Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Hòa giải trong tố tụng dân sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.29 KB, 62 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong dân gian đã có câu “vô phúc đáo tụng đình”; song lại có câu “dĩ hòa
vĩ quý”. Vì vậy hòa giải đã trở thành một truyền thống tốt đẹp, rất đáng khuyến
khích để giải quyết những mâu thuẫn tranh chấp trong đời sống xã hội. Trong
pháp luật tố tụng dân sự, hòa giải đã trở thành hoạt động tố tụng có tính bắt buộc
đối với hầu hết các vụ án dân sự. Thông qua hòa giải, Tòa án giúp đỡ các đương
sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án phù hợp quy định của
pháp luật, rút ngắn quá trình tố tụng, nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án dân
sự.
Văn bản pháp luật đầu tiên quy định về hòa giải là Sắc lệnh số 13 ngày
21/1/1946 về tổ chức Tòa án. Sau đó, hòa giải tiếp tục được kế thừa và phát triển
trong hàng loạt các văn bản pháp luật sau đó: Sắc lệnh 85/SL ngày 22/5/1950 về
cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng; Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm
1960; Thông tư số 25-TATC hướng dẫn việc hòa giải trong tố tụng dân
sự...PLTTGQCVADS năm 1989 và BLTTDS 2004
Kế thừa có chọn lọc các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án dân sự (PLTTGQCVADS) không thể phủ nhận về tính hoàn thiện và sự phát
triển đúng đắn của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS). Tuy nhiên, qua
thực tiễn thi hành BLTTDS trong những năm qua cho thấy một số quy định của
BLTTDS nói chung và của chế định hòa giải nói riêng đã bộc lộ những hạn chế,
bất cập; có những quy định còn thể hiện sự không thống nhất với các văn bản
quy phạm pháp luật khác; có những quy định chưa phù hợp (hoặc không còn
phù hợp) với thực tiễn áp dụng, chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có những cách
hiểu khác nhau... cần được sửa đổi.
Với nhận thức như vậy, em đã chọn đề tài “Hòa giải trong tố tụng dân
sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp
đại học. Qua quá trình nghiên cứu, em mong muốn tìm hiểu sâu sắc, rộng hơn
những quy định của pháp luật, trên cơ sở đó mạnh dạn đưa ra những kiến nghị
nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của BLTTDS về hòa giải góp phần nâng
cao hiệu quả hòa giải trong tố tụng dân sự.


2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của khóa luận là trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu lý
luận và thực tiễn về hòa giải trong tố tụng dân sự, đề xuất một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả hòa giải các vụ án
dân sự.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của khóa luận:
+ Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hòa giải trong tố tụng dân sự.
+ Quy định của pháp luật về hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp
dụng chế định này trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự.
+ Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định hòa giải trong tố tụng dân
sự.
- Phạm vi nghiên cứu của khóa luận:
Khóa luận tập trung nghiên cứu những quy định của BLTTDS 2004 về
hòa giải và thực tiễn áp dụng chế định này.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của khóa luận
Ý nghĩa khoa học: Khóa luận góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận
và thực tiễn về hòa giải trong tố tụng dân sự.
Ý nghĩa thực tiễn: Khóa luận đề xuất những kiến nghị về hoàn thiện quy
định của pháp luật về hòa giải trong tố tụng dân sự.
5. Bố cục của khóa luận
Khóa luận ngoài lời mở đầu và kết luận được chia làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hòa giải trong tố tụng dân sự.
Chương 2: Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay về hòa giải trong
tố tụng dân sự.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định về hòa giải và kiến nghị.
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA HÒA GIẢI

TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.1 Khái niệm hòa giải
Tố tụng dân sự có thể được hiểu dưới hai góc độ: Dưới góc độ pháp lý là
một ngành luật tố tụng cụ thể còn dưới góc độ hoạt động tố tụng là những hoạt
động do các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng dân sự thực hiện. [12]
Dưới góc độ pháp lý, tố tụng dân sự là tổng hợp các quy phạm pháp luật do
nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong quá trình
giải quyết vụ việc về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại và lao
động tại Tòa án đảm bảo sự nhanh chóng, chính xác trong quá trình giải quyết
và thi hành án, đặt ra các chế tài bảo vệ quyền lợi của nhà nước, của công dân.
Dưới góc độ hoạt động tố tụng thì tố tụng dân sự là một quy trình các thủ
tục do pháp luật quy định buộc mọi chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng phải
thực hiện nhằm giải quyết nhanh chóng, chính xác vụ án dân sự, bảo vệ đúng
đắn quyền, lợi ích của nhà nước và của công dân.
Xuất phát từ hai cách tiếp cận đối với tố tụng dân sự nên hòa giải trong tố
tụng dân sự cũng có thể nhìn dưới hai góc độ: (1) dưới góc độ hoạt động tố tụng
thì hòa giải là hoạt động tố tụng do Tòa án tiến hành và (2) dưới góc độ pháp
luật: Hòa giải là một chế định pháp lý.
Để tìm hiểu khái niệm hòa giải trong tố tụng dân sự dưới hai góc độ này,
trước tiên ta cần tìm hiểu khái niệm thuật ngữ “hòa giải”.
Theo Từ điển tiếng việt thì hòa giải là “thuyết phục các bên đồng ý chấm
dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa” [17, tr.430]. Khái niệm này đề
cập đến hành động và mục đích của hòa giải nhưng chưa nêu được các yếu tố
như bản chất, nội dung và chủ thể của hòa giải.
Trong Từ điển pháp lý của Rothenberg, hòa giải (reconciliation) là “hành
vi thỏa hiệp giữa các bên sau khi có tranh chấp, mỗi bên nhượng bộ một ít” [16,
tr.410]. Còn Từ điển luật học của Black cho rằng, hòa giải là “sự can thiệp; sự
làm trung gian hòa giải; hành vi của người thứ ba làm trung gian giữa hai bên
tranh chấp nhằm thuyết phục dàn xếp hoặc tranh chấp giữa họ”.[15, tr.152]
Định nghĩa của Rothenberg đã nêu được bản chất của hòa giải nhưng chưa

nêu được hành vi, vai trò trung gian của bên thứ ba trong hòa giải. Điều này đã
được khắc phục trong Từ điển luật học của Black.
Cả ba khái niệm nêu trên cho thấy hòa giải có ba yếu tố. Thứ nhất là phải
có tranh chấp giữa hai bên. Thứ hai là có sự thống nhất ý chí giữa các bên để
giải quyết tranh chấp thông qua việc mỗi bên nhượng bộ một ít. Thứ ba là trong
quá trình hòa giải phải có sự tham gia của bên thứ ba trung lập để cho ý kiến tư
vấn đồng thời công nhận thủ tục hòa giải thành giữa các bên trong tranh chấp.
Nếu không có sự tham gia của bên thứ ba thì quá trình này không gọi là hòa giải
mà là thương lượng giữa các bên. Trong tố tụng dân sự bên thứ ba này chính là
Thẩm phán - đại diện cho Tòa án.
Trong khoa học pháp lý cũng có nhiều quan điểm khác nhau về hòa giải.
Có quan điểm cho rằng “hòa giải là quá trình giải quyết những tranh chấp, bất
đồng giữa các bên. Trong quá trình hòa giải cần đến bên thứ ba với vai trò trung
lập, làm trung gian giúp các bên tranh chấp giải quyết được những bất đồng và
đạt được một thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật, đạo đức xã hội và
tự nguyện thực hiện những thỏa thuận đó” [14]. Theo quan điểm này, hòa giải có
mục đích giải quyết thành công tranh chấp. Tuy nhiên, không phải tất cả các
trường hợp hòa giải đều thành công. Khi đó, dù mâu thuẫn chưa được giải quyết
hoàn toàn nhưng các bên tranh chấp cũng có cơ hội hiểu rõ hơn nội dung tranh
chấp, bày tỏ ý chí của mình với đối phương và cũng được nghe ý kiến của đối
phương về vụ tranh chấp. Từ đó, hai bên có thể phần nào tìm được tiếng nói
chung và làm giảm mức độ mâu thuẫn.
Có quan điểm cho rằng:“hòa giải là một biện pháp giải quyết các tranh
chấp, theo đó, với sự giúp đỡ của một bên thứ ba độc lập giữ vai trò trung gian,
các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận giải quyết tranh chấp phù hợp với quy
định pháp luật, truyền thống đạo đức xã hội”.[13]
Khái niệm này được nhiều người thừa nhận hơn cả, bởi đã thể hiện được
bản chất, đặc điểm của hòa giải và vai trò của bên trung gian thứ ba trong hòa
giải: Hòa giải là một biện pháp giải quyết tranh chấp; chủ thể trung tâm của hòa
giải là bên trung gian giúp cho các bên tranh chấp thỏa thuận với nhau về việc

giải quyết tranh chấp; sự thỏa thuận về giải quyết tranh chấp do chính các bên
tranh chấp quyết định.
Như vậy, xem xét ở mức độ chung nhất thì“hòa giải là biện pháp giải
quyết tranh chấp, mà theo đó các bên trong quá trình thương lượng có sự tham
gia của bên thứ ba độc lập làm vai trò trung gian để hỗ trợ cho các bên nhằm tìm
kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết xung đột, chấm dứt các tranh
chấp, bất hòa”. [20,tr.42]
Hoạt động tố tụng dân sự là hoạt động của những người tiến hành tố tụng
và người tham gia tố tụng tiến hành trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
Theo Điều 1 BLTTDS thì quá trình tố tụng dân sự bao gồm việc khởi kiện, hòa
giải, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và thi hành bản án,
quyết định của Tòa án. Như vậy, dưới góc độ hoạt động tố tụng, hòa giải cũng là
một dạng hoạt động do pháp luật quy định cho Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ
các bên đương sự hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình và hướng dẫn động viên
các đương sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc đang có
tranh chấp.
Dưới góc độ pháp luật, hòa giải được coi là chế định pháp luật, bao gồm
tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình hòa giải các vụ án dân sự. Theo chế định này, hòa giải là một nguyên tắc,
thủ tục giải quyết các vụ án dân sự do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương
sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án phù hợp với quy định
của pháp luật và đạo đức xã hội [11]. Các vấn đề liên quan tới hòa giải được
pháp luật tố tụng dân sự quy định bao gồm: Nguyên tắc hòa giải, chủ thể hòa
giải, phạm vi hòa giải và thủ tục tiến hành hòa giải.
1.1.2. Đặc điểm của hòa giải trong tố tụng dân sự
1.1.2.1. Hòa giải là một nguyên tắc trong quá trình giải quyết vụ án dân sự
Hoạt động giải quyết vụ án dân sự của Toà án phải tuân theo những
nguyên tắc do pháp luật tố tụng dân sự quy định. Tại chương II "Những nguyên
tắc cơ bản" của BLTTDS có quy định về hoà giải trong tố tụng dân sự. Theo đó
hoà giải là trách nhiệm của Toà án nhằm giúp đỡ đương sự thoả thuận với nhau.

Điều 180, Điều 220 và Điều 268 BLTTDS quy định hòa giải có tính bắt
buộc phải tiến hành trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, trừ những vụ án không
được tiến hành hòa giải hoặc không hòa giải được và ở các giai đoạn tố tụng tiếp
theo, nếu thấy có khả năng hòa giải thành thì tòa án cũng tiến hành hòa giải.
Hòa giải được pháp luật tố tụng dân sự quy định thuộc trách nhiệm của
Tòa án, được Tòa án thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, nhằm
đảm bảo cho đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của mình. Thực hiện hòa
giải cũng là việc tận dụng tối đa cơ hội rút ngắn quá trình tố tụng, nâng cao hiệu
quả hoạt động xét xử, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời còn mang ý nghĩa xã hội sâu
sắc trong việc củng cố tình tương thân, tương ái, giữ gìn khối đoàn kết cộng
đồng.
1.1.2.2. Hòa giải là hoạt động do Tòa án tiến hành
Trong hoạt động hòa giải, Tòa án xuất hiện không phải với tư cách một
bên tham gia hòa giải mà là người tổ chức, bố trí cho các đương sự thương
lượng, thỏa thuận với nhau. Với vai trò của mình, Tòa án giải thích cho các
đương sự hiểu được quyền, nghĩa vụ pháp luật có liên quan đến tranh chấp cần
hòa giải. Kết quả hòa giải do Tòa án tiến hành là những văn bản có tính chất
pháp lý (biên bản hòa giải thành hoặc không thành), là cơ sở để tiếp tục các hành
vi tố tụng tiếp theo.
Sự có mặt của Tòa án trong hòa giải khẳng định vị trí trung gian của Tòa
án trong việc hòa giải các vụ án dân sự. Đặc điểm này là dấu hiệu để phân biệt
hòa giải trong tố tụng dân sự với hòa giải ngoài tố tụng dân sự và trường hợp các
đương sự tự hòa giải, cụ thể là:
- Trong tố tụng dân sự hòa giải do Tòa án chủ động tổ chức và trực tiếp
tham gia với vai trò giải thích, động viên các đương sự tự thỏa thuận. Còn hòa
giải ngoài tố tụng là việc hòa giải không do Tòa án tiến hành mà do các chủ thể
khác như ủy ban nhân dân, tổ hòa giải cơ sở thực hiện; hòa giải do Tòa án tiến
hành cũng khác trường hợp đương sự tự thỏa thuận. Trường hợp đương sự tự
thỏa thuận là việc các bên chủ động tự thương lượng, thỏa thuận mà không có sự

tham gia của Tòa án.
- Buổi hòa giải được Thẩm phán lập biên bản về nội dung mà các đương
sự thỏa thuận. Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về toàn bộ nội dung
vụ án thì Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Còn trong trường hợp các bên tự hòa giải và không yêu cầu Tòa án tiếp tục giải
quyết thì Tòa án có thể ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.
1.1.2.3. Hòa giải là sự thỏa thuận của các đương sự
Mặc dù hòa giải là một hoạt động do Tòa án tiến hành nhưng về bản chất
hòa giải vẫn là sự thỏa thuận của các đương sự. Đương sự trong các vụ án dân
sự chính là các bên của tranh chấp mà Tòa án cần giải quyết. Họ là người hiểu
rõ hơn ai hết mâu thuẫn của chính họ. Vì lý do này mà pháp luật quy định chính
đương sự là người có quyền tự định đoạt để giải quyết các mâu thuẫn đó.
Việc thỏa thuận giữa các đương sự sẽ đạt được kết quả trung thực, hợp
tình hợp lý nếu quá trình thỏa thuận được diễn ra trên cơ sở tự nguyện, không bị
một ai với bất kỳ hình thức nào cưỡng ép, can thiệp vào thỏa thuận của các
đương sự. Điều này đòi hỏi Tòa án không được dùng bất kỳ hình thức nào để
cưỡng ép, bắt buộc các đương sự phải hòa giải với nhau.
Sự thỏa thuận của chính các đương sự là đặc trưng cơ bản của hòa giải,
đồng thời cũng là điểm khác biệt giữa hòa giải và xét xử. Khi xét xử, Tòa án sẽ
ra phán quyết và đương sự phải tuân thủ nghiêm chỉnh mọi phán quyết của Tòa
án. Trong hòa giải, Tòa án chỉ có vai trò trung gian giúp đỡ các bên tranh chấp
thỏa thuận với nhau mà không được can thiệp vào thỏa thuận đó.
1.1.3. Ý nghĩa của hòa giải trong tố tụng dân sự
Hòa giải không chỉ mang lại ý nghĩa cho Tòa án, bản thân đương sự mà
còn có ý nghĩa đối với trật tự xã hội.
- Ý nghĩa đối với Tòa án:
Trong trường hợp hòa giải thành, Tòa án sẽ giảm bớt được nhiều thời
gian, công sức cho việc giải quyết vụ án. Đặc biệt nếu hòa giải thành trong thời
gian chuẩn bị xét xử thì Tòa án sẽ không phải mở phiên tòa sơ thẩm và không
phải tiến hành các thủ tục xét xử tiếp theo mà nếu hòa giải không thành có thể sẽ

phải thực hiện như xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Mặt khác, nếu
làm tốt công tác hòa giải thì không chỉ số lượng xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm
giảm xuống mà số lượng án ở Tòa án cấp phúc thẩm cũng giảm một cách rõ rệt,
hệ quả là hiệu quả xét xử sẽ được nâng cao. Điều này sẽ không chỉ có ý nghĩa về
kinh tế mà còn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tăng cường uy tín của cơ
quan xét xử nói riêng cũng như cơ quan nhà nước nói chung.
Trong trường hợp hòa giải không thành thì Tòa án cũng có điều kiện nắm
vững nội dung tranh chấp, tâm tư, nguyện vọng của đương sự để xác định đường
lối xét xử đúng đắn trong quá trình giải quyết vụ án.
- Ý nghĩa đối với các đương sự:
Hòa giải các vụ án dân sự giúp các đương sự hiểu biết và thông cảm với
nhau, góp phần khôi phục lại tình đoàn kết giữa họ, giúp họ giải quyết tranh
chấp với tinh thần cởi mở, giảm bớt mâu thuẫn, ngăn ngừa tội phạm có nguồn
gốc từ tranh chấp dân sự phát sinh. Trường hợp không hòa giải thành thì quá
trình hòa giải cũng giúp cho các đương sự ngồi lại với nhau, hiểu rõ hơn nguyên
nhân tranh chấp, được bày tỏ ý chí của mình. Từ đó, họ có thể phần nào tìm
được tiếng nói chung, hạn chế bớt mâu thuẫn.
Hòa giải góp phần nâng cao ý thức pháp luật của các đương sự. Thông
qua việc giải thích pháp luật của Tòa án trong phiên hòa giải, các đương sự sẽ
phần nào hiểu được quy định của pháp luật về vấn đề mà họ đang tranh chấp. Từ
đó, các bên có thể hiểu và tự quyết định về việc giải quyết tranh chấp, không trái
với quy định của pháp luật.
- Ý nghĩa đối với trật tự xã hội:
Thông qua hòa giải nhiều tranh chấp đã được giải quyết mà không cần
phải mở phiên tòa xét xử. Hoặc nếu hòa giải không thành thì cũng giúp các bên
đương sự hiểu rõ hơn về mâu thuẫn, giúp kiềm chế mâu thuẫn. Như vậy, hòa
giải góp phần vào việc giữ gìn an ninh, trật tự, công bằng xã hội, làm cho mối
quan hệ xã hội phát triển không phải bằng mệnh lệnh mà bằng giáo dục thuyết
phục và sự cảm thông của các thành viên trong xã hội.
Mặt khác, hòa giải làm cho sự hiểu biết chính sách pháp luật của các

đương sự nói riêng và của người dân nói chung được nâng cao. Qua đó, góp
phần tăng cường ý thức pháp luật trong nhân dân.
1.2. SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
CHẾ ĐỊNH HÒA GIẢI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT
NAM
1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1989
Trong thời kỳ này do chúng ta chưa thể xây dựng ngay được các văn bản
pháp luật mới nên Sắc lệnh ngày 10/10/1945 quy định: Cho đến khi xây dựng
được bộ luật mới thì những luật lệ cũ vẫn tạm thời được sử dụng nếu không trái
với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể cộng hòa. Như vậy,
trong giai đoạn này, vấn đề hòa giải vẫn áp dụng theo các quy định của chế độ
cũ.
Văn bản pháp luật đầu tiên quy định về hòa giải là Sắc lệnh số 13 ngày
21/1/1946 về tổ chức Tòa án, trong đó quy định “Ban tư pháp xã có quyền hòa
giải tất cả các việc dân sự và thương mại. Nếu hòa giải được Ban tư pháp xã có
thể lập biên bản hòa giải có các ủy viên và những đương sự ký".[6]
Điều 4 Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 quy định rằng biên bản hòa giải
thành chỉ có hiệu lực tư chứng thư. Tại Điều 12 Sắc lệnh số 51/SL quy định
“những việc kiện dân sự và thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án đệ nhị cấp
đều phải giao trước về ông Thẩm phán sơ cấp thử hòa giải”.[7]
Điều 9 Sắc lệnh 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật
tố tụng quy định “Tòa án nhân dân hòa giải tất cả các vụ kiện về dân sự và
thương mại kể cả việc xin ly dị trừ những vụ kiện mà theo luật pháp đương sự
không có quyền điều đình”. Theo Điều 10 của Sắc lệnh này biên bản hòa giải
thành là một công chứng thư có thể đem chấp hành ngay. Tuy nhiên cho đến lúc
biên bản hòa giải được chấp hành xong nếu Biện lý xét thấy biên bản ấy xâm
phạm đến trật tự chung thì có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền sửa đổi
hoặc bác bỏ điều hai bên đã thỏa thuận. Hạn kháng cáo là 15 ngày tròn kể từ
ngày phòng Biện lý nhận được biên bản hòa giải thành.
Như vậy, với các văn bản pháp luật quy định về hòa giải trong giai đoạn

này chúng ta thấy nổi bật một số vấn đề sau:
- Về thẩm quyền hòa giải:
Cơ quan có thẩm quyền hòa giải là Ban tư pháp xã và Tòa án nhân dân
cấp huyện. Các vụ án phải hòa giải là tất cả các vụ án về dân sự, thương mại và
ly hôn, trừ những việc không được hòa giải.
- Hiệu lực của hòa giải:
Biên bản hòa giải thành do Ban tư pháp xã lập có hiệu lực tư chứng thư.
ên bản hòa giải thành do Tòa án lập có hiệu lực là một công chứng thư, có thể
đem ra thi hành ngay.
Trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được biên bản hòa giải thành, phòng
Biện lý có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án sửa đổi hoặc bác bỏ những điều hai
bên đã thỏa thuận, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo.
Như vậy, đặc trưng của pháp luật về hòa giải trong giai đoạn này là Tòa án
không ra quyết định mà chỉ lập biên bản hòa giải thành, đồng thời chỉ có phòng
Biện lý và người có liên quan có quyền kháng cáo còn nguyên đơn và bị đơn
không có quyền này.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 ra đời đã quy định cụ thể về hòa giải
trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng xin ly hôn, cơ quan có thẩm quyền sẽ
điều tra và hòa giải. Tòa án có thể trực tiếp thực hiện việc hòa giải hoặc giao lại
cho tổ hòa giải tiến hành với sự theo dõi hướng dẫn của Tòa án.
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 và Thông tư số 1080 ngày
25/9/1961 đã quy định Tòa án nhân dân huyện ngoài nhiệm vụ hòa giải thì còn
có nhiệm vụ xây dựng và hướng dẫn các tư pháp xã thực hiện hòa giải, dàn xếp
các đương sự và nhân dân.
Có thể thấy rằng, trong giai đoạn này thành tựu đạt được là hòa giải đã
được coi là một thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Nhưng
do đất nước trong tình trạng chiến tranh, chế định hòa giải chưa có điều kiện
hoàn thiện nên vẫn còn bộc lộ rất nhiều hạn chế, bất cập lớn nhất là Tòa án chỉ
lập biên bản hòa giải thành mà không ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của
đương sự nên kết quả hòa giải không có hiệu lực buộc các bên phải thi hành, dẫn

đến nhiều trường hợp Tòa án vẫn phải mở phiên tòa xét xử sau khi đã lập biên
bản hòa giải thành do các bên không tự nguyện thi hành thỏa thuận hoặc các bên
tự ý thay đổi thỏa thuận.
Để khắc phục những bất cập trên, ngày 30/11/1974, TANDTC đã ra
Thông tư số 25-TATC hướng dẫn việc hòa giải trong tố tụng dân sự [10]. Thông
tư đã quy định thẩm quyền, trình tự, phương pháp hòa giải các vụ án dân sự.
- Thẩm quyền hòa giải:
Tòa án nhân dân được hòa giải tất cả các vụ án dân sự và hôn nhân gia
đình, trừ những vụ án không được hòa giải sau đây:
+ Về hôn nhân và gia đình:
* Việc ly hôn khi bị đơn là người mất trí;
* Việc kiện về hôn nhân và gia đình xét thấy phải xử lý bằng biện pháp
tiêu hôn;
* Các việc tranh chấp về thân phận con người như về sinh đẻ, chết, kết
hôn;
* Các việc thuận tình ly hôn.
+ Về tranh chấp kinh tế, tài sản:
* Việc kiện dân sự mà nội dung là giao dịch bất hợp pháp;
* Việc kiện dân sự đòi hỏi bồi thường thiệt hại đối với hành vi cố ý xâm
phạm tài sản xã hội chủ nghĩa;
* Việc kiện do Viện kiểm sát nhân dân khởi tố;
* Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi xâm phạm tính mạng,
sức khỏe hoặc tài sản riêng của công dân (với lỗi cố ý).
- Về thủ tục hòa giải:
+ Khi hòa giải tất cả các đương sự phải có mặt. Nếu có người được triệu
tập vắng mặt lần thứ nhất thì Tòa án cần hoãn phiên tòa và triệu tập lại. Nếu đã
triệu tập lại mà vẫn vắng mặt thì Tòa án tùy từng trường hợp mà quyết định tiến
hành hòa giải hay đưa vụ án ra xét xử.
+ Nếu hòa giải thành thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành. Sau đó Tòa
án nhân dân ra một quyết định công nhận hòa giải thành để các thỏa thuận có giá

trị chấp hành.
+ Nếu hòa giải không thành thì Tòa án lập biên bản hòa giải không thành
và quyết định đưa vụ án ra xét xử.
- Phương pháp hòa giải:
Trước khi hòa giải phải tiến hành điều tra để nắm vững nội dung vụ kiện.
Khi hòa giải Tòa án phải giải thích cho các đương sự về pháp luật, chính sách,
quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ có tranh chấp với thái độ khách quan,
trung lập.
Nếu không thấy có khả năng hòa giải thì cần đưa ra xét xử, tránh kéo dài
thời gian hòa giải một cách không cần thiết.
- Về hiệu lực của các quyết định công nhận việc hòa giải thành:
Các quyết định công nhận việc hòa giải thành đều có hiệu lực như bản án.
Đương sự, Viện kiểm sát có quyền kháng cáo, kháng nghị. Người đệ tam (người
có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan) có quyền chống quyết định công nhận của
Tòa án cấp sơ thẩm. Nếu quyết định công nhận việc hòa giải thành đã có hiệu
lực pháp luật nhưng phát hiện có sai lầm thì vụ kiện sẽ được xét xử theo trình tự
giám đốc thẩm.
Đối với quyết định chưa có hiệu lực pháp luật: Nếu chỉ một mình người
đệ tam chống quyết định thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ra quyết định sơ
thẩm, Tòa án sẽ thụ lý đơn và giải quyết về khoản mà người đệ tam chống quyết
định.
Như vậy, Thông tư số 25-TATC của TANDTC hướng dẫn việc hòa giải
trong tố tụng dân sự đã đánh dấu một bước phát triển quan trọng của chế định
hòa giải. Thông tư đã quy định rõ ràng chi tiết về thẩm quyền hòa giải, phạm vi
hòa giải, thủ tục và phương pháp hòa giải, đáp ứng được yêu cầu cấp thiết cho
Tòa án tiến hành hòa giải để giải quyết vụ án đạt hiệu quả cao.
Năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất. Các văn bản pháp luật trong
giai đoạn này đã được nâng cao không chỉ về mặt nội dung mà cả về hình thức,
hiệu lực pháp lý. Về lĩnh vực hòa giải các vụ án dân sự cũng đã được hướng dẫn
cụ thể trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như:

- Thông tư số 81-TAND ngày 24/7/1981 của TANDTC hướng dẫn các
Tòa án địa phương giải quyết các tranh chấp về thừa kế. Thông tư quy định: Cần
kiên trì hòa giải nhằm góp phần củng cố và phát triển tình đoàn kết thương yêu
trong nội bộ gia đình. [8]
- Thông tư số 02-TTLT ngày 2/10/1985 hướng dẫn thực hiện thẩm quyền
xét xử của Tòa án nhân dân về một số việc trong lao động quy định: “trước khi
xét xử Tòa án phải hòa giải những tranh chấp giữa chủ tư nhân và những người
làm công và trong khi xét xử nếu có khả năng hòa giải thì Tòa án vẫn tiến hành
hòa giải”. [9]
- Thông tư số 06-TTLN ngày 30/12/1986 của TANDTC, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Bộ tư pháp hướng dẫn về thẩm quyền và thủ tục giải quyết ly
hôn giữa công dân Việt Nam và một bên công dân nước ngoài chưa có hiệp định
tương trợ tư pháp về vấn đề hôn nhân và gia đình với Việt Nam. Theo hướng
dẫn của Thông tư này thì đối với những việc ly hôn, Tòa án không hòa giải.
1.2.2. Giai đoạn từ 1989 đến 2005
Ngày 29/12/1989 Nhà nước ta ban hành PLTTGQCVADS, đây là văn bản
pháp luật quy định cụ thể, chi tiết nhất từ trước đến nay về thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự, trong đó hòa giải được ghi nhận là một nguyên tắc, một hoạt động
bắt buộc mà Tòa án phải tiến hành trong quá trình giải quyết vụ án.
- Theo Pháp lệnh, hòa giải được tiến hành một cách rộng rãi hơn, Tòa án
chỉ không hòa giải trong các trường hợp sau:
+ Hủy việc kết hôn trái pháp luật.
+ Đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản nhà nước.
+ Những việc phát sinh từ giao dịch trái pháp luật.
+ Những việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết. Những việc khiếu
nại cơ quan hộ tịch về việc từ chối đăng ký hoặc không chấp nhận yêu cầu sửa
đổi những điều ghi trong giấy tờ về hộ tịch. Những việc khiếu nại về danh sách
cử tri và những việc khác theo quy định của pháp luật.
- Thủ tục hòa giải:
Những người tham gia hòa giải gồm: Nguyên đơn, bị đơn và người có

nghĩa vụ, quyền lợi liên quan. Khi các đương sự thỏa thuận với nhau về các vấn
đề cần giải quyết trong vụ án thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành. Sau 15
ngày mà không có sự thay đổi thỏa thuận thì Tòa án ra quyết định công nhận sự
thỏa thuận của các đương sự. Nếu các bên thay đổi thỏa thuận trong thời hạn 15
ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành hoặc các bên không thỏa thuận
được với nhau về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án thì Tòa án sẽ quyết định
đưa vụ án ra xét xử.
Qua phân tích thấy rằng về thủ tục hòa giải, hiệu lực của biên bản hòa giải
thành dược quy định tại Điều 44 PLTTGQCVADS có một bước phát triển đáng
kể so với quy định của Thông tư số 25/TATC ngày 30/11/1974 của TANDTC
và các văn bản trước đó hướng dẫn về hòa giải, đó là quy định một thời hạn cho
các đương sự, Viện kiểm sát, tổ chức xã hội khởi kiện về lợi ích chung đề nghị
xét lại việc hòa giải thành. Hết thời hạn này thì Tòa án mới ra quyết định công
nhận hòa giải thành thay vì ra ngay quyết định hòa giải thành như các văn bản
pháp luật trước đó.
Bên cạnh đó, TANDTC và các cơ quan có liên quan đã đã ban hành nhiều
văn bản để hướng dẫn việc thực hiện các quy định về trong pháp lệnh:
- Nghị quyết 03/HĐBT ngày 19/10/1990 của TANDTC hướng dẫn áp
dụng một số quy định của PLTTGQCVADS, trong đó hướng dẫn về thủ tục,
phạm vi hòa giải.
- Công văn số 130/NCPL ngày 18/4/1991 của TANDTC về giải thích hiệu
lực thi hành của Pháp lệnh; Công văn số 124/KHXX ngày 31/10/1997 của
TANDTC trả lời về thủ tục hòa giải; Công văn số 43/KHXX ngày 21/4/1988
của TANDTC trả lời về tố tụng dân sự…
1.2.3. Giai đoạn từ 2005 đến nay
Với các văn bản pháp luật quy định về hòa giải đã nêu, chúng ta thấy rằng
hòa giải được quy định trong một số văn bản của nước ta. Các quy định này
chưa có tính hệ thống, nằm rải rác ở nhiều văn bản, nhiều điều khoản khác nhau
của các văn bản. Do vậy, trước yêu cầu phát triển của đời sống kinh tế xã hội,
việc hoàn thiện và hệ thống hòa các quy định của hòa giải nói riêng và của pháp

luật tố tụng dân sự nói chung là một đòi hỏi cần thiết.
Ngày 15/6/2004, BLTTDS đã được thông qua. Đây là sự kiện quan trọng
trong đời sống pháp luật Việt Nam, đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật
tố tụng dân sự. Trong BLTTDS, chế định hòa giải các vụ án dân sự đã được kế
thừa và hoàn thiện, khắc phục những tồn tại và bất cập của các quy định về hòa
giải các vụ án dân sự, thống nhất về trình tự và thủ tục hòa giải các vụ án dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động.
BLTTDS 2004 đã ghi nhận hòa giải là một nguyên tắc của tố tụng dân sự
tại chương II của Bộ luật. Bộ luật có nhiều quy định về hòa giải như nguyên tắc
hòa giải, phạm vi hòa giải, chủ thể tham gia hòa giải và thủ tục hòa giải. Những
quy định này tạo cơ sở pháp lý mới cho Tòa án trong việc hòa giải các vụ án dân
sự.
1.3. HÒA GIẢI THEO QUY ĐỊNH CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ
GIỚI
Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam còn có nhiều
điểm bất cập. Do đó, việc tham khảo, học hỏi nhằm tiếp thu những điểm hợp lý
của pháp luật nước ngoài về hòa giải là rất cần thiết. Trên cơ sở chọn lọc những
hạt nhân phù hợp với điều kiện riêng của Việt Nam, kết hợp với những quy định
có tính truyền thống, việc hoàn thiện hơn nữa chế định hòa giải trong tố tụng
dân sự Việt Nam là một việc cần phải nhanh chóng thực hiện trong giai đoạn
hiện nay.
1.3.1. Hòa giải theo pháp luật tố tụng dân sự Nhật Bản
Nhật bản có truyền thống lâu đời về giải quyết tranh chấp bằng phương
pháp thỏa thuận. Tranh tụng mới chỉ được biết đến khi được du nhập từ các
nước phương Tây vào những năm đầu thế kỷ XIX.
- Chủ thể tiến hành hòa giải:
Hòa giải trong pháp luật của Nhật được thực hiện thông qua một Hội
đồng hòa giải. Hội đồng này thường bao gồm một Thẩm phán và hai hòa giải
viên trở lên. Các hòa giải viên này thường là những người có chuyên môn trong
lĩnh vực mà các bên tranh chấp. Điều này sẽ giúp cho hiệu quả hòa giải được

cao hơn bởi hòa giải tranh chấp trong những lĩnh vực mang tính chất đặc thù
như tranh chấp thương mại hoặc tranh chấp xây dựng thì Thẩm phán thường
không có kiến thức chuyên sâu. Do vậy, việc tham gia của những người có
chuyên môn sẽ giúp Thẩm phán rất nhiều trong quá trình hòa giải.
Đây là điểm khác biệt giữa pháp luật Việt Nam và Nhật Bản về hòa giải.
Trong pháp luật Việt Nam, chủ thể chủ trì phiên hòa giải chỉ là một Thẩm phán.
- Thủ tục hòa giải:
Ở Nhật, hòa giải được tiến hành bằng nhiều buổi gặp gỡ các bên. Buổi đầu
tiên Hội đồng hòa giải sẽ thông báo cho các bên về thủ tục hòa giải. Các buổi
tiếp theo Hội đồng hòa giải sẽ gặp từng bên để từ đó tìm ra bản chất của vấn đề
và các vấn đề liên quan.
Ở Việt Nam, việc hòa giải được diễn ra dưới hình thức là phiên hòa giải
với sự có mặt của Thẩm phán và các bên liên quan.
- Hiệu lực của biên bản hòa giải:
Điều 267 BLTTDS Nhật Bản quy định “Khi có sự thỏa hiệp hoặc ý kiến
chấp thuận hay từ bỏ chấp nhận yêu cầu được thể hiện trong biên bản thì biên
bản này có hiệu lực như một bản án không thể bác bỏ được” [2]. Như vậy, theo
quy định của pháp luật Nhật Bản thì biên bản hòa giải thành có hiệu lực ngay
sau khi lập chứ không phải sau thời hạn 15 ngày như trong pháp luật Việt Nam.
1.3.2. Hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Trung Quốc
Theo Điều 9 Luật tố tụng dân sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
thì hòa giải là một nguyên tắc hoạt động của các cơ quan xét xử “Tòa án nhân
dân giải quyết cá vụ án dân sự phải tiến hành hòa giải theo nguyên tắc tự nguyện
và hợp pháp”.
Chế định hòa giải được quy định cụ thể tại Chương 8 Luật Tố tụng dân sự
Trung Quốc, gồm một số điểm đáng chú ý sau:
- Người tham gia hòa giải:
Theo Điều 86 và Điều 87 Luật tố tụng dân sự Trung Quốc thì người tham
gia hòa giải gồm: Thẩm phán, nguyên đơn, bị đơn, nhân chứng, đơn vị và cá
nhân có liên quan.

- Thủ tục hòa giải:
Về nguyên tắc, hòa giải đi đến thỏa thuận, Tòa án nhân dân phải làm bản
hòa giải ghi rõ kết quả hòa giải, trừ một số trường hợp sau:
+ Những vụ án ly hôn đã hòa giải đi đến hàn gắn quan hệ hôn nhân.
+ Các vụ án về cấp dưỡng đã hòa giải đi đến duy trì mối quan hệ nuôi
dưỡng.
+ Những vụ án khác không cần làm bản hòa giải.`
Bản hòa giải sau khi có chữ ký của hai bên đương sự là có ngay hiệu lực
pháp luật.
Hòa giải không đi đến thỏa thuận thì Tòa án nhân dân kịp thời ra phán
quyết.
Như vậy, điểm khác biệt về hòa giải trong pháp luật Trung Hoa so với
pháp luật Việt Nam là bản hòa giải sau khi được lập sẽ có ngay hiệu lực. Và
trong một số trường hợp thì hòa giải thành Tòa án không cần lập bản hòa giải
mà chỉ cần ghi vào biên bản, sau khi có chữ ký hoặc đóng dấu của hai bên
đương sự, Thẩm phán, thư ký là có hiệu lực pháp luật ngay.
1.3.3. Hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Pháp
Trong Luật Tố tụng dân sự của Cộng hòa Pháp, các quy định về hòa giải
giữ một vị trí quan trọng. Hòa giải đã được xác định là một nguyên tắc trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự “Thẩm phán có trách nhiệm hòa giải các bên đương
sự”.[3]
- Hình thức hòa giải: Theo Điều 127 BLTTDS Pháp có hai hình thức hòa
giải là các bên tự hòa giải với nhau hoặc hòa giải theo sáng kiến của Thẩm phán.
Nếu các bên tự hòa giải, Thẩm phán phụ trách việc thẩm cứu hoàn tất hồ sơ có
thể ghi nhận sự hòa giải của các bên.
- Trình tự và thủ tục hòa giải:
Theo quy định của pháp luật Pháp, việc hòa giải được tiến hành ở cấp sơ
thẩm và cấp phúc thẩm.
Ở cấp sơ thẩm, trong trình tự tố tụng thông thường, vấn đề hòa giải được
quy định tại Điều 766 và Điều 767 BLTTDS Pháp. Theo các quy định này, việc

hòa giải chỉ được tiến hành khi có mặt đầy đủ các đương sự. Thẩm phán phụ
trách việc thẩm cứu hoàn tất hồ sơ phải ghi nhận sự thỏa thuận của các đương
sự. Đối với Tòa án sơ thẩm có thẩm quyền rộng hòa giải có thể được tiến hành
trước phiên tòa sơ thẩm hoặc tại phiên tòa sơ thẩm.
+ Thủ tục hòa giải tiến hành trước phiên tòa sơ thẩm:
Điều 833 BLTTDS Pháp quy định: Tòa án sẽ thông báo và gửi giấy triệu
tập đến các đương sự, trong giấy triệu tập phải ghi rõ các đương sự phải đích
thân có mặt tại phiên hòa giải.
Nếu hòa giải thành thì Thẩm phán lập biên bản hòa giải thành và biên bản
đó có hiệu lực thi hành ngay.
Nếu hòa giải không thành thì Thẩm phán giao cho nguyên đơn một phiếu
hòa giải không thành, trừ trường hợp các bên các đương sự thỏa thuận là việc
kiện được xét xử ngay.
+ Thủ tục hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm:
Thẩm phán sẽ cố gắng hòa giải các đương sự trước khi mở phiên tòa sơ
thẩm. Việc hòa giải có thể được tiến hành trong phòng làm việc của Thẩm phán.
Nếu hòa giải không thành, việc kiện có thể được xử ngay hoặc để một phiên tòa
sau (Điều 840 BLTTDS Pháp).
Ở cấp phúc thẩm, việc hòa giải vẫn được tiến hành theo trình tự như ở cấp
sơ thẩm nhưng đặt dưới sự giám sát của một Thẩm phán của tòa được phân công
xét xử phúc thẩm.
Thông qua việc tham khảo pháp luật quy định về hòa giải ở một số nước,
chúng ta có thể thấy rằng, pháp luật các nước quy định về hòa giải có những
điểm khác biệt nhất định so với pháp luật Việt Nam. Điều này xuất phát từ
truyền thống văn hóa, pháp lý, điều kiện kinh tế xã hội của từng nước. Chúng ta
có thể học tập, áp dụng những hạt nhân hợp lý từ pháp luật các nước để hoàn
thiện hơn nữa chế định hòa giải nói riêng, pháp luật tố tụng dân sự nói chung
cho phù hợp với thực tiễn phát triển và xây dựng đất nước.
CHƯƠNG II
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY

VỀ HÒA GIẢI TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.1. NGUYÊN TẮC TIẾN HÀNH HÒA GIẢI
2.1.1. Hòa giải là một hoạt động tòa án phải tiến hành trong quá trình
giải quyết các vụ án dân sự
Điều 10 BLTTDS có quy định “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải
và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết
vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật” [1]. Theo quy định của điều luật thì
hòa giải là một hoạt động Tòa án phải tiến hành trong quá trình giải quyết các vụ
án dân sự. Ở bất kỳ thời điểm nào, giai đoạn tố tụng nào, Tòa án cũng có thể tiến
hành hòa giải, điều đó thể hiện ở hai điểm sau:
- Thứ nhất, Tòa án bắt buộc phải tiến hành hòa giải trước khi mở phiên
tòa sơ thẩm, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải
được.
Khoản 1 Điều 180 BLTTDS quy định “Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về
việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành
hòa giải được”. Như vậy, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc những vụ
án không tiến hành hòa giải được, sau khi thụ lý vụ án đến trước khi mở phiên
tòa sơ thẩm, Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải dù việc hòa giải có khả
năng thành hay không. Tính bắt buộc phải tiến hành hòa giải trước khi mở phiên
tòa sơ thẩm thể hiện ở chỗ: Nếu Tòa án không tiến hành hòa giải thì bị coi như
vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự và là căn cứ kháng nghị phúc thẩm,
giám đốc thẩm để hủy án và xét xử sơ thẩm lại.
Việc bắt buộc tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa sơ thẩm là hoàn
toàn hợp lý, xuất phát từ mục đích của hòa giải là để các đương sự thỏa thuận
được việc giải quyết tranh chấp một cách ổn thỏa, từ đó đem lại nhiều ý nghĩa
cho Tòa án và các đương sự. Do vậy, mục đích của hòa giải sẽ thể hiện rõ nhất,
đem lại nhiều ý nghĩa nhất khi các đương sự thỏa thuận được với nhau trước khi
mở phiên tòa sơ thẩm. Vì khi đó Tòa án sẽ không phải mở phiên tòa xét xử, có
thể không phải tiến hành thêm các giai đoạn tố tụng tiếp theo như phúc thẩm,

giám đốc thẩm hay tái thẩm. Với ý nghĩa như vậy nên pháp luật quy định Tòa án
phải tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa sơ thẩm.
- Thứ hai, pháp luật khuyến khích hòa giải ở các giai đoạn tiếp theo.
Tòa án khuyến khích hòa giải trong các giai đoạn tố tụng khác bằng việc
luôn công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ở bất kỳ thời điểm nào, nếu
những thỏa thuận đó là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Ngoài
ra, việc khuyến khích hòa giải này còn thể hiện rất rõ trong phiên tòa sơ thẩm và
phúc thẩm, tòa án hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án hay không. Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án thì Hội đồng xét xử sẽ ra bản án công nhận sự thỏa thuận của đương
sự. Sở dĩ, Tòa án không bắt buộc phải tiến hành phiên hòa giải ở các giai đoạn tố
tụng tiếp theo để tránh việc phải hòa giải vô ích nhiều lần vụ việc không còn khả
năng hòa giải giữa các đương sự.
2.1.2. Hòa giải phải trên cơ sở sự tự nguyện thỏa thuận của các đương
sự
Khoản 2 Điều 180 BLTTDS quy định: Việc hòa giải phải “tôn trọng sự tự
nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng
vũ lực, bắt buộc đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình”.
Như vậy, pháp luật quy định việc hòa giải phải xuất phát từ sự tự nguyện thực
sự của đương sự. Sự tự nguyện này được thể hiện ở hai nội dung: Tự nguyện
tham gia hòa giải và tự nguyện thỏa thuận nội dung giải quyết vụ án.
- Tự nguyện tham gia hòa giải: Cơ sở pháp lý của hòa giải xuất phát từ
nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự. Do đó, hòa giải không chỉ là trách
nhiệm của Tòa án mà còn là quyền của đương sự. Đương sự có quyền lựa chọn
có tham gia hòa giải hay không. Nếu bị đơn vắng mặt được triệu tập hợp lệ đến
lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lí do chính đáng thì có nghĩa là bị đơn từ
chối hòa giải. Trong trường hợp này Tòa án không được ép buộc bị đơn phải
tham gia hòa giải, Tòa án sẽ lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải được
do bị đơn vắng mặt và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung
(khoản 1 Điều 182 BLTTDS).

- Tự nguyện thỏa thuận nội dung hòa giải: Trong quá trình hòa giải, các
bên tranh chấp được bàn bạc, thảo luận và đi đến thống nhất phương án giải
quyết tranh chấp. Nếu đương sự chấp nhận thỏa thuận mà việc thỏa thuận này là
do hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực tác động đến ý chí chủ quan của
đương sự làm cho họ phải lựa chọn cách thức thỏa thuận để bảo vệ tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của mình thì cũng không được coi là tự
nguyện thỏa thuận.
Ngoài ra, để bảo đảm nguyên tắc này thì khi tiến hành hòa giải, Thẩm
phán không được tiết lộ đường lối xét xử. Thẩm phán chỉ có thể phân tích các
quy định của pháp luật liên quan đến tranh chấp để các bên liên hệ đến quyền và
nghĩa vụ của mình. Khác với việc xét xử thì đường lối giải quyết vụ án do Tòa
án quyết định căn cứ vào pháp luật và các chứng cứ, việc hòa giải phải do chính
các đương sự quyết định. Tòa án chỉ đảm bảo về mặt thủ tục cho phiên hòa giải,
còn về nội dung của việc hòa giải thì Tòa án chỉ hướng dẫn các đương sự tự thỏa
thuận.
2.1.3. Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không trái pháp luật và
đạo đức xã hội
Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự chứa đựng quyền và lợi ích của
các bên tranh chấp. Pháp luật chỉ bảo hộ những quyền và lợi ích hợp pháp. Do
đó, mọi thỏa thuận trái pháp luật đều không được pháp luật thừa nhận, không có
có giá trị pháp lý.
Quy định này của pháp luật để nhằm bảo vệ trật tự công. Sự tuân thủ pháp
luật là yêu cầu bắt buộc trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nên sự thỏa
thuận của các bên trong hòa giải cũng không phải là ngoại lệ, nhất là các thỏa
thuận này được hình thành có sự chứng kiến của Tòa án.
2.2. PHẠM VI CÁC VỤ VIỆC MÀ TÒA ÁN TIẾN HÀNH HÒA GIẢI
Hòa giải là trách nhiệm của Tòa án trong giải quyết các vụ án dân sự. Tuy
nhiên, không phải tất cả các vụ án dân sự Tòa án đều tiến hành hòa giải. Căn cứ
vào tính chất của vụ án dân sự được Tòa án giải quyết thì pháp luật đã quy định:
Những vụ án dân sự phải tiến hành hòa giải; những vụ án không được hòa giải

và những vụ án không tiến hành hòa giải được.
2.2.1. Những vụ án dân sự phải tiến hành hòa giải
Điều 180 BLTTDS quy định: “Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án. Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải
quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải
được theo quy định tại Điều 181 và Điều 182 Bộ luật này”. Theo quy định của
điều luật thì ngoài những vụ án không được hòa giải và những vụ án không tiến
hành hòa giải được thì Tòa án phải tiến hành hòa giải tất cả các vụ án thuộc
thẩm quyền giải quyết của mình.
Pháp luật đã quy định rõ những vụ án dân sự phải tiến hành hòa giải. Tuy
nhiên, do pháp luật không quy định nên hòa giải đối với việc dân sự thuận tình
ly hôn có nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau:
+ Có quan điểm căn cứ vào Điều 10 BLTTDS quy định hòa giải bao gồm
cả việc dân sự và Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình: “Sau khi thụ lý đơn yêu
cầu ly hôn, Tòa án tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật tố tụng dân
sự”, cho rằng cần tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa sơ thẩm đối với
trường hợp thuận tình ly hôn. Ví dụ, Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt đã thụ
lý, giải quyết việc dân sự: Ngày 04/4/2005 Chị Dương Thị Hiền và anh Đặng
Văn Hiếu đã viết đơn yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn. Tòa án nhân
dân thành phố Đà Lạt đã thụ lý và triệu tập chị Hiền và anh Hiếu đến Tòa án để
tiến hành hòa giải nhưng cả hai đã không thống nhất trở đoàn tụ. Vì vậy, Tòa án
nhân dân thành phố Đà Lạt đã lập biên bản hòa giải đoàn tụ không thành và ra
quyết định mở phiên họp để giải quyết.[20, tr.41]
+ Có quan điểm cho rằng: Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
quy định Tòa án phải tiến hành hòa giải song việc hòa giải này phải tuân theo
quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng ngoài Điều 10 thì BLTTDS không
còn có một điều luật nào khác quy định chi tiết thủ tục tiến hành hòa giải việc
dân sự. Mặt khác, việc dân sự là việc không có tranh chấp nên không cần phải
tiến hành hòa giải để nhằm cho các bên thỏa thuận giải quyết tranh chấp. Do đó,
Tòa án không cần tiến hành hòa giải.

Từ việc áp dụng pháp luật của một số Tòa án địa phương như trên, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn cụ thể để đảm bảo việc
thực hiện pháp luật được dễ dàng, thống nhất.
2.2.2. Những vụ án dân sự không được hòa giải
Pháp luật quy định một số vụ án không được hòa giải tại Điều 181
BLTTDS vì nếu hòa giải sẽ đồng nghĩa với việc tạo điều kiện cho các bên vi
phạm pháp luật hoặc việc hòa giải sẽ dễ bị lợi dụng để xâm phạm tài sản công.
Những vụ án không được tiến hành hòa giải bao gồm:
- Thứ nhất, yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước.
Tài sản Nhà nước được hiểu là tài sản thuộc hình thức sở hữu Nhà nước
quy định tại Điều 200 của Bộ luật dân sự năm 2005 và được điều chỉnh theo các
quy định tại Mục 1 Chương XIII của Bộ luật dân sự năm 2005. [4]
Yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản của Nhà nước là trường hợp
tài sản của Nhà nước bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật, do hợp đồng vô hiệu,
do vi phạm nghĩa vụ dân sự…gây ra và người được giao chủ sở hữu đối với tài
sản Nhà nước đó có yêu cầu đòi bồi thường. [4]
Vụ án yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước chỉ
có thể giải quyết bằng việc Tòa án mở phiên tòa xét xử. Pháp luật không cho các
bên thỏa thuận giải quyết vì tính chất của loại tài sản này thuộc sở hữu Nhà
nước, không thể tiến hành hòa giải để quyết định về số lượng hay nội dung giá
trị bồi thường. Quy định này nhằm phòng ngừa trường hợp lợi dụng việc hòa
giải để thỏa thuận, thương lượng gây thiệt hại, thất thoát tài sản của Nhà nước.
Phần II tiểu mục 2.1 Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 đã
có những hướng dẫn cụ thể về phạm vi hòa giải đối với vụ án yêu cầu đòi bồi
thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước như sau:
+ Trường hợp tài sản của Nhà nước được giao cho cơ quan, tổ chức, đơn
vị vũ trang quản lý, sử dụng hoặc đầu tư vào doanh nghiệp Nhà nước do Nhà
nước thực hiện quyền sở hữu thông qua cơ quan có thẩm quyền, thì khi có yêu
cầu đòi bồi thường thiệt hại đến loại tài sản này, Tòa án không được hòa giải để
các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.

+ Trường hợp tài sản của Nhà nước được Nhà nước đầu tư vào doanh
nghiệp nhà nước, góp vốn trong các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư của
các chủ sở hữu khác theo quy định của Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam mà doanh nghiệp được quyền tự chủ chiếm hữu, sử dụng
hoặc định đoạt tài sản và chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với tài sản đó
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, thì khi có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại
đến tài sản đó, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về
việc giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
- Thứ hai, những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc
trái đạo đức xã hội.
Những giao dịch trái pháp luật (giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật)
và trái đạo đức xã hội là những giao dịch vô hiệu tuyệt đối được quy định tại
Điều 128 Bộ luật dân sự 2005. Về bản chất thì giao dịch vô hiệu không làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ ngay từ thời điểm xác lập. Do vậy, pháp luật quy định
Tòa án không tiến hành hòa giải để các bên thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của
họ trong giao dịch vô hiệu này. Bởi nếu tiến hành hòa giải là đồng nghĩa với
việc khuyến khích các bên tiếp tục vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, nếu các bên
thỏa thuận không phải để thực hiện tiếp giao dịch mà chỉ để giải quyết hậu quả
của giao dịch thì Tòa án vẫn tiến hành hòa giải. Do sự thỏa thuận của các đương

×