Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.5 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

AN VĂN KHOÁI

THỦ TỤC RÚT GỌN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ - MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN:
TS. TRẦN ANH TUẤN

HÀ NỘI - 2011


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên cho tôi gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến tiến sĩ Trần Anh Tuấn,
người đã rất tận tâm, tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn tốt
nghiệp của mình. Thày đã truyền thụ cho tôi những kiến thức cần thiết, quan trọng
nhất để tôi có thể nghiên cứu, triển khai được đề tài “Thủ tục rút gọn trong tố tụng
dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Nhà trường, các thày, các cô trong khoa Luật Dân sự
- Trường Đại học Luật Hà Nội. Những người đã nhiệt tình giảng dạy, truyền thụ cho
tôi những kiến thức về luật pháp, cách tư duy, nhìn nhận, đánh giá vấn đề…để tôi có


nền tảng tiếp thu những kiến thức mới trong khoa học pháp lý.
Tôi xin chân thành cảm ơn: lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương, lãnh đạo
Tòa án nhân dân huyện Thanh Miện, gia đình, bạn bè đã tạo điều kiện thuận lợi, bố trí
công việc, động viên khích lệ tôi trong quá trình học tập cũng như nghiên cứu luận
văn này.


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ

6

RÚT GỌN
1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN

6

SỰ RÚT GỌN
1.1.1. Khái niệm thủ tục tố tụng dân sự rút gọn

6

1.1.2. Ý nghĩa của việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn

9


1.2. THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN THEO PHÁP LUẬT

12

MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.2.1. Thủ tục tố tụng rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự Pháp

12

1.2.2 Thủ tục ra lệnh thanh toán nợ theo pháp luật tố tụng dân sự Nga

15

1.2.3. Thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự Quebec Canada

16

1.2.4. Thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự Nhật Bản

18

1.2.5. Thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự Cộng hoà nhân dân

20

Trung Hoa
1.2.6. Thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự của một số nước

23


châu Á khác
Chƣơng 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY

29

DỰNG THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG THỦ TỤC RÚT

29

GỌN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.1.1. Đường lối cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta - Tiền đề

29


của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự
2.1.2. Tính phù hợp giữa thủ tục tố tụng dân sự được xây dựng với tính

31

chất của vụ việc
2.1.3. Các nguyên tắc cơ bản trong pháp luật dân sự - Tiền đề của việc

33

xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự
2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY DỰNG THỦ TỤC RÚT


39

GỌN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.2.1. Các quy định về cơ chế xét xử một thẩm phán và xét xử một lần

39

trong lịch sử pháp luật tố tụng dân sự – Cơ sở thực tiễn của việc xây
dựng thủ tục rút gọn
2.2.2. Thực trạng giải quyết các vụ án dân sự hiện nay và yêu cầu xây

48

dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự
2.2.3. Một số nguyên tắc trong tố tụng dân sự và vấn đề xây dựng thủ tục

51

tố tụng dân sự rút gọn
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ KIẾN NGHỊ VỀ XÂY
DỰNG THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN Ở VIỆT NAM
3.1. CÁC YÊU CẦU CỦA VIỆC XÂY DỰNG THỦ TỤC RÚT GỌN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
3.2. VỀ PHẠM VI LOẠI VIỆC CÓ THỂ GIẢI QUYẾT THEO

56
56
59

THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN

3.2.1. Đối với những vụ án có chứng cứ rõ ràng, bị đơn đã thừa nhận

59

nghĩa vụ hoặc không phản đối và việc áp dụng pháp luật để giải quyết là
đã rõ ràng
3.2.2. Những vụ tranh chấp có giá ngạch thấp

61

3.2.3. Những vụ án do các đương sự thoả thuận lựa chọn giải quyết theo

65

thủ tục tố tụng dân sự rút gọn


3.3. KIẾN NGHỊ VỀ MÔ HÌNH THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ

66

RÚT GỌN
3.3.1. Về thành phần những người tiến hành tố tụng

66

3.3.2. Về thời hạn giải quyết theo thủ tục rút gọn

67


3.3.3. Về thủ tục tố tụng

68

3.3.4. Vấn đề chuyển hoá từ thủ tục tố tụng dân sự rút gọn sang thủ tục

71

tố tụng thông thường
3.3.5. Vấn đề xét lại bản án, quyết định giải quyết vụ án theo thủ tục rút

72

gọn
3.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM TẠO TIỀN ĐỀ CHO VIỆC

72

XÂY DỰNG THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
PHẦN KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

76


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1. Bộ luật Tố tụng dân sự

BLTTDS


2. Bộ luật Tố tụng hình sự

BLTTHS


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới đất nước theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, thực
hiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang có
những bước tiến vượt bậc. Nền kinh tế Việt Nam đã thoát khỏi nền kinh tế tự cung
tự cấp, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày một nâng cao, mục tiêu
đến năm 2020 về cơ bản đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp đang ở
những giai đoạn quyết định, quan hệ kinh tế quốc tế cũng phát triển mạnh mẽ, các
giao lưu kinh tế, dân sự, thương mại, lao động ngày một gia tăng. Theo quy luật
chung, quan hệ xã hội nhiều sẽ dẫn đến các tranh chấp nhiều. Vì vậy, trong những
năm gần đây ngành Toà án nhân dân đã thụ lý giải quyết một khối lượng lớn các vụ
án tranh chấp liên quan đến dân sự, kinh tế, thương mại, lao động. Điều này đã tạo
ra một áp lực lớn về công việc cho ngành Toà án nhân dân.
Trong số các vụ án được Toà án nhân dân các cấp thụ lý, giải quyết hàng
năm có không ít vụ án có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản
đối yêu cầu của nguyên đơn hoặc các tranh chấp về tài sản có giá ngạch thấp. Tuy
nhiên, do pháp luật tố tụng dân sự không có quy định về thủ tục rút gọn nên những
vụ việc này vẫn phải tiến hành theo một trình tự thủ tục tố tụng thông thường. Hệ
quả là thời gian giải quyết vụ kiện sẽ bị kéo dài hoặc phải trải qua nhiều cấp xét xử
một cách không cần thiết gây mất thời gian, tổn phí cho các đương sự và Nhà nước.
Nhận thức được thực trạng này, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ ra rằng “Cải cách
tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội,…tiếp thu có chọn lọc
những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh của nước ta và yêu cầu



2
chủ động hội nhập quốc tế…” . Nghị quyết này cũng chỉ ra những nhiệm vụ trọng
1

tâm trong việc hoàn thiện thủ tục tố tụng tư pháp. Đó là cần phải “…Xây dựng cơ
chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất
định” 2. Tuy nhiên, do là một vấn đề khá mới mẻ nên nhận thức về thủ tục tố tụng
dân sự rút gọn này cũng còn có những ý kiến trái ngược nhau. Sự khác nhau về
nhận thức trên dẫn tới quá trình xây dựng thủ tục rút gọn ở Việt Nam đã gặp không
ít khó khăn. Việc khởi thảo thủ tục này có lẽ được tiến hành từ năm 1995 nhưng
cho đến hiện nay thì thủ tục này cũng chưa được quy định trong Bộ luật Tố tụng
dân sự của Việt Nam.
Với những lý do trên, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Thủ tục rút gọn trong tố
tụng dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Mục đích của việc nghiên cứu đề tài:
- Việc nghiên cứu đề tài trước hết là nhằm làm rõ bản chất của thủ tục tố
tụng dân sự rút gọn trong mối quan hệ với các thủ tục tố tụng dân sự khác. Bên
cạnh đó, tác giả cũng nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng thủ tục rút gọn theo pháp
luật tố tụng dân sự một số nước trên thế giới và các quy định có liên quan đến thủ
tục này trong lịch sử lập pháp Việt Nam nhằm rút ra bài học và vận dụng cho việc
xây dựng thủ tục này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu trên, luận văn tiếp tục luận giải để làm rõ cơ
sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự và
mạnh dạn đề xuất những kiến nghị cho việc xây dựng thủ tục này ở Việt Nam.
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn:

1


Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tr. 2.
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tr. 3, 4,
10.
2


3
- Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định có liên quan đến thủ tục rút
gọn trong các văn bản pháp luật từ trước đến nay và các quy định của pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thủ tục tố tụng dân sự.
- Luận văn còn đi sâu nghiên cứu thực tiễn hoạt động tố tụng của ngành Toà
án nhân dân từ đó làm rõ cơ sở của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân
sự Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu:
Bên cạnh việc nghiên cứu pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp dân sự
tại Việt Nam, luận văn còn mở rộng việc nghiên cứu đối với một số quy định về thủ
tục tố tụng dân sự rút gọn theo pháp luật một số nước trên thế giới như Pháp, Nga,
Canada, Nhật Bản và Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa nhằm so sánh, tham khảo.
3. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu để thực hiện luận văn được dựa trên cơ sở phương pháp
luận là chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật. Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, trong quá trình nghiên cứu tác giả đã
sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành. Phương
pháp phân tích được sử dụng nhằm nghiên cứu sâu sắc, kỹ lưỡng từng khía cạnh
của vấn đề. Phương pháp tổng hợp được sử dụng nhằm tổng kết, xâu chuỗi các vấn
đề với nhau. Ngoài ra, phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh, đối chiếu
pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nước trên thế giới có điều kiện tương
đồng hoặc có ảnh hưởng nhiều đến pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó, để triển khai
được đề tài tác giả còn sử dụng phương pháp xã hội học như lấy số liệu, sử dụng

các kết quả thống kê...v.v.


4
4. Những đóng góp của luận văn
Trên cơ sở xây dựng các tiền đề lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng thủ
tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam, luận văn đã đưa ra một số đề xuất về xây
dựng thủ tục này như phạm vi các loại việc có thể được giải quyết theo thủ tục tố
tụng dân sự rút gọn; các bước về trình tự, thủ tục tố tụng tại Toà án có thể đơn giản
hoá nhằm bảo đảm quyền kháng án của đương sự, sự đơn giản hoá về thành phần
người tiến hành tố tụng so với thủ tục tố tụng thông thường.
Luận văn “Thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn” hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà lập pháp trong quá trình
xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam trong thời gian tới, đồng thời
cũng là một tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn sinh viên luật học.
5. Bố cục của luận văn
Để triển khai các yêu cầu của đề tài, luận văn được trình bày theo kết cấu
gồm: phần mở đầu, ba chương và phần kết luận.
Ba chương của luận văn, được kết cấu như sau:
Chương 1: Khái quát về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
Tại Chương này, luận văn nghiên cứu làm rõ khái niệm về thủ tục tố tụng
dân sự rút gọn, ý nghĩa của việc xây dựng thủ tục này ở Việt Nam. Ngoài ra, tác giả
còn nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới về thủ tục tố
tụng dân sự rút gọn nhằm so sánh, tham khảo.
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
Tại Chương này, luận văn tập trung nghiên cứu nhằm làm sáng rõ cơ sở lý
luận của việc xây dựng thủ tục này ở Việt Nam. Đó là đường lối cải cách tư pháp


5

của Đảng - Nhà nước ta; các nguyên tắc cơ bản của luật dân sự và tính phù hợp
giữa thủ tục tố tụng dân sự được xây dựng phù hợp với tính chất của vụ việc.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu lược sử các quy định của pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam có liên quan đến việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn sẽ cung
cấp cho ta một cái nhìn hệ thống, là tiền đề cho việc kế thừa truyền thống lập pháp
khi xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam. Ngoài ra, việc nghiên cứu
thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp dân sự trong những năm qua của ngành
Toà án nhằm xác định những loại việc có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn và thiết
lập các cơ chế thủ tục tương ứng là hết sức cần thiết.
Chương 3: Một số yêu cầu và kiến nghị về xây dựng thủ tục tố tụng dân sự
rút gọn ở Việt Nam.
Dựa trên cơ sở là những nghiên cứu trong Chương 1 và Chương 2, tại
Chương 3 tác giả luận văn đưa ra yêu cầu của việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự
rút gọn, phạm vi những vụ việc được giải quyết theo thủ tục này đồng thời đưa ra
mô hình, trình tự thủ tục tiến hành tố tụng trong thủ tục tố tụng dân sự rút gọn tại
Việt Nam.
Phần kết luận: Tác giả luận văn tổng kết lại toàn bộ những vấn đề đã nghiên
cứu bao gồm: Khái niệm thủ tục tố tụng dân sự rút gọn, các vấn đề liên quan đến
thủ tục tố tụng dân sự rút gọn qua các thời kỳ trong pháp luật Việt Nam, thủ tục tố
tụng dân sự rút gọn của một số nước trên thế giới, cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự Việt Nam và đưa ra các yêu cầu cũng như kiến
nghị cụ thể về xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam.


6
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN
1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ
RÚT GỌN
1.1.1. Khái niệm thủ tục tố tụng dân sự rút gọn

Vấn đề xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự Việt Nam đang là một
vấn đề thời sự nhằm hiện thực hoá chiến lược cải cách tư pháp của Đảng, tạo thuận
lợi cho người dân thực hiện quyền tiếp cận công lý. Tuy nhiên, thủ tục rút gọn này
cần phải được xây dựng như thế nào, nó có tính chất, đặc điểm gì thì lại là một vấn
đề còn có những ý kiến khác nhau. Về lý luận thì vấn đề này dường như không
được đề cập tới trong các giáo trình luật tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay. Trên
thực tế thì trong hệ thống pháp luật của của Việt Nam hiện nay tất cả các vụ án dân
sự, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình đều được giải quyết theo một thủ
tục tố tụng thông thường phải trải qua tuần tự đầy đủ các bước của thủ tục sơ thẩm,
phúc thẩm…còn thủ tục tố tụng dân sự rút gọn chưa hề được quy định.
Việc khởi thảo xây dựng thủ tục này được bắt đầu từ năm 1995, nhưng có lẽ
do sự khác nhau về góc nhìn, những trở ngại tồn tại trong chính những quy định
mang tính nguyên tắc tổ chức hoạt động của Toà án như nguyên tắc xét xử có hội
thẩm nhân dân tham gia, Toà án xét xử và quyết định theo đa số, nguyên tắc thực
hiện chế độ hai cấp xét xử đã làm cho quá trình xây dựng thủ tục này ở Việt Nam
gặp không ít khó khăn. Do vậy, để có thể xây dựng thành công thủ tục rút gọn
trong tố tụng dân sự cần phải có sự nghiên cứu để nhận diện, làm sáng rõ về bản
chất của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn và ý nghĩa của nó.
Xét về lý luận thì các giáo trình luật tố tụng dân sự hiện nay của các cơ sở
đào tạo chỉ đề cập tới hai loại hình thủ tục tố tụng căn bản là thủ tục giải quyết vụ
án dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự không có tranh chấp. Tuy nhiên, mở
rộng nghiên cứu lý luận về thủ tục của các nước cho thấy đa số các nước đều có
phân loại các thủ tục tố tụng dân sự thành thủ tục tố tụng thông thường và các thủ
tục tố tụng đặc biệt. Theo đó, các thủ tục tố tụng dân sự đặc biệt này là thủ tục giải


7
quyết việc dân sự không có tranh chấp, thủ tục đơn giản hay thủ tục ra lệnh và thủ
tục đối với những vụ án có giá ngạch thấp. Dường như thuật ngữ “thủ tục rút gọn”
không tồn tại mà thay vào đó là thủ tục giản đơn hay thủ tục ra lệnh và thủ tục đòi

món nợ nhỏ.
Do vậy, nếu coi thủ tục rút gọn ở Việt Nam là thủ tục khác biệt với thủ tục
thông thường giải quyết vụ án và khác biệt với thủ tục giải quyết việc dân sự không
có tranh chấp thì cũng cần phải làm rõ nội hàm của khái niệm này. Xét về bản chất
thì thủ tục rút gọn là một dạng của thủ tục đặc biệt. Đó là sự giản lược, đơn giản
hóa một số khâu trung gian không cần thiết trong quá trình giải quyết vụ án nhằm
xử lí nhanh chóng, kịp thời các vụ án nhưng vẫn đảm bảo tính chính xác. Trong quá
trình xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự ở Việt Nam, đa số các ý kiến
đều thống nhất thủ tục rút gọn phải được áp dụng với những vụ việc đơn giản
nhưng việc đơn giản hoá hay rút ngắn ở những khâu nào so với thủ tục thông
thường thì cũng còn có ý kiến khác nhau.
Cho đến nay thì thủ tục tố tụng dân sự rút gọn vẫn chưa được hình thành ở
Việt Nam. Tuy nhiên, xét trong lĩnh vực tố tụng hình sự thì vấn đề thủ tục rút gọn
đã được đề cập trong khoa học luật hình sự, được quy định trong các văn bản pháp
luật và được áp dụng trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử một số loại vụ án hình
sự. Thủ tục này được áp dụng đối với những hành vi phạm tội quả tang, sự kiện
phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng, phạm tội ít nghiêm trọng, người phạm tội có
căn cước, lai lịch rõ ràng (Điều 319 BLTTHS). Thời hạn điều tra được rút ngắn chỉ
còn 12 ngày, thời hạn chuẩn bị xét xử là 7 ngày (Điều 321, Điều 324 BLTTHS) và
các thủ tục tố tụng khác cũng được giản lược. Điểm nhấn quan trọng là trong thủ
tục này thì bản án của Toà án vẫn được xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm.
Hiện nay, trong hệ thống pháp luật của nhiều nước trên thế giới đều có xây
dựng và áp dụng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn để giải quyết một số loại vụ án dân
sự nhất định. Vấn đề này sẽ được triển khai nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết
trong luận văn này nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm. Tuy nhiên, xét một
cách khái quát thì tuy pháp luật mỗi nước có những đặc thù riêng nhưng nhìn


8

chung thì thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự được hiểu là một thủ tục đơn giản
hơn thủ tục tố tụng thông thường về thành phần hội đồng xét xử, về thời gian tiến
hành tố tụng gắn với các bước chứng minh thu thập chứng cứ được áp dụng đối với
các vụ án có nội dung tranh chấp tương đối rõ ràng, bị đơn đã thừa nhận hoặc
không phản đối yêu cầu của nguyên đơn, các vụ án có giá ngạch thấp hoặc do các
bên đương sự lựa chọn giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn.
Xét về bản chất, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là thủ tục được tiến hành tại
Tòa án cấp sơ thẩm để xét xử các vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng, giá trị tranh
chấp nhỏ hoặc các vụ án mà các bên đương sự đã lựa chọn giải quyết tranh chấp
theo thủ tục rút gọn. Sau khi Tòa án sơ thẩm xét xử thì bản án của Toà án có hiệu
lực pháp luật ngay không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Thủ tục
tố tụng dân sự rút gọn là thủ tục được hình thành trên cơ cở sự đơn giản hóa, lược
hóa thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự thông thường.
Trong mối quan hệ giữa xét xử theo thủ tục tố tụng thông thường và thủ tục
xét xử theo thủ tục rút gọn thì thủ tục tố tụng dân sự thông thường là cơ sở cho việc
áp dụng giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn và bản chất của thủ tục rút gọn là sự
lược hoá một số bước của thủ tục tố tụng thông thường. Tuy nhiên, thủ tục tố tụng
dân sự rút gọn không phải là thủ tục phụ thuộc vào thủ tục tố tụng thông thường mà
thủ tục rút gọn là một thủ tục tố tụng độc lập tương đối so với thủ tục tố tụng thông
thường. Tính độc lập của thủ tục tố tụng rút gọn thể hiện trong trường hợp các bên
không nhất trí với phán quyết của Toà án theo thủ tục rút gọn thì có thể khởi kiện ra
Toà án theo thủ tục tố tụng dân sự thông thường hoặc nếu các điều kiện xét xử theo
thủ tục tố tụng rút gọn không còn đáp ứng thì vụ việc vẫn có thể được giải quyết
theo thủ tục tố tụng thông thường.
Từ những phân tích trên, tác giả cho rằng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là
một quy trình tố tụng riêng biệt được Toà án áp dụng để giải quyết các tranh chấp
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động có nội dung đơn
giản, rõ ràng, có giá ngạch thấp hoặc các bên đương sự thoả thuận lựa chọn thủ tục
này, theo đó, trong một thời hạn ngắn ngắn, thẩm phán độc lập tiến hành xem xét
và ra phán quyết về vụ án tranh chấp mà không nhất thiết phải tuân theo tuần tự các



9
bước như trong thủ tục tố tụng thông thường, phán quyết của thẩm phán hiệu lực
thi hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
1.1.2. Ý nghĩa của việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
Ý nghĩa to lớn của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn nằm ngay trong chính tên
gọi của thủ tục này với mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho người dân có thể tiếp
cận công lý một cách nhanh chóng. Việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn có
ý nghĩa không chỉ đối với các đương sự, Toà án mà nó còn có ý nghĩa xã hội rộng
lớn và sâu sắc.
Thứ nhất, việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn góp phần đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế và là sự hiện thực hoá chiến lược cải
cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta.
Trong xu thế hội nhập nền kinh tế quốc tế hiện nay đòi hỏi các thủ tục tố
tụng nói chung và thủ tục tố tụng tư pháp dân sự nói riêng phải đáp ứng được yêu
cầu về sự mềm dẻo, linh hoạt, nhanh chóng, thuận tiện để giải quyết kịp thời các
tranh chấp phát sinh. Việc cải cách thủ tục tố tụng tư pháp, trong đó có thủ tục tố
tụng dân sự theo hướng trên sẽ góp phần thúc đẩy các giao lưu kinh tế, thương mại,
dân sự…phát triển mạnh mẽ. Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành chưa
còn chưa thực sự mềm dẻo, linh hoạt, thời hạn giải quyết tranh chấp còn kéo dài,
phải trải qua nhiều khâu, nhiều bước nên chưa thực sự đáp ứng yêu cầu giải quyết
tranh chấp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, việc xây dựng thủ tục
tố tụng dân sự rút gọn với trình tự giải quyết đơn giản đặc biệt là thời hạn giải
quyết ngắn, các phán quyết có giá trị thi hành ngay…sẽ đáp ứng được nhu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế và hiện thực hoá chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 mà
Đảng và Nhà nước đã đề ra.


10

Thứ hai, việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn sẽ giảm đáng kể các
chi phí tố tụng cho đương sự và Toà án trong quá trình giải quyết vụ án. Thông
thường pháp luật các nước có quy định về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn đều quy
định án phí mà đương sự phải chịu là thấp hơn so với thủ tục tố tụng thông thường.
Bên cạnh đó, do các vụ án đơn giản, xét xử nhanh nên các chi phí đi lại, thuê luật
sư không phát sinh. Tòa án cũng không phải tiến hành tất cả các trình tự, thủ tục để
đưa vụ án ra xét xử mà gần như chỉ căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do các bên
đương sự cung cấp. Vì vậy, các chi phí phát sinh như định giá, thẩm định tại chỗ,
thu thập tài liệu, chứng cứ cũng không phát sinh.
Thứ ba, trong thủ tục tố tụng dân sự rút gọn, thời gian để tiến hành tố tụng
được rút gắn đi rất nhiều lần so với thủ tục tố tụng dân sự thông thường. Do vậy,
quyền lợi hợp pháp của đương sự sẽ được bảo vệ một cách nhanh chóng, kịp thời.
Xét về thực tế thì do các bước về thủ tục được giản lược nên Toà án sẽ giảm
được tối đa các công việc không cần thiết, số lần đi lại để triệu tập đương sự, người
làm chứng, thu thập chứng cứ cũng theo đó mà giảm đáng kể, thời hạn giải quyết
vụ án sẽ không bị kéo dài một cách không cần thiết. Mặt khác, sau khi Toà án xét
xử và quyết định theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn thì bản án, quyết định sẽ có
hiệu lực pháp luật ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
nên đã đáp ứng được yêu cầu về tính nhanh hơn, hiệu quả trong việc bảo vệ quyền
lợi của đương sự. Mặt khác, thủ tục này còn có ý nghĩa khắc phục tình trạng bị đơn
lợi dụng quyền kháng cáo để kéo dài thời gian, trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ dân
sự của mình gây thiệt hại cho quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn.
Thứ tư, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn đáp ứng yêu cầu về bảo đảm quyền
tiếp cận công lý của công dân, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho Toà án có thể


11
nhanh chóng giải quyết vụ án. Đối với công dân thì thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
sẽ tạo điều kiện thuận lợi để họ tiến hành khởi kiện và tham gia tố tụng tại Tòa án
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trong các vụ án có nội dung tranh

chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản đối yêu cầu của nguyên
đơn...thì cả nguyên đơn và bị đơn không phải trải qua tất cả các thủ tục tố tụng tố
tụng như trong thủ tục thông thường, mà chỉ tiến hành một số thủ tục luật định cần
thiết cho việc giải quyết vụ án.
Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là phương tiện để Thẩm phán có thể chủ động
và linh hoạt trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự vì họ không phải
thực hiện tất cả các trình tự, thủ tục như thủ tục tố tụng dân sự thông thường. Ngoài
ra, với đặc điểm của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là thời gian giải quyết nhanh
chóng, bản án có hiệu lực pháp luật ngay, trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng đơn
giản nên thủ tục này sẽ là một phương tiện được người dân tin cậy trong việc sử
dụng để nhanh chóng bảo vệ quyền lợi của mình. Từ đó hạn chế được các hiện
tượng tiêu cực hiện nay như khiếu kiện kéo dài hoặc người dân thiếu tin tưởng vào
tính hiệu quả của hệ thống Toà án nên đã tự mình hành xử bằng cách bắt nợ, đòi nợ
thuê dẫn đến gây mất trật tự xã hội và có thể phát sinh thành các tội phạm hình sự.
Thứ năm, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn góp phần giảm áp lực công việc cho
cán bộ ngành Toà án, đặc biệt là đối với Thẩm phán khi mà số lượng các vụ án
tranh chấp về dân sự, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình ngày một gia
tăng. Trong điều kiện không thể tăng biên chế Thẩm phán tương ứng với sự gia
tăng số lượng công việc và ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp thì việc xây dựng thủ
tục tố tụng dân sự rút gọn với một trình tự, thủ tục đơn giản, thời gian giải quyết
ngắn sẽ giúp cho các Thẩm phán nâng cao hiệu quả trong công tác xét xử, chủ động


12
giải quyết được số các vụ án có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng, giá ngạch
thấp. Do vậy, Thẩm phán sẽ có thời gian tập trung nghiên cứu, giải quyết các vụ án
có tính chất phức tạp đòi hỏi một trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ.
1.2. THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN THEO PHÁP LUẬT
MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI
Trong giai đoạn Nhà nước ta đang đẩy mạnh thực hiện mục tiêu cải cách tư

pháp nói chung và thủ tục tố tụng dân sự nói riêng thì việc tham khảo thủ tục tố
tụng dân sự của các nước trên thế giới đặc biệt là các nước có nền lập pháp phát
triển, có tầm ảnh hưởng lớn hoặc các nước có điều kiện, hoàn cảnh tương đồng với
Việt Nam là cần thiết. Do đây là một vấn đề khá mới, về lý luận cũng chưa có
nhiều công trình nghiên cứu sâu, về lập pháp thì chúng ta chưa có nhiều kinh
nghiệm nên ngoài khái khái niệm căn bản về thủ tục rút gọn đã được xây dựng ở
trên thì việc tham khảo các quy định về thủ tục này theo pháp luật của các nước sẽ
giúp ta có một nền tảng vững chắc hơn khi xây dựng thủ tục này ở Việt Nam. Trên
cơ sở tham khảo, đối chiếu và so sánh, tác giả sẽ rút ra bài học kinh nghiệm, tìm
kiếm các nhân tố hợp lý cho việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt
Nam.
1.2.1. Thủ tục tố tụng rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự Pháp
Bộ luật tố tụng dân sự Pháp được ban hành năm 1806 và liên tục được sửa
đổi, bổ sung nhiều lần cho tới thời điểm này vẫn quy định đối với những tranh chấp
có giá trị nhỏ sẽ được giải quyết theo trình tự đơn giản. Các phán quyết của Toà án
cụ thể là của Thẩm phán trong trường hợp này sẽ có hiệu lực pháp luật ngay mà
không bị kháng cáo theo trình tự phúc thẩm. Các vụ tranh chấp về tài sản có giá trị
dưới 13.000 francs trước Toà án thương mại và Toà án sơ thẩm thẩm quyền hẹp sẽ
không bị kháng cáo lên Toà phúc thẩm. Sau này giá trị việc kiện như thế nào được


13
coi là nhỏ sẽ có sự thay đổi cho phù hợp với tình hình kinh tế của nước Pháp. Theo
Nghị định ngày 28/12/1998 quy định về thẩm quyền thì Toà án sơ thẩm có thẩm
quyền hẹp xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm những việc tranh chấp tài sản có
giá trị dưới 25.000 francs... Theo Sắc lệnh ngày 28/12/2005 thì những vụ kiện có
giá trị dưới 4000 euros sẽ không bị kháng cáo phúc thẩm.
Bên cạnh việc quy định về thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung thẩm của
Toà án sơ thẩm thẩm quyền hẹp, Bộ luật tụng dân sự Pháp còn quy định về thủ tục
xét xử cấp thẩm. Tại khoản 2 Điều 809 Bộ luật tố tụng dân sự Pháp quy định trong

trường hợp trái vụ là rõ ràng không còn tranh cãi, Chánh án có thể quyết định cho
chủ nợ được tạm ứng trước hoặc ra lệnh thi hành nghĩa vụ, ngay cả khi đó là nghĩa
vụ phải làm một công việc gì đó. Theo cơ chế xét xử cấp thẩm như vậy thì trên
thực tế Thẩm phán đã ra quyết định cuối cùng để giải quyết tranh chấp mà không
cần phải mở phiên toà xét xử nữa.
Trong trường hợp này thủ tục xét xử cấp thẩm được coi là thủ tục đơn giản,
vì nguyên đơn chỉ có nghĩa vụ cung cấp cho Toà án biết những yêu cầu của mình
ghi trong giấy tống đạt gọi bị đơn ra Toà. Điều 514 Bộ luật tố tụng dân sự Pháp quy
định “Quyết định của Thẩm phán thụ lý hồ sơ cho phép thanh toán nợ là quyết định
đương nhiên có hiệu lực thi hành tạm thời”. Trên thực tế rất ít khi quyết định xử
cấp thẩm bị kháng cáo lên Toà phúc thẩm và số quyết định của thẩm phán xử cấp
thẩm có hiệu lực pháp lý là không nhỏ. Theo thống kê năm 1998 trong số 242.153
quyết định xử cấp thẩm chỉ có 6,2% quyết định bị kháng cáo lên Toà phúc thẩm
[29].
Như vậy, theo pháp luật tố tụng dân sự Pháp, quyết định xét xử cấp thẩm như
quyết định tạm ứng toàn bộ giá trị của trái vụ cho chủ nợ có hiệu lực tạm thời và
được thi hành ngay lập tức và nếu như quyết định này không bị kháng cáo phúc


14
thẩm thì thủ tục xử cấp thẩm chính là thủ tục đơn giản, không tốn kém nhanh chóng
đưa đến một quyết định rõ ràng và đáp ứng được đòi hỏi về một cơ chế xét xử hiện
đại góp phần làm giảm nhẹ gánh nặng cho Toà án.
Trong Bộ luật tố tụng dân sự Pháp, bên cạnh việc quy định các vụ kiện có
giá ngạch thấp, về thủ tục cấp thẩm BLTTDS Pháp cũng có những quy định về thủ
tục đơn giản hơn so với thủ tục thông thường là thủ tục ra lệnh thanh toán nợ và thủ
tục ra lệnh buộc thực hiện một công việc. Theo Điều 1405 BLTTDS Pháp thì Toà
án ra lệnh thanh toán nợ trong những trường hợp sau:
- Khoản nợ có nguồn gốc từ một hợp đồng hoặc từ một nghĩa vụ theo điều lệ
và là một số tiền nhất định; nếu là do hợp đồng thì được xác định theo các điều

khoản của hợp đồng, kể cả điều khoản phạt nếu có;
- Nợ do cam kết nhận hoặc rút hối phiếu (LC), ký nhận một kỳ phiếu, chuyển
nhượng hoặc bảo lãnh các loại tín phiếu ấy hoặc nhận chuyển nhượng một khoản
nợ theo quy định tại Luật số 81-1 ngày 2/1/1981 khuyến khích tín dụng doanh
nghiệp.
Thủ tục ra lệnh thanh toán nợ tuỳ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết
của Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp, Toà thương mại hoặc Toà án giản lược. Về thủ
tục, nếu xét thấy đơn có căn cứ, Thẩm phán ra lệnh trả số tiền được yêu cầu (Điều
1409). Trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày tống đạt quyết định của Toà án, người
mắc nợ có quyền phản kháng lệnh trả nợ, đơn kháng án có hiệu lực yêu cầu Toà án
xem xét lại đơn yêu cầu thu hồi nợ của chủ nợ và giải quyết toàn bộ tranh chấp
(Điều 1412, Điều 1416). Trong trường hợp lệnh trả tiền không có phản kháng trong
thời hạn 01 tháng kể từ ngày tống đạt lệnh buộc trả nợ, chủ nợ có quyền yêu cầu
ghi thể thức thi hành vào bản mệnh lệnh. Quyết định buộc thanh toán nợ có đầy đủ
hiệu lực như một bản án xử có mặt cả hai bên và không bị kháng cáo (Điều 1422).


15
Một thủ tục đơn giản khác được quy định trong BLTTDS Pháp là thủ tục ra
lệnh buộc làm một công việc. Theo đó, nếu giá trị của trái vụ không vượt quá thẩm
quyền của Toà sơ thẩm thẩm quyền hẹp, đương sự có thể làm đơn đề nghị Toà sơ
thẩm thẩm quyền hẹp cho thanh toán bằng hiện vật trái vụ phát sinh từ hợp đồng
giữa những người không phải là thương nhân (Điều 1425-1). Sau khi xem xét các
tài liệu, nếu thấy đơn có căn cứ, Thẩm phán ra quyết định bắt buộc thực hiện trái
vụ, quyết định này có hiệu lực thi hành ngay, không được phản kháng ( Điều 14254). Tuy nhiên, trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ lệnh thi hành nghĩa vụ
không được thực hiện. Toà án sẽ xét xử theo yêu cầu của nguyên đơn, sau khi hoà
giải không thành (Điều 1425-8).
1.2.2 Thủ tục ra lệnh thanh toán nợ theo pháp luật tố tụng dân sự Nga
Trong pháp luật tố tụng dân sự Nga không có sự phân biệt rõ rệt hai loại hình
thủ tục tố tụng ra lệnh là ra lệnh thanh toán nợ và thủ tục ra lệnh buộc thực hiện

một công việc như trong Tố tụng dân sự của Pháp mà chỉ quy định một thủ tục
chung là thủ tục ra lệnh.
Về phạm vi áp dụng, theo Điều 121 BLTTDS Nga thì lệnh của Toà án quyết định của Toà án do một Thẩm phán ban hành dựa trên yêu cầu đòi nợ hoặc
đòi lại tài sản khi có đủ căn cứ theo quy định của pháp luật Nga. Điều 121
BLTTDS Nga quy định Toà án cấp lệnh, nếu:
- Yêu cầu căn cứ vào giao dịch đã được công chứng;
- Yêu cầu căn cứ vào giao dịch được thực hiện dưới hình thức văn bản viết
không cần công chứng, chứng thực;
- Yêu cầu căn cứ vào đơn bác lại kỳ phiếu về việc không trả tiền, không chấp
nhận và chấp nhận không định ngày tháng;


16
- Yêu cầu đòi tiền cấp dưỡng cho trẻ chưa thành niên không liên quan đến
việc xác định cha, mẹ hoặc không liên quan đến việc phải triệu tập thêm người
khác;
- Yêu cầu công dân nộp khoản thuế bị thất thu hoặc nộp những khoản tiền
bắt buộc khác;
- Yêu cầu đòi khoản tiền lương đã được chấm công nhưng chưa được trả
người lao động.
- Yêu cầu của các cơ quan công an, cơ quan thuế vụ, cơ quan thừa phát lại
đòi hoàn trả chi phí cho việc tìm kiếm bị đơn, người có nghĩa vụ và tài sản của
người đó, hoặc chi phí cho việc tìm kiếm trẻ em bị người có nghĩa vụ đem đi mất,
hoặc chi phí liên quan đến việc bảo quản tài sản của người có nghĩa vụ bị thu giữ
và bảo quản tài sản của người có nghĩa vụ khi bị buộc chuyển đi nơi ở khác”
Về thủ tục ra lệnh thanh toán, theo quy định tại Điều 126 BLTTDS Nga thì
lệnh thanh toán được ban hành trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu
cầu mà không cần phải mở phiên toà xét xử và không phải triệu tập các bên để
nghe lời giải thích của họ. Sau khi ra lệnh, Thẩm phán gửi bản sao lệnh của Toà án
cho người có nghĩa vụ thi hành. Người có nghĩa vụ có quyền phản đối trong thời

hạn 10 ngày kể từ ngày nhận bản sao. Nếu người có nghĩa vụ phản đối trong thời
hạn luật định, Thẩm phán huỷ bỏ lệnh của Toà án. Trong trường hợp hết thời hạn
luật định mà người có nghĩa vụ không phản đối, Toà án chuyển cho người yêu cầu
bản thứ hai lệnh của Toà án để đưa ra thi hành (Điều 128, 129, 130 BLTTDS Nga).
1.2.3. Thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự Quebec Canada
Pháp luật tố tụng dân sự của Quebec Canada quy định thủ tục xét xử đơn
giản đối với một số loại tranh chấp bằng phương pháp tờ khai [ 28]. Theo đó, quy
định về thủ tục xét xử đơn giản được áp dụng với tất cả các tranh chấp có giá trị


17
hoặc giá trị của đối tượng tranh chấp bằng hoặc ít hơn 50.000 $, kể cả tiền lãi dồn
đến ngày khởi kiện và tiền bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật dân sự.
Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn cũng được áp dụng đối với khiếu kiện đòi bồi
thường, bất kể giá trị tranh chấp, trong bất kỳ các tranh chấp sau đây:
- Giá bán bất động sản;
- Giá trong hợp đồng dịch vụ, ngoài hợp đồng gắn liền với bất động sản nếu
giá trị tranh chấp của đối tượng lớn hơn 50.000 $, hay trong hợp đồng cho thuê
hoặc hợp đồng vận chuyển hàng hoá;
- Các khiếu kiện liên quan đến hợp đồng thuê nhân công, hợp đồng cho thuê,
hợp đồng gửi tiền có lãi hoặc hợp đồng vay tiền;
- Tiền thù lao của người được uỷ thác, người bảo hành hoặc viên chức dịch
vụ;
- Hối phiếu, séc, giấy hẹn trả tiền hoặc giấy biên nhận nợ;
- Thuế, thuế suất và định giá tính thuế theo bất kỳ luật nào.
Trong quá trình xét xử theo thủ tục rút gọn, mỗi bên có thể yêu cầu Toà án
cho phép tranh tụng, chứng minh và xét xử được tiến hành theo các quy định chung
về thủ tục xét xử sơ thẩm thông thường. Theo đề nghị Toà án có thể ra lệnh việc xét
xử được tiến hành theo thủ tục tố tụng thông thường khi nhận thấy sự phức tạp của
vụ án hoặc có căn cứ cho rằng việc tiếp tục xét xử theo thủ tục rút gọn sẽ dẫn tới sự

không công bằng cho một trong các bên đương sự. Trong quá trình tố tụng, các bên
đương sự phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, nếu không cung cấp sẽ bị mất quyền
được Toà án bảo vệ. Trong trường hợp có yêu cầu ngược lại của bị đơn đối với
nguyên đơn thì vụ án đó chỉ có thể chuyển sang thủ tục tố tụng thông thường nếu
Toà án quyết định cần phải chuyển vụ án đó sang thủ tục tố tụng thông thường.


18
1.2.4. Thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự Nhật Bản
Bộ luật tố tụng dân sự Nhật Bản được ban hành năm 1890, từ đó đến nay liên
tục được sửa đổi, bổ sung theo hướng các tranh chấp dân sự phải được giải quyết
nhanh chóng, đơn giản. Ở Nhật Bản chế độ xét xử được phân làm 02 cấp: Cấp sơ
thẩm và cấp phúc thẩm. Toà án cấp sơ thẩm bao gồm: Toà rút gọn, Toà gia đình và
Toà cấp quận. Trong đó, Tòa rút gọn giải quyết kiện tụng dân sự hoặc hành chính
mà giá trị vụ việc không vượt quá 900.000 Yên Nhật. Hiện nay, Nhật Bản có 438
Toà rút gọn đặt ở các địa phương.
Pháp luật tố tụng dân sự Nhật Bản quy định hai loại việc được phép áp dụng
thủ tục xét xử rút gọn đó là yêu cầu thanh toán nhanh và yêu cầu buộc thanh toán
[27]:
- Yêu cầu đề nghị thanh toán nhanh được áp dụng đối với những yêu cầu
thanh toán tiền, những vật thay thế, hoặc một số lượng nhất định chứng khoán có
thể chuyển nhượng. Thư ký Toà án có thể ban hành một yêu cầu thanh toán nhanh
theo đề nghị của chủ nợ. Yêu cầu thanh toán nhanh chỉ có thể được áp dụng đối với
trường hợp có thể tống đạt trực tiếp mà không cần phải sử dụng đến việc niêm yết
công khai tại Nhật Bản. Đối với loại yêu cầu đề nghị thanh toán nhanh thì các quy
định về thủ tục xét xử thông thường không mâu thuẫn với thủ tục xét xử rút gọn
cũng được áp dụng. Toà án có thể huỷ bỏ đơn yêu cầu thanh toán nhanh đó trong
thời hạn ấn định là một tuần kể từ ngày nhận được thông báo. Sau khi có quyết
định giải quyết yêu cầu phản đối việc giải quyết đơn yêu cầu của đương sự, đương
sự không có quyền kháng cáo quyết định giải quyết đơn khiếu nại.

- Yêu cầu buộc thanh toán được áp dụng đối với người có nghĩa vụ thanh
toán liên quan đến một người có văn phòng hoặc địa điểm kinh doanh hoặc công


19
việc tại văn phòng hoặc địa điểm kinh doanh. Yêu cầu buộc thanh toán cũng được
áp dụng đối với người có nghĩa vụ thanh toán theo yêu cầu thanh toán liên quan
đến chứng từ có giá hoặc séc. Đơn yêu cầu thanh toán được làm theo mẫu và nộp
cho Toà án có thẩm quyền (Điều 383). Toà án phải tiến hành tống đạt yêu cầu buộc
thanh toán cho người có nghĩa vụ, trường hợp không tống đạt được, mà chủ nợ
cũng không đưa ra được địa chỉ khác thay thế trong vòng 2 tuần kể từ khi nhận
được thông báo của Toà án thì bị coi là rút đơn đề nghị yêu cầu buộc thanh toán
(Điều 388).
Trong trường hợp có yêu cầu phản đối hợp lệ việc buộc thanh toán trước khi
Tòa án ra quyết định thì tuyên bố thi hành tạm thời sẽ bị mất hiệu lực. Nếu người
có nghĩa vụ không đưa ra được yêu cầu phản đối việc buộc thanh toán trong vòng 2
tuần kể từ ngày Toà án tống đạt yêu cầu buộc thanh toán, thư ký Toà án sẽ tuyên bố
việc thi hành tạm thời (Điều 391) [27].
Tuyên bố thi hành tạm thời sẽ được đề cập đến trong yêu cầu buộc thanh
toán và được Toà án gửi cho các bên liên quan. Các bên liên quan có thể nộp đơn
kháng cáo khẩn cấp để chống lại yêu cầu tuyên bố thi hành tạm thời. Chủ nợ có
quyền yêu cầu tuyên bố việc thi hành tạm thời trong vòng 30 ngày kể từ ngày chủ
nợ có thể yêu cầu thanh toán. Sau khi hết thời hạn 02 tuần kể từ ngày yêu cầu buộc
thanh toán kèm theo tuyên bố thi hành tạm thời được tống đạt, người có nghĩa vụ
mất quyền đưa ra yêu cầu phản đối việc thanh toán. (Điều 393). Đương sự có thể
nộp đơn kháng cáo đối với quyết định của Toà án rút gọn. Cụ thể là trong trường
hợp yêu cầu phản đối việc thanh toán là hợp lệ thì vụ kiện được xem là đã được
khởi kiện tại Toà án rút gọn theo thủ tục xét xử thông thường (Điều 395). Nếu



×