”[40].
Trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, Người khẳng định quyền lực thuộc
về nhân dân. Điều này thể hiện khá rõ trong tác phẩm “Đường cách mệnh”
xuất bản năm 1927. Nghiên cứu cách mạng tư sản ở Mỹ, Hồ Chí Minh rút ra
kết luận rằng: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh thì nên làm cho đến nơi,
nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì giao quyền cho dân chúng số nhiều, chớ để
trong tay một bọn ít người”[29, tr. 270]. Nghiên cứu cách mạng Pháp, người
khẳng định: “dân chúng công nông là gốc cách mệnh”[29, tr. 274]. Nghiên
cứu Cách mạng tháng Mười Nga, Người rút ra kết luận có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng và trở thành phương châm chỉ đạo trong suốt cuộc đời hoạt động

của mình là: “muốn có cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông)
làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất.
Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lê nin”[29, tr. 280].
Thực tế Cách mạng Việt Nam cũng khẳng định tư tưởng này của Người.
Tháng 10 năm 1944, trước tình hình thời cơ giải phóng dân tộc đang đến gần,
việc thành lập nhà nước như thế nào cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh
của Việt Nam trở thành vấn đề quan trọng được đặt ra đối với cơ quan lãnh
đạo của Đảng và nhân dân. Hồ Chí Minh gửi thư đồng bào và đưa ra phương
án rất rõ ràng rằng: “Chúng ta trước phải có một cái cơ cấu đại biểu cho sự
chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân ta. Mà cơ


13

cấu ấy thì phải do một cuộc Toàn quốc đại biểu Đại hội gồm tất cả các đảng
phái cách mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra. Một cơ cấu như
thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến
quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”[30]. Ngày 16/8/1945, tại Tân
Trào, Đại hội đại biểu quốc dân toàn quốc - tiền Quốc hội gồm hơn 60 đại
biểu đại diện cho các đảng phái chính trị, đoàn thể ái quốc, các dân tộc, tôn
giáo đã thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
Sau khi Cách mạng tháng Tám giành thắng lợi, Ủy ban dân tộc giải phóng
được cải tổ trở thành Chính phủ lâm thời. “Một trong những nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu để củng cố và tăng cường chính quyền là phải thực hiện quyền
dân chủ cho quần chúng, phải “xúc tiến việc đi đến Quốc hội để quy định
Hiến pháp, bầu Chính phủ chính thức”[19, tr. 30].
Như vậy, ở Việt Nam, Quốc hội ra đời không phải là để cạnh tranh hay
chia sẻ quyền lực với nhà vua như Nghị viện các nước phương Tây. Sự ra đời
của Quốc hội Việt Nam trước hết xuất phát từ yêu cầu thực tiễn cách mạng.
Thời kỳ đó cần phải có Chính phủ hợp pháp có đủ tư cách pháp lý thực hiện

các công việc đối nội, đối ngoại của đất nước. Chính phủ hợp pháp chỉ có thể
được thành lập từ Quốc hội. Quốc hội ra đời là để có một cơ quan đại diện
cho nhân dân, thay mặt và thực thi quyền lực của nhân dân trong việc quản lý
nhà nước và giám sát các cơ quan do Quốc hội bầu ra. Ngay từ những ngày
đầu tiên của Quốc hội Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Các đại biểu
trong Quốc hội này không phải đại diện cho một đảng phái nào mà là đại biểu
cho toàn thể dân Việt Nam. Đó là sự đoàn kết tỏ ra rằng lực lượng của toàn
dân Việt Nam đã kết lại thành một khối”[31]. Điều này cũng được ghi nhận
trang trọng trong bốn bản Hiến pháp và các Luật Tổ chức Quốc hội, Luật
Hoạt động giám sát của Quốc hội.
Điều 1 của Hiến pháp 1946 quy định: “Nước Việt Nam là một nước dân
chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt
Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.


14

Hiến pháp 1946 cũng quy định: “Nghị viện nhân dân do công dân Việt Nam
bầu ra” (Điều 24) nên “Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà” (Điều 22).
“Quốc hội họp đặt nền móng cho chủ quyền dân tộc. Vận mệnh nước
Việt Nam do chính nhân dân Việt Nam định đoạt thông qua đại biểu của
chính mình. Quốc hội họp biểu thị sự đoàn kết của toàn dân: dù trong hoàn
cảnh nào, nhân dân Việt Nam cũng quyết tâm bảo vệ nền tự do, độc lập mới
giành được. Đại biểu khắp đất nước mang về Thủ đô ý chí bốn phương kết
thành một khối,…”[19, tr. 67]. Khoá họp thứ nhất của Quốc hội nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà cũng khẳng định: “chủ quyền của nước Việt Nam độc
lập thuộc về toàn thể nhân dân Việt Nam. Vận mệnh quốc gia Việt Nam là ở
trong tay Quốc hội Việt Nam”[19, tr. 76].
Hiến pháp 1959, Điều 4 ghi nhận: “Tất cả quyền lực trong nước Việt

Nam dâm chủ cộng hoà đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực
của mình thông qua Quốc hội và HĐND các cấp do nhân dân bầu ra và chịu
trách nhiệm trước nhân dân”. “Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao
nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà” (Điều 43).
Hiến pháp 1980, Điều 6 có nêu: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực
Nhà nước thông qua Quốc hội và HĐND các cấp do nhân dân bầu ra và chịu
trách nhiệm trước nhân dân”. Điều 82 khẳng định: “Quốc hội là cơ quan
đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Hiến pháp 1992 cũng quy định tại Điều 83 rằng: “Quốc hội là cơ quan
đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Do có vị trí như vậy nên Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập
hiến, lập pháp; quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và có quyền
giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Quốc hội thực hiện


15

quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước trên cơ sở
hoạt động giám sát của UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội,
Đoàn ĐBQH và ĐBQH.
Ở nước ta, ĐBQH là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân
dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại
diện cho nhân dân cả nước (Điều 97 của Hiến pháp 1992). Vì mang tính chất
như vậy mà ĐBQH có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án
TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC.
Ở các nước tư sản, nghị viên đại diện cho cử tri bầu ra mình, vì vậy, họ

cũng có quyền chất vấn Chính phủ. Tuy nhiên, do còn đại diện cho Đảng mà
mình là thành viên, nên họ trung thành với Đảng hơn là với nhân dân và hoạt
động chất vấn thường chỉ diễn ra do nghị viên thuộc phe đối lập thực hiện.
“Ngoài chức năng lập pháp, Quốc hội/Nghị viện phải thực hiện việc giám sát
đối với các cơ quan nhà nước để đảm bảo tính hợp pháp của chính quyền.
Đây là chức năng phổ biến của Quốc hội các nước trên thế giới. Quốc hội các
nước có quyền giám sát các hoạt động của cơ quan hành pháp, trong một số
trường hợp là người đứng đầu nhà nước, cơ quan tư pháp, cơ quan tự quản địa
phương, và một số cơ quan nhà nước khác. Nhìn chung, Quốc hội giám sát
các cơ quan nhà nước bằng các hình thức sau: Nghe báo cáo của Chính phủ
và các thành viên của Chính phủ; chất vấn của các ĐBQH, những câu hỏi
miệng hoặc bằng văn bản của các ĐBQH;…”[16]. Có thể nói, chức năng
giám sát của Quốc hội là đương nhiên, vì “nếu Quốc hội từ bỏ trách nhiệm
giám sát thì có thể dẫn đến hai kết quả. Các cơ quan, các bộ, có thể cứ làm tới
mà không bị giám sát; hoặc ai đó có thể nắm dây cương Quốc hội đã thả lỏng.
Điều thứ hai đã xảy ra, nghĩa là nhân viên Tổng thống đã ngồi vào tay
lái”[17]. Trên lý thuyết là như vậy nhưng “trong hai thập kỷ vừa qua, Nghị
viện đã tụt lại phía sau rất xa so với những thay đổi của Hiến pháp, Chính phủ
và xã hội. Cho dù đã có những sự cách tân trong thời gian gần đây, đặc biệt là


16

trong hoạt động lập pháp, thì vấn đề trọng tâm là hoạt động giám sát của nghị
viện đối với cơ quan hành pháp vẫn chưa được đề cập [18, tr. 121].
Trên thế giới, theo nghiên cứu của Liên minh Nghị viện thế giới (IPU)
tại 82 nước thì Quốc hội các nước giám sát bằng các công cụ rất đa dạng như:
điều trần tại Ủy ban; điều trần tại phiên họp toàn thể; thành lập Ủy ban điều
tra; đặt câu hỏi; thời gian hỏi đáp; chất vấn; Thanh tra Quốc hội [18, tr. 26].
Trong đó, mức độ phổ biến của các công cụ giám sát của nghị viện theo mô

hình chính thể rất khác nhau, có thể tham khảo bảng dưới đây:
Bảng 4: Mức độ phổ biến của các công cụ giám sát của nghị viện
theo mô hình chính thể [18, tr. 29]
Chính

Điều trần

Điều trần

Thành lập

Đặt câu

Thời gian

thể

tại

tại phiên

uỷ ban

hỏi

hỏi đáp

Uỷ ban

họp toàn


điều tra

Chất vấn

Thanh tra
Quốc hội

thể

Đại

%

Số %

Số %

Số

%

Số %

Số %

Số %

Số


100

34 97,1

35 96,9

32

100

32 88,6

35 76,9

26 77,8

36

88,2

17 83,3

18 100

19

85,7

21 78,9


19 72,2

18 77,8

18

93,3

15 81,3

16 86,7

15

100

17 86,7

15 75

16 52,9

17

nghị
Tổng
thống
Bán
tổng
thống


Việc sử dụng các công cụ được liệt kê như vậy nhưng trên thực tế ở
những nhà nước khác nhau, hoạt động chất vấn nói riêng và giám sát nói
chung được thực thi rất khác nhau. “Đã thành tính điển hình, hoạt động giám
sát ở các nền dân chủ ở châu Mỹ La Tinh vẫn chưa được thực hiện thoả đáng
và thường bị dẫn dắt bởi các vụ bê bối lớn chứ không phải bởi các sức ép
hướng tới hiệu quả của một chính phủ trong sạch và các chính sách công có
chất lượng. Rất nhiều nhà lập pháp đã tham gia ủng hộ cơ quan hành pháp


17

một cách mù quáng để đổi lấy các công trình công cộng cho khu vực cử tri
của mình, hoặc thậm chí là để đổi lấy tiền hối lộ. Hoạt động giám sát chỉ xuất
hiện khi những vụ tham nhũng của ngành hành pháp hoặc sự sụp đổ của các
chính phủ không thể nào bỏ qua được nữa (như trường hợp Collor ở Brazil),
hoặc chỉ sau khi các nhà lãnh đạo hành pháp đã hết nhiệm kỳ (như trường hợp
Fujimori ở Peru hoặc Menem ở Argentina)”[18, tr. 104].
Ở Anh, các cuộc hỏi đáp ở nghị viện tạo cơ hội cho các nghị sĩ đối lập
đặt vấn đề trách nhiệm đối với các bộ trưởng. Các câu hỏi này có thể là câu
hỏi bằng văn bản hoặc bằng miệng (gồm các loại như câu hỏi cho bộ trưởng,
câu hỏi liên bộ, câu hỏi cho thủ tướng, câu hỏi thông cáo cá nhân, câu hỏi tiếp
sau diễn văn của bộ trưởng). Thời gian để đặt câu hỏi cho các bộ trưởng
thường kéo dài một giờ đồng hồ trong các ngày làm việc từ thứ 2 đến thứ 5
hàng tuần trong thời gian diễn ra kỳ họp của Quốc hội. Thời gian này được
chuyển thành 2 lần một tuần vào thứ ba, thứ 5 sau khi Tony Blair lên làm Thủ
tướng. Ở Anh, câu hỏi viết được đánh giá có hiệu quả hơn các câu hỏi miệng
là ở chỗ trong khi các câu hỏi miệng còn được sử dụng để thực hiện một số
chức năng lập pháp khác như đánh giá các quan điểm chính trị hoặc thông báo
các tình trạng, thì các câu hỏi viết lại là công cụ giám sát tập trung và liên tục

hơn. Ở Anh, hoạt động giám sát bằng điều trần tại Uỷ ban rất có hiệu quả
trong việc tìm kiếm thông tin hoặc các lời giải thích từ Chính phủ. Tuy nhiên,
mặc dù đang có nhiều thay đổi với một số ưu thế cho nghị viện trong thời
gian gần đây, hoạt động xem xét, giám sát cơ quan hành pháp của nghị viện
vẫn còn bị hạn chế bởi các quy định của Hiến pháp, của hệ thống chính phủ
đơn đảng đa số và yêu cầu kỷ luật đảng cao, mà theo đó, nếu không có những
thay đổi cơ bản thì cơ quan hành pháp vẫn tiếp tục chiếm ưu thế nổi trội [18,
tr. 129-139].
1.1.2. Chế định pháp luật về quyền chất vấn của ĐBQH và vai trò của nó
trong việc thực hiện quyền chất vấn của ĐBQH


18

Theo giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của Trường đại học Luật
Hà Nội thì “chế định pháp luật bao gồm một số quy phạm có những đặc điểm
chung giống nhau nhằm điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội tương ứng”[39].
Theo đó, chế định pháp luật về quyền chất vấn của ĐBQH là hệ thống các
quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của
ĐBQH.
Chế định pháp luật mang tính chất nhóm, mỗi chế định có đặc điểm
riêng nhưng chúng đều có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, chúng
không tồn tại biệt lập. Việc xác định ranh giới giữa chúng nhằm tạo ra khả
năng để xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật phù hợp với thực tiễn.
Chế định pháp luật về quyền chất vấn của ĐBQH phải thể hiện đầy đủ
các vấn đề như: khái niệm chất vấn; quyền chất vấn của ĐBQH; nghĩa vụ trả
lời chất vấn của người bị chất vấn; phạm vi, nội dung các chất vấn; trình tự,
thủ tục thực hiện quyền chất vấn của ĐBQH; cơ chế giám sát hậu chất vấn
của ĐBQH và chế tài đối với đối tượng không thực hiện nghiêm việc trả lời
chất vấn. Chế định pháp luật về quyền chất vấn của ĐBQH nằm trong chế

định pháp luật về ĐBQH, chế định pháp luật về quyền giám sát tối cao của
Quốc hội, đặc biệt, nó nằm trong chế định pháp luật lớn hơn là tổ chức và
hoạt động của Quốc hội. Vì vậy, chế định pháp luật về quyền chất vấn của
ĐBQH có mối liên hệ mật thiết với các chế định khác liên quan này. Chính vì
vậy, việc nghiên cứu chế định về quyền chất vấn của ĐBQH còn liên quan
đến các thiết chế có liên quan như hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, tổ
chức và hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Viện kiểm sát. Việc
nghiên cứu chế định về quyền chất vấn của ĐBQH cho phép biết được giới
hạn của quyền này của ĐBQH trong mối quan hệ với hoạt động của Quốc hội
nói riêng và các cơ quan nhà nước nói chung. Trong các văn bản pháp luật
thực định, chế định pháp luật về quyền chất vấn của ĐBQH không được quy
định tại một chương riêng mà nó nằm rải rác trong các chương khác nhau về
ĐBQH và đoàn ĐBQH; hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội; hoạt động


19

giám sát của ĐBQH và Đoàn ĐBQH. Tuy được quy định đan xen nhưng nó
cũng thể hiện rõ quyền của ĐBQH và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan
trong hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn.
Chế định pháp luật về quyền chất vấn và trả lời chất vấn của ĐBQH có
vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền chất vấn của ĐBQH. Về mặt lý
luận, đó là sự phân biệt giúp chúng ta có thể nhận thức và thực hiện các quyền
và nghĩa vụ của ĐBQH trong từng lĩnh vực nhất định. Nó là sự cụ thể hóa
đường lối lãnh đạo của Đảng về hoạt động giám sát của Quốc hội, ĐBQH.
ĐBQH đại diện cho cử tri, nói tiếng nói của cử tri trên diễn đàn Quốc hội. Vì
vậy, ĐBQH phải có quyền. ĐBQH có nhiều quyền và trách nhiệm nhưng
trong đó, quyền kiểm soát và phê bình những cá nhân do Quốc hội bầu là rất
quan trọng. Có thể nói, chế định pháp luật về quyền chất vấn và trả lời chất
vấn của ĐBQH là cơ sở pháp lý để ĐBQH căn cứ vào đó thực hiện quyền

chất vấn và yêu cầu các đối tượng bị chất vấn trả lời. Dựa trên cơ sở pháp lý
này, ĐBQH có thể yêu cầu các tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp thông tin
có liên quan đáp ứng cho hoạt động chất vấn của mình. Mặt khác, nó còn là
cơ sở để ĐBQH căn cứ vào đó đánh giá hoạt động của người được chất vấn
và của cơ quan họ. Chế định pháp lý về quyền chất vấn của ĐBQH là cơ sở để
ĐBQH đề nghị Quốc hội ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn hoặc thông qua
đó yêu cầu bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người được chất vấn. Không chỉ
một chiều, chế định pháp lý về quyền chất vấn của ĐBQH còn cho người trả
lời chất vấn nhận thức được quyền hạn, nghĩa vụ của mình trong lĩnh vực này
để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình được tốt hơn.
Với tầm quan trọng như vậy, thì chế định về quyền chất vấn của ĐBQH
phải được quy định rõ ràng, mạch lạc để mọi quy định chỉ được hiểu một
nghĩa. Hơn nữa, nó phải là những quy định đủ mạnh để ĐBQH có thể thực
hiện được quyền chất vấn của mình như một công cụ giám sát đắc lực và có
hiệu quả.


20

1.2. Vai trò của chất vấn và các bảo đảm thực hiện quyền chất vấn của
ĐBQH
1.2.1. Vai trò của chất vấn của ĐBQH
“Vai trò là tác dụng, chức năng trong sự hoạt động, sự phát triển của cái
gì đó”[33, tr. 1470].
Theo đó, nói về vai trò của chất vấn của ĐBQH là nói đến tác dụng của
chất vấn đối với hoạt động của ĐBQH nói riêng và hoạt động của Quốc hội
nói chung; ngoài ra, nó còn có tác dụng đối với hoạt động của các cá nhân
người bị chất vấn và cơ quan của họ. Qua đó, nó thúc đẩy việc hoàn thiện tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Chất vấn của ĐBQH là hình thức giám sát mang tính quyền lực nhà

nước. Nó có tác dụng quan trọng đối với hoạt động của ĐBQH nói riêng và
hoạt động của Quốc hội nói chung. Không dừng lại đó, với tính chất là một
hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, chất vấn của ĐBQH cũng có vai trò
quan trọng đối với tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Trước tiên là đối với ĐBQH: để có thể tiến hành chất vấn, ĐBQH phải
hiểu sâu sắc, nắm vững vấn đề. Vì vậy, thông qua hoạt động chất vấn, ĐBQH
có thể nâng cao sự hiểu biết của mình. Việc tìm hiểu thông tin có nhiều cách,
bằng cách nào thì nó cũng giúp ĐBQH có được hệ thống tri thức lý luận và
thực tế sâu sắc. Bên cạnh đó, nó cũng là “trường học” để ĐBQH rèn luyện
bản lĩnh, thể hiện năng lực, khả năng của mình khi đưa ra câu hỏi chất vấn.
Chất vấn sao cho không đụng chạm đến bí mật quốc gia, mà lại “trúng” và
“đúng” vấn đề khiến người bị chất vấn phải “tâm phục, khẩu phục”. Thêm
nữa, khi ĐBQH chất vấn, người dân thấy rõ mong muốn của mình được
chuyển tải trong đó, thấy ĐBQH là người có dũng khí. Chính từ hoạt động
này, ĐBQH khẳng định sự lựa chọn đúng đắn của cử tri khi đã tin tưởng và
bỏ phiếu cho mình.
Đối với hoạt động của Quốc hội


×