Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Hoàn thiện pháp luật về huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ phần việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687.04 KB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG TUYẾT MAI

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Ánh Vân

HÀ NỘI - 2010


LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, tôi xin tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới Tiến sĩ Nguyễn Thị
Ánh Vân – Giám đốc Trung tâm Luật So sánh – Trường Đại học Luật Hà Nội, người
đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi thực hiện và hoàn thành bản Luận văn
này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo của Trường Đại học Luật
Hà Nội nói chung và các thầy giáo, cô giáo của Khoa Sau Đại học – Trường Đại học
Luật nói riêng đã dạy bảo tôi trong suốt ba năm vừa qua để tôi có được những kiến
thức tốt nhất hoàn thiện bản Luận văn của mình.
Cuối cùng, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn trước sự động viên to lớn cả về mặt vật


chất cũng như tinh thần của gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và Ngân hàng nơi tôi làm
việc đã giúp tôi hoàn thành Luận văn này.


1

MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................................. 1
LỜI NÓI ĐẦU ....................................................................................................... 6

CHƯƠNG I – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐN VÀ
PHÁP LUẬT VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTMCP ...................................... 11
1.1 Tổng quan về huy động vốn của NHTMCP............................................... 11
1.1.1

Vốn, cấu trúc vốn của NHTMCP .............................................................. 11

1.1.2

Huy động vốn và các hình thức huy động vốn của NHTMCP .................... 18

1.2

Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động huy

động vốn của NHTMCP...................................................................................... 22
1.2.1

Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ lợi ích của NH nói riêng và của nền kinh tế
nói chung .................................................................................................. 22


1.2.2

Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền ......................... 23

1.3 Tổng quan pháp luật về huy động vốn của NHTMCP .............................. 24
1.3.1

Khái niệm và nội dung pháp luật về huy động vốn của NHTMCP ............. 24

1.3.2

Một số đặc điểm của pháp luật về huy động vốn của NHTMCP ................ 28

CHƯƠNG II – THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HUY ĐỘNG VỐN ............ 31
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN .............................................. 31
2.1 Thực trạng pháp luật về huy động vốn để tạo lập vốn điều lệ của các
NHTMCP .................................................................................................... 31
2.1.1

Khái niệm về vốn pháp định, vốn điều lệ trong pháp luật thực định của
Việt Nam chưa phù hợp với thông lệ quốc tế ............................................. 33

2.1.2

Quy định về đồng tiền góp vốn, về nguồn gốc tiền góp vốn chưa thống
nhất và còn mâu thuẫn giữa các văn bản .................................................. 34

2.1.3


Quy định về cổ đông sáng lập không phù hợp với sự phát triển của nền
kinh tế cũng như cam kết quốc tế của Việt Nam ........................................ 35

2.1.4

Quy định về lộ trình tăng vốn điều lệ của các NHTMCP không khả thi và
mức vốn pháp định còn thấp so với thông lệ quốc tế ................................. 36


2

2.2 Thực trạng pháp luật về phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ của các
NHTMCP .................................................................................................... 36
2.2.1

Quy định về cổ phiếu ưu đãi cổ tức còn chung chung, chưa bảo vệ được
quyền lợi của cổ đông nhỏ trong NHTMCP .............................................. 38

2.2.2

Quy định về niêm yết cổ phiếu của NHTMCP không còn phù hợp và
không khuyến khích được các NHTMCP thực hiện niêm yết ..................... 39

2.2.3

Quy định về giao dịch cổ phiếu của các NHTMCP chưa niêm yết không rõ
ràng, minh bạch và chưa phù hợp với thực tế ........................................... 40

2.3 Pháp luật về huy động vốn bằng nhận tiền gửi còn nhiều bất cập và
chưa phản ánh hết các quan hệ xã hội phát sinh ....................................... 41

2.3.1

Quy định về đối tượng mở tài khoản và gửi tiền tiết kiệm còn có sự mâu
thuẫn giữa các văn bản, không phù hợp với thực tế .................................. 42

2.3.2

Các hình thức nhận tiền gửi còn nghèo nàn và chưa có sự phân biệt rõ
ràng giữa các hình thức gửi tiền ............................................................... 44

2.3.3

Các quy định về bảo hiểm tiền gửi không còn phù hợp và không khuyến
khích các chủ thể có tiền nhàn rỗi gửi tiền vào NH ................................... 45

2.4 Pháp luật về huy động vốn thông qua phát hành GTCG còn nhiều bất
cập, chưa phản ánh đúng bản chất của quan hệ này ................................ 46
2.4.1

Quy định về đồng tiền được sử dụng trong thanh toán trái phiếu chưa
thống nhất giữa các văn bản pháp luật và không phù hợp với thực tế ....... 47

2.4.2

Quy định hiện hành chưa phản ánh đúng bản chất pháp lý của quan hệ
phát hành GTCG của NHTMCP ............................................................... 48

2.5 Quy định về vay vốn giữa các TCTD còn nhiều điểm chưa rõ ràng, chưa
phản ánh được nội dung quan hệ này ........................................................ 49
2.6 Quy định về hoạt động tái cấp vốn của NHNN còn nhiều tồn tại, bất cập50

2.7 Cơ sở pháp lý để các NHTMCP huy động trên thị trường vốn quốc tế
còn sơ sài ..................................................................................................... 51
2.8 Thực tiễn áp dụng pháp luật về huy động vốn của NHTMCP ................. 52
2.8.1

Những thành tựu trong hoạt động huy động vốn của các NHTMCP.......... 52

2.8.2

Một số vấn đề còn tồn tại trong hoạt động huy động vốn của NHTMCP ... 56


3

CHƯƠNG III – PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTMCP VIỆT NAM ............................. 59
3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về huy động vốn của NHTMCP . 59
3.1.1

Xuất phát từ xu hướng phát triển tất yếu của các NHTMCP ..................... 59

3.1.2

Xuất phát từ những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành và yêu cầu
của thực tiễn ............................................................................................. 59

3.2 Những yêu cầu đặt ra trong việc hoàn thiện pháp luật về huy động vốn
của NHTMCP ở Việt Nam ......................................................................... 60
3.2.1


Bảo đảm tính thống nhất và sự phù hợp giữa các VBPL. .......................... 60

3.2.2

Đảm bảo sự tương thích với các nguyên tắc và thông lệ quốc tế, từng
bước thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam. ................................... 61

3.2.3

Quán triệt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN. ....................................................... 61

3.3 Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về huy động vốn của NHTMCP .. 62
3.3.1

Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về huy động vốn để tạo lập vốn
điều lệ của NHTMCP................................................................................ 62

3.3.2

Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về huy động vốn để tăng vốn điều
lệ của NHTMCP ....................................................................................... 66

3.3.3

Ban hành văn bản hướng dẫn chung về hoạt động nghiệp vụ huy động vốn
của NHTMCP ........................................................................................... 71

3.3.4


Giải pháp hoàn thiện pháp luật về nhận tiền gửi của Khách hàng ............ 72

3.3.5

Sửa đổi, bổ sung các quy định về phát hành GTCG để làm rõ bản chất,
đồng tiền được sử dụng cho quan hệ này và cơ sở pháp lý để thực hiện
hoạt động này của các NHTMCP ............................................................. 75

3.3.6

Sửa đổi, bổ sung một số quy định tối nghĩa trong quy định về vay vốn giữa
các TCTD ................................................................................................. 75

3.3.7

Hoàn thiện quy định về tái cấp vốn của NHNN để phát huy tối đa hiệu quả
của công cụ này đối với hoạt động của các NHTMCP .............................. 76


4

3.4 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn của
NHTMCP .................................................................................................... 77
KẾT LUẬN.......................................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................... 80


5

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Nghĩa
BLDS 2005 Bộ luật Dân sự năm 2005
BLLĐ Bộ luật Lao động
LCK 2006 Luật Chứng khoán năm 2006
LCT 2004 Luật Cạnh tranh năm 2004
LDN 2005 Luật Doanh nghiệp năm 2005
LĐT 2005 Luật Đầu tư năm 2005
BKS Ban kiểm soát
CTCP Công ty cổ phần
ĐHĐCĐ Đại hội đồng cổ đông
ĐKKD Đăng ký kinh doanh
GTCG Giấy tờ có giá
HĐQT Hội đồng quản trị
NH Ngân hàng
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTMQD Ngân hàng thương mại quốc doanh
TCTD Tổ chức tín dụng
TGĐ Tổng Giám đốc
VBPL Văn bản pháp luật


6

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
NHTM nói chung và NHTMCP nói riêng thực hiện kinh doanh tiền tệ dưới
hình thức sử dụng vốn tự có và vốn huy động để cho vay, đầu tư và cung cấp các
dịch vụ tiền tệ khác. Hoạt động huy động vốn của các NHTMCP theo đó đóng vai

trò rất quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng, tiềm lực và khả năng đảm bảo an
toàn của các NH; đồng thời, đây sẽ là cầu nối đưa các nguồn vốn đang nhàn rỗi
trong dân chúng đến với các dự án đầu tư trong nền kinh tế. Với những vai trò đặc
biệt đó, hoạt động này đã sớm được pháp luật điều chỉnh thông qua các chế định
cụ thể như chế định về vốn và quản lý vốn, chế định huy động tiền gửi, huy động
vốn thông qua hình thức phát hành GTCG v.v… Tuy nhiên, những quy định này
còn tản mát, mâu thuẫn, chồng chéo và chưa bao quát hết các quan hệ xã hội đang
từng ngày, từng giờ phát sinh trong thực tiễn. Điều này ít nhiều ảnh hưởng đến
tâm lý của chủ thể có nguồn vốn nhàn rỗi và giảm hiệu quả của hoạt động huy
động vốn của các NHTMCP.
Bên cạnh đó, bằng việc gia nhập WTO, nước ta đang tiến sâu vào quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế. Hoạt động NH gia tăng nhanh chóng và mang tính quốc
tế rõ rệt. Pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của NH, vì vậy, cũng cần
có những thay đổi kịp thời, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Hơn nữa, khi tham gia vào thị trường tài chính toàn cầu, các nước buộc
phải tuân thủ các nguyên tắc, những chuẩn mực, tập quán chung. Pháp luật Việt
Nam nói chung và pháp luật tài chính – NH nói riêng (trong đó có pháp luật về
huy động vốn) cần nắm bắt kịp thời những nguyên tắc, chuẩn mực, tập quán trên
để có những điều chỉnh phù hợp với yêu cầu của thị trường đó.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện pháp luật hiện hành
về hoạt động huy động vốn của các NHTMCP là một yêu cầu khách quan, mang
tính thời sự, có ý nghĩa cả về mặt khoa học và thực tiễn. Bởi vậy, học viên đã chọn
đề tài “Hoàn thiện pháp luật về huy động vốn của Ngân hàng thương mại cổ
phần Việt Nam” làm Luận văn tốt nghiệp Cao học Luật tại trường Đại học Luật
Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài


7


Cho đến nay, dưới góc độ nghiên cứu luật pháp, một số khóa luận tốt
nghiệp ở bậc đại học đã đề cập đến vấn đề này, tiêu biểu:“Pháp luật về huy động
vốn bằng nhận tiền gửi của các tổ chức tín dụng thực trạng và hướng hoàn thiện”
năm 2004 của tác giả Phan Thị Huyền Trang, Đại học Luật Hà Nội; “Pháp luật về
huy động vốn của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam” năm 2005 của tác giả Phạm
Thị Trang, Đại học Luật Hà Nội, “Pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn
của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Vân năm 2006,
Đại học Luật Hà Nội, “Pháp luật về hoạt động huy động vốn của ngân hàng
thương mại” của tác giả Phạm Thị Ban năm 2008, Đại học Luật Hà Nội v.v…
Pháp luật về huy động vốn cũng được đề cập đến trong một số Luận án
Tiến sĩ Luật học với vai trò là một bộ phận có liên quan như “Hoàn thiện pháp
luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của tác giả Ngô Quốc Kỳ, người hướng
dẫn khoa học là PGS.TS. Nguyễn Thị Mơ, TS. Dương Đăng Huệ của trường Đại
học Luật Hà Nội năm 2003; “Các giao dịch thương mại chủ yếu của Ngân hàng
thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Văn Tuyến, người hướng dẫn khoa học là PGS.TS. Trần Đình Hảo, TS. Võ Đình
Toàn của trường Đại học Luật Hà Nội năm 2004 v.v….
Nhìn chung, nghiên cứu của các tác giả trên đều được thực hiện trong bối
cảnh kinh tế, và môi trường pháp lý cũ; đồng thời, chưa đi sâu nghiên cứu phương
hướng hoàn thiện pháp luật. Các công trình nghiên cứu này cũng chưa đề cập đến
hoạt động huy động vốn để tạo lập và tăng vốn điều lệ của các NHTMCP Việt
Nam. Bên cạnh đó, việc phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành
trong tương quan so sánh với pháp luật của một số nước trên thế giới và cam kết
quốc tế của Việt Nam cũng chưa triển khai nghiên cứu thỏa đáng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
-


Một số vấn đề lý luận về huy động vốn và pháp luật về huy động vốn của
NHTMCP.

-

Thực trạng pháp luật về huy động vốn và thực tiễn áp dụng pháp luật về
huy động vốn của NHTMCP Việt Nam.


8

-

Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về huy động vốn và
nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn của các NHTMCP Việt Nam.

b) Phạm vi nghiên cứu
Luận văn này không nghiên cứu toàn bộ pháp luật về huy động vốn của tất
cả các tổ chức tín dụng, tất cả các loại hình NHTM mà chỉ tập trung vào các quy
định điều chỉnh hoạt động huy động vốn của các NHTMCP Việt Nam thông qua
việc phân tích, đánh giá pháp luật thực định và thực tiễn thi hành mảng pháp luật
này, từ đó đưa ra đề xuất cần thiết nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động
huy động vốn của các NHTMCP ở Việt Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu và thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, luận văn còn sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như phương pháp tổng hợp, so sánh,
phân tích, thống kê các số liệu thực tế v.v… để làm sáng tỏ các vấn đề của Luận
văn.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

Bằng việc nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật về
huy động vốn về phương diện lý luận cũng như trong thực tiễn thi hành, Luận văn
sẽ tập trung vào những bất cập, chồng chéo, chưa phù hợp của pháp luật hiện hành
và đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam. Để đạt được mục đích
này, đề tài có các nhiệm vụ sau đây:
-

Nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận về hoạt động huy động vốn và
pháp luật về huy động vốn của các NHTMCP Việt Nam.

-

Đánh giá thực trạng pháp luật về huy động vốn và thực tiễn áp dụng pháp
luật về huy động vốn của NHTMCP Việt Nam.

-

Tìm hiểu bộ phận pháp luật tương ứng của một số nước trên thế giới và
thông lệ quốc tế trong mối tương quan, so sánh với pháp luật Việt Nam về
hoạt động huy động vốn của NHTMCP.

-

Chỉ ra những yêu cầu khách quan của việc hoàn thiện pháp luật về huy
động vốn của NHTMCP Việt Nam và đề xuất một số giải pháp góp phần
hoàn thiện quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động này.

6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn



9

So với các công trình nghiên cứu trước đây, Luận văn đã đóng góp một số
kết quả nghiên cứu mới sau đây:
-

Lần đầu tiên nghiên cứu pháp luật về huy động vốn để tạo lập và tăng vốn
điều lệ của các NHTMCP Việt Nam.

-

Nghiên cứu một cách có hệ thống các chế định pháp luật hiện hành về huy
động vốn nhằm tìm ra các điểm mâu thuẫn, chồng chéo và không phù hợp
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

-

Đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật huy động vốn trên cơ sở
đánh giá thực trạng pháp luật nói trên.

-

Phân tích các số liệu, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về huy động vốn
của NHTMCP và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
hoạt động này.

-

Bình luận về một số nội dung trong dự thảo Luật các TCTD và các dự thảo
mới liên quan đến hoạt động huy động vốn của các NHTMCP.


7. Cơ cấu của luận văn
Chương 1 nghiên cứu những vấn đề lý luận về huy động vốn và pháp luật
về huy động vốn của NHTMCP Việt Nam, cụ thể là nghiên cứu về: khái niệm
vốn, cơ cấu vốn và hoạt động huy động vốn; khái niệm, nội dung điều chỉnh và
đặc điểm của pháp luật về huy động vốn của NHTMCP Việt Nam …. Từ đó tạo
tiền đề lý luận cho việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật và hoàn thiện
pháp luật về huy động vốn ở Chương 2 và Chương 3.
Chương 2 của Luận văn đi vào phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật
hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật về huy động vốn của các NHTMCP Việt
Nam; chủ yếu tập trung vào những bất cập của pháp luật thực định đã dẫn đến
những khúc mắc trong thực tiễn thi hành pháp luật của các NHTMCP, và những
quy định pháp luật chưa phù hợp với chuẩn mực, thông lệ quốc tế có liên quan.
Dựa trên những đánh giá về thực trạng thi hành pháp luật của Chương 2,
Chương 3 của Luận văn đưa ra các căn cứ, phương hướng, giải pháp hoàn thiện
pháp luật về huy động vốn và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động huy động
vốn của các NHTMCP Việt Nam.


11

CHƯƠNG I – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐN VÀ
PHÁP LUẬT VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTMCP
1.1 Tổng quan về huy động vốn của NHTMCP
NHTMCP thuộc nhóm TCTD cổ phần, được thực hiện toàn bộ hoạt động
NH và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy
định của Luật các TCTD. Mặc dù là một loại CTCP nhưng do hoạt động trong lĩnh
vực tiền tệ, sử dụng tiền tệ làm phương tiện kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận nên vốn
và cấu trúc vốn của các NHTMCP có nhiều điểm khác so với các CTCP thông
thường.

1.1.1 Vốn, cấu trúc vốn của NHTMCP
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, không phụ thuộc vào hình thức tổ chức
hoạt động, muốn thực hiện hoạt động kinh doanh đều phải có vốn. NHTMCP cũng
không nằm ngoài quy luật này. Vốn của NHTMCP được hiểu là tất cả các giá trị
tiền tệ mà NH tạo lập và huy động trong quá trình thành lập và phát triển (1). Với
cách hiểu đó, vốn của NHTMCP gồm những bộ phận cấu thành sau:
1.1.1.1

Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu của NHTMCP là những giá trị tiền tệ do chủ sở hữu đóng

góp để thành lập NH hoặc được bổ sung trong quá trình hoạt động hoặc được hình
thành từ kết quả kinh doanh. Vốn chủ sở hữu bao gồm:
Một là, vốn điều lệ được tạo lập từ sự đóng góp của các cổ đông sáng lập (tổ
chức hoặc cá nhân) khi thành lập NH thông qua việc mua cổ phần và/ hoặc được bổ
sung thông qua việc phát hành thêm cổ phiếu. Đây là đặc điểm riêng có của vốn
điều lệ trong các NHTMCP so với vốn điều lệ trong các loại NHTM khác như
NHTMQD với vốn điều lệ do Nhà nước cấp, NHTM liên doanh với số vốn điều lệ
do các TCTD Việt Nam và TCTD nước ngoài góp vốn, hoặc khác với mô hình
NHTM 100% vốn nước ngoài do TCTD mẹ ở nước ngoài cấp vốn thành lập. Tại
mọi thời điểm mức vốn điều lệ của NHTMCP không thấp hơn mức vốn pháp định
theo quy định của Chính phủ.
Hai là, vốn tự tích lũy trong quá trình kinh doanh được hình thành từ việc giữ
lại một phần lợi nhuận để tái đầu tư nhằm mở rộng hoạt động kinh doanh và từ các


12

quỹ dự trữ của NHTMCP như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài
chính, quỹ đầu tư phát triển, quỹ bảo toàn vốn, quỹ thặng dư,…

Cấu trúc vốn chủ sở hữu như trên được quy định tại khoản 1 Điều 5 Nghị
định số 146/2005/NĐ-CP ngày 23/11/2005 của Chính phủ về chế độ tài chính đối
với các TCTD (sau đây gọi tắt là Nghị định số 146/2005/NĐ-CP). Cụ thể, vốn chủ
sở hữu được cấu thành từ: (i) vốn điều lệ, (ii) các khoản chênh lệch do đánh giá lại
tài sản hoặc chênh lệch tỷ giá, (iii) thặng dư vốn cổ phần, (iv) quỹ dự trữ bổ sung
vốn điều lệ, (v) các quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, (vi) quỹ dự phòng tài chính và
(vii) lợi nhuận được để lại.
Về vốn điều lệ, theo Quyết định số 1122/2001/QĐ-NHNN ngày 04/09/2001
của Thống đốc NHNN ban hành Quy định về cổ đông, cổ phần, cổ phiếu và vốn
điều lệ của NHTMCP Nhà nước và Nhân dân (sau đây được gọi tắt là Quyết định số
1122/2001/QĐ-NHNN), vốn điều lệ là số vốn do tất cả các cổ đông góp và được ghi
vào điều lệ của NHTMCP1. Số vốn này đồng thời không được thấp hơn mức vốn tối
thiểu phải có theo quy định của pháp luật để thành lập NHTMCP. Hiện nay mức
vốn này là 3.000 tỷ đồng theo quy định tại Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày
20/11/2006 của Chính phủ về vốn pháp định của các TCTD (sau đây gọi tắt là Nghị
định số 141/2006/NĐ-CP).
Khác với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh khác, vốn
điều lệ của NHTMCP tại thời điểm thành lập được quy định rất chi tiết tại Điều 5
Quy chế cấp giấy phép thành lập và hoạt động NHTMCP ban hành kèm theo Quyết
định số 24/2007/QĐ-NHNN ngày 07/06/2007 của Thống đốc NHNN; được sửa đổi,
bổ sung bằng Quyết định số 46/2007/QĐ-NHNN ngày 25/12/2007 (sau đây được
gọi chung là Quyết định số 24/2007/QĐ-NHNN). Theo đó, vốn điều lệ chỉ được
góp bằng đồng Việt Nam và tối thiểu phải bằng vốn pháp định. Các tổ chức, cá
nhân không được dùng vốn ủy thác, vốn vay của các tổ chức, cá nhân khác để góp
vốn và phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của nguồn vốn góp. Đồng
thời, số tiền dự kiến góp vốn thành lập NH trên phải được gửi tại một NHTM Việt

1

Khoản 2 Điều 2 Quy định về cổ đông, cổ phần, cổ phiếu và vốn điều lệ của NHTMCP Nhà nước và Nhân


dân ban hành kèm theo Quyết định số 1122/2001/QĐ-NHNN ngày 04/09/2001.


13

Nam do Ban trù bị lựa chọn và duy trì số tiền này từ thời điểm NHNN có văn bản
chấp thuận nguyên tắc cho đến khi ký Quyết định cấp giấy phép. Trong thời gian
này, tổ chức, cá nhân không được sử dụng số tiền này dưới mọi hình thức 2.
Sau khi thành lập, vốn chủ sở hữu được chuyển hóa thành các loại tài sản
hoặc được sử dụng cho hoạt động của NHTMCP. Khi đó, vốn chủ sở hữu được xác
định theo một tiêu chí khác, vốn tự có, tức là giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ
dự trữ, một số tài sản "Nợ" khác của TCTD (khoản 13 Điều 20 Luật các TCTD).
Cách xác định vốn tự có được thực hiện theo Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN
ngày 19/04/2005 của NHNN ban hành Quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt
động của TCTD; được sửa đổi, bổ sung bằng Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN
ngày 19/01/2007 và Quyết định số 34/2008/QĐ-NHNN ngày 05/12/2008 của Thống
đốc NHNN. Theo đó, vốn tự có của các TCTD nói chung và NHTMCP nói riêng
được xác định dựa trên hai cấp:
Vốn cấp I là tập hợp của vốn điều lệ, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự
phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không chia. Khi xác
định nhóm vốn này, NHTMCP phải trừ đi lợi thế thương mại, tức là phần chênh
lệch lớn hơn giữa số tiền mua tài sản tài chính và giá trị sổ sách kế toán của tài sản
tài chính đó. Nhóm vốn này được dùng làm căn cứ để xác định giới hạn mua, đầu tư
vào tài sản cố định của TCTD.
Vốn cấp II được tạo thành từ 50% giá trị tăng thêm của tài sản cố định, 40%
phần giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu đầu tư, vốn
góp) được định giá lại, trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do tổ chức tín
dụng phát hành, các công cụ nợ khác thỏa mãn những điều kiện theo quy định của
pháp luật và các khoản dự phòng chung. Nhóm vốn này có giá trị tối đa bằng 50%

giá trị của nhóm vốn cấp I.
Khi xác định vốn tự có, các khoản sau đây sẽ phải được trừ đi: toàn bộ giá trị
giảm đi của tài sản cố định, các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu đầu tư, vốn
góp) do việc đánh giá lại theo quy định của pháp luật, tổng số vốn của TCTD đầu tư

2

Điểm c khoản 2 Điều 5 Quy chế cấp giấy phép thành lập và hoạt động NHTMCP ban hành kèm theo Quyết

định số 24/2007/QĐ-NHNN ngày 07 tháng 6 năm 2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.


14

vào TCTD khác dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần góp vốn, liên doanh,
mua cổ phần của quỹ đầu tư, doanh nghiệp khác vượt mức 15% vốn tự có của
TCTD, khoản lỗ kinh doanh, bao gồm cả các khoản lỗ lũy kế.
Có thể thấy, vốn tự có của NHTMCP theo Quyết định này thực chất là giá trị
thực có của vốn chủ sở hữu và một số khoản “Nợ” của NH, ở đây là trái phiếu và
các công cụ nợ của NHTMCP. Cách xác định vốn tự có như trên được sử dụng để
xác định các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các NH và không làm ảnh
hưởng đến cấu trúc vốn của NHTMCP.
Rõ ràng, pháp luật đã quy định khá đầy đủ và chi tiết về vốn chủ sở hữu của
NHTMCP. Điều này có thể lý giải bởi vai trò sống còn dưới đây của vốn chủ sở
hữu đối với NHTMCP:
Vai trò của vốn chủ sở hữu
Trước hết, vốn chủ sở hữu là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập NH.
Vì theo quy định của pháp luật, NHNN chỉ cấp giấy phép thành lập và hoạt động
cho các tổ chức có đủ mức vốn pháp định để hoạt động NH. Mặt khác, số vốn này
được sử dụng để mua sắm trang thiết bị, tài sản cố định ban đầu của NH.

Vốn chủ sở hữu quyết định quy mô kinh doanh của các NHTMCP. Bởi lẽ, số
lượng các Chi nhánh, Phòng Giao dịch mà các NHTMCP được thành lập được xác
định trên cơ sở vốn điều lệ và quy mô cơ sở vật chất, tài sản cố định của NHTMCP
…cũng được tạo thành trên cơ sở nguồn vốn của chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu điều chỉnh các hoạt động của NH. Dựa trên mức vốn tự có
(được xác định dựa trên vốn điều lệ của NHTMCP là chủ yếu), các cơ quan quản lý
xác định và điều chỉnh hoạt động NH, ví dụ như các NHTMCP không được cho vay
quá 15% vốn tự có của NH hoặc chỉ những NH có mức vốn điều lệ thực có nhất
định mới được niêm yết cổ phiếu của mình trên thị trường chứng khoán để huy
động vốn v.v…
Cuối cùng, vốn chủ sở hữu có vai trò bảo vệ người gửi tiền và duy trì niềm
tin của họ đối với NHTMCP. Bởi trong trường hợp giải thể hoặc phá sản, vốn chủ
sở hữu là nguồn cơ bản để người gửi tiền thu hồi các khoản tiền gửi của mình.
Vốn chủ sở hữu thường chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của NH
nhưng lại là điều kiện tiên quyết để NHTMCP thành lập và đi vào hoạt động. Tuy


15

nhiên, cũng chính vì quy mô nhỏ bé của mình, vốn chủ sở hữu không được sử dụng
nhiều để kinh doanh. Trong trường hợp này, các NHTMCP sử dụng vốn huy động
là chủ yếu.
1.1.1.2

Vốn huy động
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà NH huy động được từ các tổ chức,

cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ của NH và được
dùng làm vốn kinh doanh chủ đạo của NH.
Thành phần cơ bản và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn huy động của

NHTMCP chính là tiền gửi của các cá nhân, tổ chức. Tiền gửi của NHTMCP bao
gồm tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn.
Về tiền gửi không kỳ hạn (demand deposit), đây là loại tiền được gửi vào và
rút ra bất cứ lúc nào theo yêu cầu của người gửi tiền và được sử dụng để thanh toán
(hay còn gọi là tiền gửi thanh toán) thông qua việc sử dụng các phương tiện thanh
toán như séc, thẻ, lệnh rút tiền …. Tại các nước phát triển, tiền gửi không kỳ hạn
bao gồm (1) tài khoản séc (checking account), là dạng tài khoản có thể phát hành
séc; (2) tài khoản NOW (negotiable order of withdrawal account – Lệnh rút tiền có
thể chuyển nhượng), là loại tài khoản cho phép chủ tài khoản được phát hành séc
nhưng được hưởng lãi suất cao hơn tài khoản séc thông thường; (3) Tài khoản ATS
(Automatic transfer system account), loại tài khoản cho phép chủ tài khoản phát
hành séc và khi số dư trên tài khoản này vượt một hạn mức nhất định theo thỏa
thuận với NH thì phần tiền vượt hạn mức sẽ tự động chuyển sang tiền gửi tiết kiệm
để được hưởng lãi suất cao hơn và ngược lại.
Về tiền gửi có kỳ hạn (term deposit), đây là loại tiền gửi chỉ được rút ra sau
một thời hạn nhất định theo thỏa thuận với NH, thường từ một vài tuần đến vài
năm. Loại tiền gửi này do các cá nhân, tổ chức gửi vào NH nhằm mục đích gửi giữ
là chủ yếu. Thông thường lãi suất của tiền gửi có kỳ hạn cao hơn tiền gửi không kỳ
hạn nhưng người gửi tiền lại không được hưởng dịch vụ thanh toán qua NH.
Bên cạnh các loại tiền gửi trên, NHTMCP còn huy động vốn dưới hình thức
tiền gửi tiết kiệm (savings deposit). Khác với tiền gửi có kỳ hạn (áp dụng cho cả các
tổ chức và cá nhân), tiền gửi tiết kiệm chỉ áp dụng cho các cá nhân. Người gửi tiền
tiết kiệm thường gửi vào NH với mục đích để hưởng lãi, không vì mục đích gửi giữ


16

như tiền gửi có kỳ hạn hay mục đích thanh toán như tiền gửi không kỳ hạn. Vì vậy,
mức lãi suất của loại tiền gửi này cao hơn lãi suất của tiền gửi có kỳ hạn. Hình thức
phổ biến nhất của tiền gửi tiết kiệm là thẻ tiết kiệm do NH cấp cho người gửi tiền

ghi nhận số tiền, mức lãi suất, kỳ hạn gửi tiền v.v… Tiền gửi tiết kiệm cũng có hai
loại là tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn.
Phần vốn tiếp theo tạo nên vốn huy động của NHTMCP chính là vốn vay từ
NHNN và các TCTD khác. Các NHTMCP thường vay NHNN trong trường hợp
thiếu hụt dự trữ hay quá thiếu tiền mặt thông qua các hình thức tái cấp vốn (chiết
khấu GTCG hoặc cho vay cầm cố GTCG …); vay các TCTD khác trong trường hợp
NHTMCP thiếu hụt dữ trự bắt buộc. Thời hạn vay trong các trường hợp này, vì vậy,
thường rất ngắn.
Cuối cùng, vốn huy động của NHTMCP được cấu thành bởi nguồn vốn từ
hoạt động phát hành GTCG. GTCG dùng để huy động vốn trong NHTMCP thực
chất là các giấy nợ của NH trao cho những người mua GTCG để xác nhận quyền
đòi nợ của họ đối với NH với một mức lãi suất và ngày hoàn trả nhất định. Vốn huy
động từ việc phát hành GTCG có tính ổn định cao, và giải quyết những khoản vốn
thiếu hụt có tính tình thế do khả năng thu hút bằng nguồn tiết kiệm hạn chế.
Cấu trúc vốn huy động như trên cũng được quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị
định số 146/2005/NĐ-CP. Đồng thời, nội dung chi tiết của từng thành phần vốn huy
động đã được hướng dẫn cụ thể trong pháp luật thực định.
Trước hết về tiền gửi, theo quy định tại khoản 9 Điều 20 Luật các TCTD,
tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi
không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi
được hưởng lãi hoặc không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền.
Như vậy, đặc điểm cơ bản của tiền gửi nói chung là tính chất hoàn trả.
Riêng tiền gửi tiết kiệm được quy định chi tiết tại Quy chế tiền gửi tiết kiệm
được ban hành kèm theo Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13/09/2004
của Thống đốc NHNN, được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 47/2006/QĐNHNN ngày 25/09/2006 (sau đây được gọi tắt là QC TGTK). Theo đó, tiền gửi tiết
kiệm được hiểu là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm,
được xác nhận trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhận


17


tiền gửi tiết kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền
gửi. Trong đó, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi
tiền có thể rút tiền theo yêu cầu mà không cần báo trước vào bất kỳ ngày làm việc
nào của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là tiền gửi tiết
kiệm, trong đó người gửi tiền thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm về kỳ
hạn gửi nhất định3.
Về cơ bản, pháp luật thực định đã ghi nhận đầy đủ các loại tiền gửi của
NHTMCP như đã được đề cập ở trên. Tuy nhiên, chi tiết về các loại tiền gửi thanh
toán như tài khoản NOW, tài khoản ATS v.v… lại chưa được quy định.
Đối với các phần vốn khác như vốn vay từ NHNN và các TCTD, vốn huy
động từ hoạt động phát hành GTCG cũng được quy định chi tiết về phương thức,
hình thức huy động nhưng đều chưa được định nghĩa cụ thể như trường hợp định
nghĩa các bộ phận cấu thành của vốn chủ sở hữu.
Vai trò của vốn huy động trong cấu trúc vốn của NHTMCP
Nếu vốn chủ sở hữu là một trong những điều kiện pháp lý cần thiết để thành
lập NHTMCP thì vốn huy động lại là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của
NH.
Đầu tiên, vốn huy động là cơ sở quyết định quy mô hoạt động và quy mô tín
dụng của NHTMCP vì nguồn vốn được sử dụng chủ yếu để thực hiện hoạt động tín
dụng là vốn huy động. Vốn huy động chính là nguồn nhiên liệu quan trọng giúp
NHTMCP thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ của mình.
Vốn huy động quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của các
NHTMCP. Vốn huy động càng lớn, vốn khả dụng của các NHTMCP càng lớn và
qua đó, khả năng thanh khoản của các NHTMCP sẽ càng cao, uy tín trên thị trường
càng được củng cố.
Ngoài ra, quy mô và kết cấu của vốn huy động ảnh hưởng lớn đến sự an toàn
của hoạt động NH. Tính hợp lý trong cơ cấu vốn huy động sẽ giúp các NHTMCP
giảm rủi ro về thanh toán, lãi suất, tỷ giá.
1.1.1.3


3

Đặc điểm của vốn và cấu trúc vốn của NHTMCP

Khoản 1, 8, 9 Điều 6 Quy chế tiền gửi tiết kiệm.


18

Từ những phân tích trên về vốn, cấu trúc vốn của NHTMCP, có thể thấy, so
với doanh nghiệp thông thường và các mô hình TCTD khác, vốn và cấu trúc vốn
của NHTMCP có một số điểm khác biệt căn bản sau đây:
Thứ nhất, vốn chủ sở hữu ban đầu, tức là mức vốn tối thiểu phải có để thành
lập NHTMCP (hay vốn điều lệ) rất lớn so với vốn điều lệ của các doanh nghiệp
khác và được quản lý chặt chẽ trong tài khoản phong tỏa mở tại NHNN trước khi
NHTMCP đi vào hoạt động. Bởi lẽ, khi mới thành lập, các NHTMCP sử dụng vốn
chủ sở hữu là chính để cấp tín dụng. Đồng thời, là do hoạt động NH – hoạt động
kinh doanh tiền tệ, tiềm ẩn nhiều rủi ro và rủi ro mang tính dây chuyền trong hệ
thống NH nói riêng, trong cả nền kinh tế nói chung.
Thứ hai, về tỷ trọng các thành phần vốn trong tổng vốn của NHTMCP, vốn
huy động chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều so với vốn chủ sở hữu. Thông thường, vốn
chủ sở hữu chỉ chiếm 20% trong tổng nguồn vốn, còn vốn huy động là 80%. Điều
này xuất phát từ đặc thù trong hoạt động kinh doanh của NHTMCP là sử dụng tiền
tệ làm phương tiện kinh doanh, là “nhiên liệu” để thực hiện hoạt động NH.
Thứ ba, cơ cấu vốn huy động của các NHTMCP đa dạng hơn các doanh
nghiệp thông thường, cụ thể các doanh nghiệp sẽ không có các thành phần vốn sau:
(i) tiền gửi từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước dưới hình thức tiền gửi
không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn hoặc tiền gửi tiết kiệm; (ii) vốn vay từ NHNN như
một nghiệp vụ hoạt động của mình; (iii) vốn vay thông qua phát hành GTCG dưới

hình thức kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi ….
Với những đặc điểm riêng có của vốn và cơ cấu vốn như trên, hoạt động huy
động vốn của các NHTMCP cũng có nhiều điểm khác biệt so với các mô hình
NHTM nói riêng, các doanh nghiệp cổ phần nói chung.
1.1.2 Huy động vốn và các hình thức huy động vốn của NHTMCP
1.1.2.1

Khái niệm và các hình thức huy động vốn của NHTMCP
Dưới góc độ kinh tế học, huy động vốn được hiểu là hoạt động tạo nguồn

vốn cho NHTMCP. Với cấu trúc vốn của NHTMCP như mục 1.1.1 đã phân tích,
các NH này huy động vốn với hai mục đích chính:
Một là, huy động vốn để tạo lập và tăng vốn chủ sở hữu (vốn cấp I). Với bản
chất là một loại hình công ty cổ phần, hoạt động huy động vốn này của NHTMCP


19

sẽ bao gồm: hoạt động tạo lập vốn điều lệ khi thành lập NH của các sáng lập viên;
hoạt động huy động vốn từ các cổ đông hiện hữu và các nhà đầu tư trong nền kinh
tế thông qua việc phát hành thêm cổ phiếu hoặc trái phiếu chuyển đổi. Điều này đã
được khẳng định tại Điều 77 LDN 2005, cụ thể là CTCP có quyền phát hành chứng
khoán các loại để huy động vốn. Chứng khoán theo quy định của LCK 2006 được
hiểu là: Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, quyền mua cổ phần, chứng quyền,
quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ
số chứng khoán4. Đây là hoạt động huy động vốn riêng có của NHTMCP so với mô
hình NHTM khác. Các NHTM khác chỉ có thể huy động từ chính các chủ sở hữu,
có thể là Nhà nước, là các TCTD nước ngoài dưới hình thức cấp thêm vốn hoặc góp
thêm vốn để tăng vốn điều lệ, tùy theo mô hình NHTM. Ngoài ra, các NHTMCP
cũng có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng việc tăng tỷ lệ các quỹ dự trữ hoặc tỷ lệ lợi

nhuận không chia giữ lại.
Hai là, huy động thêm vốn để thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh của
NHTMCP. Tương ứng với mỗi loại vốn huy động sẽ có các hình thức huy động vốn
tương ứng, tức là: (i) Huy động vốn từ tiền gửi của cá nhân, tổ chức; (ii) Huy động
vốn thông qua hoạt động tín dụng với NHNN và các TCTD khác; (iii) Huy động
vốn thông qua việc phát hành GTCG. Các hình thức này đã được Luật các TCTD
quy định tại Mục 1 Chương II.
Đối với hoạt động huy động vốn từ tiền gửi của các cá nhân, tổ chức, theo
quy định tại Khoản 1 Điều 45 Luật các TCTD, các NHTMCP được nhận tiền gửi
của tổ chức, cá nhân và các TCTD khác. Đây cũng là hình thức huy động vốn quan
trọng nhất và chỉ có các TCTD trong đó có NHTMCP được thực hiện. So với các
TCTD khác, phạm vi huy động tiền gửi của các NHTMCP rộng hơn, NHTMCP
được huy động tiền gửi dưới mọi hình thức và mọi kỳ hạn.
Đối với hoạt động huy động vốn thông qua kênh tín dụng với NHNN, các
NHTMCP có thể vay NHNN dưới các hình thức sau:
-

Thấu chi và cho vay qua đêm từ NHNN để thực hiện công tác thanh toán
giữa các NHTMCP nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán điện tử

4

Khoản 1 Điều 6 Luật Chứng khoán 2006.


20

liên NH. Thời hạn vay đối với hình thức này thường rất ngắn, từ cuối ngày
làm việc hôm trước đến 8h30 phút ngày làm việc liền kề tiếp theo.
-


Vay vốn ngắn hạn thông qua hoạt động tái cấp vốn của NHNN bao gồm cho
vay lại theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu hoặc tái chiết khấu GTCG, cho vay có
bảo đảm bằng cầm cố GTCG.
Trong hai hình thức trên, chỉ có hình thức vay vốn ngắn hạn thông qua hoạt

động tái cấp vốn được quy định tại Điều 48 Luật các TCTD. Hoạt động thấu chi và
cho vay qua đêm được điều chỉnh bởi hệ thống các văn bản liên quan đến thanh
toán điện tử liên NH như Quyết định số 309/2002/QĐ-NHNN ngày 09/04/2002 của
Thống đốc NHNN; được sửa đổi, bổ sung bằng Quyết định số 33/2006/QĐ-NHNN
ngày 28/07/2006 của Thống đốc NHNN và Quyết định số 04/2007/QĐ-NHNN
ngày 22/01/2007.
Bên cạnh việc vay vốn từ NHNN, các NHTMCP còn được phép vay các
TCTD trong nước và nước ngoài nhằm bù đắp thiếu hụt vốn khả dụng tạm thời của
NH theo quy định tại Điều 47 Mục 1 Chương II Luật các TCTD.
Về hoạt động huy động vốn thông qua nghiệp vụ phát hành GTCG, với mỗi
loại GTCG, các NHTMCP sẽ có một hình thức huy động vốn trên thị trường tài
chính.
Thứ nhất, với tư cách một doanh nghiệp, NHTMCP có thể phát hành trái
phiếu để huy động vốn trung và dài hạn. Trái phiếu là một cam kết xác nhận nghĩa
vụ trả nợ gốc và lãi của NH phát hành đối với người chủ sở hữu trái phiếu. Các
NHTM chịu sự quản lý của NHNN và cơ quan nhà nước quản lý thị trường chứng
khoán khi phát hành trái phiếu ra công chúng.
Thứ hai, phát hành tín phiếu, kỳ phiếu. Đây là loại giấy tờ có giá ngắn hạn
(dưới 1 năm), được sử dụng cho mục đích vay vốn ngắn hạn của NHTMCP và hoạt
động phát hành GTCG đặc thù của NHTMCP. Tuy nhiên, với thời hạn huy động
vốn ngắn, thông thường là 3 tháng hoặc 6 tháng, mức độ rủi ro của các GTCG này
thường thấp hơn so với trái phiếu nên các NHTMCP được chủ động phát hành loại
GTCG sau khi đã có văn bản thông báo với NHNN.
Thứ ba là phát hành chứng chỉ tiền gửi, tức là những giấy tờ xác nhận tiền

gửi định kỳ ở một NH. Người sở hữu chứng chỉ tiền gửi sẽ được NH thanh toán tiền


21

lãi theo kỳ và nhận đủ vốn khi đến hạn và sau khi phát hành thì chứng chỉ sẽ được
lưu thông trên thị trường tiền tệ. Đây cũng là hình thức phát hành GTCG đặc thù
của NHTMCP so với các doanh nghiệp thông thường.
Việc huy động vốn theo hình thức phát hành GTCG đã được quy định tại
Luật sửa đổi, bổ sung Luật các TCTD. Theo đó, NHTMCP được phát hành chứng
chỉ tiền gửi, trái phiếu và GTCG khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong
nước và ngoài nước theo quy định của NHNN. Riêng việc phát hành GTCG trong
nước của NHTMCP được thực hiện theo Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày
24/03/2008 của Thống đốc NHNN về ban hành Quy chế phát hành GTCG trong
nước của các TCTD, được sửa đổi, bổ sung bằng Thông tư số 16/2009/TT-NHNN
ngày 11/08/2009 (sau đây được gọi là QC phát hành GTCG trong nước).
Nhìn chung, hoạt động tạo lập và phát triển vốn huy động của các NHTMCP
và các mô hình NHTM khác là như nhau nhưng lại rộng hơn, đa dạng hơn so với
hoạt động đó của các TCTD phi NH khác. Các NHTMCP được phát hành GTCG có
kỳ hạn dưới một năm, được nhận tiền gửi dưới một năm (các TCTD phi NH chỉ
được phát hành GTCG trên một năm, huy động tiền gửi trên một năm). Điều này
được lý giải vì các NHTMCP để được thành lập và đi vào hoạt động phải đáp ứng
điều kiện khắt khe hơn so với các TCTD phi NH (mức vốn điều lệ cao hơn, điều
kiện đối với cổ đông sáng lập khắt khe hơn, v.v…). Không những thế, các
NHTMCP trong quá trình hoạt động được quản lý, kiểm soát chặt chẽ hơn về tỷ lệ
về bảo đảm an toàn, tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro v.v…
1.1.2.2

Vai trò của hoạt động huy động vốn của NHTMCP
Vốn của NHTMCP có vai trò quan trọng bao nhiêu trong hoạt động của


NHTMCP thì hoạt động huy động vốn lại có vai trò quan trọng bấy nhiêu.
Đầu tiên, hoạt động huy động vốn giúp các sáng lập viên của NHTMCP gọi
đủ số vốn tối thiểu cần phải có để được NHNN xem xét cấp giấy phép hoạt động.
Vì lẽ, mức vốn pháp định cần có khi thành lập NHTMCP cao hơn nhiều so với các
ngành nghề kinh doanh khác và các sáng lập viên phải có đủ số vốn pháp định này
khi thành lập. Mặt khác, khi đã đi vào hoạt động, việc huy động vốn để tạo lập đủ
và/ hoặc tăng vốn điều lệ sẽ giúp các NHTMCP nâng cao năng lực cạnh tranh trên


22

thị trường do vốn điều lệ tăng, quy mô và khả năng thanh toán của các NHTMCP
cũng tăng.
Tiếp đó, hoạt động huy động vốn tạo “nguồn nhiên liệu” để vận hành hoạt
động kinh doanh tiền tệ của NHTMCP. Khi đã đủ điều kiện đi vào hoạt động, nhờ
nghiệp vụ huy động vốn, các NHTMCP có thêm nguồn tiền để mở rộng các hoạt
động kinh doanh của mình như cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ thanh
toán khác. Điều này thể hiện một nguyên lý rất đặc biệt trong hoạt động NH so với
các ngành nghề khác, đó là vốn vừa là đối tượng kinh doanh vừa là phương tiện
kinh doanh của các NH.
Cuối cùng, thông qua hoạt động huy động vốn, NHTMCP tập trung nguồn
vốn từ chủ thể tạm thời thừa vốn đưa đến các chủ thể tạm thời thiếu vốn. Đồng thời,
qua hoạt động huy động vốn, các NHTMCP còn mang đến giá trị tích lũy cho
những khách hàng đã cung cấp vốn cho NH, tạo nguồn vốn hỗ trợ cho toàn bộ nền
kinh tế để thực hiện đầu tư phát triển. Vai trò này phản ánh một cách rõ nét nhất tư
cách trung gian tài chính của các NHTMCP.
1.2 Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động huy động
vốn của NHTMCP
1.2.1 Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ lợi ích của NH nói riêng và của nền kinh tế nói

chung
Hoạt động chủ yếu của các NH là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán nên hoạt động NH rất nhạy cảm và dễ
bị ảnh hưởng bởi các biến động kinh tế, chính trị và xã hội. Khi một NH gặp rủi ro
dẫn đến mất khả năng thanh toán hoặc có thể bị phá sản, ngay lập tức, rủi ro của NH
này sẽ trở thành rủi ro của các NH khác do yếu tố tâm lý của số đông người gửi
tiền. Đó là khi niềm tin vào hệ thống NH bị giảm sút, người gửi tiền có xu hướng
rút tiền gửi hàng loạt tại NH. Ngoài ra, các NH còn có quan hệ khăng khít với nhau
trên thị thường liên NH thông qua các hoạt động: vay vốn, thanh toán hộ nên khi
một NH gặp sự cố về khả năng chi trả, các NH còn lại có nguy cơ đối mặt với hàng
loạt khó khăn như: mất vốn hoặc mất đối tác kinh doanh dẫn đến việc triển khai các
nghiệp vụ kinh doanh trong NH bị ách tắc, không hiệu quả v.v…


23

Để hạn chế rủi ro có thể phát sinh và những ảnh hưởng tiêu cực mang tính
dây chuyền nêu trên, nhiều biện pháp có thể được khai thác trong đó có biện pháp
điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động NH. Theo đó, pháp luật sẽ đưa hoạt
động của các NH vào những khuôn khổ, chuẩn mực nhất định và quy định những cơ
chế kiểm tra, giám sát đặc biệt đối với các hoạt động này. Bên cạnh đó, thông qua
việc thể chế hóa các chính sách, Nhà nước có thể điều tiết hoạt động NH theo đúng
định hướng của Đảng và Nhà nước.
Với mô hình tổ chức của một công ty cổ phần có số lượng cổ đông lớn (tối
thiểu là 100 cổ đông), tính gắn kết giữa các cổ đông của NHTMCP không cao và
thành phần cổ đông của NHTMCP có thể thay đổi thường xuyên. Chính tính lỏng
và linh động này trong cấu trúc cổ đông của NHTMCP khiến việc huy động vốn từ
các cổ đông hiện hữu của NHTMCP khi phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn sẽ
mất nhiều thời gian, công sức hơn. Cơ cấu bộ máy quản lý và thành phần cổ đông
sáng lập của NHTMCP đóng vai trò chủ đạo trong việc duy trì hoạt động hàng ngày

của NH, đặc biệt là tại thời điểm NH gặp nhiều khó khăn ở giai đoạn đầu, khi mới
thành lập. Vì vậy, để đảm bảo an toàn và tạo một hành lang pháp lý lành mạnh cho
hoạt động thành lập NHTMCP, việc huy động vốn chủ sở hữu tại thời điểm thành
lập và huy động thêm vốn trong thời gian đang hoạt động cần phải được điều chỉnh
chặt chẽ bằng pháp luật nhằm đảm bảo an toàn cho bản thân các NHTMCP và cũng
là cho cả hệ thống NH.
1.2.2 Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền
Quan hệ giữa người gửi tiền và NH được thiết lập trên cơ sở niềm tin là chủ
yếu. Người gửi tiền theo đó sẽ yếu thế hơn nhiều so với NH sau khi đã giao vốn cho
NH sử dụng. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền pháp luật thường quy
định cụ thể về vốn điều lệ, vốn pháp định và quy mô vốn huy động của các NHTM
nói chung và NHTMCP nói riêng. Từ đó, củng cố niềm tin cho cộng đồng người
gửi tiền, khuyến khích các tổ chức, cá nhân gửi tiền hoặc cho các NH vay và NH
nhờ đó có thể huy động vốn cho nền kinh tế, phục vụ nhu cầu phát triển của đất
nước. Ngược lại, nếu tiền gửi không được bảo vệ thỏa đáng, người gửi tiền có xu
hướng rút tiền khỏi thị trường tiền tệ để đầu tư sang thị trường khác như thị trường
chứng khoán, thị trường bất động sản v.v… Nguồn tiền gửi tại các NH nói chung và


24

NHTMCP nói riêng sẽ bị giảm sút nghiêm trọng và hoạt động kinh doanh của các
NH vì thế cũng bị thu hẹp.
1.3 Tổng quan pháp luật về huy động vốn của NHTMCP
1.3.1 Khái niệm và nội dung pháp luật về huy động vốn của NHTMCP
Hoạt động huy động vốn của NHTMCP sẽ làm phát sinh các mối quan hệ xã
hội giữa NH và Khách hàng, giữa NH với NHNN, giữa các NH với nhau… Để điều
chỉnh các quan hệ xã hội nói trên, Nhà nước cần phải ban hành các QPPL, thiết lập
một khuôn khổ pháp lý nhất định để hoạt động huy động vốn được thực hiện một
cách có hiệu quả và có lợi cho không chỉ người gửi tiền mà còn cho bản thân các

NH và cho nền kinh tế.
Vậy, pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của NHTMCP được hiểu
là hệ thống các QPPL do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình các NHTMCP huy động vốn từ các cá nhân, tổ
chức trong xã hội. Căn cứ vào các bộ phận cấu thành của vốn như đã được phân tích
ở trên, pháp luật về huy động vốn của NHTMCP có thể được chia thành hai bộ phận
chính như sau:
1.3.1.1

Pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn để tạo lập và tăng vốn điều
lệ của NHTMCP
Bộ phận pháp luật này điều chỉnh những quan hệ xã hội hình thành trong quá

trình huy động vốn điều lệ để thành lập NHTMCP, đồng thời điều chỉnh những
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình NH phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ
của NHTMCP thông qua những quy định về điều kiện phát hành thêm, phương thức
phát hành thêm cổ phiếu, quyền và nghĩa vụ của NHTMCP khi phát hành thêm cổ
phiếu, quyền và nghĩa vụ của các cổ đông v.v…
Hoạt động tạo lập vốn điều lệ và phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều
lệ của NHTMCP được thực hiện theo LDN 2005, LCK 2006, Luật các TCTD, LĐT
2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Một số văn bản quan trọng gồm: Nghị
định số 59/2009/NĐ-CP ngày 16-07-2007 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động
của NHTM, Nghị định số 146/2005/NĐ-CP ngày 23-11-2005 của Chính phủ về chế
độ tài chính của các TCTD, Quyết định số 1122/2001/QĐ-NHNN ngày 04-09-2001
của NHNN về việc ban hành Quy định về cổ đông, cổ phần, cổ phiếu và vốn điều lệ


×