Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Một số vấn đề pháp lý về toà án hình sự quốc tế và việc gia nhập của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1018.72 KB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM BÁ QUYỀN

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ TÒA ÁN HÌNH SỰ
QUỐC TẾ VÀ VIỆC GIA NHẬP CỦA VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT QUỐC TẾ
MÃ SỐ: 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
PGS.TS. HOÀNG PHƯỚC HIỆP

HÀ NỘI - 2010


LỜI CẢM ƠN
Cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới người
thầy đã giúp đỡ và chỉ bảo tận tình cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và
hoàn thành bản luận văn tốt nghiệp của mình đó là PGS.TS Hoàng Phước Hiệp,
Vụ trưởng Vụ pháp luật quốc tế – Bộ Tư pháp.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã giảng dạy kiến thức
cho tôi trong suốt khóa học, cảm ơn Khoa Sau Đại học – Trường Đại học Luật
Hà Nội cùng các bạn bè và những người thân đã giúp đỡ để tôi hoàn thành bản
luận văn thạc sỹ luật học này.


Phạm Bá Quyền


CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

01. BIAs --------------- Các hiệp định theo điều 98 quy chế Roma
02. BLHS -------------- bộ luật hình sự
03. BLTTHS ---------- Bộ luật tố tụng hình sự
04. EU ------------------ Liên minh Châu Âu
05. HĐBA ------------- Hội đồng bảo an
06. ICC ---------------- Tòa án hình sự quốc tế
07. ICJ ----------------- Tòa án quốc tế của liên hợp quốc
08. ICTR -------------- Tòa án hình sự quốc tế truy tố các cá nhân phạm
tội diệt chủng và vi phạm luật nhân đạo quốc tế
trên lãnh thổ rwanda năm 1994
09. ICTY -------------- Tòa án hình sự quốc tế truy tố các cá nhân vi
phạm nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế trên
lãnh thổ nam tƣ cũ từ năm 1991
10. LHQ --------------- Liên hợp quốc


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ------------------------------------------------------------------------------- 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ------------------------------------------------------------------ 1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài --------------------------------------------------------- 2
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu ------------------------------------------ 3
3.1. Mục đích nghiên cứu ---------------------------------------------------------- 3
3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ------------------------------------------- 4
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu --------------------------------------- 4
5. Cơ cấu của Luận văn ---------------------------------------------------------------------- 5

CHƢƠNG 1: TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN HÌNH
SỰ QUỐC TẾ -------------------------------------------------------------------------------- 6
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của ICC ------------------------------------------ 6
1.1.1. Giai đoạn trước Hội nghị ngoại giao 1998 thành lập ICC-- ------------ 6
1.1.2. Giai đoạn từ Hội nghị ngoại giao 1998 thành lập ICC đến nay……....8
1.1.3. Một số vấn đề mới trong quy chế thành viên ICC ---------------------- 12
1.2. Cơ cấu tổ chức của ICC ---------------------------------------------------------------- 14
1.2.1. Đoàn Chủ tịch (The Presidency) ------------------------------------------ 14
1.2.2. Các Tòa của ICC (Chambers)---------------------------------------------- 14
1.2.3. Văn phòng Công tố (The office of the prosecutor) --------------------- 16
1.2.4. Văn phòng Lục sự (The Registry) ----------------------------------------- 17
1.2.5. Thẩm phán -------------------------------------------------------------------- 18
1.3. Nguyên tắc hoạt động của ICC -------------------------------------------------------- 19
1.4. Quyền ưu đãi và miễn trừ -------------------------------------------------------------- 24
1.4.1. Quyền ưu đãi và miễn trừ của ICC ---------------------------------------- 24
1.4.2. Quyền ưu đãi và miễn trừ cho các công chức của ICC---- ------------- 25
1.5. Thực tiễn hoạt động của ICC trong những năm gần đây --------------------------- 25
CHƢƠNG 2: TÒA ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ – CHỦ THỂ ĐẶC
BIỆT CỦA LUẬT QUỐC TẾ ------------------------------------------------------------ 29
2.1. Bản chất pháp lý của Văn kiện thành lập ICC --------------------------------------- 29


2.2. Quyền năng chủ thể pháp luật quốc tế của ICC ------------------------------------- 31
2.3. Thẩm quyền quốc tế của ICC ---------------------------------------------------------- 34
2.4. Quan hệ pháp lý giữa ICC với Hội đồng bảo an và Tòa án quốc tế
của Liên hợp quốc ---------------------------------------------------------------------------- 40
2.4.1. Về văn bản thỏa thuận giữa ICC và Hội đồng bảo an
trong việc thực hiện quyền tài phán về vấn đề tội phạm chống loài
người--------------- ---------------------------------------------------------------------------- 40
2.4.2. Về vấn đề phối hợp hoạt động điều tra, truy tố của ICC

và Hội đồng bảo an --------------------------------------------------------------------------- 42
2.4.3. Về vấn đề xây dựng các quy phạm mới và giải thích
pháp luật của ICC, Tòa án quốc tế và Hội đồng bảo an --------------------------------- 43
2.5. Quan hệ pháp lý giữa ICC với các quốc gia thành viên ---------------------------- 46
CHƢƠNG 3: THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN ĐỐI VỚI VIỆT
NAM KHI GIA NHẬP QUY CHẾ ROMA VỀ TÒA ÁN HÌNH SỰ
QUỐC TẾ ------------------------------------------------------------------------------------- 49
3.1. Đánh giá tổng quan về khả năng Việt Nam gia nhập ICC ------------------------- 49
3.1.1. Các lập luận khác nhau trong nước về việc gia nhập ICC--------------49
3.1.2. Những yếu tố từ ngoài nước ảnh hưởng tới vấn đề Việt
Nam gia nhập ICC ---------------------------------------------------------------------------- 51
3.2. Thuận lợi và khó khăn đối với Việt Nam khi gia nhập ICC ----------------------- 54
3.2.1. Thuận lợi ---------------------------------------------------------------------- 54
3.2.2. Khó khăn---------------------------------------------------------------------- 58
3.3. Những vấn đề chính Việt Nam cần giải quyết khi gia nhập ICC ----------------- 76
KẾT LUẬN ----------------------------------------------------------------------------------- 82
PHỤ LỤC ------------------------------------------------------------------------------------- 84
PHỤ LỤC 1 ----------------------------------------------------------------------------------- 85
PHỤ LỤC 2…………………………………………………………………….

86


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử thế giới ít có một giai đoạn nào mà nhân loại phải giải
quyết nhiều vấn đề mang tính toàn cầu như thế kỷ vừa qua. Việc thành lập
LHQ sau Chiến tranh thế giới thứ hai có một trong những nhiệm vụ quan

trọng là giữ gìn hòa bình, an ninh quốc tế luôn được đi kèm với việc tổ chức
các tòa án quốc tế để xét xử tội ác trong các cuộc chiến tranh. Từ những tòa
án Nuremberg và Tokyo sau Thế chiến lần thứ hai do các quốc gia thắng trận
lập lên, cũng như Tòa án ad hoc dành cho Nam Tư cũ và Rwanda do HĐBA
LHQ thành lập đều cho thấy quyết tâm của cộng đồng quốc tế đưa thủ phạm
gây những tội ác nói trên ra trước công lý.
Năm 1998, Quy chế Roma được ký kết thành lập Tòa án hình sự quốc tế
(ICC) để xét xử những cá nhân phạm các tội ác nghiêm trọng nhất đối với
cộng đồng quốc tế: Tội diệt chủng, tội ác chống nhân loại, tội ác chiến tranh
và tội xâm lược. Lần đầu tiên trong lịch sử, một tòa án hình sự quốc tế thường
trực được các quốc gia thành lập bằng một điều ước quốc tế, với vai trò bổ
sung cho hệ thống tư pháp quốc gia.
Việc nghiên cứu các vấn đề pháp luật quốc tế trong điều kiện hiện nay
nói chung, Quy chế Roma nói riêng đã được đề cập trong các văn kiện của
Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết số 48 – NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005
của Bộ Chính trị đã nhấn mạnh việc tiếp tục ký kết, gia nhập các tổ chức quốc
tế đặc biệt là các công ước quốc tế về chống khủng bố, tội phạm chống loài
người và các hiệp định tương trợ tư pháp, đồng thời đẩy mạnh việc rà soát,
sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật để phù hợp với các
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Mặt khác, việc gia nhập Quy chế Roma của Việt Nam cũng đặt ra hàng
loạt vấn đề pháp luật cần nghiên cứu. Có thể nhận thấy một số vấn đề như:


2

Thứ nhất, Quy chế Roma là một bộ văn bản pháp lý đa phương phức tạp, có
nhiều nội dung liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của pháp luật quốc gia,
đặc biệt là các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự. Do
vậy việc thực hiện Quy chế Roma đòi hỏi phải có sự nghiên cứu và phối hợp

điều chỉnh cần thiết của các cơ quan tư pháp trong nước. Thứ hai, các quy
định về tội phạm, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, quy tắc xét xử ở Việt
Nam, quy định về dẫn độ người Việt Nam cho Tòa án quốc tế xét xử và các
quy định khác nhau trong từng lĩnh vực hoạt động tư pháp có sự khác biệt khá
lớn so với Quy chế Roma. Do đó, nếu gia nhập Quy chế Roma thì cần thiết
phải nghiên cứu để có những điều chỉnh cần thiết các quy định của pháp luật
Việt Nam mới có thể thực thi hiệu quả nghĩa vụ thành viên của ICC. Thứ ba,
Chính phủ Hoa Kỳ có thực tiễn vận động nhiều quốc gia trên thế giới ký BIAs
(Hiệp định theo Điều 98) và cũng gây sức ép đối với các nước tham gia ICC.
Việc Việt Nam gia nhập ICC có thể sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển quan hệ
nhiều mặt Việt Nam – Hoa Kỳ.
Ngoài các lý do cần thiết nghiên cứu Quy chế Roma như đã nêu trên,
hiện nay thông tin và kiến thức về ICC của nhân dân Việt Nam nói chung, cán
bộ pháp luật nói riêng còn hạn chế. Do đó, việc tìm hiểu các quy định pháp lý
về ICC và việc gia nhập của Việt Nam vào ICC là một vấn đề cấp thiết.
Thông qua làm sáng tỏ các quy định về tổ chức và hoạt động, những vấn đề
pháp lý cơ bản, những lợi ích và hạn chế của việc gia nhập ICC, tác giả mong
muốn góp phần làm rõ thêm một số vấn đề pháp lý và việc gia nhập ICC của
Việt Nam trong tương lai.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong phạm vi quốc tế, đã có nhiều công trình, đề tài khoa học nghiên
cứu về vấn đề này, mỗi công trình, đề tài đều có một cách tiếp cận ở các góc
độ khác nhau. Có thể kể tên một số công trình khoa học như: Douglass Casel


3

“Tại sao chúng ta lại cần Tòa án hình sự quốc tế - Tòa án Liên hợp quốc xét
xử tội ác chống lại loài người”; Anna Rosen và Veronica Jormeus Gruner
“Các hiệp định theo Điều 98 - Hợp pháp hay không hợp pháp”; Ruth

Wedgwood “Các vấn đề đặt ra từ Hội nghị Roma”; Michael P. Scharf
“Quyền tài phán của Tòa án hình sự quốc tế đối với công dân của quốc gia
không phải là thành viên – Phê bình quan điểm của Hoa Kỳ” và nhiều công
trình nghiên cứu khác.
Trong phạm vi Việt Nam, việc nghiên cứu về Tòa án hình sự quốc tế mới
được tiến hành trong giới nghiên cứu pháp luật, trong thời gian gần đây với sự
tài trợ của các chuyên gia ICC và theo các dự án tài trợ quốc tế, một số Hội
thảo khoa học về vấn đề này đã được tiến hành. Bên cạnh đó, một số tài liệu,
bài viết tạp chí đề cập đến các khía cạnh pháp lý, tổ chức và hoạt động, những
thuận lợi và thách thức khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ICC
đã được đăng phát. Đáng chú ý nhất là công trình nghiên cứu “Những mâu
thuẫn xung quanh việc thành lập và hoạt động của Tòa án hình sự quốc tế”
của Bộ Ngoại giao năm 2001. Cho đến nay ở Việt Nam chưa có Luận án Tiến
sỹ hoặc Luận văn cao học luật nào lựa chọn đề tài này.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm đạt được các mục đích sau:
+ Làm rõ những vấn đề pháp lý cơ bản của ICC như: Tổ chức và hoạt
động, nguyên tắc hoạt động, bản chất pháp lý của Văn kiện thành lập, quyền
năng chủ thể và quan hệ với HĐBA và Tòa án quốc tế của LHQ.
+ Đánh giá sự cần thiết gia nhập ICC của Việt Nam trong tình hình hiện
nay và hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam có liên quan, đặc biệt là
vấn đề đảm bảo yêu cầu tuân thủ Quy chế Roma.


4

+ Đề xuất phương hướng để hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt
Nam trong lĩnh vực pháp luật liên quan cho phù hợp với các quy định của
ICC và đường lối đối ngoại với Hoa Kỳ nếu Việt Nam gia nhập ICC.

3.2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề pháp lý cơ bản về
ICC và việc gia nhập ICC của Việt Nam.
Luận văn không có tham vọng và không thể nghiên cứu làm rõ tất cả các
vấn đề pháp lý về ICC mà chỉ tập trung nghiên cứu làm rõ cơ cấu tổ chức và
hoạt động của ICC dựa trên các quy định của phần thứ I, II, III và IV của Quy
chế Roma; cố gắng thiết lập quan hệ so sánh chúng với các quy định liên quan
của pháp luật Việt Nam hiện hành; qua đó đưa ra những vấn đề mà pháp luật
Việt Nam cần điều chỉnh để thực thi có hiệu quả nghĩa vụ thành viên ICC nếu
Việt Nam tham gia Quy chế Roma. Luận văn cũng cố gắng phân tích và làm
rõ mối quan hệ giữa ICC và HĐBA, Tòa án quốc tế của LHQ trong giải quyết
cùng một vấn đề thuộc lĩnh vực trừng trị những cá nhân gây tội ác đối với hòa
bình, chống nhân loại. Luận văn không đặt ra và không thể nghiên cứu các
vấn đề khác liên quan trực tiếp đến hoạt động tác nghiệp của ICC. Các quan
điểm và thái độ cụ thể của các nước thuộc EU và các nước ủng hộ Hoa Kỳ sẽ
được đề cập trong một mức độ cần thiết để hiểu rõ hơn nội dung của vấn đề
chính trong Luận văn này.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận thực hiện đề tài Luận văn là phép duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Tác giả của Luận văn dựa vào đó để tìm ra mối liên
hệ biện chứng giữa các hiện tượng của pháp luật quốc tế hiện đại, đánh giá
các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài Luận văn.
Bên cạnh đó, để có được kết quả cụ thể và chính xác trong từng nội dung
cụ thể của Luận văn, các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng


5

hợp và so sánh được áp dụng. Một trong những mục tiêu của Luận văn là tìm
hiểu, phân tích làm rõ những vấn đề pháp lý cơ bản về ICC và so sánh chúng

với các quy định trong các văn bản pháp luật có liên quan của Việt Nam. Do
vậy, phương pháp so sánh sẽ được chú ý áp dụng nhằm tìm ra những điểm
giống nhau và khác nhau, phù hợp hay không phù hợp, hỗ trợ cho việc bình
luận khoa học những vấn đề mà pháp luật Việt Nam cần phải cân nhắc sửa
đổi, bổ sung nếu Việt Nam gia nhập ICC. Ngoài ra, phương pháp này cũng
được ưu tiên áp dụng để có một cách nhìn nhận lo - gic về vấn đề pháp lý của
ICC thông qua phân tích, so sánh quá trình tổ chức và hoạt động, bản chất
pháp lý, quyền năng chủ thể trong mối quan hệ giữa ICC với HĐBA LHQ.
Phương pháp diễn giải và tổng hợp được ưu tiên sử dụng để làm rõ mức độ
ảnh hưởng của các quy định của ICC đối với thực tiễn và đưa ra các giải pháp
nhằm điều chỉnh pháp luật Việt Nam có liên quan để đáp ứng việc thực thi
các nghĩa vụ thành viên của ICC nếu Việt Nam gia nhập ICC.
5. Cơ cấu của Luận văn
Luận văn được kết cấu thành các phần như sau:
 LỜI NÓI ĐẦU
 CHƢƠNG 1: TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ
 CHƢƠNG 2: TÒA ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ - CHỦ THỂ ĐẶC BIỆT CỦA LUẬT
QUỐC TẾ
 CHƢƠNG 3: THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN ĐỐI VỚI VIỆT NAM KHI GIA NHẬP
QUY CHẾ ROMA VỀ TÒA ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ
 KẾT LUẬN
 PHỤ LỤC
 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


6

CHƢƠNG 1
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của ICC

1.1.1. Giai đoạn trƣớc Hội nghị ngoại giao 1998 thành lập ICC
Khi Chiến tranh thế giới hai kết thúc, năm 1945 “Thỏa thuận London”
thiết lập Tòa án quốc tế dưới tên gọi Tòa án Nuremberg nhằm xét xử các
thành viên của Đức Quốc xã và đến năm 1946 quân đồng minh phê chuẩn
Hiến chương thiết lập Tòa án Tokyo xét xử tội phạm chiến tranh quốc tế cho
vùng Viễn Đông nhằm truy tố tội phạm chiến tranh người Nhật [69], sự phát
triển của ý tưởng thành lập tòa án quốc tế để giải quyết vấn đề tội ác chống lại
con người đã được thúc đẩy xuất phát từ những hành động mà Đức Quốc xã
và Nhật Bản đã gây ra. Những tòa án đó chứng tỏ rằng cấu trúc pháp luật
quốc tế đang tồn tại lúc đó không có cơ quan thường trực theo đúng nghĩa hay
không có cơ quan tòa án có thẩm quyền để xét xử loại tội phạm này [15, tr.
83].
Năm 1947, Hiệp định của Đại hội đồng LHQ về ngăn ngừa và trừng trị
tội phạm diệt chủng đã được thông qua. Trong một Nghị quyết tương tự, Đại
hội đồng LHQ yêu cầu Hội đồng Luật gia quốc tế “nghiên cứu nguyện vọng
và khả năng thành lập một cơ quan tòa án để xét xử những cá nhân liên quan
đến tội diệt chủng” [69]. Năm 1949 – 1954, ủy ban Pháp luật quốc tế (ILC –
International Law Commission) đã chuẩn bị một số dự thảo quy chế cho ICC
theo yêu cầu của Đại hội đồng LHQ, nhưng sự khác biệt về ý kiến đã ngăn
không cho dự án này tiến xa hơn [15, tr. 84].
Năm 1989, nhằm đáp lại yêu cầu của Trinidad and Tobago, Đại hội đồng
LHQ đã yêu cầu ủy ban Pháp luật quốc tế tiếp tục việc thiết lập Tòa án quốc
tế đồng thời có thẩm quyền xét xử tội phạm buôn bán ma túy [69].


7

Năm 1993, HĐBA LHQ đã thiết lập Tòa án quốc tế đặc biệt dành cho
cựu nhân viên của Chính quyền Nam Tư cũ, nhằm luận tội các cá nhân có liên
quan đến các hành động tàn bạo đã thực hiện được biết đến như là một phần

của cuộc “thanh lọc sắc tộc” [69].
Năm 1994, Đại hội đồng LHQ quyết định theo đuổi việc thành lập một
tòa án hình sự quốc tế và lấy dự thảo quy chế Tòa án hình sự quốc tế của ủy
ban Pháp luật quốc tế làm tài liệu cơ sở [32]. Đại hội đồng LHQ đã quyết định
thành lập ủy ban ad hoc (ad hoc Committee) để xem xét các vấn đề liên quan
đến ICC [22, tr. 12-13]. Các cuộc thảo luận tại ủy ban ad hoc về dự thảo Quy
chế ICC cho thấy những khác biệt sâu sắc trong quan điểm của các quốc gia
về mô hình tòa án tương lai. Dự thảo của ủy ban Pháp luật quốc tế đã dựng
lên một tòa án gần giống với các Tòa án hình sự ad hoc ICTY và ICTR.
Trong khuôn khổ thảo luận của ủy ban ad hoc, một khái niệm mới Nguyên
tắc bổ sung được đưa ra, theo đó ICC chỉ có quyền tài phán khi các tòa án
quốc gia không muốn, hoặc không thể truy tố kẻ phạm tội [45]. ủy ban ad hoc
cũng khẳng định các quyền tài phán của ICC cần phải được định nghĩa chi
tiết, chứ không chỉ nêu tên như trong dự thảo của ủy ban Pháp luật quốc tế
[45]. ủy ban ad hoc không muốn để nội dung dự thảo Quy chế của ICC lệ
thuộc vào kết quả của ủy ban Pháp luật quốc tế, do đó đã cố gắng đưa vào dự
thảo Quy chế ICC những quy định chi tiết về các tội phạm, cũng như các
nguyên tắc chung của pháp luật và các nội dung thực chất khác. ủy ban ad
hoc đã kết luận rằng tòa án mới cần tuân theo những nguyên tắc và quy định
có thể đảm bảo những chuẩn mực công lý cao nhất và những vấn đề này cần
được thể hiện đầy đủ trong Quy chế [42, page. 7].
Năm 1995, Đại hội đồng LHQ thành lập một ủy ban trù bị (Preparatory
Committee) với sự tham gia của các quốc gia thành viên LHQ, các tổ chức
quốc tế và các tổ chức phi chính phủ. Nhiệm vụ của ủy ban trù bị này là xây


8

dựng một văn bản pháp lý hoàn chỉnh, được chấp nhận rộng rãi, chuẩn bị cho
Hội nghị ngoại giao thông qua Quy chế ICC [22, tr. 14]. ủy ban trù bị đã họp

hai phiên trong năm 1996 đưa ra một báo cáo dày với những đề xuất sửa đổi
dự thảo của ủy ban Pháp luật quốc tế [47]. ủy ban trù bị cũng họp ba phiên
nữa trong năm 1997 và nhiều phiên họp không chính thức giữa các kỳ khác,
quan trọng nhất là phiên họp Zutphen tại Hà Lan vào tháng 01 năm 1998. Dự
thảo Quy chế ICC được thông qua tại Zutphen đã kết hợp được các ý kiến
khác nhau vào một văn bản tương đối hoàn chỉnh [46]. Dự thảo này sau đó đã
được chỉnh sửa tại phiên họp cuối cùng của ủy ban trù bị để trình lên Hội nghị
ngoại giao các Đại diện toàn quyền của các quốc gia [47]. Hầu hết các điều
khoản trong bản dự thảo cuối cùng đều có nhiều phương án lựa chọn khác
nhau, thể hiện kết quả của một quá trình đàm phán căng thẳng với nhiều ý
kiến bất đồng [25, page. 379]. Một số vấn đề quan trọng như nguyên tắc bổ
sung đã được giải quyết gần xong trong các cuộc thảo luận của ủy ban trù bị.
Thách thức đặt ra cho các đại biểu Hội nghị ngoại giao là phải làm sao ghi
nhận được kết quả này. Những vấn đề khác, chẳng hạn như hình phạt tử hình
đã được các quốc gia cố tình né tránh trong các phiên thảo luận của ủy ban trù
bị và đã đi đến bế tắc trong các cuộc đàm phán cuối cùng.
1.1.2. Giai đoạn từ Hội nghị ngoại giao 1998 thành lập ICC đến nay
Ngày 15 tháng 6 năm 1998, Hội nghị ngoại giao về thành lập Tòa án
hình sự quốc tế (ICC - International Criminal Court) đã được khai mạc tại
Roma (Italy). Hơn 160 quốc gia đã cử đại biểu tham gia Hội nghị, cùng với sự
có mặt của đại diện nhiều tổ chức quốc tế và hơn 100 tổ chức phi chính phủ.
Tất cả các đoàn đại biểu đều bày tỏ sự ủng hộ việc thành lập một tòa án hình
sự quốc tế thường trực, chuyên xét xử và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
các cá nhân phạm các tội ác nghiêm trọng theo pháp luật quốc tế [56, tr. 15].


9

Hội nghị ngoại giao năm 1998 nhằm hoàn chỉnh thông qua dự thảo Quy
chế ICC. Các nhóm làm việc chịu trách nhiệm về từng cụm vấn đề nội dung

trong dự thảo Quy chế được thành lập. Lần lượt các quy định của Quy chế
được các nhóm làm việc thông qua với sự nhất trí chung. Tuy nhiên, các quốc
gia hầu như không tìm được tiếng nói chung về những vấn đề quan trọng
thuộc trách nhiệm của ủy ban toàn thể, như quyền tài phán của ICC đối với
công dân của quốc gia không thành viên, cơ chế khởi kiện, danh mục tội
phạm. Điều đó khiến cho dự thảo Quy chế dường như khó có thể đạt được sự
ủng hộ của 2/3 các quốc gia tham dự Hội nghị trong trường hợp phải biểu
quyết [56, page. 15].
Ngày 17 tháng 7 năm 1998 là ngày cuối cùng của Hội nghị, ủy ban toàn
thể đưa ra một bản dự thảo như là một “Thỏa hiệp cả gói” (Package deal).
Nhiều nước đã bày tỏ sự ủng hộ đối với dự thảo cả gói này và phản đối bất kỳ
cố gắng nào nhằm thay đổi hoặc điều chỉnh nó, vì quan ngại rằng điều đó có
thể làm hỏng toàn bộ kết quả thỏa hiệp [56, page. 15]. Phái đoàn Hoa Kỳ đã
cố gắng tập hợp các nước có cùng quan điểm phản đối việc thông qua bản dự
thảo cả gói này, nhưng đã không thành công. Cuối cùng, dự thảo được thông
qua với 120 phiếu thuận, 21 phiếu trắng và 07 phiếu chống [59]. Hoa Kỳ,
Israen và Trung Quốc đã bày tỏ quan điểm phản đối [58].
Ngoài việc thông qua Quy chế Roma, Hội nghị ngoại giao cũng thông
qua Văn kiện cuối cùng quyết định thành lập một ủy ban trù bị để soạn thảo
các văn bản phụ trợ phục vụ cho việc thành lập và hoạt động của Tòa án [49].
Cho đến nay, những văn bản này đều đã được thông qua, gồm Quy tắc và thủ
tục chứng cứ (Rules of Procedure and Evidence), Các yếu tố cấu thành tội
phạm (Elements of Crimes), Hiệp định ưu đãi miễn trừ của ICC (Agreement
on the Priviledges and Immunities of the International Criminal Court) [40].


10

Quy chế Roma cần có 60 quốc gia phê chuẩn để có hiệu lực. Thời điểm
có hiệu lực sẽ rất quan trọng vì ICC không thể truy tố những tội phạm xảy ra

trước thời điểm đó. Đây là thời điểm để tiến hành các bước cụ thể cho việc
thành lập Tòa án, như bầu các Thẩm phán và Trưởng Công tố [22, tr. 16].
Sau khi Quy chế Roma được thông qua, EU và các tổ chức phi chính phủ
đã ráo riết vận động các nước sớm ký và phê chuẩn Quy chế này. Đến cuối
năm 2000, đã có 139 quốc gia ký Quy chế [34]. Ngay cả các quốc gia đã bỏ
phiếu chống tại Hội nghị Roma, như Hoa Kỳ và Israen, cuối cùng cũng ký
Quy chế Roma. Trong số các nước ASEAN, Thái Lan, Lào, Cambodia và
Philippin đã ký Quy chế. Những quốc gia chưa ký Quy chế này trước thời hạn
31 tháng 12 năm 2000 cũng được vận động gia nhập Quy chế.
Senegal là quốc gia đầu tiên phê chuẩn Quy chế Roma vào ngày 02
tháng 02 năm 1999, tiếp đó là Trinidat and Tobago. Trong vòng hai năm kể từ
khi thông qua, Quy chế đã có 14 quốc gia phê chuẩn, tính đến ngày 31 tháng
12 năm 2000 là thời điểm hết thời hạn ký, Quy chế Roma đã có 27 quốc gia
thành viên. Năm 2001, con số này lên đến 37 [72]. Thời hạn từ lúc ký Quy
chế Roma đến lúc phê chuẩn ở mỗi quốc gia đều khá dài. Lý do chủ yếu liên
quan đến thực tế sau khi ký, các quốc gia đều phải sửa đổi hoặc ban hành nội
luật để có thể thực hiện các nghĩa vụ được quy định trong Quy chế Roma.
Ngoài ra, do ICC chỉ thực hiện quyền tài phán theo nguyên tắc bổ sung, nên
các quốc gia cần đưa vào pháp luật của mình những quy định để thực hiện
trách nhiệm truy tố những người bị tình nghi phạm tội có mặt trên lãnh thổ
nước mình, ban hành định nghĩa về các tội diệt chủng, tội ác chống nhân loại,
tội ác chiến tranh như được quy định trong Quy chế Roma để hướng dẫn các
tòa án quốc gia thực hiện quyền tài phán đối với những tội này [57, page.
157]. Tính đến ngày 21 tháng 7 năm 2009, Quy chế Roma đã có 110 quốc gia
thành viên (Mexico nộp Văn kiện phê chuẩn vào ngày 28 tháng 10 năm 2005,
trở thành quốc gia thành viên thứ 100 của Quy chế Roma) [72].


11


Tháng 8 năm 2002 cuộc họp đầu tiên của Hội đồng quốc gia thành viên
thông qua ngân sách 30 triệu Euro cho giai đoạn đầu của ICC và thông qua
một loạt các Văn kiện bao gồm “Luật về thủ tục chứng cứ” và “Yếu tố cấu
thành tội phạm”. Ngoài ra, Giám đốc phụ trách đơn vị Common Servies được
chỉ định trở thành quan chức đầu tiên của ICC chịu trách nhiệm về các vấn đề
pháp lý cho ICC hoạt động, đồng thời chính thức tiếp quản nhiệm vụ của
nhóm chuyên gia. Ngày 03 - 07 tháng 10 năm 2002 là giai đoạn bỏ phiếu bầu
18 Thẩm phán [69].
Ngày 11 tháng 4 năm 2003 chính thức thành lập ICC tại Hague và các
Thẩm phán tuyên thệ trước sự hiện diện của Chủ tịch Hội đồng quốc gia
thành viên. Tham dự buổi lễ có Nữ Hoàng Beatrix của Vương quốc Hà Lan
với vai trò là người đứng đầu nước chủ nhà và Tổng thư ký LHQ Kofi Annan
[69].
Ngày 21 - 23 tháng 4 năm 2003, giai đoạn II của Hội đồng quốc gia
thành viên. Ông Luis Moreno – Ocampo người Argentina được bầu làm ủy
viên Công tố. Ngày 24 tháng 6 năm 2003, ông Bruno Cathala người Pháp
được bầu làm Thư ký đầu tiên của ICC với đa số phiếu của các Thẩm phán
trong phiên họp toàn thể. Ngày 01 tháng 7 năm 2003, ICC kỷ niệm một năm
thi hành Đạo luật Roma. Ngày 03 tháng 7 năm 2003, ông Serge Brammertz
người Belgium đã tuyên thệ nhậm chức Phó ủy viên Công tố [69].
Ngày 20 - 22 tháng 4 năm 2004, buổi họp đầu tiên của Hội đồng quản trị
qũy Trust fund for Victims tại ICC. Ngày 25 tháng 6 năm 2004, thành lập ủy
ban tiền xét xử của ICC. Ngày 01 tháng 11 năm 2004, bà Fatou Bensouda
người Gambia tuyên thệ nhậm chức Phó ủy viên Công tố của ICC [69].
Ngày 10 tháng 3 năm 2006, 6 Thẩm phán tuyên thệ nhậm chức trong
một phiên họp mở rộng. Ngày 17 tháng 01 năm 2008, 3 Thẩm phán mới được
bầu bởi Hội đồng quốc gia thành viên vào cuối năm 2007 đã tuyên thệ nhậm
chức là Judge Daniel David Ntanda Nsereko người Uganda, Judge Fumiko



12

Saiga người Nhật Bản và Judge Bruno Cotte người Pháp. Ngày 29 tháng 02
năm 2008, các Thẩm phán gặp nhau trong buổi họp toàn thể và bầu bà Silvana
Arbia người Italy là Thư ký của ICC trong nhiệm kỳ 5 năm. Ngày 17 tháng 4
năm 2008, bà Silvana Arbia tuyên thệ nhậm chức Thư ký ICC. Ngày 09 tháng
9 năm 2008, các Thẩm phán của ICC họp phiên họp toàn thể đã bầu bà Didier
Preira người Senegal làm Phó Reigistrar cho nhiệm kỳ 5 năm [69].
Ngày 19 tháng 01 năm 2009, diễn ra kỳ họp thứ VII của Hội đồng quốc
gia thành viên, Hội đồng bầu 6 Thẩm phán mới thay thế nhiệm kỳ của người
tiền nhiệm. Ngày 26 tháng 01 năm 2009, ICC mở phiên xét xử đầu tiên, vụ
Thomas Lubanga Dyilo. Ngày 11 tháng 3 năm 2009, Hội đồng quốc gia thành
viên bầu 5 trong 6 Thẩm phán của ICC trong tháng 01 năm 2009 cho nhiệm
kỳ 9 năm và nhậm chức trong buổi lễ trọng thể tại ICC. Bao gồm: Judge
Fumiko Saiga người Nhật Bản, Judge Joyce Aluoch người Kenya, Judge
Sanji Mmasenono Monageng người Botswana, Judge Christine van den
Wyngaert người Belgium và Judge Cuno Tarfusser người Italy. Ông
Mohamed Shahabuddeen người Guyana được bầu tháng 01 năm 2009 đã từ
chức vào ngày 16 tháng 02 năm 2009. Ngày 16 tháng 3 năm 2009, các Thẩm
phán ICC bầu Chủ tịch Judge mới là ông Sang – Hyun Song người Hàn Quốc.
Ông Judge Fatoumata Dembele Diarra người Mali và ông Hans – Peter Kaul
người Germany lần lượt là Phó Chủ tịch thứ nhất và Phó Chủ tịch thứ hai
[69].
1.1.3. Một số vấn đề mới trong quy chế thành viên ICC
Về cơ bản, ICC là sự kế thừa và phát triển của các tòa án quốc tế trước
đó. Nó tiếp nhận những nguyên tắc pháp lý cơ bản được áp dụng trong các tòa
án trước, bộ máy tổ chức được xây dựng dựa vào khuôn mẫu của những cơ
quan tư pháp đó. So với 5 Tòa án quốc tế trước đó, trong đó có 4 Tòa án hình
sự, ICC có nét khác biệt cả về nội dung lẫn hình thức.



13

- Thứ nhất, so với ICJ. Về quyền tài phán, ICJ có thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp pháp lý giữa các quốc gia, hoặc đưa ra những ý kiến tư vấn về
các vấn đề pháp lý mà Đại hội đồng, HĐBA cũng như các cơ quan khác của
LHQ yêu cầu. ICC có thẩm quyền truy tố, xét xử các cá nhân phạm các tội ác
quốc tế nghiêm trọng nhất (tội diệt chủng, tội chống nhân loại, tội ác chiến
tranh và tội xâm lược). Về hình thức tổ chức, ICJ là cơ quan trực thuộc LHQ
và các thành viên LHQ đương nhiên là thành viên Quy chế này. Trong khi đó,
ICC không phải là cơ quan của LHQ. Nó có mối quan hệ độc lập tương đối
với LHQ. Để trở thành thành viên của Quy chế Roma, các quốc gia phải ký,
phê chuẩn hoặc gia nhập.
- Thứ hai, so với 4 tòa án hình sự quốc tế trước đó là Tòa án Nurember,
Tokyo, ICTY và ICTR, ICC có tính đại diện rộng rãi hơn và là một cơ quan
tư pháp quốc tế thường trực, hoạt động độc lập. Tính đại diện rộng rãi thể
hiện ở thực tế 110 quốc gia là thành viên của ICC, trong khi hai Tòa án
Nuremberg và Tokyo do các nước đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế
giới hai thiết lập, hai Tòa án ICTY và ICTR do HĐBA LHQ thành lập.
- Thứ ba, tính thường trực và khả năng hoạt động độc lập của ICC theo
quy định của một điều ước quốc tế được các quốc gia thành viên cam kết tôn
trọng. ICC cũng độc lập với các thể chế quốc tế đa phương hiện hành (như
LHQ và các tổ chức liên chính phủ khác), không như các Tòa án Nuremberg
và Tokyo bị coi là “Công lý của kẻ thắng trận” và hai Tòa án ICTY và ICTR
trực thuộc HĐBA LHQ. ICC có đội ngũ Thẩm phán, Công tố, nhân viên
chuyên nghiệp và thường trực do Hội đồng quốc gia thành viên bầu ra, làm
việc theo các điều kiện và quy định chi tiết của ICC. Điều này sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho các thủ tục tố tụng được tiến hành đúng hạn, theo những trình tự
nhất quán và các phán quyết của ICC sẽ có tính pháp lý khách quan hơn.
- Thứ tư, theo Quy chế của ICTY và ICTR, các Tòa án này có thẩm

quyền ưu tiên hơn tòa án quốc gia [19 - 20]. ICC không phải là cơ quan tư


14

pháp quốc tế đứng trên các cơ quan tư pháp quốc gia. Nguyên tắc hoạt động
cơ bản của ICC là chỉ đóng vai trò bổ sung, hỗ trợ cho tòa án quốc gia. ICC
chỉ thực hiện thẩm quyền của mình khi các tòa án quốc gia thành viên không
muốn, hoặc không thể điều tra truy tố tội phạm một cách thật sự.
Ngoài ra, Quy chế Roma phát triển hơn các quy chế của các tòa án hình
sự quốc tế trước đó, liên quan đến quy định về tội phạm, nguyên tắc của luật
hình sự được áp dụng, cơ cấu tổ chức, trách nhiệm quyền hạn của Công tố
viên, vai trò của HĐBA LHQ và vấn đề hợp tác trong hoạt động của ICC.
Điều này phản ánh sự phát triển của pháp luật hình sự quốc tế cũng như kết
quả pháp điển hóa trong lĩnh vực Luật quốc tế về nhân đạo và quyền con
người.
1.2. Cơ cấu tổ chức của ICC
Theo quy định tại Điều 34 Quy chế Roma, ICC gồm các cơ quan sau:
Đoàn Chủ tịch, các Tòa của ICC, Văn phòng Công tố và Văn phòng Lục sự.
1.2.1. Đoàn Chủ tịch (The Presidency)
Đoàn Chủ tịch gồm Chánh án, Phó Chánh án thứ nhất và Phó Chánh án
thứ hai, do 18 Thẩm phán bầu bằng đa số tuyệt đối và nhiệm kỳ của Đoàn
Chủ tịch là 3 năm hoặc cho đến khi kết thúc nhiệm kỳ Thẩm phán của mình
trong trường hợp nhiệm kỳ này kết thúc sớm hơn và họ có thể được tái bầu
một nhiệm kỳ nữa. Phó Chánh án thứ nhất sẽ thay Chánh án trong trường hợp
Chánh án vắng mặt hoặc không đủ tư cách. Phó Chánh án thứ hai sẽ thay
Chánh án trong trường hợp cả Chánh án và Phó Chánh án thứ nhất vắng mặt
hoặc không đủ tư cách. Đoàn Chủ tịch chịu trách nhiệm quản lý ICC trừ Văn
phòng Công tố. Tuy nhiên, Đoàn Chủ tịch sẽ phối hợp và thống nhất ý kiến
với Văn phòng Công tố về những vấn đề mà cả hai bên cùng quan tâm.

1.2.2. Các Tòa của ICC (Chambers)
Ngay sau khi bầu Thẩm phán, Tòa án sẽ lập các Tòa Dự thẩm, Tòa Sơ
thẩm và Tòa Phúc thẩm cũng như các bộ phận tương ứng trong từng Tòa.
Chức năng tư pháp cụ thể của ICC sẽ do các Tòa này đảm nhiệm. Tòa Dự


15

thẩm gồm Phó Chánh án thứ nhất và 6 Thẩm phán khác, Tòa Sơ thẩm gồm
Phó Chánh án thứ hai và 5 Thẩm phán khác, Tòa Phúc thẩm gồm Chánh án và
4 Thẩm phán khác. Việc bổ nhiệm Thẩm phán cho các Tòa sẽ căn cứ vào tính
chất công việc của mỗi Tòa và phẩm chất cũng như kinh nghiệm của các
Thẩm phán.
+ Tòa Dự thẩm (Pre – Treal Chamber)
Chức năng chính của Tòa Dự thẩm là xác nhận hoặc từ chối cho phép
tiến hành điều tra vụ việc và đưa ra quyết định sơ bộ trong việc xác định vụ
việc có thuộc quyền tài phán của ICC hay không. Phiên tòa Dự thẩm có thể
gồm 1 Thẩm phán hoặc một Hội đồng 3 Thẩm phán trong số các Thẩm phán
thuộc Tòa Dự thẩm (Điều 39. 2 (b) (iii) Quy chế Roma). Tòa Dự thẩm cũng
có thể xem xét lại quyết định mà không cần Trưởng Công tố tiến hành điều
tra vụ việc cho dù việc điều tra đó là do Trưởng Công tố tự đề xuất hay theo
đề nghị của quốc gia đã thông báo vụ việc cho Tòa án theo Điều 14 Quy chế
Roma hoặc theo đề nghị của HĐBA LHQ theo Điều 13 (b) của Quy chế
Roma. Tòa Dự thẩm cũng có thể ban bố lệnh bắt và triệu tập đến Tòa án theo
đề nghị của Trưởng Công tố, ra nghị quyết về quyền lợi của các bên trong vụ
kiện nếu cần thiết, quy định việc bảo vệ nạn nhân và nhân chứng, bảo quản
chứng cứ, bảo vệ người bị bắt giữ hoặc phải trình diện theo lệnh triệu tập và
bảo vệ thông tin liên quan đến an ninh quốc gia.
+ Tòa Sơ thẩm (Tr ial Chamber)
Chức năng chính của Tòa Sơ thẩm theo quy định tại Điều 64 Quy chế

Roma là thực hiện quyền xét xử công bằng, nhanh chóng, tôn trọng đầy đủ
quyền lợi của bị cáo đồng thời bảo vệ được nạn nhân và nhân chứng. Các
Thẩm phán thuộc Tòa Sơ thẩm sẽ thực hiện việc xét xử. Theo Điều 39.2 (b)
(ii) Quy chế Roma, phiên tòa xét xử sẽ được tiến hành với Hội đồng xét xử
gồm 3 Thẩm phán. Tòa Sơ thẩm sẽ quyết định bị cáo có tội hay vô tội và
quyết định hình phạt trong trường hợp bị cáo có tội. Tòa Sơ thẩm cũng có thể
ra lệnh cho người bị kết án trả tiền bồi thường cho nạn nhân (Điều 75.2).


16

+ Tòa Phúc thẩm (Appeals Chamber)
Chức năng chính của Tòa Phúc thẩm là xem xét lại quyết định, phán
quyết hoặc bản án của các Tòa Sơ thẩm và Dự thẩm. Phiên tòa Phúc thẩm
gồm toàn bộ các Thẩm phán thuộc Tòa Phúc thẩm (Điều 39.2 (b) (i)). Tòa
Phúc thẩm có thể quyết định hủy bỏ hay sửa đổi quyết định, phán quyết, bản
án hoặc ra lệnh xét xử lại.
+ Hội đồng quốc gia thành viên (The Assembly of States Parties)
Hội đồng quốc gia thành viên là cơ quan giám sát và lập pháp của ICC.
Hội đồng quốc gia thành viên gồm đại diện của các quốc gia đã phê chuẩn
hoặc gia nhập Quy chế Roma. Mỗi quốc gia thành viên có một đại diện do
người đứng đầu Nhà nước, Chính phủ hoặc Bộ trưởng Bộ Ngoại giao cử. Hội
đồng quốc gia thành viên có Văn phòng gồm 1 Chủ tịch, 2 Phó Chủ tịch và 18
thành viên được Hội đồng bầu với nhiệm kỳ 3 năm, có tính đến nguyên tắc
công bằng về địa lý và đại diện cho đầy đủ các hệ thống pháp luật cơ bản trên
thế giới. Văn phòng có nhiệm vụ hỗ trợ cho Hội đồng quốc gia thành viên
hoàn thành trách nhiệm của mình. Hội đồng quốc gia thành viên cũng có thể
thành lập các cơ quan bổ trợ bao gồm một cơ chế giám sát độc lập để thanh
tra, đánh giá, điều tra giúp các Tòa nhằm nâng cao tính hiệu quả và kinh tế
trong hoạt động của Tòa án. Tại phiên họp thứ hai vào tháng 9 năm 2003, Hội

đồng quốc gia thành viên đã quyết định thành lập Ban Thư ký thường trực.
Hội đồng quốc gia thành viên chịu trách nhiệm quyết định nhiều vấn đề,
bao gồm việc thông qua các văn bản có tính quy phạm, ngân sách, số lượng
Thẩm phán, bầu cử Thẩm phán, Trưởng Công tố và các Phó Công tố. Hội
đồng họp tại trụ sở Tòa án hoặc trụ sở của LHQ 1 lần/ năm và nếu cần thiết có
thể triệu tập các phiên họp đặc biệt.
1.2.3. Văn phòng Công tố (The office of the Prosecutor)
Văn phòng Công tố hoạt động độc lập và là một cơ quan tách biệt của
ICC. Văn phòng Công tố chịu trách nhiệm nhận thông báo và thu thập thông
tin về các tội phạm thuộc quyền tài phán của ICC, tiến hành điều tra và truy tố


17

tội phạm (Điều 42). Văn phòng Công tố được đặt dưới sự lãnh đạo của
Trưởng Công tố (The Prosecutor). Trưởng Công tố có toàn quyền quản lý các
hoạt động của Văn phòng, kể cả nhân sự, thiết bị và các nguồn lực khác, với
sự giúp việc của một hoặc một số Phó Công tố và các cố vấn có kinh nghiệm
pháp luật về các vấn đề cụ thể. Trưởng Công tố và Phó Công tố làm việc theo
chế độ chuyên trách với nhiệm kỳ 9 năm và phải là những người không cùng
quốc tịch với nhau (Điều 42.2). Trưởng Công tố được Hội đồng quốc gia
thành viên bầu bằng cách bỏ phiếu kín theo đa số tuyệt đối. Phó Công tố cũng
được bầu theo thể thức tương tự từ danh sách các ứng cử viên do Trưởng
Công tố giới thiệu (Điều 42.4).
Theo yêu cầu của Quy chế Roma thì Trưởng Công tố và Phó Công tố
phải là người có có phẩm chất đạo đức cao, có năng lực và kinh nghiệm thực
tiễn sâu rộng trong lĩnh vực truy tố hoặc xét xử các vụ án hình sự. Trưởng
Công tố và Phó Công tố phải giỏi và thông thạo ít nhất một ngôn ngữ làm
việc của ICC, đồng thời Trưởng Công tố và Phó Công tố đều không được
tham gia các hoạt động có thể ảnh hưởng đến chức năng Công tố hoặc ảnh

hưởng đến sự tin cậy đối với tính độc lập của họ (Điều 42.5). Họ cũng không
được thực hiện bất kỳ hoạt động nghề nghiệp nào khác có tính chất chuyên
môn. Ngoài ra, Trưởng Công tố cũng như Phó Công tố không được tham dự
vào một vụ kiện nếu có căn cứ nghi ngờ tính khách quan của họ. Mọi vấn đề
liên quan đến bãi nhiệm và miễn nhiệm đối với Trưởng Công tố và Phó Công
tố sẽ do Tòa Phúc thẩm quyết định (Điều 42.8).
1.2.4. Văn phòng Lục sự (The Registry)
Văn phòng Lục sự chịu trách nhiệm về công việc hành chính không
mang tính tư pháp của ICC (Điều 4.1) như: Điều hành việc trợ giúp pháp lý,
quản lý Tòa án, các vấn đề liên quan đến nạn nhân và nhân chứng, Luật sư
bào chữa, bộ phận giam giữ, cung cấp các dịch vụ tài chính, dịch thuật, quản


18

lý xây dựng, mua sắm trang thiết bị và vấn đề nhân sự. Ngoài ra, Văn phòng
Lục sự cũng là nơi tiếp nhận và cung cấp thông tin, thiết lập các kênh liên lạc
với các quốc gia, các tổ chức liên chính phủ và phi chính phủ.
Đứng đầu Văn phòng Lục sự là Chánh Lục sự (The Registrar) được các
Thẩm phán bầu bằng cách bỏ phiếu kín theo đa số tuyệt đối trên cơ sở khuyến
nghị của Hội đồng quốc gia thành viên. Nếu cần thiết và trên cơ sở khuyến
nghị của Chánh Lục sự, các Thẩm phán sẽ bầu một Phó Lục sự theo thủ tục
tương tự. Chánh Lục sự làm việc với nhiệm kỳ 5 năm và có thể tái cử một
nhiệm kỳ (Điều 13.5).
1.2.5. Thẩm phán
ICC có 18 Thẩm phán làm việc theo chế độ chuyên trách (Full – Time).
Theo yêu cầu của Quy chế Roma, họ phải là những người có đạo đức cao,
công bằng, chính trực và có đầy đủ những phẩm chất cần thiết để có thể được
đề cử vào những vị trí cao nhất trong ngành tư pháp ở nước họ, ứng cử viên
cho vị trí Thẩm phán phải có khả năng trong lĩnh vực Luật hình sự và Luật tố

tụng hình sự cũng như kinh nghiệm cần thiết như một Thẩm phán, Công tố
viên, Luật sư biện hộ hoặc người có vị trí tương đương trong vụ kiện hình sự
hoặc phải có khả năng trong lĩnh vực Luật quốc tế phù hợp như Luật nhân đạo
quốc tế, Luật nhân quyền và có kinh nghiệm trong hoạt động pháp lý chuyên
môn phù hợp với công tác xét xử của Tòa án. Những ứng cử viên này phải có
kiến thức giỏi và sử dụng thông thạo ít nhất một ngôn ngữ làm việc của ICC.
Việc đề cử các ứng cử viên cho chức vụ Thẩm phán do các quốc gia
thành viên của ICC tiến hành. Mỗi quốc gia thành viên có thể đề cử một ứng
cử viên trong một kỳ bầu cử Thẩm phán (Điều 36.3), ứng cử viên đề cử không
nhất thiết phải là công dân của quốc gia đề cử, nhưng phải là công dân của
một quốc gia thành viên của Quy chế Roma (Điều 36.4). Việc bầu Thẩm phán
phải dựa trên nguyên tắc có sự đại diện của các hệ thống luật cơ bản trên thế
giới, các khu vực địa lý và sự cân bằng giới tính giữa tỷ lệ Thẩm phán. Không
được phép có 2 Thẩm phán đều là công dân của một quốc gia.


19

Hội đồng quốc gia thành viên sẽ bầu Thẩm phán bằng phiếu kín. Thẩm
phán được bầu là người đạt số phiếu cao nhất và phải đủ 2/3 số phiếu của đại
diện các quốc gia có mặt và bỏ phiếu. Nếu sau lần bỏ phiếu thứ nhất mà vẫn
chưa bầu đủ số Thẩm phán thì sẽ tiến hành bỏ phiếu tiếp cho tới khi bầu đủ.
1/3 số Thẩm phán trúng cử sẽ làm việc với nhiệm kỳ 3 năm, 1/3 làm việc với
nhiệm kỳ 6 năm và số còn lại làm việc với nhiệm kỳ 3 năm có thể tái cử một
nhiệm kỳ đầy đủ. Số lượng Thẩm phán có thể được tăng lên tùy thuộc vào
khối lượng công việc của ICC.
1.3. Nguyên tắc hoạt động của ICC
+ Nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia thành viên
Sự bình đẳng giữa các quốc gia thành viên thể hiện trước hết ở quy định
về lá phiếu. Mỗi quốc gia thành viên đều có một lá phiếu, các vấn đề thủ tục

được quyết định với đa số thường, các quyết định nội dung được quyết định
với đa số 2/3 (Điều 112.7 Quy chế Roma).
Sự bình đẳng giữa các quốc gia thành viên còn được thể hiện ở các quy
định về bầu cử Thẩm phán. Thẩm phán do Hội đồng quốc gia hành viên bầu,
trúng cử sẽ là người có số phiếu cao nhất và có ít nhất 2/3 số thành viên có
mặt và bỏ phiếu ủng hộ (Điều 36.6 Quy chế Roma). Trong việc bầu Thẩm
phán cũng như khi Hội đồng quốc gia thành viên xem xét và ra quyết định,
không thể tránh khỏi những cuộc vận động chính trị, trong đó các nước lớn có
nhiều lợi thế hơn trong việc thể hiện lời nói của mình. Nhưng Quy chế Roma
không dành cho HĐBA khả năng can thiệp vào quá trình bầu cử Thẩm phán
của ICC, như trường hợp liên quan đến các Tòa án hình sự ad hoc. Theo Quy
chế ICTY và ICTR, HĐBA dựa trên cơ sở danh sách đề cử của các nước sẽ
thiết lập danh sách ứng cử viên (28 đến 42 người đối với ICTY; 22 đến 33
người đối với ICTR) rồi chuyển cho HĐBA LHQ để tiến hành bầu [19 - 20].
Cuối cùng, việc giải quyết tranh chấp liên quan đến giải thích, áp dụng
Quy chế Roma, cũng như kết luận về việc quốc gia không hợp tác sẽ được
giải quyết chủ yếu tại Hội đồng quốc gia thành viên (Điều 119, 87 Quy chế


20

Roma). Không giống với các Tòa án hình sự ad hoc, ICC sẽ chỉ yêu cầu
HĐBA can thiệp nhằm buộc các quốc gia thành viên hợp tác khi vụ việc do
HĐBA đề nghị xét xử. HĐBA sẽ không giữ vai trò “bảo trợ” cho hoạt động
của ICC. Điều này cũng phần nào tránh bất bình đẳng giữa các quốc gia thành
viên ICC nói chung và các quốc gia thành viên là ủy viên HĐBA LHQ.
+ Nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa quyền và nghĩa vụ
Sự kết hợp hài hòa giữa quyền và nghĩa vụ thể hiện ở hầu như toàn bộ
Quy chế Roma và là kết quả dung hòa lợi ích giữa nhiều nhóm khác nhau tại
Hội nghị Roma. Các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia thành viên đều

không bị tuyệt đối hóa. Quốc gia có một số quyền đi kèm với nghĩa vụ, nhưng
cũng có cách né tránh thực hiện nghĩa vụ này. Ví dụ, quốc gia có quyền ưu
tiên giữ vụ việc lại để điều tra, xét xử nhưng có nghĩa vụ điều tra, xét xử công
bằng, không bỏ lọt tội phạm. Quy chế Roma quy định một số điểm về thủ tục
chuyển giao người (ngôn ngữ, cách thức yêu cầu), nhưng các thủ tục liên
quan đến chuyển giao người phải tuân thủ luật pháp của quốc gia được yêu
cầu (Điều 89.1 Quy chế Roma). Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ hợp tác,
nhưng cũng có quyền từ chối hợp tác khi việc thực hiện yêu cầu hợp tác ảnh
hưởng đến nghĩa vụ đối với bên thứ ba (quốc gia thành viên hoặc không phải
là thành viên của Quy chế Roma).
+ Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia của nƣớc không phải là
thành viên
Quy chế Roma chỉ công nhận một số quyền mà không tạo ra nghĩa vụ
cho các quốc gia không phải là thành viên của Quy chế. Các quốc gia không
phải là thành viên chỉ có nghĩa vụ hợp tác điều tra khi công nhận ad hoc
quyền tài phán của ICC. Nghĩa vụ theo Quy chế Roma, nếu có sẽ không cao
hơn nghĩa vụ theo các thỏa thuận quốc tế khác mà các quốc gia không phải là


×