Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (601.56 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ THỊ NHÀN

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
CỦA TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
CHUYÊN NGÀNH : LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN:
TS PHAN CHÍ HIẾU

HÀ NỘI - 2011


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn này, tác giả xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn
sự giúp đỡ quý báu của các thầy, cô giáo cũng như các bạn đồng nghiệp, đặc
biệt là sự giúp đỡ tận tình và chu đáo của Tiến sĩ Phan Chí Hiếu.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa sau
đại học của Trường, Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tác giả.
Tác giả luận văn


Lê Thị Nhàn


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
PLTTTM

: Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003

BLDS

: Bộ luật dân sự năm 2005

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự 2004

ICC

: Phòng Thương mại quốc tế

TTTM

: Trọng tài thương mại

UNCITRAL : Ủy ban của Liên hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế
VCCI

: Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam

VIAC


: Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam

WTO

: Tổ chức thương mại thế giới


MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU...…………………………………….………………...……...1
1.Tính cấp thiết của đề tài……………………………………………………..1
2.Tình hình nghiên cứu đề tài…………………………………………………3
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài…………………………………………….. 3
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài…………………3
5. Nhiệm vụ, mục đích của việc nghiên cứu đề tài…………………………....4
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn………………………………5
7. Cơ cấu của luận văn………………………………………………………..5
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI…………...6
1.1 Khái luận về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại..6
1.1.1 Trọng tài thương mại - một phương thức giải quyết tranh chấp thương
mại phổ biến trong nền kinh tế thị trường……………………………………6
1.1.1.1 Khái niệm trọng tài thương mại và vai trò của trọng tài trong việc giải
quyết tranh chấp thương mại………………………………………………….6
1.1.1.2 Lược sử quá trình hình thành và phát triển của phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài ở Việt Nam……………………………………….11
1.1.2 Thẩm quyền và các căn cứ xác định thẩm quyền của trọng tài thương
mại…………………………………………………………………………...17
1.2 Pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương

mại…………………………………………………………………………...25
1.3 Kinh nghiệm quốc tế về xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của
trọng tài thương mại…………………………………………………………34


1.3.1 Theo Luật Mẫu về Trọng tài thương mại Quốc tế của Ủy ban Liên hợp
quốc về Luật Thương mại quốc tế…………………………………………...34
1.3.2 Theo pháp luật của một số quốc gia…………………………………...35
Chƣơng 2. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN
CỦA TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG….......39
2.1 Những tranh chấp thuộc phạm vi giải quyết của trọng tài thương mại….39
2.1.1 Quy định của pháp luật về tranh chấp thuộc phạm vi giải quyết của
trọng tài………………………………………………………………………39
2.1.2 Những bất cập trong quy định của pháp luật về phạm vi loại việc thuộc
thẩm quyền của trọng tài từ thực tiễn áp dụng………………………………43
2.2 Các bên phát sinh tranh chấp thuộc phạm vi chủ thể được giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thương mại…………………………………………… 45
2.2.1 Những quy định của pháp luật về phạm vi chủ thể được giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài…………………………………………………………..45
2.2.2 Những bất cập trong quy định của pháp luật về phạm vi chủ thể được
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài từ thực tiễn áp dụng…………………...45
2.3 Thỏa thuận trọng tài – Căn cứ quan trọng để xác định thẩm quyền của
trọng tài………………………………………………………………………47
2.3.1 Những quy định của pháp luật về thỏa thuận trọng tài……………….. 47
2.3.2 Thỏa thuận trọng tài và thực tiễn áp dụng……………………………..50
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP CỦA TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI................................59
3.1 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật về
thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại………………...59

3.1.1 Xuất phát từ thực tiễn áp dụng pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của trọng tài thương mại……………………………………………….59


3.1.2 Xuất phát từ vị trí của trọng tài trong các phương thức giải quyết tranh
chấp thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế…………………..62
3.2 Những yêu cầu đặt ra đối với việc nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại………..63
3.3 Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về thẩm
quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại………………………69
3.3.1 Giải pháp về mặt thể chế………………………………………………69
3.3.2 Giải pháp về mặt thiết chế có liên quan đến trọng tài thương mại…….70
3.3.3 Các giải pháp khác có liên quan đến trọng tài thương mại……………72
KẾT LUẬN…………………………………………………………………75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.…………………………………77


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Có thể nói đặc trưng quan trọng, cơ bản, nổi bật nhất của kinh tế thế
giới hiện nay là xu hướng toàn cầu hóa trong đó quan hệ hợp tác kinh tế quốc
tế giữa các quốc gia luôn được củng cố và phát triển. Trong điều kiện hội
nhập quốc tế diễn ra hết sức mạnh mẽ đó thì cũng phát sinh ngày càng nhiều
những tranh chấp thương mại không chỉ dừng lại ở sự gia tăng về số lượng
mà độ phức tạp của các tranh chấp cũng ngày một nâng cao. Hơn lúc nào hết
tranh chấp và giải quyết tranh chấp đang là một vấn đề “nổi cộm” của nền
kinh tế thế giới hiện nay. Điều đó cũng giúp định hướng tư duy của các chủ
thể khi tham gia vào các quan hệ kinh tế có phát sinh tranh chấp các phương

thức giải quyết tranh chấp tối ưu trong đó có trọng tài. Theo đánh giá của
Tổng thư ký Tòa án trọng tài quốc tế thì trọng tài được coi là lựa chọn có
nhiều ưu thế nổi bật là tính liên tục, mềm dẻo, bí mật và phán quyết trọng tài
có giá trị chung thẩm…Với tính năng ưu việt của mình mà phương thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài được coi là lựa chọn được ưa chuộng của các
doanh nghiệp trên thế giới. Tuy nhiên, thực trạng Việt Nam lại cho thấy các
doanh nghiệp chưa thực sự “mặn mà” với việc đem tranh chấp của mình ra
giải quyết tại trọng tài, theo thống kê có hơn 95% tranh chấp thương mại
trong nước được đưa ra Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự. Sở dĩ có tình trạng trên thì bên cạnh nguyên nhân chủ
quan từ phía các doanh nghiệp còn có một nguyên nhân xuất phát từ hệ thống
pháp luật về trọng tài của Việt Nam còn nhiều bất cập, chưa thực sự tạo ra
một hành lang pháp lý an toàn để doanh nghiệp trong và ngoài nước tự tin khi
lựa chọn trọng tài.


2

Sự ra đời của Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 đã đánh dấu một
bước tiến mới trong việc hình thành và hoàn thiện pháp luật về trọng tài tại
Việt Nam, đáp ứng nhu cầu lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của
cộng đồng doanh nghiệp. Thực tiễn áp dụng Pháp lệnh trong hơn 6 năm qua,
tuy được đánh giá có nhiều điểm tiến bộ cùng với sự xuất hiện của nhiều nhân
tố mới như việc Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), việc
ban hành Luật thương mại 2005, Luật đầu tư 2005…nhưng một số quy định
của Pháp lệnh đã bộc lộ sự bất cập như thẩm quyền của trọng tài còn nhiều
hạn chế, đội ngũ trọng tài viên trong nước chưa phát triển, cơ chế hỗ trợ của
Tòa án đối với trọng tài chưa hiệu quả …
Xuất phát từ thực tế trên đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang thực
thi các cam kết khi gia nhập WTO thì việc ban hành Luật Trọng tài thương

mại là một tất yếu khách quan. Sự ra đời của Luật Trọng tài thương mại với
nhiều quy định mới về cơ bản phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế góp
phần tạo niềm tin cho các cá nhân, tổ chức khi lựa chọn phương thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài. Một trong những điểm mới của Luật Trọng
tài thương mại thu hút được nhiều nhất sự quan tâm của các chuyên gia pháp
lý trong và ngoài nước, các nhà hoạt động thực tiễn và của các nhà làm luật là
quy định về mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài. Đây
được coi như quy định mang tính đột phá, là cơ sở để trọng tài tiếp cận gần
hơn với các doanh nghiệp đồng thời cũng là cách biểu hiện sự tôn trọng quyền
tự do định đoạt của các cá nhân, tổ chức trong đó có quyền tự do lựa chọn
phương thức giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên để các quy định này không chỉ
có hiệu lực trên giấy thì cần có sự đánh giá khách quan, chính xác những cơ
sở lý luận và thực tiễn của việc ban hành các quy định về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp của trọng tài để thực tiễn hóa các quy định này vào đời sống
kinh tế của các cá nhân, tổ chức. Với mong muốn được luận bàn chuyên sâu,
góp phần hoàn thiện pháp luật trọng tài ở Việt Nam, tác giả chọn đề tài :


3

“Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của
trọng tài thương mại” .
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước đây đã có một số công trình nghiên cứu ở cấp độ khác nhau về
phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, có thể nêu một số công
trình như: “Hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại của Việt Nam trong
điều kiện hội nhập quốc tế” (Luận án Tiến sỹ Luật học của tác giả Nguyễn
Đình Thơ – Đại học Luật Hà Nội năm 2007); “Pháp luật giải quyết tranh chấp
bằng hình thức trọng tài” (Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Phạm Thị
Phương Thủy – Đại học Luật Hà Nội năm 2004); “Những vấn đề pháp lý về

thỏa thuận trọng tài và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam” (Luận văn thạc sỹ luật
học của tác giả Trần Thị Kim Liên – Đại học Luật Hà Nội năm 2006); “Trọng
tài thương mại Việt Nam trong tiến trình đổi mới” của tác giả Dương Văn
Hậu – Nhà xuất bản chính trị Quốc gia 1999 và một số bài viết trên các tạp
chí chuyên ngành…Tuy nhiên các công trình trên chỉ đề cập một cách khái
quát về phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nói chung mà chưa
có công trình nào đề cập một cách chuyên sâu về thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của trọng tài. Từ đó có thể khẳng định đây là công trình đầu tiên ở cấp
độ luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu chuyên biệt về vấn đề này.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong thẩm quyền về mặt hình
thức của trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật về trọng tài thương
mại .
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Để đạt được các mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngoài ra, Luận văn


4

còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như phương pháp bình
luận, diễn giải, so sánh, tổng hợp, phân tích…
5. Nhiệm vụ, mục đích của việc nghiên cứu đề tài
5.1. Mục đích
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp của trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật trọng
tài thương mại trên cơ sở liên hệ thực tiễn tại Việt Nam từ đó góp phần làm
sáng tỏ những vấn đề lý luận cần thiết cho việc đề xuất các kiến nghị, giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả quá trình áp dụng các quy định về thẩm quyền

giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại vào đời sống pháp luật của các
cá nhân, tổ chức nhằm hoàn thiện hơn những quy định về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp của trọng tài nói riêng và của pháp luật về trọng tài thương
mại nói chung, góp phần nâng cao hiệu quả của phương thức giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài trên thực tế.
5.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn đặt ra các nghiên cứu:
- Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng các quy định về thẩm
quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại.
- Phân tích các quy định hiện hành của pháp luật trọng tài thương mại về thẩm
quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài; đánh giá thực trạng áp dụng của các
quy định đó trong thực tiễn từ đó chỉ ra các khó khăn, vướng mắc đang và sẽ
gặp phải liên quan đến việc áp dụng quy định về thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của trọng tài thương mại.
- Dự báo những vấn đề đặt ra khi mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp
của trọng tài thương mại và đưa ra những giải pháp nhằm thực tiễn hóa một
cách hiệu quả các quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp
của trọng tài thương mại trong thực tiễn.


5

6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp của trọng tài thương mại, Luận văn dự kiến sẽ có những
đóng góp mới sau đây:
- Thứ nhất: Luận văn đã giải quyết những vấn đề lý luận về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp của trọng tài thương mại, nghiên cứu một cách khái quát về
quá trình hình thành và phát triển của phương thức trọng tài nói chung và chế
định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của trọng tài thương mại nói riêng

qua các thời kỳ và có sự liên hệ với pháp luật trọng tài của một số nước trên
thế giới.
- Thứ hai: Luận văn đã phân tích một cách sâu sắc những bất cập, hạn chế
trong các quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của
trọng tài thương mại trong mối tương quan với thực tiễn áp dụng các quy định
trên.
- Thứ ba: Luận văn bước đầu đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp
của trọng tài thương mại trong thực tế bao gồm những giải pháp về mặt hoàn
thiện thể chế, thiết chế và một số giải pháp bổ trợ khác.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
Luận văn gồm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thẩm quyền giải quyết tranh chấp
của trọng tài thương mại.
Chương 2: Các quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của trọng tài thương mại và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương
mại.


6

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP CỦA TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
1.1. Khái luận về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thƣơng
mại
1.1.1. Trọng tài thƣơng mại – một phƣơng thức giải quyết tranh chấp

thƣơng mại phổ biến trong nền kinh tế thị trƣờng
1.1.1.1. Khái niệm trọng tài thương mại và vai trò của trọng tài trong việc
giải quyết tranh chấp thương mại
Trong cơ chế kinh tế thị trường cùng với sự phát triển của các quan hệ
kinh tế cũng kéo theo các tranh chấp phát sinh từ quan hệ kinh tế ngày càng
gia tăng về số lượng và độ phức tap của các tranh chấp. Để giải quyết các
tranh chấp, pháp luật cho phép các cá nhân, tổ chức tham gia vào quan hệ
kinh tế có quyền lựa chọn một phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh một thiết chế giải quyết
tranh chấp truyền thống mang tính quyền lực nhà nước là Tòa án (tài phán
công) thì còn tồn tại một cơ chế giải quyết tranh chấp lựa chọn (ADR) bao
gồm thương lượng, hòa giải và trọng tài. Và trọng tài thương mại với tư cách
là một cơ quan tài phán tư không mang tính quyền lực nhà nước đã xuất hiện
khá lâu, cách đây hơn một thế kỷ ngày càng trở lên phổ biến và được ưa
chuộng trong đời sống thương mại quốc tế cũng như trong đời sống thương
mại của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Thực tiễn giải quyết tranh chấp
thương mại trên thế giới hiện nay chứng tỏ trọng tài là một phương thức hữu
hiệu để giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại. Vậy, trọng tài là gì?
Theo Từ điển Tiếng Việt, trọng tài được hiểu là “Người được cử ra để
phân xử, giải quyết những vụ tranh chấp ”[37]. Còn theo cuốn Đại từ điển


7

kinh tế thị trường định nghĩa trọng tài như sau “Trọng tài là phương pháp giải
quyết hòa bình các vụ tranh chấp. Là chỉ đôi bên đương sự tự nguyện đem
những sự việc, những vấn đề tranh chấp giao cho người thứ ba có tư cách
công bằng, chính trực xét xử, lời phán quyết do người này đưa ra có hiệu lực
ràng buộc cả hai bên ”. Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ (AAA) có quan điểm tương
tự về trọng tài, theo đó “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp bằng

cách đệ trình vụ tranh chấp cho một hoặc một số người khách quan xem xét
giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng có giá trị bắt buộc các bên
tranh chấp phải thi hành” [32,tr.34]. Luật mẫu của UNCITRAL quy định
“Trọng tài nghĩa là mọi hình thức trọng tài có hoặc không có sự giám sát của
một tổ chức trọng tài thường trực”[9]. Luật Trọng tài thương mại 2010 của
Việt Nam tại Điều 3 quy định như sau “Trọng tài thương mại là phương thức
giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định
của luật này ”[16]. Như vậy, mặc dù được diễn đạt theo nhiều cách khác nhau
nhưng tựu chung lại, những định nghĩa trên về trọng tài đều khẳng định trước
hết trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp được các bên thỏa
thuận với nhau để lựa chọn giải quyết tranh chấp thương mại phát sinh giữa
họ, về mặt bản chất trọng tài là hình thức tài phán tư không mang tính quyền
lực nhà nước. Nếu như Tòa án là cơ quan tài phán công, được thay mặt nhà
nước đứng ra xét xử, giải quyết tranh chấp bất đồng giữa các tổ chức, cá nhân
trong xã hội thì ngược lại trọng tài không phải là một cơ quan nhà nước,
quyền lực của chúng không mang tính chất nhà nước mà được hình thành trên
cơ sở ý chí của các bên tranh chấp. Quyền lực của trọng tài là “quyền lực hợp
đồng” hay “quyền lực đại diện” do các bên tranh chấp giao phó, ủy nhiệm vì
vậy phán quyết trọng tài không mang tính quyền lực nhà nước mà mang tính
đại diện cho các bên tranh chấp.


8

Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp đã xuất hiện từ lâu
và ngày càng được sử dụng rộng rãi nhất là trong lĩnh vực thương mại ở các
nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Vậy tại sao trọng tài thương mại lại
được giới doanh nhân tin dùng để giải quyết tranh chấp của mình như vậy?
Điều đó có thể được luận giải như sau: Trong cơ chế giải quyết tranh chấp lựa
chọn, mặc dù cùng là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên tự thỏa

thuận lựa chọn và có sự tham gia của bên thứ ba như hòa giải và thương
lượng nhưng chỉ có trọng tài là có quyền phán xét và ra quyết định có hiệu lực
bắt buộc thi hành đối với các bên tranh chấp (tính chất tài phán). Từ lâu trọng
tài đã trở thành một phương thức phổ biến để giải quyết các tranh chấp trong
kinh doanh. Thực tế trên xuất phát từ những lợi thế to lớn mà trọng tài mang
lại cho các nhà kinh doanh khi họ lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp
đã phát sinh giữa họ với nhau. Xét trong quan hệ so sánh với các phương thức
khác thì trọng tài có những ưu thế sau:
Thứ nhất: trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo,
nhanh chóng, thuận lợi cho các bên.
Khi xét xử tại tòa án, các bên hoàn toàn phụ thuộc vào sự chỉ đạo của
tòa án về thủ tục, thời gian, địa điểm, cách thức xét xử. Theo quy định của Bộ
luật tố tụng dân sự, thời hạn chuẩn bị xét xử đối với một vụ án kinh doanh
thương mại là hai tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, còn đối với vụ án có tính chất
phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì có thể gia hạn thêm một tháng (Điều
179) [2]. Trong khi đó với nguyên tắc xét xử một lần và thủ tục trọng tài
không mang tính hình thức nặng nề, các bên thông thường được tự do lựa
chọn thủ tục, thời gian, địa điểm, phương thức giải quyết tranh chấp theo
phương thức tiện lợi, nhanh chóng, hiệu quả nhất cho các bên trong khuôn
khổ pháp luật cho phép. Điều này có thể làm giảm chi phí, thời gian và tăng
hiệu quả cho quá trình giải quyết tranh chấp. Yếu tố thời gian luôn đồng hành


9

cùng những cơ hội kinh doanh hấp dẫn và việc theo đuổi thủ tục tố tụng phức
tạp tại tòa án có thể đặt các nhà kinh doanh trước nguy cơ bỏ lỡ cơ hội kinh
doanh. Vì vậy, trọng tài ra đời chính từ yêu cầu giải quyết tranh chấp nhanh
chóng, kịp thời và cũng chính từ yêu cầu này mà trọng tài thường chỉ thích
hợp để giải quyết các tranh chấp phát sinh chủ yếu từ hoạt động thương mại.

Thứ hai: trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp bí mật.
Khi xét xử tại tòa án, thường là xét xử công khai, thông tin về vụ tranh
chấp sẽ được thông báo cho công chúng. Ngược lại, khi xét xử bằng trọng tài
các thông tin về vụ tranh chấp sẽ được giữ kín và uy tín, công việc kinh doanh
của các bên không bị ảnh hưởng. Điều này rất quan trọng đối với các bên vì
thông tin về tranh chấp có thể ảnh hưởng lớn đến uy ín hoạt động kinh doanh
của các bên liên quan.
Thứ ba: trọng tài là một thiết chế giải quyết tranh chấp đảm bảo tôn
trọng ở mức độ cao quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp.
Điều này thể hiện ở chỗ các bên tranh chấp được lựa chọn hình thức
trọng tài, trung tâm trọng tài và trọng tài viên để giải quyết tranh chấp cho
mình. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, các bên tranh chấp có thể tác
động đến quy trình tố tụng như có thể lựa chọn địa điểm tiến hành phiên giải
quyết của trọng tài, yêu cầu sớm mở phiên giải quyết khi đã có đầy đủ chứng
cứ và khi không còn cơ hội hòa giải.
Thứ tư: trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp dứt điểm.
Khi xét xử tại tòa án, một vụ tranh chấp có thể phải qua nhiều cấp sơ
thẩm, phúc thẩm trước khi đi đến phán quyết cuối cùng. Việc này có thể kéo
dài, phức tạp, gây tốn kém về thời gian, chi phí cho các bên. Là một cơ quan
tài phán, trọng tài được quyền đưa ra phán quyết cuối cùng có giá trị cưỡng
chế thi hành đối với các bên (chung thẩm). Trọng tài có khả năng giúp các


10

bên giải quyết triệt để tranh chấp đã phát sinh. Đây là một ưu điểm nổi bật của
trọng tài.
Thứ năm: trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp trung lập cho
các bên.
Một trong những yêu cầu căn bản của việc giải quyết tranh chấp là cơ

quan giải quyết tranh chấp phải hoàn toàn mang tính trung lập. Tuy nhiên, hệ
thống tòa án nhiều khi không đáp ứng được điều này hoặc ít ra là theo cảm
nhận của các bên là như vậy. Ví dụ trong cùng một quốc gia, việc tòa án tỉnh
của nơi đương sự sống và làm việc thụ lý vụ án cũng có thể khiến cho bên
đương sự kia có cảm giác sẽ bị “bất lợi”. Điều này thể hiện rõ nhất khi tranh
chấp giữa các bên đến từ các quốc gia khác nhau. Nếu tranh chấp giữa các
bên là nhà đầu tư nước ngoài và một bên Việt Nam được xét xử tại tòa án Việt
Nam, do các thẩm phán Việt Nam xét xử thì chắc chắn bên nước ngoài sẽ có
những cảm nhận về sự không trung lập của tòa án cho dù điều này có trên
thực tế hay không. Cảm nhận này sẽ khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài
không muốn mang tranh chấp ra tòa án Việt Nam xét xử và hệ quả là có thể
nhà đầu tư phải thỏa hiệp trong tranh chấp hoặc hơn nữa có thể là nhà đầu tư
ngay từ đầu đã quyết định không tham gia quan hệ thương mại với bên Việt
Nam vì khoan ngại rằng nếu có tranh chấp xảy ra sẽ không được xét xử công
bằng.
Nếu theo cơ chế trọng tài thì khoan ngại trên hoàn toàn được giải quyết.
Các bên có toàn quyền thỏa thuận thành lập một hội đồng trọng tài để giải
quyết tranh chấp trong đó thành phần hội đồng trọng tài, tiêu chuẩn trọng tài
viên, cách thức chỉ định trọng tài viên, quốc tịch trọng tài viên hoàn toàn do
các bên quyết định. Việc này sẽ đảm bảo tính trung lập, công bằng cao hơn,
tạo sự an tâm cho các bên tranh chấp.


11

Thứ sáu: trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mang tính chuyên
môn cao.
Khi mang một vụ tranh chấp ra xét xử tại tòa án, đặc biệt là các tranh chấp
kinh doanh thương mại mà đối tượng của tranh chấp thường liên quan đến
những lĩnh vực đặc thù đòi hỏi có trình độ chuyên môn cao như dầu khí, xây

dựng, tài chính, đầu tư, bảo hiểm…đòi hỏi thẩm phán được phân công xét xử
vụ án phải có sự am hiểu sâu sắc về lĩnh vực tranh chấp đặc biệt trong những
vụ án có yếu tố nước ngoài thì thẩm phán còn phải am hiểu về thương mại
quốc tế cũng như những tập quán thương mại có liên quan đến đối tượng
tranh chấp. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đây thật sự là
một thách thức lớn đặt ra cho các thẩm phán Việt Nam, đặc biệt là thẩm phán
cấp huyện khi quy định về mở rộng thẩm quyền xét xử các vụ án kinh doanh
thương mại cho tòa án cấp huyện có hiệu lực. Mặt khác, trong tố tụng tòa án
không đặt ra vấn đề lựa chọn thẩm phán vì thẩm quyền này thuộc về Chánh
án nơi tòa án xét xử. Trong khi đó nếu giải quyết bằng trọng tài, các bên hoàn
toàn có thể lựa chọn trọng tài viên có trình độ chuyên môn phù hợp với đối
tượng tranh chấp, góp phần nâng cao hiệu quả, công bằng, chính xác trong
việc đưa ra phán quyết (theo thống kê, tại VIAC có 123 trọng tài viên trong
đó có 117 trọng tài viên Việt Nam và 06 trọng tài viên nước ngoài bao gồm
các lĩnh vực chuyên gia pháp luật 52%; Tài chính, ngân hàng, chứng khoán,
bảo hiểm 12%; Xây dựng, cơ khí 7%; Vận tải đường biển, đường không,
đường bộ 4,8%; Sở hữu trí tuệ 3,1%; Công nghệ thông tin 3,1%; các lĩnh vực
khác 18%) [26]
1.1.1.2. Lược sử quá trình hình thành và phát triển của phương thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài ở Việt Nam
Trọng tài thương mại với tư cách là một phương thức giải quyết tranh
chấp đã xuất hiện từ khá lâu, cách đây hơn một thế kỷ, ngày càng trở lên phổ


12

biến và được ưa chuộng trong đời sống thương mại quốc tế cũng như đời sống
thương mại của nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, lịch sử hình thành và phát triển
của trọng tài thương mại cũng đã trải qua gần 50 năm với nhiều nét đặc thù.
Có thể điểm lại những dấu mốc quan trọng trong việc hình thành và phát triển

của trọng tài thương mại ở Việt Nam như sau:
* Giai đoạn trƣớc Hiến pháp 1992.
Lịch sử phát triển của trọng tài thương mại ở Việt Nam bắt đầu năm
1960 cùng với sự hình thành của cơ chế hợp đồng kinh tế. Lần đầu tiên, một
tổ chức giải quyết tranh chấp kinh tế với tên gọi là trọng tài được thành lập
theo tinh thần của Nghị định số 04-TTg ngày 1/4/1960 của Thủ tướng nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngay sau đó Nghị định số 20/TTg ngày
14/1/1960 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức ngành Trọng tài kinh tế,
các cơ quan trọng tài kinh tế được thành lập ở các cấp trung ương, khu, tỉnh,
thành phố và ở các ngành kinh tế. Năm 1965, các hội đồng trọng tài được thay
thế bằng các hội đồng trọng tài kinh tế ở các cấp cụ thể là: Hội đồng trọng tài
kinh tế Nhà nước ở cấp trung ương, các hội đồng trọng tài kinh tế cấp tỉnh và
hội đồng trọng tài kinh tế cấp bộ. Bước cuối cùng trong quá trình phát triển
của trọng tài kinh tế Nhà nước ở Việt Nam là việc thành lập cơ quan trọng tài
kinh tế Nhà nước theo Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ban hành ngày 10 tháng 1
năm 1990.
Như vậy các cơ quan trọng tài kinh tế trước đây mặc dù được pháp luật
quy định có những chức năng độc lập. Tuy nhiên, nó vẫn chỉ là một bộ phận
thuộc thuộc cơ quan hành chính của mỗi cấp khác nhau. Về bản chất, nó là cơ
quan hành pháp nhưng có những nhiệm vụ mang tính chất tư pháp.
Bên cạnh hệ thống trọng tài kinh tế Nhà nước giải quyết các tranh chấp
hợp đồng trong nước, xuất phát từ thực tiễn hợp tác kinh tế quốc tế, từ đầu


13

những năm 1960, ở nước ta còn hình thành các cơ quan trọng tài để giải quyết
các tranh chấp có yếu tố nước ngoài.
Hội đồng trọng tài ngoại thương được thành lập theo Nghị định số
59/CP ngày 30/4/1963. Và hơn một năm sau, Hội đồng trọng tài Hàng hải

được thành lập theo Nghị định số 153/CP ngày 5/10/1964 để giải quyết tranh
chấp phát sinh từ lĩnh vực hàng hải.
Tóm lại, cho đến trước Hiến pháp 1992, trọng tài kinh tế Việt Nam đã
được hình thành và phát triển theo hai hướng dựa trên hai mặt bằng pháp lý
sau:
- Trọng tài kinh tế nhà nước là cơ quan thuộc hệ thống hành pháp thực
hiện hai chức năng là quản lý nhà nước về công tác hợp đồng kinh tế và chức
năng xét xử tranh chấp hợp đồng kinh tế, xử lý các vi phạm pháp luật hợp
đồng kinh tế trong nước. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh
tế nhà nước cũng như các trình tự ,thủ tục tố tụng trọng tài kinh tế không dựa
căn bản trên sự tự do ý chí, tự nguyện thỏa thuận của các bên có tranh chấp
mà ngược lại mang nặng tính quyền lực nhà nước phỏng theo mô hình xét xử
của Tòa án. Chính vì vậy, trọng tài kinh tế nhà nước của Việt Nam rất xa lạ,
khác biệt với mô hình trọng tài thương mại truyền thống của các nước có nền
kinh tế thị trường.
- Các cơ quan trọng tài giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài
trong hai lĩnh vực hẹp là ngoại thương và hàng hải tuy không thuộc hệ thống
cơ quan nhà nước nhưng cũng còn khác xa với chuẩn mực chung của trọng tài
thương mại quốc tế về phạm vi thẩm quyền, thủ tục tố tụng…Hơn nữa, chưa
có cơ chế đảm bảo thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam
cũng chưa có cơ chế thi hành quyết định của chính trọng tài ngoại thương và
trọng tài hàng hải tại Việt Nam.


14

* Giai đoạn từ năm 1992 đến trƣớc Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại 2003.
Hiến pháp 1992 khẳng định quyền tự do kinh doanh, các nguyên tắc cơ
bản trong quan hệ giữa các tổ chức và cá nhân kinh doanh là tự do, bình đẳng,
cùng có lợi và tự chiu trách nhiệm về hoạt động của mình theo quy định của

pháp luật. Trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp kinh tế, các bên có quyền tự
do lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp và Nhà nước có trách nhiệm
tạo lập hành lang pháp lý phù hợp cho sự phát triển các phương thức, các tổ
chức giải quyết tranh chấp đáp ứng được các yêu cầu của giới kinh doanh
trong và ngoài nước khi đầu tư vào Việt Nam.
Trước tiên, sự đổi mới diễn ra trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp phát
sinh từ các quan hệ kinh tế quốc tế. Đường lối “mở cửa” đã tạo điểu kiện cho
hoạt động thương mại nói chung, thương mại quốc tế nói riêng của Việt Nam
thật sự khởi sắc. Số lượng các hợp đồng kinh doanh được ký kết giữa các
doanh nhân Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế và các doanh nhân, nhà
đầu tư nước ngoài tăng nhanh dẫn đến điều không thể tránh khỏi là tăng các
số lượng và tính chất phức tạp của các tranh chấp thương mại quốc tế. Để đáp
ứng yêu cầu của thực tế, Thủ tướng Chính phủ quyết định hợp nhất Hội đồng
trọng tài ngoại thương và Hội đồng trọng tài hàng hải để thành lập Trung tâm
Trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt
Nam (VIAC) theo quyết định số 204/TTg ngày 28/4/1993.
Sự cải cách cơ bản hệ thống trọng tài kinh tế trong nước diễn ra chậm
hơn. Cùng với việc thành lập hệ thống tài phán kinh tế chuyên trách tại các
tòa án nhân dân, hệ thống trọng tài kinh tế nhà nước đã bị bãi bỏ và chấm dứt
hoạt động. Trong khi đó, các quan hệ kinh tế, kinh doanh trong nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần ngày càng đa dạng, phong phú, các tranh chấp
phát sinh từ đó ngày càng nhiều về số lượng, đa dạng và phức tạp về tính chất
và nội dung. Để đáp ứng nhu cầu thực tiễn, Chính phủ đã ban hành Nghị định


15

số 116/CP ngày 5/9/1994 về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế Việt
Nam, theo đó trọng tài kinh tế đã thay đổi về bản chất không còn là cơ quan
nhà nước mà là một tổ chức xã hội - nghề nghiệp hoạt động dưới hình thức

trung tâm trọng tài kinh tế (phi chính phủ).
Một bước tiến quan trọng khác của pháp luật về trọng tài của nước ta là
việc Chủ tịch nước công bố Quyết định số 453-QĐ/CTN ngày 28/7/1995 về
việc Việt Nam tham gia Công ước New York 1958 về việc công nhận và thi
hành quyết định của trọng tài nước ngoài. Trên cơ sở đó, Ủy ban thường vụ
Quốc hội ban hành Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định
của Trọng tài nước ngoài có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1996. Theo Pháp
lệnh, các căn cứ, trình tự công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định
của trọng tài nước ngoài, về cơ bản phù hợp với Công ước New York 1958.
Có thể thấy rằng, từ sau Hiến pháp 1992, chế định pháp luật trọng tài
của Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể theo hướng tạo ra ngày
càng nhiều khả năng lựa chọn tổ chức và phương thức giải quyết tranh chấp
cho các nhà kinh doanh trong nước và nước ngoài, từng bước đưa pháp luật
trọng tài của nước ta tiến dần tới các chuẩn mực khu vực và quốc tế.
Tuy nhiên, pháp luật trọng tài của Việt Nam trong giai đoạn này vẫn
còn nhiều bất cập, hạn chế làm giảm sút uy tín và sự hấp dẫn của trọng tài
Việt Nam trong giới kinh doanh trong và ngoài nước.
* Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại 2003 – động lực mới cho sự phát triển
và hoạt động có hiệu quả của trọng tài thƣơng mại Việt Nam.
Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào các thể chế
kinh tế khu vực và quốc tế đã đặt ra nhu cầu đổi mới một cách cơ bản cơ chế
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ở nước ta. Theo Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/12/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của
công tác tư pháp trong thời gian tới yêu cầu “Xây dựng cơ chế để nâng cao


16

hiệu quả của các hình thức giải quyết tranh chấp như hòa giải, trọng tài, nhằm
góp phần xử lý đúng và nhanh chóng những mâu thuẫn, khiếu kiện trong nội
bộ nhân dân và giảm nhẹ công việc cho tòa án và cơ quan nhà nước khác”.

Nhận thức được sự cần thiết phải hoàn thiện các văn bản pháp luật về
trọng tài, ngày 24 tháng 2 năm 2003, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua
Pháp lệnh Trọng tài thương mại. Sự ra đời của Pháp lệnh đã đánh dấu một
bước phát triển mới trong quá trình xây dựng pháp luật kinh tế ở Việt Nam
nói chung và pháp luật trọng tài nói riêng. Pháp lệnh đã khắc phục được
những điểm bất cập ,chồng chéo, mâu thuẫn của văn bản trước đây về trọng
tài, đồng thời đưa ra nhiều cơ chế, quy định mới có khả năng đáp ứng tốt hơn
các yêu cầu của quá trình hội nhập. So với các văn bản trước đây về trọng tài,
Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 có nhiều điểm mới cơ bản trong đó Pháp
lệnh đã mở rộng đáng kể thẩm quyền của trọng tài thương mại.
Tuy nhiên, qua hơn 6 năm thi hành, Pháp lệnh cũng bộc lộ nhiều hạn
chế mà hạn chế đầu tiên nằm ở giá trị pháp lý của Pháp lệnh trong bối cảnh
thủ tục tố tụng tại tòa án được điều chỉnh bằng một bộ luật thì tố tụng trọng
tài chỉ được điều chỉnh bằng một pháp lệnh chứa cả quy phạm nội dung và
quy phạm tố tụng, mặt khác Pháp lệnh cũng chưa đảm bảo được sự tương
thích với cả hệ thống pháp luật điều này dẫn đến tình trạng trọng tài chưa thực
sự thể hiện được vai trò của nó trong các phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại và thực tế là các doanh nghiệp cũng không “mặn mà” với phương
thức giải quyết tranh chấp tại trọng tài.
* Luật trọng tài thƣơng mại 2010 – Bƣớc đột phá thể hiện tham vọng “lột
xác” của trọng tài để trở thành một công cụ hữu hiệu trong việc giải
quyết các tranh chấp thƣơng mại.
PLTTTM 2003 về cơ bản phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế
trong việc điều chỉnh các vấn đề chủ yếu của trọng tài như quy định về hiệu


17

lực của thỏa thuận trọng tài, điều kiện trở thành trọng tài viên, quy định về
trọng tài vụ việc, ghi nhận mối quan hệ giữa trọng tài và tòa án thông qua các

quy định cụ thể như hỗ trợ thi hành thỏa thuận trọng tài, chỉ định trọng tài
viên. Tuy nhiên bên cạnh những ưu việt nói trên, qua hơn sáu năm thực hiện,
PLTTTM đã bộc lộ không ít những hạn chế và bất cập cần sớm giải quyết cả
từ góc độ lập pháp lẫn tổ chức thực thi pháp luật. Trong khi việc giải quyết
tranh chấp bằng tòa án được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thì văn
bản pháp luật điều chỉnh hoạt động trọng tài thương mại mới chỉ ở tầm Pháp
lệnh nên giá trị pháp lý chưa cao. Sự chênh lệch về giá trị pháp lý của hai hình
thức văn bản này tạo ra sự bất lợi cho trọng tài và bất cập này đã sớm được
khắc phục theo hướng xây dựng và ban hành một đạo luật mới về trọng tài
thương mại - Luật trọng tài thương mại 2010 để thay thế Pháp lệnh trên cơ sở
kế thừa những chế định tiến bộ và bổ sung những quy định mới, hoàn chỉnh
hơn. Luật mới đã dỡ bỏ hạn chế của Pháp lệnh về thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của Trọng tài thương mại thông qua việc mở rộng phạm vi thẩm quyền
của trọng tài tới nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các
bên. Đây là một điểm mới quan trọng nhất của Luật so với Pháp lệnh và hoàn
toàn phù hợp với thực tiễn sử dụng trọng tài của các nước trên thế giới.
1.1.2. Thẩm quyền và các căn cứ xác định thẩm quyền của trọng tài
thƣơng mại
Trọng tài là một loại hình cơ quan tài phán, do đó vấn đề đầu tiên mà
Nhà nước nào cũng phải quan tâm là vấn đề thẩm quyền của trọng tài. Trong
lịch sử, trọng tài đã được sử dụng để giải quyết nhiều loại tranh chấp khác
nhau: tranh chấp giữa các quốc gia, tranh chấp thương mại, tranh chấp lao
động…Tuy nhiên, theo xu hướng phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới
thì trọng tài được thành lập chủ yếu để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ
hoạt động thương mại. Nếu như tố tụng tòa án áp dụng các nguyên tắc phân


18

định thẩm quyền theo lãnh thổ, theo trụ sở hoặc chỗ ở của bị đơn và sự thỏa

thuận của nguyên đơn thì thẩm quyền của trọng tài chỉ là thẩm quyền vụ việc
nếu được các bên có vụ việc lựa chọn đích danh. Thẩm quyền của trọng tài
không được phân định theo lãnh thổ vì thế các bên tranh chấp có quyền thỏa
thuận lựa chọn bất kỳ một tổ chức trọng tài nào để giải quyết tranh chấp của
họ, không phụ thuộc vào nơi ở cũng như trụ sở của nguyên đơn hay bị đơn,
cũng không phân được theo cấp xét xử vì chỉ có một cấp trọng tài và lại càng
không phân định theo sự lựa chọn của nguyên đơn vì trọng tài chỉ có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp khi các bên đều thống nhất lựa chọn và có thỏa
thuận trọng tài. Vậy thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài là gì?
Theo từ điển Tiếng Việt “Thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận và
định đoạt một số vấn đề theo pháp luật ” [32]. Định nghĩa này đã khái quát
một cách chung nhất về thẩm quyền. Tuy nhiên, xem xét để đưa ra một khái
niệm đầy đủ về thẩm quyền dưới góc độ pháp lý ở Việt Nam hiện nay cũng
còn khá nhiều ý kiến khác nhau. Có quan điểm cho rằng “thẩm quyền bao
gồm nhiệm vụ và quyền hạn”, nhưng quan điểm khác lại cho rằng, thẩm
quyền là phương tiện để các cơ quan, tổ chức thực hiện và duy trì chức trách
và nhiệm vụ của mình. Những quan điểm trên tuy tiếp cận vấn đề ở những
góc độ khác nhau nhưng nội dung cơ bản đều nhấn mạnh: thẩm quyền là khả
năng của chủ thể trong việc xem xét và giải quyết hay định đoạt công việc nào
đó trên cơ sở các chuẩn mực pháp lý đã định trước.
Vậy thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại theo
nghĩa rộng bao gồm quyền xem xét và quyền giải quyết vụ tranh chấp. Theo
đó, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại bao gồm hai
yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau là thẩm quyền về hình thức và thẩm
quyền về nội dung. Thẩm quyền về hình thức là quyền xem xét và phạm vi
các loại việc trọng tài được quyền giải quyết. Thẩm quyền về nội dung là


19


quyền hạn giải quyết, quyết định giải quyết tranh chấp của trọng tài thương
mại. Nếu như thẩm quyền về nội dung chủ yếu gắn với hoạt động tố tụng
trọng tài tại các Trung tâm trọng tài hoặc do trọng tài viên tiến hành như
quyền xác minh sự việc, quyền thu thập chứng cứ, quyền áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời… thì thẩm quyền về mặt hình thức có thể được xem là tiền
đề cho thẩm quyền về nội dung được tiến hành hay nói cách khác, vấn đề đặt
ra đầu tiên cần được giải quyết đối với vụ tranh chấp có thỏa thuận trọng tài là
phải xem xét trọng tài có thẩm quyền về mặt hình thức không trước khi tiến
hành các hoạt động tố tụng trọng tài. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn
chủ yếu đề cập tới thẩm quyền về hình thức trong giải quyết các tranh chấp
của trọng tài thương mại.
Việc xác định thẩm quyền về mặt hình thức của trọng tài đối với một
vụ tranh chấp sẽ dẫn đến việc loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa án và khi đó
phán quyết của trọng tài đối với việc giải quyết vụ tranh chấp sẽ không bị tòa
án hủy với lý do sai thẩm quyền.
Do bản chất của trọng tài là hình thức tài phán mà quyền lực của nó
được tạo nên bởi chính các bên trong quan hệ tranh chấp và tôn trọng quyền
tự do định đoạt của các đương sự, pháp luật cũng quy định nguyên tắc loại trừ
thẩm quyền của tòa án khi các bên đã lựa chọn trọng tài bằng một thỏa thuận
trọng tài như một điều khoản trong hợp đồng hoặc là điều khoản riêng. Tuy
nhiên, không phải mọi tranh chấp có thỏa thuận trọng tài đều thuộc thẩm
quyền giải quyết của trọng tài thương mại mà căn cứ xác định thẩm quyền của
trọng tài theo Luật trọng tài thương mại 2010 được xây dựng dựa trên hai tiêu
chí:
Thứ nhất: các quy định của pháp luật về những loại việc thuộc thẩm
quyền của trọng tài.
Theo đó Điều 2 của Luật TTTM 2010 quy định ba nhóm việc thuộc
phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài như sau:



×