Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Hoàn thiện pháp luật về bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do quốc hội bầu hoặc phê chuẩn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (672.25 KB, 70 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THỊ HOA

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỎ PHIẾU TÍN NHIỆM
ĐỐI VỚI NHỮNG NGƢỜI GIỮ CÁC CHỨC VỤ
DO QUỐC HỘI BẦU HOẶC PHÊ CHUẨN

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp
Mã số: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS. TRẦN NGỌC ĐƢỜNG

HÀ NỘI - 2011


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của
các thầy, cô giáo, bạn bè và đồng nghiệp. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết
ơn chân thành với các thầy , cô giáo Trường Đại học Luật Hà Nội – nơi tôi đã
học tập ba năm qua và các bạn bè, đồng nghiệp.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình với Thầy giáo, giáo
sư – Tiến sỹ Trần Ngọc Đường đã tận tình hướng dẫn khoa học, giúp đỡ tôi
trong quá trình hoàn thiện luận văn này.
Tác giả luận văn



Trần Thị Hoa




1

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) khẳng định:
“Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Điều 2). “Nhân dân sử dụng quyền lực
nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại
diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách
nhiệm trước nhân dân” (Điều 6). Ở tầm cao và rộng nhất, nhân dân sử dụng
quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội. “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Vì vậy, Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối
với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối
cao của mình tại kỳ họp Quốc hội trên cơ sở hoạt động giám sát của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu
Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Trong đó, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức
vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn là một công cụ giám sát nếu được thực
hiện sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao trách nhiệm và năng lực điều
hành, lãnh đạo của những người đứng đầu cơ quan nhà nước. Bỏ phiếu tín
nhiệm của Quốc hội có ý nghĩa quan trọng như vậy nhưng về mặt lý luận,

trong những năm đổi mới, cùng với chủ trương tăng cường vai trò của Quốc
hội, đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến các chức năng của Quốc
hội, trong đó có chức năng giám sát, song có rất ít công trình nghiên cứu cụ


2

thể về bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội. Do vậy, những vấn đề lý luận về hoạt
động này dường như còn bỏ ngỏ.
Mặt khác, về mặt pháp luật, bỏ phiếu tín nhiệm không phải là điều mới
lạ vì nó đã được đề cập trong bản Hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp năm 1946).
Tuy nội dung này không được kế thừa trong các Hiến pháp năm 1959, 1980,
nhưng đã được ghi nhận lại trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001) và các luật như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát của
Quốc hội và các văn bản có liên quan. Có thể nói, đã có Hiến pháp và các văn
bản pháp luật điều chỉnh, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần bàn để bảo đảm
hiệu lực và hiệu quả thực thi quy định này.
Về mặt thực tiễn, tại các diễn đàn của Quốc hội, đã có đại biểu Quốc hội
đặt vấn đề Quốc hội xem xét ra Nghị quyết mà thực chất là bỏ phiếu tín
nhiệm sau khi một vị Bộ trưởng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trả lời
chất vấn nhưng không thực hiện được vì đấy chưa phải là "kiến nghị của ít
nhất 20% tổng số đại biểu" như quy định tại Điều 12 Luật Tổ chức Quốc hội
năm 2002. Do vậy, có thể nói, bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội chưa được
thực hiện lần nào, nên chưa phát huy vai trò là phương thức thực hiện quyền
giám sát tối cao của Quốc hội, chưa đáp ứng lòng mong mỏi và nguyện vọng
của nhân dân
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về
bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu
hoặc phê chuẩn” sẽ góp phần xây dựng cơ sở lý luận, hoàn thiện cơ sở pháp
lý về bỏ phiếu tín nhiệm- một quyền mới được quy định trong Hiến pháp năm

1992 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001) nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả của việc thực hiện quyền này, đóng góp vào việc đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động giám sát của Quốc hội, đại biểu Quốc hội; phát huy
quyền làm chủ của nhân dân.


3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo đảm hiệu lực và hiệu quả thực thi cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm của
Quốc hội được Đảng, Nhà nước, các đại biểu Quốc hội và nhân dân quan tâm.
Tuy nhiên, bỏ phiếu tín nhiệm là vấn đề mới ở nước ta, không thuần tuý mang
tính chất pháp lý mà còn mang tính chất chính trị và bản lĩnh của từng đại
biểu nên việc nghiên cứu vấn đề này còn hạn chế. Liên quan đến đề tài luận
văn, có thể kể đến một số công trình sau:
- “Luận cứ khoa học để xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt
động của Quốc hội”- đề tài khoa học cấp Nhà nước do Văn phòng Quốc hội
chủ trì.
- Luận văn thạc sĩ luật học: “Chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam
hiện nay – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Thị Hồng;
Luận án tiến sĩ luật học: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới cơ cấu
tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội Việt Nam trong điều kiện
hiện nay” của tác giả Lê Thanh Vân.
- Các sách: “Mô hình tổ chức và hoạt động của Quốc hội và Chính phủ
trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” của GS,TS. Trần Ngọc Đường
(2009), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; “Quốc hội Việt Nam trong nhà
nước pháp quyền” do PGS,TS. Nguyễn Đăng Dung chủ biên (2007), Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội,…
- Một số bài báo chuyên khảo đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp
như: “Một số vấn đề về việc bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội” của Thạc sĩ

Vũ Văn Nhiêm, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 5/2004; “Bỏ phiếu tín
nhiệm các thành viên Chính phủ- nên kế thừa quy định của Hiến pháp 1946”
của Bùi Ngọc Sơn, Số chuyên đề Hiến kế lập pháp số 5/2006; “Quy định về


4

bỏ phiếu tín nhiệm: Từ mong muốn đến hiện thực” của TS. Vũ Đức Khiển,
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 10/2009.
Với những mức độ và cách tiếp cận khác nhau, các công trình nêu trên
đều đề cập đến Quốc hội, bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội. Tuy nhiên, các
công trình này chỉ mới nhắc đến bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội mà chưa đi
sâu nghiên cứu như là một đối tượng nghiên cứu độc lập. Do đó, cơ chế bỏ
phiếu tín nhiệm của Quốc hội chưa được nghiên cứu một cách toàn diện để
phục vụ hoạt động của đại biểu Quốc hội, của Quốc hội được tốt hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận
và pháp lý, đặc biệt là tính khả thi của cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc
hội theo pháp luật hiện hành. Đồng thời, nghiên cứu bỏ phiếu tín nhiệm ở một
số nước nhằm rút ra những yếu tố hợp lý góp phần hoàn thiện pháp luật để
thực hiện cơ chế này ở nước ta.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước, pháp luật.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn: được sử dụng để nghiên cứu
lý luận về bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội và đánh giá việc thực hiện pháp
luật bỏ phiếu tín nhiệm trong thực tiễn. Đồng thời, từ xem xét, đánh giá thực
tiễn mà khái quát thành những vấn đề có tính chất lý luận về bỏ phiếu tín
nhiệm và đề xuất các phương hướng hoàn thiện cơ chế này.

- Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để tìm hiểu các quan
điểm, quy định của pháp luật và thực tiễn bỏ phiếu tín nhiệm; khái quát để rút


5

ra những cái thuộc về bản chất của bỏ phiếu tín nhiệm. Từ đó rút ra các kết
luận và kiến nghị phù hợp.
- Phương pháp hệ thống được sử dụng xuyên suốt toàn bộ luận văn nhằm
trình bày các vấn đề, các nội dung trong luận văn theo một trình tự, bố cục
hợp lý, chặt chẽ, có sự gắn kết, kế thừa, phát triển các vấn đề, các nội dung để
đạt được mục đích, yêu cầu xác định cho luận văn
- Phương pháp thống kê và phương pháp luật học so sánh được sử dụng
để liệt kê các ý kiến quan điểm của đại biểu Quốc hội về bỏ phiếu tín nhiệm
và so sánh để có những đánh giá và kết luận thích hợp. Ngoài ra, phương
pháp luật học so sánh còn được vận dụng khi tham khảo kinh nghiệm bỏ
phiếu tín nhiệm của các nước để tìm kiếm những yếu tố hợp lý góp phần hoàn
thiện pháp luật về bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội nước ta.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của Luận văn là phân tích rõ cơ sở lý luận, pháp lý về bỏ phiếu
tín nhiệm của Quốc hội để đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo đảm
hiệu lực, hiệu quả và tính khả thi cơ chế này. Để thực hiện mục đích trên, luận
văn có các nhiệm vụ sau:
Một là: phân tích, làm rõ cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về
bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội như: khái niệm, mục đích, ý nghĩa của bỏ
phiếu tín nhiệm, nội dung của pháp luật bỏ phiếu tín nhiệm, vai trò của pháp
luật trong việc thực hiện quyền bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội.
Hai là: phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về bỏ phiếu tín
nhiệm; thực tiễn và kinh nghiệm của một số nước về vấn đề này.
Ba là: đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật đảm bảo

tính khả thi của cơ chế này.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn


6

Lần đầu tiên luận văn xây dựng cơ sở lý luận về việc hoàn thiện pháp
luật bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội tương đối hệ thống, làm rõ ý nghĩa, mục
đích của bỏ phiếu tín nhiệm, vai trò của bỏ phiếu tín nhiệm trong mối quan hệ
với việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội. Luận văn đã tập trung
đánh giá các quy định của pháp luật về bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội hiện
nay, như những bất cập của pháp luật về bỏ phiếu tín nhiệm... và đề xuất
phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả thực thi cơ chế này.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, thì
phần nội dung gồm hai chương.


7

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỎ
PHIẾU TÍN NHIỆM ĐỐI VỚI NHỮNG NGƢỜI GIỮ CÁC CHỨC VỤ
DO QUỐC HỘI BẦU HOẶC PHÊ CHUẨN

1.1. Khái niệm bỏ phiếu tín nhiệm, bản chất, mục đích, ý nghĩa của bỏ
phiếu tín nhiệm
Thuật ngữ bỏ phiếu tín nhiệm đã được đưa vào kho từ vựng pháp lý chính trị của nước ta ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta- Hiến
pháp năm 1946. Đến năm 2001, khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ

sung, bỏ phiếu tín nhiệm được nhắc lại, sau đó được quy định chi tiết hơn
trong Luật Tổ chức Quốc hội sửa đổi năm 2002 và Luật Hoạt động giám sát
của Quốc hội. Tuy nhiên, trên thực tiễn hoạt động nghị trường, thì lần đầu tiên
nó được nhắc đến là tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XI khi có đại biểu Quốc
hội đã đặt vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm với bốn vị Bộ trưởng... Như vậy, nhìn từ
góc độ này, bỏ phiếu tín nhiệm vốn dĩ được tiếp nhận từ kinh nghiệm hoạt
động của Quốc hội các nước, nhưng quá mới mẻ đối với tất cả chúng ta, từ
Quốc hội, các đại biểu, báo chí cho đến cử tri.
Tín nhiệm hay bất tín nhiệm?
Trên nguyên tắc, một Chính phủ hoạt động tốt thì không có điều tiếng gì,
nhưng nếu Chính phủ đó phạm những sai lầm trong hoạt động của mình thì
sao? Trong trường hợp đó, ở nhiều nước có cơ chế xác định trách nhiệm
chính trị của Chính phủ. Theo đó, Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội
(cơ quan đại diện của dân), Quốc hội tỏ thái độ đối với kết quả hoạt động của
Chính phủ, một động thái, một dự luật hoặc một chính sách của Chính phủ,


8

hoặc của một Bộ trưởng bằng cách bỏ phiếu bất tín nhiệm hoặc bỏ phiếu tín
nhiệm.
Bỏ phiếu tín nhiệm (vote of confidence) xảy ra khi Chính phủ tự mình
đặt vấn đề tín nhiệm liên quan đến một động thái nào đó mà Chính phủ muốn
Quốc hội đồng ý (có thể là một chính sách, đường lối, dự luật). Nếu không đạt
được kết quả mong muốn, Chính phủ sẽ tự từ chức tập thể. (Ví dụ như vào
năm 1990 Thủ tướng Thuỵ Điển đưa “kiến nghị cả gói” để Quốc hội biểu
quyết và tuyên bố nếu Quốc hội không thông qua “kiến nghị cả gói”, Chính
phủ sẽ tự từ chức mà không đợi thủ tục bỏ phiếu bất tín nhiệm. Quốc hội
Thuỵ Điển không thông qua kiến nghị và Chính phủ đã tự từ chức).
Đây là một phương thức khá hiệu quả để gây sức ép đối với Quốc hội,

đặc biệt là khi sự từ chức tập thể của Chính phủ, khủng hoảng Chính phủ có
thể kéo theo sự giải tán Quốc hội và cuộc bầu cử Quốc hội mới sẽ được ấn
định. Nhưng mặt khác, nếu Quốc hội không đồng tình với động thái có lợi
cho Chính phủ, điều đó có thể tước mất của Chính phủ khả năng thực hiện
chính sách đó, và như vậy sự có mặt trong thành phần Chính phủ đối với
thành viên trở nên vô nghĩa. Hơn nữa, nếu xét từ góc độ khác thì đó lại là một
sự mạo hiểm lớn cho Chính phủ nếu Quốc hội bị giải tán vì liệu Chính phủ có
chiếm được đa số nữa hay không trong Quốc hội sẽ được bầu lại. Bởi vậy,
thông thường Chính phủ các nước chỉ sử dụng biện pháp này khi tin chắc vào
lợi thế tương quan lực lượng của mình vào thời điểm bỏ phiếu
Bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ (vote of non- confidence) xuất phát
từ Quốc hội, các đại biểu Quốc hội, thể hiện thái độ không đồng tình của
Quốc hội đối với đường lối, chính sách, những động thái cụ thể nào đó hoặc
dự luật của Chính phủ. Bỏ phiếu bất tín nhiệm nếu được thông qua có thể kéo
theo sự từ chức của toàn bộ Chính phủ và có thể có sự giải tán Quốc hội (nếu
có quy định).


9

“Tín nhiệm” được dịch từ tiếng Anh “confidence” còn có nghĩa là niềm
tin; do đó, bỏ phiếu tín nhiệm/bất tín nhiệm có thể hiểu là bỏ phiếu cho niềm
tin/bỏ phiếu thể hiện mất niềm tin. Mặc dù không có định nghĩa đầy đủ được
chấp nhận rộng rãi về bỏ phiếu bất tín nhiệm, ở Anh, vẫn có những đặc điểm
xác định các dạng bỏ phiếu này: Bỏ phiếu tín nhiệm do Chính phủ khởi
xướng; bỏ phiếu bất tín nhiệm do phe đối lập khởi xướng; và một số kiến nghị
khác trong những trường hợp nhất định được coi là kiến nghị bỏ phiếu tín
nhiệm hoặc bất tín nhiệm.
Trong khi bỏ phiếu tín nhiệm là một phương tiện hiệu quả của chính phủ
đe dọa giải tán nghị viện, thì bỏ phiếu bất tín nhiệm là sự thể hiện rõ nét mô

hình Westminster về “phe đối lập trong nghị viện”, hay còn gọi là “phe đối
lập rình rập quyền lực”, thể hiện nỗ lực của phe đối lập truất ngôi để thay thế
chính phủ hiện hành. Tuy nhiên, chính phủ chỉ viện đến vũ khí kiến nghị bỏ
phiếu tín nhiệm khi nhận thấy có cơ hội giành phần thắng. Trong khi đó, kiến
nghị bỏ phiếu bất tín nhiệm xảy ra khi tương quan lực lượng không đảm bảo
được chiến thắng cho phe đối lập.
Ở nhiều nước, Hiến pháp nói đến khái niệm “bỏ phiếu bất tín nhiệm có
tính chất xây dựng”. Cuộc bỏ phiếu được công nhận nếu Quốc hội không chỉ
thông qua nghị quyết bất tín nhiệm mà còn xác định người đứng đầu Chính
phủ mới. Theo Điều 67, Đạo luật cơ bản của Đức, Bundestag (Hạ viện Đức)
chỉ có thể phản ánh sự bất tín nhiệm đối với Thủ tướng liên bang bằng cách
bầu ra người kế nhiệm và đề nghị Tổng thống liên bang truất quyền Thủ
tướng cũ. Tổng thống buộc phải làm điều đó và bổ nhiệm Thủ tướng mới.
Cách làm như vậy cho phép tránh những cuộc khủng hoảng Chính phủ kéo
dài do Quốc hội một thời gian dài không thành lập được Chính phủ mới sau
khi Chính phủ cũ phải từ chức.


10

Muốn sử dụng công cụ này một cách có hiệu quả, có lẽ trước hết nên làm
rõ ý nghĩa, mục đích của nó, những yêu cầu đặt ra cho các bên tham gia,
những dích dắc đằng sau nó.
Trước hết, ở đây nói đến trách nhiệm chính trị vì cơ sở để quy trách
nhiệm là sự đánh giá chính sách, đường lối hoạt động chính trị của Chính phủ
và các thành viên (có những trường hợp đó là sự đánh giá về mặt đạo đức đối
với họ) chứ không phải cơ sở pháp lý, mặc dù quy trình quy trách nhiệm của
Chính phủ trước Quốc hội được tiến hành bằng những hình thức pháp lý.
Trách nhiệm chính trị đó là: Chính phủ phải chịu trách nhiệm về những
động thái của mình, bảo đảm rằng chúng sẽ không gây ra những hệ quả có hại

nào cho người dân; còn khi những hệ quả như vậy xảy ra thì phải có những
biện pháp tương ứng. Ở các nước có cơ chế này, bỏ phiếu nhằm quy trách
nhiệm tập thể và trách nhiệm liên đới của Chính phủ trước Quốc hội; còn ở
nước ta, do có những đặc thù, bỏ phiếu nhằm để quy trách nhiệm cá nhân. Đó
chính là mục đích trực tiếp của cơ chế nói trên.
Tuy nhiên, cơ chế quy trách nhiệm này được sáng tạo ra không nhằm
"đánh đổ" Chính phủ. Mục đích sâu xa của nó là phần nào tạo ra một cơ chế
quyền lực hạn chế quyền lực, giám sát, kiểm tra quyền lực lẫn nhau giữa
Quốc hội và Chính phủ, cân bằng quyền lực, có tác động hai chiều. Cơ chế
kia không chỉ "lơ lửng" trên đầu Chính phủ mà còn là áp lực đối với Quốc hội
nữa, buộc người ra quyết định cũng phải cân nhắc, suy xét kỹ lưỡng, khách
quan để lường hết được hệ quả của việc bỏ phiếu, bỏ phiếu đúng đối tượng,
đúng thời điểm và nhất là không được để trống những vị trí quan trọng của
Nhà nước, đặt lợi ích chung lên trên hết.
Hiệu quả gián tiếp bỏ phiếu tín nhiệm còn có áp lực lớn hơn so với hiệu
quả trực tiếp nói trên: nó luôn treo lơ lửng, có tác dụng răn đe, nhắc nhở, buộc
Chính phủ phải thận trọng, có trách nhiệm trong hoạt động của mình. Tác


11

động tâm lý đó còn lớn hơn tác động trực tiếp của nó; hơn nữa người ta dùng
khá cẩn trọng vì nếu không khéo, nó có thể tạo khoảng trống quyền lực, mất
ổn định, thậm chí kéo theo khủng hoảng chính trị. Vì thế, ở các nước, quyền
này được ví như “thanh bảo kiếm”. Bởi vậy, có thể nói rằng, sức nặng của
việc bỏ phiếu bất tín nhiệm nghiêng về sự đánh động, lên tiếng, nhắc nhở.
Nhưng điều đó không có nghĩa là “thanh bảo kiếm” sẽ không bao giờ được
rút ra khỏi vỏ. Vả lại, riêng việc bị đưa ra “chịu trận” trước búa rìu dư luận và
sự xem xét của nghị viện mà lại không có lý lẽ thuyết phục nào để giải trình
cũng đủ để những chính khách có lòng tự trọng thấy “muối mặt” mà dũng

cảm tự xin rút lui, hoặc buộc phải có những biện pháp tương ứng. Bỏ phiếu
tín nhiệm thực ra vừa hướng tới sự ổn định, vừa tạo ra sự năng động trên
chính trường.
Nói về ý nghĩa của cơ chế này, trong các ấn phẩm hiến pháp học của các
nước có những ý kiến cho rằng đây là một hình thức giám sát của Quốc hội,
nhưng cũng có ý kiến lại coi đây là hệ quả của công việc giám sát, bởi lẽ giám
sát làm rõ và xác định những sự kiện nhất định liên quan đến hoạt động của
đối tượng bị giám sát, trong khi đó trách nhiệm lại là hệ quả của sự đánh giá
hoạt động đó do cơ quan tiến hành giám sát đưa ra, trong trường hợp này là
Quốc hội hoặc một trong hai viện của Quốc hội.
Tại Việt Nam cơ chế này chưa một lần được dùng đến, mà hiện nay chủ
yếu là công cụ tác động lên Chính phủ (và cả Quốc hội), để Quốc hội và
Chính phủ thận trọng, có trách nhiệm hơn trong hoạt động của mình. Thời
xưa, dùng kiếm cao cường đều có “đạo kiếm” với ba bậc, trong đó bậc ba là
bậc cao nhất; tay không kiếm mà trong tim cũng chẳng có kiếm vì không
muốn giết ai nữa, ngộ ra rằng bạo lực, chết chóc là con dao hai lưỡi. Tương
tự, có lẽ cũng có thể nói “đạo” của bỏ phiếu tín nhiệm là: thực chất nấc cao
nhất để xét trách nhiệm ở đây chính là công luận, là người dân. Chính phủ


12

chịu trách nhiệm về một động thái, chính sách sai lầm, gây tổn hại cho dân đã
đành, nhưng lợi ích của dân cũng chính là tiêu chí, cơ sở cuối cùng để Quốc
hội đánh giá Chính phủ và quyết định bỏ phiếu tín nhiệm hay không. Cả Quốc
hội và Chính phủ đều phải có trách nhiệm trước người dân. Có như vậy mới
phát huy được hết tác dụng hai mặt của cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm, lúc đó
được lợi nhất mới là người dân.
Như đã nêu, cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm của chúng ta là nhằm quy trách
nhiệm quản lý nhà nước, trách nhiệm cá nhân. Có mục đích nhắc nhở, đánh

động những người đã được bầu, được phê chuẩn, tạo áp lực để họ luôn làm
việc với trách nhiệm cao, nếu không, có thể bị Quốc hội xem xét trách nhiệm.
Ở chiều ngược lại, Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn những chức vụ này, thì
Quốc hội phải có trách nhiệm giám sát, chứ không phải Quốc hội bầu xong
rồi Quốc hội hết trách nhiệm. Việc làm này có tác dụng kép, vừa nâng cao
trách nhiệm của người được bầu, được phê chuẩn, vừa nâng cao trách nhiệm
giám sát của Quốc hội.
Bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn
có ý nghĩa và vai trò to lớn. Qua đó phát huy vai trò giám sát của Quốc hội,
nhân dân, chọn được người có đức, có tài nắm giữ vị trí quan trọng trong các
cơ quan nhà nước, nâng cao năng lực quản lý, điều hành của Chính phủ. Suy
cho cùng, đó chính là thể hiện tinh thần trách nhiệm trước dân của người bỏ
phiếu và ý thức chính trị, uy tín, trách nhiệm công bộc, công dân của người
được bỏ phiếu; để nỗ lực, phấn đấu vươn lên, tất cả đều vì lợi ích của nhân
dân.
Mong muốn của chúng ta là xây dựng Nhà nước pháp quyền. Trong Nhà
nước pháp quyền không thể không có sự phân công rành mạch quyền hạn và
nhiệm vụ, mà phân quyền với mục đích cơ bản là giám sát quyền lực lẫn
nhau, không để quyền lực bị lạm dụng. Phân quyền là để giám sát đảm bảo


13

cho mỗi quyền làm đúng, làm đủ quyền hạn, nhiệm vụ được nhân dân ủy
quyền – giao quyền. Không phải ngẫu nhiên mà trên thế giới cơ chế giám sát,
kiểm tra quyền lực được chú trọng đặc biệt và hàng loạt các hình thức giám
sát quyền lực lẫn nhau được thiết lập như các hình thức giám sát của Quốc hội
(chất vấn, luận tội, bỏ phiếu bất tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm Chính phủ,
điều tra...), của Toà án hiến pháp, của Thanh tra Quốc hội... Tóm lại, Nhà
nước pháp quyền đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa sự giám sát quyền lực, mà

cơ chế trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội là một trong những hình
thức giám sát như vâỵ.
Cách gọi ở nước ta là bỏ phiếu tín nhiệm mà không phân biệt với bỏ
phiếu bất tín nhiệm. Trong khi đó, ở các nước, quy trình quy trách nhiệm của
Chính phủ trước Quốc hội được thực hiện chủ yếu bằng hai hình thức: bỏ
phiếu bất tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm Chính phủ. Cách phân biệt này có
lý lẽ của nó như trình bày trên đây. Bất kỳ đại biểu nào cũng có thể sử dụng
công cụ bỏ phiếu bất tín nhiệm để giám sát Chính phủ.
Có thể nói, bỏ phiếu tín nhiệm hay bỏ phiếu bất tín nhiệm gắn liền với
quyền giám sát của Nghị viện. Trong một Báo cáo nghiên cứu của Viện Dân
chủ Quốc gia, giám sát của Nghị viện được định nghĩa: “là những hoạt động
đương nhiên tiếp theo hoạt động lập pháp. Sau khi tiến hành các hoạt động
lập pháp, vai trò cơ bản của cơ quan lập pháp là xem xét liệu các đạo luật đó
có được thực thi hiệu quả hay không và liệu trên thực tế các đạo luật có định
rõ và giải quyết được các vấn đề như dự định của các nhà soạn thảo hay
không”[8, tr.181].
Ở nước ta, bỏ phiếu tín nhiệm là để thực hiện quyền giám sát tối cao của
Quốc hội được quy định tại Điều 83 của Hiến pháp 1992. Quyền giám sát tối
cao của Quốc hội là quyền năng của Quốc hội, thể hiện trong quá trình theo
dõi, kiểm tra, đánh giá đối với mọi hoạt động của nhà nước trong việc tuân


14

thủ Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, đồng thời đưa ra biện pháp xác định trách nhiệm
chính trị, trách nhiệm pháp lý của các đối tượng chịu sự giám sát nhằm mục
đích cảnh báo, phát hiện, phòng ngừa ngăn chặn và xử lý những vi phạm có
thể xảy ra.
Giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước là một trong ba

chức năng quan trọng của Quốc hội. Trong đó bỏ phiếu tín nhiệm là một công
cụ thực hiện quyền giám sát của Quốc hội. Theo ông Goran Magnusson, Phó
Chủ nhiệm Ủy ban Hiến pháp, Quốc hội Thụy Điển, thì “Mọi quyền lực đều
phải được kiểm tra, giám sát và đây chính là việc hệ trọng của các nghị sĩ.
Ngược lại, bản thân mỗi nghị sĩ cũng phải được giám sát bởi cử tri và các
phương tiện thông tin đại chúng”. Và “Vũ khí mạnh nhất để giám sát là tuyên
bố bất tín nhiệm”- Cố vấn cao cấp của Quốc hội Thụy Điển ông Magnus
Isberg cũng nhấn mạnh. Mặc dù đề xuất bất tín nhiệm rất ít khi xuất hiện,
nhưng ông Isberg vẫn khẳng định: "Điều đó không có nghĩa công cụ này
không có tầm quan trọng. Nó có thể dẫn đến việc từ chức của một chính phủ
hoặc một bộ trưởng và giai đoạn ba thập niên qua của Quốc hội Thụy Điển đã
chứng kiến ít nhất hai trường hợp như vậy"[22].
Chính vì vậy, Hiến pháp năm 1992 đã quy định, "Quốc hội thực hiện
quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước" và Quốc hội
có quyền "bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc
hội bầu hoặc phê chuẩn.
1.2. Nội dung của pháp luật về bỏ phiếu tín nhiệm
Quy định pháp luật nói chung là các quy tắc xử sự do các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành tồn tại trong các đạo luật hay trong các văn bản
quy phạm pháp luật dưới luật.


15

Ở nước ta, các quy định về bỏ phiếu tín nhiệm có trong các văn bản pháp
luật: từ văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất đến văn bản có hiệu lực pháp lý
thấp hơn, đó là: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung
năm 2001), Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội,
các Quy chế hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Quy chế hoạt động
của Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội.

Trong các quy định về bỏ phiếu tín nhiệm, nội dung của pháp luật về bỏ
phiếu tín nhiệm điều chỉnh những vấn đề:
1.2.1. Quy định quyền bỏ phiếu tín nhiệm
Theo Điểm 7, Điều 84, Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001), Quốc hội có
thẩm quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc
hội bầu hoặc phê chuẩn. Cụ thể hóa quy định trong Hiến pháp, tại các điều 2,
12, 21, Luật Tổ chức Quốc hội quy định cụ thể, đó là: “Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức
vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm
đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn khi có
kiến nghị của ít nhất hai mươi phần trăm tổng số đại biểu Quốc hội hoặc kiến
nghị của Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội”.
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội tại Điều 13 quy định: “Uỷ ban
thường vụ Quốc hội tự mình hoặc khi có kiến nghị của ít nhất hai mươi phần
trăm (20%) tổng số đại biểu Quốc hội hoặc kiến nghị của Hội đồng Dân tộc,
Uỷ ban của Quốc hội trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ
chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn”.
Trong quá trình xem xét kết quả giám sát, Uỷ ban thường vụ Quốc hội
có quyền đề nghị Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do


16

Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn (Điều 26, Luật Hoạt động giám sát của Quốc
hội).
Trong quá trình giám sát, nếu phát hiện người giữ chức vụ do Quốc hội
bầu hoặc phê chuẩn có hành vi vi phạm pháp luật hoặc không thực hiện đúng
và đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn được giao, gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Hội

đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội có quyền kiến nghị Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội xem xét trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người đó (Điều
34 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội).
Đại biểu Quốc hội có quyền kiến nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem
xét trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội
bầu hoặc phê chuẩn (Điều 44 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội).
Trước đó, quyền bỏ phiếu tín nhiệm được thể hiện rõ tại Điều thứ 39 và
Điều thứ 54 Hiến pháp 1946: “Đầu mỗi khoá họp, sau khi Ban thường vụ báo
cáo công việc, vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm Ban thường vụ có thể nêu ra, nếu có
một phần tư tổng số nghị viên yêu cầu”; “Thủ tướng phải chịu trách nhiệm về
con đường chính trị của Nội các. Nhưng Nghị viện chỉ có thể biểu quyết về
vấn đề tín nhiệm khi Thủ tướng, Ban thường vụ hoặc một phần tư tổng số
Nghị viên nêu vấn đề ấy ra”.
Như vậy, theo những quy định trên, chủ thể duy nhất thực hiện quyền bỏ
phiếu tín nhiệm là Quốc hội, khi có kiến nghị, đề xuất, đề nghị của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, đại biểu
Quốc hội.
Quốc hội thực hiện quyền bỏ phiếu tín nhiệm, bởi “Quốc hội thực hiện
quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước” (Điều 83,
Hiến pháp năm 1992). Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao là thể hiện


17

tính chất cơ bản của Quốc hội là tính đại diện cao nhất và tính quyền lực nhà
nước cao nhất. Mọi hoạt động do Quốc hội thực hiện đều bắt nguồn từ nguyên
tắc quyền lực nhà nước là thống nhất; mọi quyền hành và lực lượng đều là của
dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Quốc hội được nhân dân ủy
quyền thực hiện quyền lực thông qua cuộc bầu cử trực tiếp. Quốc hội đại diện
cho nhân dân thành lập, bầu hoặc phê chuẩn các cơ quan và cá nhân trong bộ

máy nhà nước. Do đó, chỉ có Quốc hội mới có quyền giám sát tối cao đối với
toàn bộ hoạt động của Nhà nước, trong đó có quyền “bỏ phiếu tín nhiệm đối
với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn”.
Pháp luật về bỏ phiếu tín nhiệm ở một số nước quy định quyền bỏ phiếu
tín nhiệm thuộc về Nghị viện/Quốc hội. Khoản 3 Điều 147 Hiến pháp Liên
bang Nga quy định: Đuma Quốc gia có thể bày tỏ sự bất tín nhiệm đối với
Chính phủ Liên bang Nga. Nhóm đại biểu Đuma Quốc gia có số lượng không
dưới 1/5 tổng số đại biểu có quyền đề xuất kiến nghị về việc bỏ phiếu bất tín
nhiệm Chính phủ. Kiến nghị được trình lên Hội đồng Đuma Quốc gia có kèm
theo dự thảo Nghị quyết của Đuma Quốc gia và danh sách và chữ ký của
những đại biểu Đuma Quốc gia đề xuất. Đuma Quốc gia phải xem xét vấn đề
bất tín nhiệm Chính phủ trong vòng một tuần kể từ khi kiến nghị được đưa ra.
Ở những nước Nghị viện có cơ cấu hai viện, Chính phủ chịu sự bỏ phiếu
bất tín nhiệm của cả Hạ viện và Thượng viện (Morocco), nhưng có thể chỉ
phải chịu sự bỏ phiếu của một viện: trong trường hợp Chính phủ cần sự ủng
hộ của Nghị viện về một kế hoạch cụ thể, Thủ tướng có thể yêu cầu Hạ viện
(không cần Thượng viện) bỏ phiếu tín nhiệm với chương trình của Chính phủ
(Cộng hòa Pháp).
Tuy nhiên, do có sự phân biệt bỏ phiếu tín nhiệm với bỏ phiếu bất tín
nhiệm, nên khác với nước ta, kiến nghị xuất phát từ Quốc hội, thì ở các nước
kiến nghị xuất phát từ cả Quốc hội và Chính phủ. Đối với bỏ phiếu bất tín


18

nhiệm, theo Hiến pháp Yemen, thì kiến nghị xuất phát từ Nghị viện: bất kỳ
Hạ nghị sỹ nào cũng có quyền kiến nghị bỏ phiếu bất tín nhiệm Thủ tướng và
các thành viên Chính phủ. Kiến nghị này phải được ít nhất 1/3 tổng số Hạ
nghị sỹ ký ủng hộ và phải được đa số hạ nghị sỹ biểu quyết tán thành. Trong
trường hợp đó, Chính phủ sẽ bị giải tán. Ngược lại, đối với bỏ phiếu tín

nhiệm, theo Điều 85 của Hiến pháp Yemen, thì kiến nghị xuất phát từ Chính
phủ: trong vòng 25 ngày sau khi thành lập Chính phủ, Thủ tướng trình bày
trước Hạ viện chương trình hành động của Chính phủ và yêu cầu Hạ viện bỏ
phiếu tín nhiệm. Sau khi thảo luận về chương trình, Hạ viện biểu quyết tín
nhiệm. Nếu không được đa số trong Hạ viện ủng hộ, Chính phủ sẽ phải từ
chức tập thể[18].
Thủ tướng Chính phủ Liên bang Nga có thể chủ động đặt vấn đề bỏ
phiếu tín nhiệm Chính phủ Liên bang trước Đuma Quốc gia. Đề nghị này cần
phải có lý do hợp lý, còn văn bản của đề nghị đó phải được phổ biến ngay lập
tức trong các đại biểu Đuma Quốc gia. Hay như Slovenia, Thủ tướng Chính
phủ cũng có thể gửi văn bản đến Chủ tịch Quốc hội đề nghị Quốc hội bỏ
phiếu tín nhiệm Chính phủ.
Ở Anh, chưa có những quy định chính thức trong luật hoặc Quy chế nghị
viện về bỏ phiếu bất tín nhiệm, mà tiến hành theo tiền lệ, tập quán nghị viện.
Chẳng hạn, không có câu bắt buộc dạng như “Viện Dân biểu tín nhiệm/bất tín
nhiệm đối với Chính phủ Hoàng gia”[21]. Một số ý kiến thì đề cập đến tín
nhiệm/bất tín nhiệm đối với những chính sách cụ thể, mà không phải đối với
Chính phủ. Hơn nữa, bất kỳ kiến nghị nào dù vô thưởng vô phạt đến đâu cũng
có thể là cái cớ để Chính phủ đề xuất bỏ phiếu tín nhiệm. Cũng như thế, một
tác giả nhận xét về tình trạng phe đối lập lạm dụng kiến nghị bỏ phiếu bất tín
nhiệm: “Nhiều kiến nghị do phe đối lập trình vào các ngày đối lập có tính chất


19

chỉ trích Chính phủ kịch liệt, nhưng không thể coi đó là kiến nghị bất tín
nhiệm” ”[21].
Cũng theo tập quán nghị viện Anh, đảng đối lập chính thức có ưu thế
hơn so với các đối lập khác trong việc đệ trình kiến nghị bỏ phiếu bất tín
nhiệm. Chẳng hạn, cùng một kiến nghị liên quan đến một vấn đề hoặc một

chính sách của chính phủ, nhưng nếu nó do đảng đối lập chính thức đưa ra thì
được coi là kiến nghị bỏ phiếu bất tín nhiệm, còn nếu do đảng khác đề xuất
thì không được coi như vậy. Chính vì lý do này mà vào năm 1976 Chủ tịch
Hạ viện lúc đó đã lập luận rằng, kiến nghị của Đảng tự do không phải là kiến
nghị bỏ phiếu bất tín nhiệm, vì đó không phải là đảng đối lập chính thức.
Để phân biệt ba dạng kiến nghị về tín nhiệm: bỏ phiếu tín nhiệm do
Chính phủ khởi xướng; bỏ phiếu bất tín nhiệm do phe đối lập khởi xướng; và
một số kiến nghị khác trong những trường hợp nhất định được coi là kiến
nghị bỏ phiếu tín nhiệm hoặc bất tín nhiệm so với các dạng kiến nghị khác, ở
Anh thường dựa vào các yếu tố như chủ thể trình kiến nghị, lịch trình, người
phát ngôn, thuật ngữ. Chẳng hạn, về chủ thể trình kiến nghị, kiến nghị tín
nhiệm do Chính phủ đề xuất; kiến nghị bất tín nhiệm thường xuất phát từ phe
đối lập; còn kiến nghị khác nhưng thỉnh thoảng được coi là kiến nghị tín
nhiệm/bất tín nhiệm có thể do nghị sỹ của cả hai phe đưa ra.
Như vậy, chúng ta thấy, ở Việt Nam hay bất kỳ nước nào khác, dù kiến
nghị bỏ phiếu tín nhiệm/bỏ phiếu bất tín nhiệm được xuất phát từ đâu, thì chủ
thể thực hiện quyền này chỉ có Quốc hội/Nghị viện mà thôi.
1.2.2. Quy định trình tự, thủ tục thực hiện quyền bỏ phiếu tín nhiệm
Muốn tiến hành bất kỳ một hoạt động pháp lý nào cũng phải theo một
trình tự, thủ tục nhất định. Quốc hội muốn thực hiện quyền bỏ phiếu cũng
phải có quy trình để thực hiện. Vì thế, đây là một nội dung rất quan trọng, nếu


20

không có các quy định về trình tự, thủ tục này, thì quyền bỏ phiếu tín nhiệm
của Quốc hội sẽ khó có thể thực hiện được.
Trình tự, thủ tục bỏ phiếu tín nhiệm được quy định trong các văn bản
luật, dưới luật, đó là Luật Tổ chức Quốc hội năm 2002 (các Điều 2, 12, 21,
30, 88 và Điều 89); trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội (các Điều

13, 26, 34 và Điều 44); trong Quy chế hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội ban hành kèm theo Nghị quyết số 26/2004/QH11, ngày 15/6/2004, (các
Điều 27, 32 và Điều 52) và trong Quy chế hoạt động của Hội đồng Dân tộc và
các Uỷ ban của Quốc hội ban hành kèm theo Nghị quyết số 27/2004/QH11,
ngày 15/6/2004 (Điều 33).
Theo đó, trình tự, thủ tục bỏ phiếu tín nhiệm bao gồm những quy định về
việc xem xét bỏ phiếu tín nhiệm, điều kiện để kiến nghị bỏ phiếu được xem
xét trình Quốc hội,... để đưa được vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm ra nghị trường,
quy trình thảo luận, phát biểu ý kiến, báo cáo, tranh luận, phản biện của các
chủ thể tham gia, thời gian thực hiện, kết quả bỏ phiếu tín nhiệm...
Trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, các quy định về bỏ phiếu tín
nhiệm thể hiện khá chi tiết về trình tự, thủ tục để Quốc hội thực hiện quyền
này: Trong hạn 24 giờ sau khi Nghị viện biểu quyết không tín nhiệm Nội các
thì Chủ tịch nước Việt Nam có quyền đưa vấn đề tín nhiệm ra Nghị viện thảo
luận lại. Cuộc thảo luận lần thứ hai phải cách cuộc thảo luận lần thứ nhất là
48 giờ. Sau cuộc biểu quyết này, Nội các mất tín nhiệm phải từ chức (Điều
thứ 54).
Như vậy, trình tự, thủ tục, cách thức bỏ phiếu tín nhiệm được quy định
khá đầy đủ, ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật, thể hiện sự chủ động, dân
chủ, công khai, minh bạch, nhưng chặt chẽ, thận trọng trong quy trình thực
hiện hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm, là cơ sở pháp lý quan trọng để Quốc hội


21

thực hiện được quyền đã được ghi nhận trong Hiến pháp, là căn cứ để đại biểu
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội tiến hành hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm.
1.2.3. Hậu quả pháp lý của việc bỏ phiếu tín nhiệm
Theo lô gíc thông thường, thì hậu quả pháp lý của việc bỏ phiếu tín
nhiệm sẽ xảy ra hai trường hợp:

Trường hợp thứ nhất, đối tượng bị bỏ phiếu tín nhiệm vẫn được Quốc
hội/Nghị viện tín nhiệm.
Trường hợp thứ hai, đối tượng bị bỏ phiếu nhiệm không được Quốc
hội/Nghị viện tín nhiệm.
Theo quy định của pháp luật của Việt Nam tại Điều thứ 39 và Điều thứ
54 Hiến pháp năm 1946 thì Ban thường vụ, Bộ trưởng, Nội các không được
Nghị viện tín nhiệm thì phải từ chức.
Khoản 2 Điều 88 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2002 quy định hậu quả
của việc bỏ phiếu tín nhiệm là nếu không được quá nửa tổng số đại biểu Quốc
hội tín nhiệm thì cơ quan hoặc người đã trình Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn
có trách nhiệm trình Quốc hội xem xét, quyết định việc miễn nhiệm, bãi
nhiệm hoặc phê chuẩn việc miễn nhiệm, cách chức người không được Quốc
hội tín nhiệm.
Theo Hiến pháp 1946, thì đối tượng bị bỏ phiếu tín nhiệm nếu không
được Nghị viện tín nhiệm, chỉ có một hình thức là phải từ chức mà không
phải cần bất cứ một thủ tục nào nữa. Trong khi đó, theo quy định của pháp
luật về bỏ phiếu tín nhiệm ở nước ta hiện nay, Quốc hội không có quyền trực
tiếp quyết định hình thức xử lý đối với người không được đa số đại biểu Quốc
hội tín nhiệm. Hậu quả pháp lý của việc bỏ phiếu tín nhiệm phụ thuộc vào Tờ
của cơ quan hay người giới thiệu để Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn với các
hình thức: miễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức.


×