i
MỤC LỤC
MỤC LỤC i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT iii
DANH MỤC BẢNG BIỂU iv
CHƯƠNG 1: Cơ sỞ lý luẬn vỀ năng lỰc huy đỘng vỐn trong hoẠt đỘng kinh doanh
cUẢ ngân hàng thương mẠi 4
1.1.Tổng quan về Ngân hàng thương mại và hoạt động huy động vốn 4
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại 4
1.1.2. Hoạt động huy động vốn 5
1.1.3. Vai trò của huy động vốn đối với hoạt động kinh doanh của NHTM 12
Đối với ngân hàng, vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Với
đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính
mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM. Ngân hàng là tổ chức kinh
doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường đó là tiền tệ. Chính vì thế, vốn là điểm
đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng nên có vai trò rất quan trọng trong
hoạt động kinh doanh ngân hàng. Do đó, ngân hàng phải thường xuyên chăm lo tới
việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động 12
1.2. Năng lực huy động vốn của Ngân hàng thương mại 13
1.2.1. Khái niệm năng lực huy động vốn 13
1.2.2. Các tiêu chí phản ánh năng lực huy động vốn của Ngân hàng thương mại 14
1.3.1. Các nhân tố khách quan 17
1.3.2. Nhân tố chủ quan 19
2.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) –
Chi nhánh Trung Hoà Nhân Chính 24
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển 24
2.1.2. Cơ cấu tổ chức 24
2.2. Thực trạng năng lực huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng
(VPBank) - Chi Nhánh Trung Hòa Nhân Chính 30
2.2.2. Sự tăng trưởng và tính ổn định của nguồn vốn 32
2.2.3. Khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn 40
2.2.4. Sự đa dạng hóa của các sản phẩm huy động vốn 42
2.2.5. Chi phí huy động vốn 43
2.3. Đánh giá hoạt động huy động vốn tại ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank)
- Chi Nhánh Trung Hòa Nhân Chính 44
2.3.1. Những thành tựu đạt được 44
2.3.2. Những mặt còn tồn tại 46
2.3.3. Nguyên nhân 47
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN
HÀNG VIỆT NAM THỊNH VƯỢNG (VPBANK) - CHI NHÁNH TRUNG HÒA NHÂN
CHÍNH 49
3.1. Định hướng nâng cao năng lực huy động vốn tại NHTM Cổ Phần Việt Nam Thịnh
Vượng (VPBank) – Chi nhánh Trung Hoà Nhân Chính 49
3.1.1. Định hướng phát triển chung của NHTM Cổ Phần Việt Nam Thịnh Vượng
(VPBank) trong thời gian tới 49
3.1.2. Định hướng tăng cường năng lực huy động vốn trong thời gian tới 50
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực huy động vốn tại ngân hàng Việt Nam
Thịnh Vượng (VPBank) – Chi nhánh Trung Hòa Nhân 51
3.2.1 Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn 52
3.2.2 Đơn giản hóa các thủ tục 56
3.2.3 Nâng cao trình độ cán bộ 57
ii
3.2.4 Tăng cường thông tin quảng cáo 58
3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 59
3.3.1 Kiến nghị với Ngân Hàng Nhà Nước 59
3.3.2 Kiến nghị với ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng 62
KẾT LUẬN 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO 73
iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nghĩa viết tắt
1 NHTW Ngân hàng trung ương
2 NHNN Ngân hàng nhà nước
3 VPBANK Ngân hàng thương mại cổ Việt Nam Thịnh Vượng
4 NHTM Ngân hàng thương mại
5 TCTD Tổ chức tín dụng
6 TCTC Tổ chức tài chính
7 TCKT Tổ chức kinh tế
8 DN Doanh nghiệp
9 DNNN Doanh nghiệp
10 TSĐB Tài sản đảm bảo
11 TNHH Trách nhiệm hữu hạn
12 NSNN Ngân sách nhà nước
iv
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Hoạt động tín dụng tại VPBank – chi nhánh Trung Hòa Nhân Chính
Bảng 2.2: Hoạt động dịch vụ tại VPBank – chi nhánh Trung Hòa Nhân Chính
Bảng 2.3: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh tại VPBank – chi nhánh Trung
Hòa Nhân Chính
Bảng 2.4: Giá kết chuyển vốn tại ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng
Bảng 2.5: Sự tăng trưởng của nguồn vốn huy động tại VPBank – chi nhánh Trung
Hòa Nhân Chính
Bảng 2.6: Cơ cấu vốn huy động theo loại tiền tại VPBank – chi nhánh Trung Hòa
Nhân Chính
Bảng 2.7: Cơ cấu vốn huy động theo thời gian tại VPBank – chi nhánh Trung Hòa
Nhân Chính
Bảng 2.8: Cơ cấu vốn huy động theo đối tượng khách hàng qua các năm tại
VPBank – chi nhánh Trung Hòa Nhân Chính
Bảng 2.9: Tỷ lệ giữa tổng tiền gửi và tổng dư nợ qua các năm tại VPBank – chi
nhánh Trung Hòa Nhân Chính
Bảng 2.10: Tỷ lệ giữa tiền gửi trung và dài hạn đối với dư nợ trung và dài hạn qua
các năm tại VPBank – chi nhánh Trung Hòa Nhân Chính
Bảng 2.11: Lãi suất bình quân đầu vào qua các năm tại VPBank – chi nhánh Trung
Hòa Nhân Chính
Biểu đồ : 2.1 : Cơ chế kết chuyển vốn tại Ngân Hàng Việt Nam Thịnh Vượng
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu vốn huy động theo thời hạn qua các năm tại VPBank – chi
nhánh Trung Hòa Nhân Chính
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu vốn huy động theo đối tượng khách hang qua các năm tại
VPBank Trung Hòa nhân chính
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu hướng hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu, phát triển và nâng
cao năng lực cạnh tranh đang là mục tiêu của tất các doanh nghiệp nói chung và các
ngân hàng thương mại nói riêng. Một trong những vấn đề có vị thế quan trọng hàng
đầu trong việc nâng cao năng năng lực cạnh tranh của ngân hàng đó là vấn đề về
năng lực huy động vốn. Đây là vấn đề mang tính cấp thiết, đầy biến động đòi hỏi
phải xây dựng, phát triển và thường xuyên được xử lý, điều chỉnh nhằm đáp ứng
được nhu cầu sử dụng vốn của chính ngân hàng.
Với hoạt động kinh doanh chủ yếu là huy động vốn rồi cho vay, huy động
vốn đóng một vài trò quan trọng đối với ngân hàng vì nó là nguồn đầu vào, đáp ứng
nhu cầu sử dụng vốn và cũng là cơ sở để ngân hàng tạo nên lợi nhuận. Chính vì lẽ
đó việc mở rộng và nâng cao năng lực huy động vốn rất được coi trọng và được
xem như là một trong những giải pháp chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của ngân hàng. Trong giai đoạn hiện nay, các Ngân hàng đều đặt ra mục tiêu hoạt
động cơ bản là nâng cao năng lực huy động vốn. Để đáp ứng nhu cầu vốn ngày
càng nhiều cho tăng trưởng kinh tế là điều quan trọng, nhưng điều quan trọng hơn là
các Ngân hàng thương mại phải từng bước nâng cao năng lực huy động vốn, để
đứng vững trong nên kinh tế thị trường. Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng
(VPBank) – Chi nhánh Trung Hòa Nhân Chính là một chi nhánh thành viên của
Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank). Cũng giống như các NHTM khác
chi nhánh rất quan tâm tới nguồn vốn huy động từ nền kinh tế để có thể tiến hành
hoạt động kinh doanh. Thấy được tầm quan trọng của nguồn vốn huy động đối với
hoạt động của chi nhánh, trên cơ sở lý luận được học tại trường và kinh nghiệm
thực tiễn thu được trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Việt Nam Thịnh
Vượng(VPBank) – Chi nhánh Trung Hòa Nhân Chính tác giả đã chọn đề tài:" Giải
pháp nâng cao năng lực huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Thịnh Vượng (VPBank) - Chi nhánh Trung Hòa Nhân Chính " để làm khóa luận tốt
nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
2
Trên cơ sở xác định nội dung, vài trò của việc nâng cao năng lực huy động
vốn đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại, khóa luận nghiên cứu
thực trạng năng lực huy động vốn của NHTM cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng
(VPBank) – chi nhánh Trung Hòa Nhân Chính. Từ đó đưa ra một số giải pháp , kiến
nghị nhằm nâng cao năng lực huy động vốn tại Vpbank chi nhánh Trung Hòa Nhân
Chính.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là năng lực huy động vốn trong hoạt
động kinh doanh ngân hàng.
Phạm vị nghiên cứu là khảo sát hoạt động của NHTM cổ phần Việt Nam
Thịnh Vượng (VPBank) - chi nhánh Trung Hòa Nhân Chính trong 3 năm từ 2008
đến 2011, và các giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại VPBank - chi nhánh
Trung Hòa Nhân Chính.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện, khóa luận đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học để phân tích lý luận và thực tiễn bao gồm: phương pháp phân tích từ
khái quát đến cụ thể, phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh đối chiếu mô hình
hóa và phương pháp thống kê, phương pháp đặt vấn đề và suy luận logic, phương
pháp lấy ý kiến chuyên gia. Ngoài ra khóa luận còn sử dụng các sơ đồ, bảng biểu,
biểu đồ.
5. Bố cục khóa luận
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt, mục lục, tài liệu tham
khảo, phụ lục nội dung chính của khóa luận tốt nghiệp gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về năng lực huy động vốn trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng năng lực huy động vốn tại Ngân hàng Việt Nam Thịnh
Vượng (VPBank) – Chi nhánh Trung Hòa Nhân Chính
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực huy động vốn tại Ngân hàng Việt
Nam Thịnh Vượng(VPBank) – Chi nhánh Trung Hòa Nhân Chính
6. Dự kiến các kết quả đạt được
3
Với việc mục tiêu nghiên cứu như đã nêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
xác định, phương pháp nghiên cứu áp dụng như trên, khóa luận dự kiến đạt được
các kết quả sau:
Hệ thống hóa các cơ sở lý luận và thực tiễn về ngân hàng thương mại và
năng lực huy động vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng thương
mại.
Phân tích thực trạng năng lực huy động vốn tại Ngân hàng Việt Nam Thịnh
Vượng (VPBank) – Chi nhánh Trung Hòa Nhân Chính, đánh giá các kết quả đạt
được, đồng thời tìm ra nguyên nhân những mặt còn hạn chế trong quá trình thực
hiện.
Đưa ra các giải pháp nâng cao năng lực huy động vốn tại Ngân hàng Việt
Nam Thịnh Vượng (VPBank) – Chi nhánh Trung Hòa Nhân Chính.
4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC HUY ĐỘNG VỐN
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CUẢ NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1.Tổng quan về Ngân hàng thương mại và hoạt động huy động vốn
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn
liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống ngân hàng thương
mại đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng
hoá. Ngược lại, kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền
kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những
định chế tài chính không thể thiếu được.
Nói chung, Ngân hàng thương mại là một loại ngân hàng trung gian. Tuy
nhiên, ở mỗi nước trên thế giới có một cách định nghĩa riêng về ngân hàng thương
mại như là:
Theo luật ngân hàng quốc gia (1863): Ngân hàng thương mại là công ty kinh
doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công
nghiệp dịch vụ tài chính.
Theo đạo luật ngân hàng của Pháp (1941): “Ngân hàng thương mại là những
xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng
dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho
chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
Theo luật TCTD của Việt Nam (2010): “Ngân hàng thương mại là loại hình
ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận” (Luật TCTD,
2010, khoản 3 điều 4)
Cũng theo luật TCTD của Việt Nam (2010): “Hoạt động ngân hàng là việc
kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ như: nhận tiền
gửi; cấp tín dụng; cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản” (Luật TCTD, 2010,
khoản 12 điều 4)
Tóm lại, theo tác giả tổng hợp, Ngân hàng thương mại là một trong những
định chế tài chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp
5
vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra,
Ngân hàng thương mại còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu
cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.
1.1.2. Hoạt động huy động vốn
1.1.2.1. Khái niệm huy động vốn
Huy động vốn có thể được xem là một trong những nghiệp vụ xuất hiện sớm
nhất trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Trong giai đoạn sơ khai của
hoạt động ngân hàng, những nghiệp vụ này chỉ đơn thuần là hoạt động cất giữ các tài
sản có giá nhắm mục đích đảm bảo an toàn. Theo đó, người phải trả phí là người gửi
tiền chứ không phải là các ngân hàng, các khoản tiền chỉ được xem đơn thuần là vật
được kí gửi chứ hoàn toàn không đóng vai trò là nguồn vốn đối với các ngân hàng
thương mại, tiền lúc này không được xem là tiền tệ theo đúng nghĩa của nó, vì không
có khả năng luân chuyển, không sinh ra được lợi nhuận.
Khi nhu cầu tín dụng gia tăng, nghiệp vụ ngân hàng phát triển, vị thế đó bị đảo
ngược, ngân hàng là người phải trả phí (lãi suất – giá cả của tín dụng), và nguồn tiền
được kí gửi thay đổi vai trò của nó, trở thành nguồn vốn khả dụng và lớn nhất của
các ngân hàng thương mại hiện nay. Tuy nhiên, trái ngược với quá khứ, hiện nay
ngân hàng là người phải đi nài nỉ khách hàng gửi tiền. Nếu trước đây, ngân hàng là
người bị động trong quan hệ này thì hiện nay, hầu hết tất cả các ngân hàng đều có các
chính sách, phương thức để lôi kéo nguồn tiền gửi này. Chính vì vậy các phương
thức huy động vốn ngày càng trở nên quan trọng, phong phú và đa dạng hơn.
Có thể nói, hiện nay, hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động
hết sức quan trọng và liên quan đến sự sống còn của các ngân hàng thương mại. Xuất
hiện khá lâu đời và không ngừng phát triển, thay đổi cùng với sự phát triển của các
ngân hàng thương mại, nội hàm của khái niệm hoạt động huy động vốn đã có những
thay đổi rất đáng kể, cả về quy mô và các hình thức thể hiện. Hơn nữa, gần như
không tìm được một định nghĩa hoàn thiện về hoạt động này cũng như không có
được sự thống nhất hoàn toàn giữa các quan điểm. Đặc biệt, là sự khác biệt trong
cách hiểu khi đề cập vấn đề này dưới các khía cạnh khác nhau. Phổ biến nhất là việc
sử dụng thuật ngữ này trong các khía cạnh không chuyên, đặc biệt là ngôn ngữ
thường nhật của xã hội và báo chí. Khái niệm huy động vốn được sử dụng ở đây đối
6
với hoạt động của các ngân hàng thương mại có thể nói là hẹp và không rõ ràng,
trong nhiều trường hợp có sự không thống nhất trong nội hàm của bản thân khái
niệm. Nhưng nhìn chung, phổ biến nhất, theo tác giả tổng hợp thì khái niệm huy
động vốn được hiểu là:
Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại là nghiệp vụ tiếp nhận
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức cá nhân dưới hình thưc tiền gửi ko kỳ
hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình
thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người
gửi tiền theo thỏa thuận.
1.1.2.2.Nội dung huy động vốn
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ do ngân hàng huy động thông qua các
nghiệp vụ chủ yếu như: nghiệp vụ tiền gửi, nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá và
các nghiệp vụ trung gian khác.Vốn huy động là nguồn vốn mà ngân hàng có thể chủ
động tìm kiếm hoặc bị động trong việc tạo nguồn.
Vốn huy động chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh
của ngân hàng thường ở mức 70 – 80%, đây chính là nguồn chủ yếu đáp ứng nhu
cầu tín dụng của khách hàng và cũng là nguồn mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân
hàng. Vì vậy, ngân hàng thông qua các công cụ tài chính với mức lãi suất khác
nhau, thời hạn hoàn trả khác nhau để có thể huy động tới mức tối đa nguồn tiền tạm
thời nhàn rỗi của khách hàng. Các NHTM phải làm sao thu hút được nhiều tiền của
người tiêu dùng và các doanh nghiệp dù ngân hàng phải trả lãi cho loại tiền gửi này
song việc thu hút nhanh và biết sử dụng vẫn mang lại nguồn lợi lớn cho ngân hàng.
Huy động vốn bằng tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng
thương mại, khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài
khoản tiền gửi để giữ tiền, tài sản và thanh toán hộ khách hàng, bằng cách đó ngân
hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư. Cùng với sự phát
triển vượt bậc của nền kinh tế và sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng thương
mại. Ngày nay, hầu hết các ngân hàng thương mại đang dẩy mạnh huy động vốn
thông qua các chính sách cụ thể, rõ ràng và hiệu quả (Nguyễn Văn Tiến 2010, tr
86).
7
Tiền gửi thanh toán
Tiền gửi đảm bảo thanh toán được ký ủy thác vào ngân hàng để thực hiện các
khoản chi trả khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của khách hàng
một cách thuận tiện và tiết kiệm. Đây là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi chờ thanh toán
mà không phải để dành. Bởi vậy đối với khách hàng đây là một tài sản mà họ ký
thác uỷ nhiệm cho ngân hàng bảo quản và thực hiện các nghiệp vụ liên quan theo
yêu cầu của khách hàng. Do vậy khách hàng không mất quyền sở hữu, cũng như
quyền sử dụng số tiền đó. Họ có quyền lấy ra hoặc chuyển nhượng cho bất kỳ ai và
bất kỳ thời gian nào. Khách hàng được sử dụng số tiền của mình bằng các phương
tiện thanh toán dùng để chi trả như séc, uỷ nhiệm chi, thư chuyển tiền (Nguyễn Văn
Tiến 2010, tr 85).
Đối với ngân hàng đây là một khoản nợ mà ngân hàng có nghĩa vụ thực hiện
lệnh thanh toán chi trả cho người thụ hưởng loại tiền gửi này, lãi suất thường thấp
hơn lãi suất trả cho các khoản tiền gửi có lãi khác.Nhưng khi khách hàng mở và sử
dụng các loại tài khoản này thì được ngân hàng cung ứng các loại dịch vụ miễn phí
hoặc thu với tỷ lệ thấp, lượng tiền vốn ở tài khoản thanh toán thường chiếm gần 1/3
tiền gửi ngân hàng.
Như vậy, các tài khoản này đã đem lại cho khách hàng sự an toàn trong việc
bảo quản vốn và trong qúa trình thanh toán trả tiền hàng hoá dịch vụ, ngoài ra khách
hàng còn được hưởng một khoản tiền lãi nhỏ và một số dịch vụ miễn phí. Còn đối
với ngân hàng phải bỏ ra một số chi phí cho bộ máy kế toán theo dõi và nghi chép
các nghiệp vụ phát sinh, chi phí phát hành séc và một số dịch vụ kèm theo. Chi phí
này khá lớn, nhưng nó được bù đắp lại bởi vì trên thực tế do lượng tiền gửi vào và
số lượng tiền rút ra không cùng một lúc và chủ tài khoản thường không sử dụng hết
số tiền của mình trên tài khoản. Do đó luôn tồn tại một số tiền trên tài khoản trong
một thời gian dài số dư ấy được ngân hàng dùng để đầu tư cho vay đối với một số
doanh nghiệp, cá nhân thiếu vốn sản xuất, kinh doanh để thu lợi nhuận. Như vậy đối
với tài khoản tiền gửi thanh toán số dư trên tài khoản giao dịch không những bù đắp
được chi phí mà còn có thể mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
8
Ngày nay do điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, nhiều công nghệ mới
được ứng dụng vào hoạt động ngân hàng. Vì vậy đã có nhiều doanh nghiệp, cá nhân
mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng, làm cho lượng tiền gửi này ngày càng gia
tăng. Đó là những nguồn vốn dùng để cho vay hết sức quan trọng của ngân hàng,
đồng thời lợi nhuận thu về từ nguồn vốn này cũng ngày càng tăng.
Tiền gửi có kỳ hạn của các Doanh nghiệp, Tổ chức xã hội, Tổ chức xã hội
nghề nghiệp
Tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệp, chưa sử
dụng đến trong một thời gian nhất định, mà khoảng thời gian này được xác định
trước. Do đó cá doanh nghiệp thường gửi vào ngân hàng dưới hình thức tiền gửi có
kỳ hạn. Phần lớn các nguồn tiền gửi này xuất phát từ nguồn tích luỹ của các doanh
nghiệp mà có. Về nguyên tắc khách hàng chỉ được rút tiền ra khi đến hạn và được
hưởng số tiền lãi trên số tiền gửi đó. Nhưng hiện nay để thu hút vốn nhằm khuyến
khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, các NHTM cho phép khách hàng rút tiền
ra trước thời hạn. Trong trường hợp này khách hàng không được hưởng lãi hoặc chỉ
được hưởng theo lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn (Nguyễn Văn Tiến 2010, tr 85).
Do tính chất của loại tiền vốn tương đối ổn định, ngân hàng có thê sử dụng
phần lớn số dư loại nguồn vốn này để cho vay trung và dài hạn. Nếu nguồn vốn này
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động sẽ tạo điều kiện thuận lợi, chủ
động của ngân hàng trong quá trình kinh doanh, các NHTM thường đưa ra nhiều
loại kỳ hạn nhằm đáp ứng nhu cầu tiền gửi của khách hàng. Hiện tại các NHTM có
các loại tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng 9 tháng, 1 năm, 2 năm.
Với mỗi một kỳ hạn khác nhau thì ngân hànng áp dụng một loại lãi suất khác nhau.
Thông thường thì thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Các NHTM thường
khuyến khích khách hàng gửi tiền với thời hạn dài, vì loại tiền này tương đối ổn
định, ngân hàng sẽ chủ động trong kinh doanh. Để thu hút được nhiều nguồn vốn
dài hạn thì tốc độ phát triển nền kinh tế phải ổn định, giá trị đồng tiền được đảm
bảo, lạm phát vừa phải (thường là một con số một năm) và tình hình hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng có hiệu quả (Nguyễn Văn Tiến 2010, tr 86).
Tiền gửi tiết kiệm dân cư
9
Tiển gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi các nhân được gửi vào
Ngân hàng, nhằm hưởng lãi suất theo qui định. Tiền gửi tiết kiệm là bộ phận thu
nhập bằng tiền gửi của cá nhân chưa sử dụng được gửi vào tổ chức tín dụng. Nó là
một dạng đặc biệt của tích luỹ tiền tệ trong tiêu dùng cá nhân. Khi gửi tiền người
gửi tiền được giao một sổ tiết kiệm coi như một giấy chứng nhận tiền gửi vào Ngân
hàng. Đến thời hạn khách hàng rút tiền ra được nhận một khoản tiền lãi trên tổng số
tiền gửi tích kiệm.
Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Loại tiền gửi này người gửi tiền có thể rút
ra một phần hoặc toàn bộ số tiền gửi bất kỳ lúc nào. Nhưng khác với loại tiền gửi
thanh toán, người gửi tiền không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả
cho người khác, lãi suất tiền gửi tiết kiệm thường cao hơn và phần lớn những người
gửi tiền tiết kiệm là do chưa xác định được nhu cầu chi tiêu cụ thể trong tương lai,
nhưng lại hưởng mức lãi trong thời gian khoản tiền nhàn rỗi.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Khi cá nhân gửi tiền vào ngân hàng loại tiền
gửi tích kiệm có kỳ hạn trên cơ sở thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng về thời
hạn gửi, lãi suất theo qui định và khách hàng chỉ được rút tiền ra khi đến hạn.
Nhưng trong thực tế ở nước ta hiện nay để khuyến khích người gửi tiền các NHTM
vẫn cho khách hàng rút ra trước thời hạn và được hưởng lãi suất thấp hơn lãi suất
tiền gửi có kỳ hạn (thông thường bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn)
(Nguyễn Văn Tiến 2010, tr 88).
Do nguồn vốn huy động từ loại tiền gửi này mang tính ổn định, cho nên các
NHTM thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau như loại 3 tháng, 6 tháng, 12
tháng, 24 tháng… nhằm thu hút càng nhiều nguồn vốn với lãi suất của các kỳ hạn
khác nhau. Thông thường, kỳ hạn ngày càng dài thì lãi suất huy động ngày càng cao
(lãi suất tiền gửi có kỳ hạn lớn hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi thanh
toán). Nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư có số lượng lớn thứ hai
trong tổng số các loại tiền gửi vào ngân hàng và nó phục thuộc rất lớn vào thu nhập
bình quân theo đầu người, tỷ lệ tiết kiệm trên tổng thu nhập của dân cư, chất lượng
phục vụ của NHTM, sự ổn định đồng tiền và nền kinh tế tăng trưởng vững chắc.
Tiền gửi của các NHTM khác
10
Với mục tiêu là an toàn, thuận tiên và nhanh chóng trong thanh toán cho
khách hàng, các ngân hàng thương mại không chỉ duy trì tiền tại ngân hàng của
mình mà còn tiến hành gửi tiền tại ngân hàng thương mại khác. Tuy nhiên thì quy
mô của nó không lớn, thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động
của ngân hàng.
Huy động vốn bằng việc phát hành công cụ nợ
Trên cơ sở cân đối vốn kế hoạch, Ngân hàng thấy thiếu vốn nên đưa ra quyết
định phát hành giấy tờ có giá. Muốn thực hiện tốt, phát huy có hiệu quả thì người ta
lên phương án xây dựng kế hoạch phát hành và đưa ra những dự kiến. Số vốn cần
có có thể là VND hay ngoại tệ mà quyết định đồng thời cân nhắc về lãi suất, thời
điểm phát hành phương thức trả lãi như thế nào, các quy định về chuyển nhượng,
chiết khấu ra sao cho phù hợp để vừa thu hút được nhiều người mua vừa đảm bảo
khả năng tính lợi và hoạt động kinh doanh tốt nhất. Kỳ phiếu là nguồn ngắn hạn và
thường xuyên trong khi trái phiếu thì lại dài hạn và không thường xuyên. Ngân
hàng rất khó khăn khi phát hành trái phiếu vì thường dẫn đến rủi ro về lãi suất và
lạm phát do thời hạn dài. Hiện nay, vấn đề thu hút nguồn vốn dài hạn vẫn là vấn đề
khó của Ngân hàng thương mại Việt Nam.
Khi tiến hành phát hành thì mục đích sử dụng vốn đã được xác định trước,
người ta phải làm sao cho đảm bảo giá trị thực của vốn gốc, góp phần tạo lập thêm
nguồn vốn. Ngân hàng thương mại cổ phần và Ngân hàng thương mại quốc doanh
đểu được phép phát hành kỳ phiếu và trái phiếu. Đây là hình thức huy động vốn
cũng đang được gọi là phổ biến hiện nay. Ngày nay có rất nhiều Ngân hàng thương
mại huy động bằng trái phiếu, bằng nội tệ hay có thể bằng ngoại tệ với các thời hạn
khác nhau như 1 năm, 3 năm, 5 năm. Đặc điểm của loại vốn này là lãi suất cao hơn
lãi suất tiền gửi tiết kiệm. Mục đích huy động dùng để đáp ứng cho các dự án đầu tư
lớn. Nguồn vốn này được huy động theo nhiều thời hạn khác nhau như ngắn hạn,
trung hạn, dài hạn. Thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Hiện nay ở Việt nam các
NHTM thường huy động nguồn vốn này dưới hình thức phát hành kỳ phiếu có mục
đích và trái phiếu trung, dài hạn (Nguyễn Văn Tiến 2010, tr 92).
Phát hành kỳ phiếu có mục đích
11
Khi các NHTM có nguồn vốn tài chính dồi dào để tài trợ cho các nguồn vốn
có qui mô lớn, nhằm phát triển kinh tế địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hoặc
liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế mà các nguồn vốn tự có chưa đáp ứng
được, NHTM trình ngân hàng Nhà nước xin phép phát hành kỳ phiếu để tạo nguồn
vốn tín dụng tương đối lâu dài cho các hoạt động này.
Như vậy, kỳ phiếu là một chứng chỉ huy động vốn có mục đích, có thời hạn,
người sở hữu có thể chuyển nhượng cho người khác qua chứng nhận của ngân hàng,
vì trên sổ kỳ phiếu có ghi tên người hưởng. Kỳ phiếu ngân hàng được phát hành
nhằm huy động vốn trong dân cư một cách linh hoạt có tác dụng thu hút cá nguồn
tiền nhàn rỗi vào ngân hàng, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị của đồng
tiền, tạo nguồn vốn trung dài hạn để đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế (Nguyễn
Văn Tiến 2010, tr 108).
Phát hành trái phiếu
Trái phiếu ngân hàng thực chất là giấy nhận nợ có kỳ hạn của ngân hàng đối
với những người mua trái phiếu (nhà đầu tư). Trái phiếu được các NHTM hay các
tổ chức tín dụng phát hành nhằm huy động vốn cho chính bản thân ngân hàng hoặc
các tổ chức tín dụng có liên quan. Thời hạn của trái phiếu thường lớn hơn một năm.
Lãi suất của trái phiếu thường cao hơn lãi suất của tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu. Các
NHTM phát hành trái phiếu trên cơ sở nhu cầu sử dụng vốn thông qua các dự án
đầu tư của các doanh nghiệp mà ngân hàng cam kết cho vay.
Huy động vốn thông qua việc phát hành các công cụ nợ của các NHTM như
kỳ phiếu, trái phiếu là một hình thức mới trong công tác huy động vốn của NHTM ở
cá nước đang phát triển. Vốn được huy động từ hình thức này dùng để đầu tư cho
các dự án trung và dài hạn. Ở nước ta, hình thức này được Ngân hàng sử dụng từ
năm 1992 nhưng cho đến nay khối lượng vốn huy động của NHTM qua hình thức
này vẫn còn thấp so với các hình thức huy động vốn truyền thống khác. Để phát huy
được thế mạnh của công cụ huy động vốn này đòi hỏi phải có thị trưòng vốn hoàn
chỉnh (thị trưòng chứng khoán). Ở nước ta thị trường này mới được thành lập cho
nên hoạt động của nó chưa ảnh hưởng nhiều đến hoạt động huy động vốn của ngân
hàng (Lê Vinh Doanh 2008, tr 160).
Huy động vốn qua các hình thức khác
12
Để tăng cường huy động vốn nhàn rỗi từ dân cư, các tổ chức kinh tế, các
doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại còn sử dụng các hình thức khác về dịch
vụ xã hội: làm dịch vụ bảo lãnh, đại lý phát hành chứng khoán, trung gian thanh
toán, đầu mối trong hợp đồng đồng tài trợ Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ
trên càng mang lại cho ngân hàng những nguồn huy động lớn giúp cho ngân hàng
có thể kinh doanh một cách an toàn và hiệu quả.
1.1.3. Vai trò của huy động vốn đối với hoạt động kinh doanh của NHTM
Đối với ngân hàng, vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh
doanh. Với đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh
doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM. Ngân hàng là tổ
chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường đó là tiền tệ. Chính vì thế,
vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng nên có vai trò rất quan
trọng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Do đó, ngân hàng phải thường xuyên
chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động.
Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Để bước vào hoạt động kinh doanh thì đầu tiên ngân hàng phải cần có vốn.
Ngoài lượng vốn bắt buộc phải có, ngân hàng phải huy động từ các nguồn khác.
Ngân hàng đi vay để cho vay. Vậy để có hoạt động cho vay thì phải có thứ để mà cho
vay. Nguồn vốn phản ánh tiềm năng và sức mạnh của ngân hàng. Đối với những
ngân hàng lớn, việc tham gia tài trợ cho những dự án lớn luôn dễ dàng hơn các ngân
hàng nhỏ. Vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà còn là đối tượng kinh doanh
chủ yếu của ngân hàng thương mại. Nói cách khác, không có vốn thì ngân hàng
không thể thực hiện được các nghiệp vụ kinh doanh của mình.
Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của
ngân hàng
Hoạt động tín dụng của ngân hàng phụ thuộc vào vốn của ngân hàng. Ngân
hàng có nhiều vốn sẽ có ưu thế cạnh tranh hơn so với ngân hàng ít vốn. Có được
nhiều vốn ngân hàng sẽ có điều kiện để đưa ra các hình thức tín dụng linh hoạt, có
điều kiện để hạ lãi suất từ đó sẽ làm tăng quy mô tín dụng. Các ngân hàng lớn, nhiều
vốn thường có rất nhiều các dịch vụ ngân hàng. Phạm vi hoạt động kinh doanh của
13
họ sẽ rộng hơn nhiều các ngân hàng nhỏ. Chính vì vậy càng khẳng định rõ tầm quan
trọng của vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng
trên thương trường
Các ngân hàng lớn trên thế giới là các ngân hàng có uy tín, luôn được ca ngợi
và nể trọng. Điều kiện đầu tiên để xây dựng được uy tín của ngân hàng chính là vốn
của ngân hàng. Có nhiều vốn, khả năng thanh toán của ngân hàng luôn được đảm
bảo, các khách hàng luôn cảm thấy yên tâm khi giao thiệp với ngân hàng. Trong nên
kinh tế bất ổn hiện nay, khả năng thanh toán luôn được các ngân hàng ưu tiên hàng
đầu và để được như vậy thì các ngân hàng luôn tìm cách huy động được nhiều vốn
hơn.
Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Trong thời đại kinh tế cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, vốn là điều kiện để
các ngân hàng tham gia cạnh tranh. Nó giúp cho ngân hàng mở rộng quy mô hoạt
động, tăng cường quan hệ với các đối tác. Đồng thời nó lôi kéo khách hàng mới, giữ
chân các khách hàng truyền thống. Doanh số của ngân hàng tăng lên đồng thời làm
tăng nguồn vốn của ngân hàng. Vốn của ngân hàng lớn giúp cho ngân hàng có khả
năng tài chính dồi dào để cạnh tranh với các ngân hàng khác: hạ lãi suất, linh hoạt về
thời hạn tín dụng, hình thức trả lãi Các dịch vụ ngân hàng sẽ ngày càng được cải
tiến, phát triển và được thực hiện tốt hơn.
Với những vai trò hết sức quan trọng đó, các ngân hàng luôn tìm cách đưa ra
những chính sách quản lý nguồn vốn từ khâu nhận vốn từ những người gửi tiền và
những người cho vay khác nhau đến việc sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả. Bên
cạnh đó, các nhà quản trị ngân hàng cũng luôn tìm cách để đổi mới, hoàn thiện chúng
cho phù hợp với tình hình chung của nền kinh tế. Đó là một trong những điều kiện
tiên quyết đưa ngân hàng đến thành công.
1.2. Năng lực huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm năng lực huy động vốn
Trong nền kinh tế thị trường, nơi mà cạnh tranh diễn ra vô cùng khốc liệt.
Chính vì vậy mà để tồn tại và phát triển thì các ngân hàng cần phải nâng cao năng lực
cạnh tranh của mình. Ngân hàng là tổ chức tài chính trung gian với hoạt động chủ
14
yếu là nhận tiền gửi rồi sử dụng tiền gửi để cho vay. Hoạt động huy động vốn luôn
gắn liền với hoạt động sử dụng vốn cũng như gắn liền với kết quả hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Chính vì vậy để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên
thị trường thì việc đầu tiên là ngân hàng phải tìm cách nâng cao khả năng huy động
vốn của mình. Nhìn chung, khái niệm về năng lực huy động vốn có thể được hiểu
như sau:
Năng lực huy động vốn thể hiện ở khả năng của ngân hàng trong việc huy
động đủ nguồn vốn nhằm đáp ứng cao nhất nhu cầu sử dụng vốn của mình. Đó
chính là sự đáp ứng kịp thời và đầy đủ, nhu cầu sử dụng vốn về quy môn, về thời
gian với chi phí hợp lý và chiếm lợi thế tương đối khi so sánh với đối thủ cạnh
tranh (Đỗ Thị Bích Hậu 2011, tr.12).
Như vậy, năng lực huy động vốn của một ngân hàng chính là khả năng của
ngân hàng đó trong việc huy động đủ nguồn vốn để đáp ứng kịp thời, đầy đủ cho
nhu cầu sử dụng vốn của mình, về thời hạn, về quy mô với mức chi phí hợp lý
1.2.2. Các tiêu chí phản ánh năng lực huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Sự tăng trưởng và tính ổn định của nguồn vốn
Khối lượng vốn huy động phản ánh quy mô vốn. Quy mô vốn lớn sẽ tạo điều
kiện cho ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Trong tổng nguồn vốn của
ngân hàng thì quy mô vốn huy động là một bộ phận chiếm tỷ trọng cao nhất và có vai trò
quan trọng hơn cả. Sau khi đã huy động được khối lượng vốn lớn thì cái mà ngân hàng
cần quan tâm lúc này là tốc độ tăng trưởng ổn định của nó vì có thể lúc này quy mô vốn
lớn, nhưng sẽ là khó khăn cho ngân hàng khi đưa ra quyết định cho vay hay đầu tư nếu
ngân hàng không kiểm soát, không dự đoán được xu hướng biến động của dòng tiền rút
ra và dòng tiền gửi vào. Khi xem xét cơ cấu vốn huy động của một ngân hàng thì chúng
ta cần xem xét sự tăng trưởng của nguồn vốn về khối lượng, sự tăng trưởng trong từng
cơ cấu nguồn vốn và tính ổn định của tốc độ tăng trưởng qua các thời kỳ.
Thật vậy, năng lực huy động vốn không thể cao khi mà nguồn vốn huy động
được lại không đạt được quy mô nhất định theo kế hoạch huy động của ngân hàng hay
không đáp ứng nổi nhu cầu về khối lượng vốn cho kinh doanh, cơ cấu vốn của ngân
hàng lại không có sự hợp lý giữa các nguồn vốn huy động ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn, giữa vốn ngoại tệ và vốn nội tệ. Đối với ngân hàng, do mỗi nguồn vốn có những
15
điểm mạnh, điểm yếu riêng trong việc khai thác và huy động nên cơ cấu vốn biến đổi sẽ
dẫn tới sự biến đổi trong cơ cấu “đầu ra”: cho vay, đầu tư, bảo lãnh và kéo theo sự thay
đổi trong lợi nhuận, rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Cơ cấu nguồn vốn huy động phụ
thuộc không chỉ vào một phần kế hoạch của ngân hàng mà còn chịu sự tác động của các
nhân tố bên ngoài đòi hỏi ngân hàng phải thường xuyên nghiên cứu tiếp cận thị trường.
1.2.2.2. Khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn
Năng lực huy động vốn được thể hiện rõ nhất khi mà nguồn vốn huy động đáp
ứng được nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng về quy mô, về thời gian. Việc đầu tiên
chúng ta phải xét tới đó là xem xét về việc tổng nguồn vốn huy động có đủ đáp ứng
cho tổng nhu cầu sử dụng vốn trong một thời gian nhất định không. Nếu như lượng
vốn huy động không đủ có nghĩa là để có đủ vốn sử dụng, ngân hàng sẽ phải đi vay
bên ngoài. Khi đi vay thì ngân hàng sẽ phải chịu mức phí cao hơn so với huy động
cũng như không được quyền chủ động khi ra các điều kiện. Chính vì thế mà khi đi
vay ngân hàng sẽ bất lợi hơn rất nhiều. Điều đó cũng thể hiện rằng năng lực huy
động vốn của ngân hàng còn yếu.
Bên cạnh đó thì việc chênh lệch giữa thời gian các khoản tiền huy động và
thời gian của các khoản dư nợ sẽ làm cho ngân hàng phải đối mặt với nhiều loại rủi
ro, như rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất,… Trong hoạt động sử dụng vốn thì cho
vay trung và dài hạn là hoạt động được ngân hàng chú trọng nhất vì hoạt động này
là hoạt động chủ yếu phát sinh lợi nhuận cho ngân hàng. Chính vì thế mà ngân hàng
cũng cần phải có những khoản huy động trung và dài hạn phù hợp để đáp ứng được
những khoản sử dụng vốn tương ứng. Nếu khoản huy động trung và dài hạn không
đủ để đáp ứng nhu cầu cho vay trung và dài hạn thì ngân hàng sẽ phải sử dụng thêm
những khoản tiền gửi ngắn hạn thậm chí là không kỳ hạn của khách hàng để đáp
ứng nhu cầu này. Chính vì vậy mà năng lực huy động vốn của ngân hàng sẽ được
cải thiện khi ngân hàng nâng cao được khả năng huy động đủ nguồn vốn trung và
dài hạn để đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng vốn trung và dài hạn (Nguyễn Văn Tiến
2010, tr 112).
1.2.2.3. Sự đa dạng hóa sản phẩm huy động vốn
Nhằm chủ động thu hút khách hàng, cũng như đáp ứng tốt nhất những nhu
cầu của khách hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh cho chính ngân hàng thì các ngân
16
hàng thương mại thường chủ động đưa ra những hình thức huy động vốn hấp dẫn
khác nhau. Hình thức huy động vốn là những cách thức ngân hàng sử dụng để thu hút
nguồn vốn. Hình thức huy động càng đa dạng thì vốn chảy vào ngân hàng càng nhiều. Vì
vậy độ đa dạng của các hìng thức huy động vốn chính là chỉ tiêu để đánh giá năng lực
huy động vốn ở các ngân hàng thương mại.
Sự đa dạng các công cụ huy động được thể hiện trước hết là ở số lượng các công
cụ ngân hàng sử dụng. Tuỳ theo đặc điểm, mục tiêu chiến lược kinh doanh, mỗi ngân
hàng đưa ra những loại công cụ huy động. Thực tế, số lượng các công cụ huy động càng
nhiều thì ngân hàng càng có nhiều điều kiện thu hút được vốn, tuy nhiên số lượng các
công cụ vốn lại bị hạn chế bởi khả năng quản lý của ngân hàng. Một ngân hàng sử dụng
nhiều công cụ huy động vốn không hoàn toàn đồng nghĩa với việc công tác huy động
vốn của ngân hàng đó có hiệu quả tốt, mà nó chỉ được coi là có hiệu quả khi những công
cụ đó thực sự thích hợp với ngân hàng. Cụ thể đối với các ngân hàng có hoạt động kinh
doanh đa dạng, đội nhũ cán bộ công nhân viên ngân hàng có trình độ cao thì ngân hàng
nên đa dạng hoá các loại công cụ huy động vốn.
Đa dạng về số lượng các công cụ là chưa đủ, mà ngân hàng phải đa dạng về kỳ
hạn huy động, loại tiền sử dụng nữa . Đó là khả năng huy động vốn với các kỳ hạn khác
nhau trong đó có cả nội tệ , ngoại tệ và với mức lãi suất khác biệt tương ứng sao cho
người gửi tiền chấp nhận được và cảm thấy hợp lý . Do vậy, để công tác huy động vốn
của ngân hàng thực sự đạt được hiệu quả cao, ngân hàng cần phải tính toán, nghiên cứu
tìm hiểu nhu cầu của thị trường, trên cơ sở năng lực bản thân đưa ra các hình thức huy
động đa dạng về kỳ hạn, loại tiền. Nếu những ngân hàng có quan hệ quốc tế rộng thì
nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ phải lớn, hay nếu có chiến lược sử dụng vốn để cho
vay dài hạn thì cần tăng cường huy động vốn trung và dài hạn (Nguyễn Văn Tiến 2010,
tr 210).
1.2.2.4. Chi phí huy động vốn
Lãi suất huy động
Lãi suất huy động luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các chủ thể kinh tế.
Người gửi muốn một lãi suất cao, người vay lại muốn lãi suất thấp. Là trung gian đóng
vai trò cầu nối giữa hai đối tượng trên, ngân hàng phải tìm cách điều chỉnh mức lãi suất
sao cho hợp lý nhất đối với các bên, trong đó điều quan trọng là phải đảm bảo lợi ích của
17
ngân hàng. Vì vậy, trong huy động vốn, mỗi ngân hàng đều cố gắng áp dụng mọi biện
pháp có thể nhằm tìm kiếm được những nguồn vốn sao cho chi phí huy động vốn bình
quân là nhỏ nhất và sử dụng số vốn đó để cho vay với một mức lãi suất chấp nhận được
trên thị trường. Chi phí huy động vốn của ngân hàng thường được tình bằng lãi suất bình
quân của những khoản vốn huy động với khối lượng của từng khoản mục huy động đó,
hay người ta còn gọi là lãi suất bình quân đầu vào.
Mặt khác, cùng với một mức chi phí trả lãi bình quân, sự đa dạng hoá trong lãi
suất cho phù hợp với mỗi hình thức huy động vốn là cần thiết, sự đa dạng hoá lãi suất
làm cho tăng tính hiệu quả của chính sách lãi suất mà ngân hàng đưa ra. Nếu có chính
sách lãi suất phù hợp, hiệu quả, ngân hàng sẽ tối thiểu hoá được chi phí trong khi vẫn
hoàn thanh kế hoạch về nguồn vốn (Nguyễn Văn Tiến 2010, tr 118).
Chi phí khác
Bên cạnh chi phí chính là lãi suất, trong quá trình huy động vốn còn có các chi
phí khác như chi phí tiền lương cho cán bộ huy động, chi phí in ấn phát hành, chi phí cơ
sở vật chất, chi phí giao dịch quảng cáo…Tuy chi phí này chiếm một tỷ trọng tương đối
nhỏ nhưng nếu tiết kiệm được cũng góp phần giảm bớt gánh nặng cho ngân hàng.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn
Trong xu hướng quốc tế hoá hiện nay đòi hởi các doanh nghiệp nói chung và
các tổ chức trung gian tài chính nói riêng phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình, mà yêu cầu quan trọng là năng lực tài chính. Để đánh giá năng lực
tài chính của NHTM có nhiều tiêu chí như: quy mô vốn điều lệ, quy mô tài sản có,
tỷ lệ nợ xấu, quy mô lợi nhuận, tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản. Do đó cho thấy việc
nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề tạo vốn của NHTM là một việc làm
hết sức cấp thiết. Các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề tạo vốn của mỗi ngân hàng bao
gồm các nhân tố khách quan và các nhân tố chủ quan
1.3.1. Các nhân tố khách quan
Nhân tố khách quan là những nhân tố bên ngoài, nhưng có liên quan mật
thiết và có khả năng tác động tới hoạt động huy động vốn vủa ngân hàng. Thật vậy,
các hoạt động của ngân hàng sẽ phải chịu rất nhiều tác động từ những yếu tố kinh tế
bên ngoài cũng như những quy định của pháp luật trong việc thanh tra, giám sát
hoạt động của ngân hàng. Các nhân tố này bao gồm : môi trường chính trị pháp luật,
18
môi trường kinh tế, môi trường xã hội, môi trường công nghệ, tâm lý thói quen của
khách hàng
Môi trường chính trị pháp luật
Mọi hoạt động kinh doanh trong đó có hoạt động ngân hàng đều phải chịu
sự điều chỉnh của pháp luật. Bởi vì hoạt động của ngân hàng ảnh hưởng tới nhiều
chủ thể trong nền kinh tế như: nhà đầu tư, người gửi tiền, người vay tiền… Môi
trường pháp lý đem đến cho ngân hàng những cơ hội song cũng đặt ra nhiều thách
thức mới. Đó là luật các TCTD và hệ thống các quy định cụ thể trong từng thời kỳ
về lãi suất, dự trữ, hạn mức…Trong sự ràng buộc về pháp luật các yếu tố của
nghiệp vụ huy động vốn thay đổi làm ảnh hưởng tới quy mô hiệu quả và chính sách
huy động vốn của ngân hàng.
Môi trường kinh tế
Các nhân tố ảnh hưởng tới vấn đề tạo vốn gồm có: tốc độ tăng trưởng kinh
tế, tỷ lệ thất nghiệp, yếu tố lạm phát, sự biến động của tỷ giá hối đoái…Trong điều
kiện nền kinh tế phát triển hưng thịnh thu nhập dân cư cao và ổn định thì nguồn tiền
vào ra các ngân hàng cũng ổn định, số vốn huy động được cũng dồi dào, cơ hội đầu
tư cũng được mở rộng. Nếu nền kinh tế suy thoái thì khả năng khai thác vốn đưa
vào nền kinh tế bị hạn chế, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh lại
công tác huy động vốn.
Môi trường văn hoá xã hội
Đây cũng là nhân tố được các nhà kinh doanh ngân hàng quan tâm vì nó có
khả năng chi phối rất lớn đến hành vi tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng
của khách hàng. Đó là: phong tục tập quán, trình độ dân trí, lối sống của người
dân… Chẳng hạn như thói quen của người dân trong việc sử dụng tiền mặt, với tâm
lý lo ngại trước sự sụt giá của đồng tiền cũng như sự hiểu biết của người dân về các
ngân hàng và hoạt động của ngân hàng sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động huy
động vốn của ngân hàng.
Nếu như dân cư có sự hiểu biết về ngân hàng cũng như các hoạt động cung
cấp dịch vụ của ngân hàng và thấy được những tiện ích, lợi ích ngân hàng mang lại
thì họ sẽ gửi nhiều tiền vào ngân hàng hơn và như vậy công tác huy động vốn cũng
19
thuận lợi hơn. Ở các nước phát triển, dân chúng có thói quen gửi tiền vào ngân hàng
và thực hiện thanh toán qua ngân hàng, ngân hàng là một cái gì đó không thể thiếu
trong cuộc sống. Tuy nhiên, với đại bộ phận các nước đang phát triển như nước ta,
dân chúng chưa có thói quen gửi tiền vào ngân hàng để sử dụng dịch vụ ngân hàng,
họ có thói quen cất trữ tiền mặt, vàng bạc và ngoại tệ nên nó là nhân tố ảnh hưởng
mạnh tới công tác huy động vốn của NHTM.
Môi trường công nghệ
Môi trường công nghệ thông tin hiện nay được coi như sức mạnh cạnh tranh
của mỗi ngân hàng trong sự cạnh tranh mạnh mẽ không những giữa các ngân hàng
trong nước với nhau mà còn giữa các ngân hàng trong nước với các ngân hàng quốc
tế trong tiến trình hội nhập và mở cửa kinh tế quốc tế. Môi trường công nghệ là một
yếu tố rất quan trọng. Trong hoạt động ngân hàng, nó tạo điều kiện tiếp xúc cao
giữa ngân hàng và khách hàng. Nếu ở quốc gia có công nghệ phát triển, ngân hàng
có khả năng ứng dụng nó trong hoạt động ngân hàng sẽ tạo điều kiện giúp ngân
hàng tăng diện tiếp xúc với khách hàng từ đó giúp ngân hàng thuận lợi hơn trong
việc huy động vốn.
Tâm lý,thói quen của khách hàng
Khách hàng của ngân hàng bao gồm những người có vốn gửi tại ngân hàng
và những đối tượng sử dụng vốn đó. Về môi trường xã hội ở các nước phát triển,
khách hàng luôn có tài khoản cá nhân và thu nhập được chuyển vào tài khoản của
họ. Nhưng ở các nước kém phát triển, nhu cầu dùng tiền mặt thường lớn hơn. Ở
khoản mục tiền gửi tiết kiệm có hai yếu tố quan trọng tác động vào là thu nhập và
tâm lý của người gửi tiền. Thu nhập ảnh hưởng đến nguồn vốn tiềm tàng mà Ngân
hàng có thể huy động trong tương lai. Còn yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến sự biến
động ra vào của các nguồn tiền. Tâm lý tin tưởng vào tương lai của khách hàng có
tác dụng làm ổn định lượng tiền gửi vào, rút ra và ngược lại nếu niềm tin của khách
hàng về đồng tiền trong tương lai sẽ mất giá gây ra hiện tượng rút tiền hàng loạt vốn
là mối lo ngại lớn của mọi ngân hàng. Một đặc điểm quan trọng của đối tượng
khách hàng là mức độ thường xuyên của việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Mức
độ sử dụng càng cao, ngân hàng càng có điều kiện mở rộng việc huy động vốn.
1.3.2. Nhân tố chủ quan
20
Nhân tố chủ quan là những nhân tố xuất phát từ bên trong nội bộ, cơ cấu của
ngân hàng trong việc vận hành hoạt động huy động vốn. Sự vận hành của các nhân
tố bên trong đóng vai trò quyết định đối với kết quả đạt được của ngân hàng, nhất là
trong thời kỳ mà cạnh tranh diễn ra gay gắt như hiện nay thì việc đổi mới cơ cấu lại
càng quan trọng. Các nhân tố này bao gồm : Chiến lược kinh doanh của ngân hàng,
các hình thức huy động vốn, chính sách về giá cả lãi suất, năng lực trình độ của cán
bộ ngân hàng, công nghệ ngân hàng, quảng cáo, mạng lưới chi nhánh, uy tín của
ngân hàng
Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể.
Chiến lược kinh doanh được xây dựng dựa trên việc ngân hàng xác định vị trí hiện
tại của mình trong hệ thống, thấy được điểm mạnh, yếu, cơ hội, thách thức đồng
thời dự đoán được sự thay đổi của môi trường kinh doanh trong tương lai. Thông
qua chiến lược kinh doanh ngân hàng có thể quyết định thu hẹp hay mở rộng việc
huy động vốn, có thể thay đổi tỷ lệ các loại nguồn, tăng hay giảm chi phí huy động.
Nếu chiến lược kinh doanh đúng đắn, các nguồn vốn được khai thác một cách tối đa
thì hoạt động huy đông vốn sẽ phát huy được hiệu quả.
Trong chiến lược kinh doanh của ngân hàng chiến lược khách hàng đóng vai
trò rất quan trọng. Nó tác động trực tiếp tới sự thành công trong công tác huy động
vốn của ngân hàng. Để có được thành công, trước tiên ngân hàng phải tìm hiểu
động cơ, thói quen, mong muốn của người gửi tiền, thậm chí từng đối tượng khách
hàng thông qua phân tích lợi ích của khách hàng. Trên cơ sở thông tin về khách
hàng đưa ra chính sách giá cả hợp lý, xây dựng chính sách trong phục vụ và giao
tiếp tạo sự thoải mái cho khách hàng giao dịch. Từ đó sẽ tạo thuận lợi cho công tác
huy động vốn của ngân hàng (Lê Vinh Doanh, 2008, tr 246).
Các hình thức huy động vốn
Ngân hàng muốn dễ dàng tìm kiếm nguồn vốn thì trước hết phải đa dạng
hình thức huy động vốn. Hình thức huy động vốn của ngân hàng ngày càng phong
phú, linh hoạt bao nhiêu thì khả năng thu hút vốn từ nền kinh tế càng lớn bấy nhiêu.
Điều này xuất phát từ sự khác nhau trong nhu cầu và tâm lí của các tầng lớp dân cư.
Mức độ đa dạng các hình thức huy động càng cao thì dễ dàng đáp ứng một cách tối
21
đa nhu cầu của dân cư, vì họ đều tìm thấy cho mình một hình thức gửi tiền phù hợp
mà lại an toàn. Do vậy các NHTM thường cân nhắc rất kĩ lưỡng trươc khi đưa vào
áp dụng một hình thức mới (Nguyễn Văn Tiến 2010, tr 128).
Chính sách về giá cả và lãi suất
Lãi suất là một công cụ quan trọng trong hoạt động huy động vốn của NHTM,
xây dựng một chính sách linh hoạt hợp lý là điều kiện giúp ngân hàng có được
nguồn vốn hợp lý về qui mô và cơ cấu. Chính sách đó phải đảm bảo cho ngân hàng
một mặt thu hút được nhiều vốn mặt khác vẵn phải đảm bảo cho ngân hàng kinh
doanh có lãi (Lê Vinh Doanh, 2008, tr 286).
Năng lực và trính độ của cán bộ ngân hàng
Về phương diện quản lí, nếu ngân hàng có trình độ quản lí tốt sẽ có khả năng
tư vấn phù hợp cho khách hàng đem lại hiệu quả cao thì sẽ thu hút được khách hàng
đến với mình. Mặt khác, quản lí tốt sẽ đảm bảo được an toàn vốn, tăng uy tín, tạo
điều kiện tốt cho công tác huy động vốn của ngân hàng.
Về trình độ nghiệp vụ, trình độ của cán bộ ngân hàng ảnh hưởng lớn tới chất
lượng phục vụ, chi phí dịch vụ làm ảnh hưởng tới việc thu hút vốn của ngân hàng
(Lê Vinh Doanh, 2008, tr 286).
Hiện nay, ở nhiều Ngân hàng Việt Nam, trình độ nghiệp vụ của cán bộ có
nhiều bất cập. Vì vậy, cần phải chú trọng vào việc nâng cao trình độ cho cán bộ sao
cho phù hợp với nhu cầu đòi hỏi của kinh tế thị trường.
Công nghệ ngân hàng
Trình độ công nghệ ngân hàng được thể hiện theo các yếu tố như: các loại
dịch vụ mà ngân hàng cung ứng, trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên ngân
hàng, cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Trình độ công nghệ ngân hàng ngày càng cao, khách hàng sẽ càng cảm thấy hài
lòng về dịch vụ được ngân hàng cung ứng và yên tâm hơn khi gửi tiền tại các ngân
hàng. Đây là một yếu tố rất quan trọng giúp ngân hàng cạnh tranh phi lãi suất vì
khách hàng mà ngân hàng phục vụ, không quan tâm đến lãi suất mà quan tâm đến
chất lượng và loại hình dich vụ mà ngân hàng cung ứng. Với cùng một lãi suất huy
động như nhau, ngân hàng nào cải tiến chất lượng dịch vụ tốt hơn, tạo sự thuận tiện
hơn cho khách hàng thì sức cạnh tranh sẽ cao hơn .