Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận: Sản xuất vật chất và vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.01 KB, 15 trang )

Bài tiểu luận

Đỗ Văn Sỹ

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Con người và xã hội loài người được hình thành và phát triển trong quá trình
sản xuất vật chất. Lịch sử xã hội do vậy trước hết là lịch sử của sản xuất vật
chất.
Vì vậy, khi nghiên cứu các hiện tượng xã hội thì sản xuất vật chất là điểm
xuất phát để tìm ra các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt nam đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội, do vậy việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật là một vấn đề tất yếu
và cần thiết. Việc xây dựng đó gắn liền với quá trình phát triển lực lượng sản
xuất trong mối quan hệ với quan hệ sản xuất. Nhận thức được tầm quan trọng
của sản xuất vật chất nói chung và vai trò đặc biệt của nó đối với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay nói riêng. Nên em chọn đề tài “ Sản
xuất vật chất và vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển
của xã hội”.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở lý thuyết về sản xuất vật chất em nghiên cứu, phân tích đánh giá
về sản xuất vật chất nói chung, cũng như vai trò của nó đối với sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Đồng thời làm rõ vai trò của sản xuất vật chất đối với thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ta.Từ đó đưa ra một số nhiệm vụ, giải
pháp cụ thể để công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được tiến hành
đúng quy luật và hoàn thiện hơn.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Định nghĩa, phân tích sản xuất vật chất.


- Làm sáng tỏ được vai trò tầm quan trọng của sản xuất vật chất đối với sự
tồn tại và phát triển của xã hội.
- Quá trình sản xuất vật chất từ sau đổi mới đến nay ở Việt nam.
- Đưa ra một số giải pháp và ý kiến về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ỏ nước
ta.

Trang 1


Bài tiểu luận

Đỗ Văn Sỹ

3. Phạm vi nghiên cứu:
Do thời gian và kiến thức hạn hẹp nên em chỉ nghiên cứu một cách tổng quát
về sản xuất vật chất và vai trò của nó chứ chưa đi sâu nghiên cứu cụ thể, đánh
giá chuyên sâu về từng lĩnh vực sản xuất vật chất được.

4. Phương pháp nghiên cứu:
- Thống kê tổng hợp.
- Phân tích đánh giá.
- So sánh đối chiếu.
- Có ví dụ, dẫn chứng cụ thể.

5. Đóng góp của đề tài:
Qua bài viết này em hy vọng kiến thức của mình nói riêng và của các bạn
sinh viên nói chung sẽ được nâng cao và hoàn thiện hơn. Đồng thời bài tiểu luận
này có thể góp phần khơi dậy niềm đam mê nghiên cứu, khám phá khoa học của
các bạn sinh viên. Và hơn hết về sâu xa và lâu dài hơn em mong bài tiểu luận
của mình có thể trở thành một tài liệu tốt giúp các bạn sinh viên học tốt hơn môn

Triết học.

Trang 2


Bài tiểu luận

Đỗ Văn Sỹ

B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận về sản xuất vật chất và vai trò của nó.
1.1 Định nghĩa và phân tích về sản xuất - sản xuất vật chất :
1.1.1 Khái niệm:
Các nhà triết học duy tâm giải thích nguyên nhân, động lực phát triển của xã
hội là từ ý thức tư tưởng của con người hay là lực lượng siêu nhiên nào đó. Các
nhà duy vật trước Mác cũng giải thích một cách duy tâm về sự phát triển của xã
hội.
Riêng Mác thì cho rằng sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng có của con
người và của xã hội loài người đó là cái để phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa
xã hội loài người với loài súc vật, đó là quá trình hoạt động có mục đích và
không ngừng sáng tạo của con người. Sự sản xuất xã hội bao gồm: Sản xuất vật
chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra chính bản thân con người. Ba quá trình
này không tách rời nhau trong đó sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của sự tồn
tại và phát triển xã hội và xét đến cùng, quyết định đến cùng toàn bộ sự vận
động đời sống xã hội.
Từ đó ta đi đến định nghĩa: Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng
công cụ lao động tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các
dạng vật chất của tự nhiên để tạo ra của cải vật chất xã hội nhằm thỏa mãn nhu
cầu tồn tại và phát triển của con người.


1.1.2 Phân tích quá trình sản xuất vật chất:
Theo Ph.Ăngghen: “Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã
hội loài vật là ở chỗ: loài vật may lắm chỉ hái lượm trong khi con người lại sản
xuất. Như vậy, sản xuất vật chất là một trong những loại hoạt động đặc trưng của
con người. Đó cũng là một loại hình hoạt động thực tiễn với mục đích cải biến
các đối tượng của giới tự nhiên theo nhu cầu tồn tại và phát triển của con người
và xã hội. Với nghĩa như vậy, sản xuất vật chất là hoạt động có tính khách quan,
tính xã hội, tính lịch sử và tính sáng tạo.
Sản xuất vật chất bao giờ cũng dựa vào các nhân tố cơ bản như điều kiện tự
nhiên, dân số và phương thức sản xuất, trong đó phương thức sản xuất giữ vai
trò chủ đạo.
Bất cứ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng được tiến hành với mục đích
nhất định và được tiến hành theo những cách thức xác định. Cách thức tiến hành
đó là phương thức sản xuất.
Mỗi phương thức sản xuất đều có hai phương diện cơ bản là kỹ thuật và kinh
tế, hai phương diện đó gắn bó chặt chẽ với nhau.
Trang 3


Bài tiểu luận

Đỗ Văn Sỹ

Phương diện kỹ thuật của phương thức sản xuất là chỉ phương thức sản xuất
được tiến hành bằng cách thức kỹ thuật công nghệ nào đó để làm biến đổi các
đối tượng của quá trình sản xuất.
Phương diện kinh tế của phương thức sản xuất là chỉ quá trình sản xuất được
tiến hành với những cách thức, tổ chức kinh tế nào.
Hai phương diện trên không ngừng phát triển theo hướng phân tách và phụ
thuộc vào nhau giữa các khâu kỹ thuật và tổ chức kinh tế của quá trình sản xuất

xã hội.
Hai mặt của phương thức sản xuất là: lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất.
Lực lượng sản xuất biểu hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá
trình tác động vào tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất
biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
Lực lượng sản xuất bao gồm: Tư liệu sản xuất và Người lao động với kinh
nghiệm sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo và thói quen lao động của họ.
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ năng lực lao
động xã hội.
Con người là nhân tố trung tâm và là mục đích của nền sản xuất xã hội. Với
tư cách là nhân tố trung tâm, con người luôn giữ vai trò quyết định với sản xuất
dù trong nền sản xuất dựa trên cơ sở kỹ thuật thủ công, lạc hậu hay công nghiệp
hiện đại con người cũng là mục đích của sản xuất xã hội. Sản xuất suy đến cùng
là để tiêu dùng, không có tiêu dùng thì sẽ không có sản xuất. Thỏa mãn nhu cầu
của con người, phát triển con người là ý nghĩa tự nhiên, cuối cùng là mục đích
của sản xuất xã hội.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất,
phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội. Quan hệ sản xuất là hình thức
xã hội của sản xuất. Nó biểu hiện quan hệ giữa người với người trên ba mặt chủ
yếu: quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, quan
hệ phân phối sản phẩm. Trong đó quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò
quyết định.
Sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất tạo thành phương thức sản xuất. Trong sự thống nhất biện chứng này, quan
hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, đó là quy luật kinh tế chung của mọi phương thức sản xuất.
Các yếu tố cơ bản của nền sản xuất:
Sản xuất vật chất là sự tác động của con người, biến đổi tự nhiên để tạo ta
sản phẩm phục vụ nhu cầu của con người.

Sản xuất vật chất luôn luôn được nhắc đi nhắc lại không ngừng. Mỗi quá
trình lao động sản xuất đều là sự kết hợp của ba yếu tố: Sức lao động - Đối
tượng lao động - Tư liệu lao động.
Sức lao động và lao động của con người: Lao động là hoạt động có mục
đích, có ý thức của con người nhằm tạo ra những sản phẩm phục vụ các nhu cầu
của con người.
Trang 4


Bài tiểu luận

Đỗ Văn Sỹ

Đối tượng lao động là một bộ phận của giới tự nhiên mà con người tác động
vào, làm thay đổi hình thái của nó cho phù hợp với mục đích của con người.
Đối tượng lao động tồn tại dưới hai dạng:
Dạng có sẵn trong tự nhiên như: Than, quặng, gỗ,...
Dạng đã qua chế biến như: Máy móc, sắt, thép,....
Tư liệu lao động là những thứ mà con người dùng trong khi lao động để tác
động vào đối tượng lao động.
Tư liệu lao động được chia làm ba loại:
Công cụ lao động
Đồ chứa đựng bảo quản
Tư liệu lao động với tư cách là kết cấu hạ tầng sản xuất như: nhà xưởng,
đường, điện, trường, trạm,....
Trong đó, công cụ lao động được coi là quan trọng nhất. Công cụ càng hiện
đại, tinh vi bao nhiêu thì năng xuất lao động càng nhiều, chất lượng càng cao.
Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ sản xuất của một
xã hội.
Không thể sản xuất được nếu thiếu đối tượng lao động và tư liệu lao động

nhưng nếu không có lao động của con người thì đối tượng lao động và tư liệu
lao động không thể phát huy tác dụng. Do đó sức lao động và lao động chủ thể
của nền sản xuất xã hội, nó giữ vai trò quyết định.

1.2 Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển
của xã hội:
Theo quan điểm duy vật lịch sử, sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố
quyết định sự sinh tồn, phát triển của con người và xã hội loài người, là hoạt
động nền tảng làm phát sinh phát triển những mối quan hệ của con người. Nó
chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.
Khác với các quan điểm duy tâm về lịch sử, C.Mác đã xuất phát từ “ Con
người hiện thực” và đi đến kết luận rằng : “... tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại
của con người và do đó là tiền đề của mọi lịch sử đó là: người ta phải có khả
năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử, nhưng muốn sống được thì trước hết
cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như
vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những
nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất…”. Cũng vì vậy, có thể
khẳng định: con người với tư cách “Người” được bắt đầu bằng tự phân biệt với
súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình.
Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự
nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Sản xuất vật chất
không ngừng phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến
đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp
đến cao. Như vậy, sự vận động phát triển của toàn bộ đời sống xã hội, suy đến
cùng có nguyên nhân từ tình trạng phát triển của nền sản xuất xã hội. Do đó, để
giải thích và giải quyết đúng đắn các vấn đề của đời sống xã hội thì cần phải tìm
Trang 5


Bài tiểu luận


Đỗ Văn Sỹ

nguyên nhân cuối cùng của nó từ tình trạng phát triển của nền sản xuất vật chất
của xã hội đó, mà căn bản là từ trình độ phát triển phương thức sản xuất của nó.
Sản xuất vật chất không những là cơ sở cho mọi sự sinh tồn của xã hội mà
còn là cơ sở để hình thành nên tất cả các hình thức quan hệ xã hội khác như nhà
nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật,… Theo C.Mác “ việc sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp và chính, mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế
nhất định của một dân tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta
phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật, và thậm
chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta”.
Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội, không phải lúc nào sản
xuất cũng ở trong trình độ cũ mà nói chung là không ngừng tiến lên từ thấp đến
cao, mỗi khi sản xuất đến giai đoạn mới cách thức sản xuất cũng thay đổi theo,
kỹ thuật được cải tiến, năng suất lao động được nâng cao các quan hệ sản xuất
đều biến đổi theo.
Như chúng ta đã biết: trong quá trình tồn tại và phát triển của xã hội loài
người, con người luôn phải nổ lực sản xuất để tạo ra của cải vật chất để phục vụ
cuộc sống và thúc đẩy sự phát triển trong xã hội.
Từ thời nguyên thủy đến nay con người đã trải qua rất nhiều hình thức lao
động từ thô sơ lạc hậu nhưng qua quá trình biến đổi trong xã hội đến ngày nay
con người đã sáng tạo ra được nhiều hình thức lao động hết sức tinh xảo và hiện
đại. Ở tất cả các hình thức lao động mà con người đã tạo ra đó cũng chỉ nhằm
mục đích biến đổi tự nhiên để tạo ra những sản phẩm xã hội phục vụ cho nhu
cầu chính yếu cho họ và nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Trong quá trình phát triển, loài người đã vượt qua nhiều nấc thang lịch sử, cơ
sở của việc chuyển từ nấc thang lịch sử này sang nấc thang lịch sử khác, rồi cơ
sở của tiến bộ xã hội là gì?
C.Mác và Ăngghen đã có một phát minh vĩ đại đó là: “sản xuất vật chất là cơ

sở cho sự phát triển của xã hội loài người” vì:
Muốn sống trước hết con người phải có thức ăn, nhà ở và những của cải vật
chất khác.
Những tư liệu sinh hoạt cho con người không có sẵn trong tự nhiên mà
chúng được tạo ra thông qua lao động của con người.
Vì vậy sản xuất vật chất là cơ sở của tồn tại và phát triển của xã hội loài
người. Việc chuyển từ nấc thang này sang nấc thang khác của sự phát triển ấy
trước hết gắn liền với sự phát triển của quá trình sản xuất.
Kết luận trên đây có ý nghĩa to lớn động viên sự hình thành giai cấp vô sản
nói chung và kinh tế chính trị của giai cấp vô sản nói riêng.
Ngày nay ý nghĩa của các nhân tố xã hội và tinh thần ngày càng được đề cao
trong xã hội. Lĩnh vực không sản xuất vật chất phát triển nhanh chóng nhưng vai
trò của sản xuất vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội vẫn còn
nguyên giá trị. Một dân tộc, một đất nước sẽ bị diệt vong không phải trong một
năm mà chỉ trong vòng một tuần nếu ngừng sản xuất.

Trang 6


Bài tiểu luận

Đỗ Văn Sỹ

Sản xuất vật chất không chỉ tạo ra sản phẩm xã hội cần thiết phục vụ cho
nhu cầu của con người mà nó còn tạo ra sản phẩm thặng dư.
Sản phẩm cần thiết dùng để duy trì khả năng lao động và đào tạo thế hệ lao
động mới để thay thế những người mất khả năng lao động, rồi dùng để bù đắp
những chi phí về ăn, mặc, ở, để thỏa mãn các nhu cầu về văn hóa, xã hội và các
nhu cầu kinh tế khác.
Sản phẩm thặng dư là kết quả và cũng là nguồn gốc của tiến bộ xã hội, là

điều kiện quyết định để nâng cao mức sống của nhân dân và mở rộng khả năng
phát triển của kinh tế xã hội trong tương lai. Nó bắt nguồn từ trình độ của năng
suất lao động tăng lên với quy cách là một quy luật kinh tế chung cho các xã hội
có trình độ sản xuất phát triển nhất định.
Qua sự phân tích trên ta có thể kết luận rằng: Sản xuất vật chất có vai trò hết
sức quan trọng. Nó có thể tạo ra tư liệu sản xuất, tạo ra các mặt các quan hệ xã
hội, rồi nó có thể cải biến tự nhiên - xã hội - bản thân con người và cuối cùng nó
quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Tóm lại, dù được xét trong toàn bộ lịch sử của sự hình thành và phát triển
của xã hội loài người hay trong giai đoạn lịch sử cụ thể thì sản xuất vật chất vẫn
luôn đóng vai trò là cơ sở, là nền tảng của sự tồn tại và phát triển của xã hội.

Chương 2: Liên hệ vào thực tiễn Việt nam ta hiện nay.
2.1 Tình hình thực tiễn của đất nước trong giai đoạn hiện nay:
Ở Việt Nam ta, do đặc điểm đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông
nghiệp lạc hậu, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, cơ sở vật chất
còn thiếu thốn nghèo nàn, phương tiện sản xuất còn thô sơ, trình độ sản xuất còn
thấp kém, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi mục
tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh, cần phải tiến hành
đổi mới nhiều mặt. Trong đó, có đổi mới về kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, phát
huy nội lực, thu hút ngoại lực, từng bước đưa nền kinh tế tăng trưởng bền vững
tạo ra nguồn của cải vật chất dồi dào không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong
nước mà còn phục vụ cho xuất khẩu. Đầu tư trang thiết bị hiện đại, đẩy mạnh
phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, kết hợp phát triển kinh tế với các vấn đề
xã hội.
Đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
như nước ta, xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực
hiện từ đầu, từ không đến có, từ gốc đến ngọn thông qua công nghiệp hóa - hiện
đại hóa. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa là một bước
tăng cường cơ sở vật chất - kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ

lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân loại về
công nghiệp hoá vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta hiện nay, Đảng ta nêu
ra quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau: Công nghiệp hóa - hiện
Trang 7


Bài tiểu luận

Đỗ Văn Sỹ

đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện,
phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ
khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Quan niệm nêu trên cho thấy, quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở
nước ta hiện nay phải kết hợp chặt chẽ hai nội dung công nghiệp hoá và hiện đại
hoá trong quá trình phát triển. Quá trình ấy không chỉ đơn thuần phát triển công
nghiệp mà còn phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng nghành, từng lĩnh
vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
Quá trình ấy không chỉ tuần tự trải qua các bước cơ giới hoá, tự động hoá, tin
học hoá mà còn sử dụng kết hợp kỹ thuật thủ công truyền thống với công nghệ
hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu có thể và mang tính
quyết định.

2.2 Những thành tựu đạt được sau hơn 25 năm đổi mới:
Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, kể từ Ðại hội VI (năm 1986), và hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay, Việt

nam đã thu được những thành tựu to lớn, hết sức quan trọng. Thực hiện đường
lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh
Giai đoạn 1986 - 1990: Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ trương
phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục được những yếu
kém và có những bước phát triển. Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), công
cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng: GDP tăng
4,4%/năm; tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,8 - 4%/năm; công
nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13
-14%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 28%/năm.Việc thực hiện tốt ba
chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm
phát,… Đây được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của công
nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên. Điều quan trọng nhất, đây là giai
đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện
một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và bước đầu giải phóng
được lực lượng sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới.
Trang 8


Bài tiểu luận

Đỗ Văn Sỹ

Giai đoạn 1991 - 1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái.
Nền kinh tế tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được
tình trạng trì trệ, suy thoái, tốc độ tăng trưởng tương đối cao, liên tục và toàn

diện, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức: GDP bình quân tăng
8,2%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,3%/năm; nông nghiệp tăng
4,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ tăng 12%/năm; tổng sản lượng lương thực 5 năm
(1991 - 1995) đạt 125,4 triệu tấn, tăng 27% so với giai đoạn 1986 - 1990. Hầu
hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương đối khá. “Nước ta đã
ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm,
tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để
chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước”.
Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng
của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc
dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn
1997 - 1999) và thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta
trước những thử thách khốc liệt, tuy nhiên, Việt nam vẫn duy trì được tốc độ
tăng trưởng khá. GDP bình quân của cả giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%; trong đó,
nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,1%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,5%; các
ngành dịch vụ tăng 5,2%. “Nếu tính cả giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp độ tăng
trưởng GDP bình quân là 7,5%. So với năm 1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai
lần”.
Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu,
việc triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5
năm 2001 - 2005 mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả
nhất định. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm
sau cao hơn năm trước. GDP tăng bình quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt
8,4%; trong đó, nông nghiệp tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%;
các ngành dịch vụ tăng 7%. Riêng quy mô tổng sản phẩm trong nước của nền
kinh tế năm 2005 đạt 837,8 nghìn tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 1995. GDP
bình quân đầu người khoảng 10 triệu đồng (tương đương 640 USD), vượt mức
bình quân của các nước đang phát triển có thu nhập thấp (500 USD). Từ một
nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương thực,

Việt nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, Việt nam
đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt hàng gạo,
cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao su;…
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, bảo
đảm sự ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bước đầu phát huy
được nhiều lợi thế của đất nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế
kinh tế, từng bước hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều
Trang 9


Bài tiểu luận

Đỗ Văn Sỹ

hành; cải cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ;
phát triển nguồn và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ;…
Giai đoạn 2006 - 2010: Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm
lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển,
từ nhóm nước thu thập thấp đã trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp).
GDP bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù bị tác động của khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế toàn cầu (từ cuối năm 2008), nhưng thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào Việt nam vẫn đạt cao. Tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ USD,
vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt
150 tỷ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn
2001 - 2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so với
mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 16%. GDP năm
2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000.
Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn
cầu còn rất chậm, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%/năm, tuy
thấp hơn kế hoạch (7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân các

nước trong khu vực.
Như vậy, trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt nam
đạt 7,34%/năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và
trên thế giới nói chung; quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990,
gấp trên 2,1 lần năm 2000 (thời kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm).
Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng trưởng tuy thấp hơn
mức tăng 5,89% của năm 2011, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó
khăn thì đây là mức tăng trưởng hợp lý. Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy
sản ước tính tăng 3,4% so với năm 2011; công nghiệp tăng 4,8% so với năm
2011. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2012 tăng 6,81%. Đầu tư phát triển tăng 7% so
với năm trước và bằng 33,5% GDP. Xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng 18,3%. Kim
ngạch xuất khẩu có thể vượt qua mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập
khẩu so với GDP năm 2011 đã đạt xấp xỉ 170%, đứng thứ 5 thế giới. Vốn FDI
tính từ 1988 đến tháng 7-2012 đăng ký đạt trên 236 tỷ USD, thực hiện đạt trên
96,6 tỷ USD. Vốn ODA từ 1993 đến nay cam kết đạt gần 80 tỷ USD, giải ngân
đạt trên 35 tỷ USD.
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá,
trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương
thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển
ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng
bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững
thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát
triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ
Trang 10


Bài tiểu luận

Đỗ Văn Sỹ


tăng trưởng ổn định. Sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở
vững chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những
năm sau đạt kết quả vững chắc hơn.
Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, gắn sản xuất với thị trường
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%,
năm 2005 còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã
chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu
quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây
dựng tăng nhanh và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm
1988 là 21,6%, năm 2005 lên 41%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1%
năm 1988 lên 38,1% năm 2005.
Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất
thấp và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo
với khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc
tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng
thứ hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với
tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý;... có bước
phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả,
tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền
kinh tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan
trọng theo hướng xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ
và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển
mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân,

là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm
2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP của cả nước. Kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ
phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với
thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách
nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.

Trang 11


Bài tiểu luận

Đỗ Văn Sỹ

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được
hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định
Trải qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận
hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng
tương đối đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế
nhiều thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan
trọng. Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ
kinh tế của Việt nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng.
Việt nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện
các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Đến
nay, Việt nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký
hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát
triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây
dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể

chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi
trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị
trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát
triển mạnh.
Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà
nước đạt một số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010, số doanh nghiệp tăng hơn 2,3
lần, số vốn tăng 7,3 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Doanh nghiệp cổ phần trở
thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến.
Tóm lại, sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, Việt nam đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn, toàn diện. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ
mô được duy trì, các mặt: chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh được bảo
đảm và ổn định. Trong đó có những thành tựu rất đáng khích lệ về thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội gắn bó chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế, phát triển nguồn
lao động và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ. Thành tựu đó ngày
càng khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành
công của đổi mới, khích lệ, động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần
quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước với những bước tiến cao hơn. Thành tựu này
được các nước trong khu vực cũng như các đối tác có quan hệ với Việt nam thừa
nhận và xem đây là một thuận lợi trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
nam.

Trang 12


Bài tiểu luận

Đỗ Văn Sỹ

2.3 Những mặt khuyết điểm và yếu kém:

Nước ta còn nghèo và kém phát triển. Chúng ta lại chưa thực hiện tốt trong
tiết kiệm sản xuất, tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư phát triển chưa đúng cách,
chưa tập trung.
Tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề cần phải giải quyết.
Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất có phần vừa lúng túng vừa buông
lỏng
Quản lý Nhà nước về kinh tế, xã hội còn yếu.
Hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm.

2.4 Một số giải pháp:
Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh để xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định và triển khai đường lối,
chủ trương công nghiệp hoá - hiện đại hoá đạt hiệu quả cao với tốc độ nhanh.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học để đánh giá chính xác tài nguyên
quốc gia, nắm bắt các công nghệ cao cùng những thành tựu mới về khoa học của
thế giới, hướng mạnh vào việc nâng cao năng suất lao động, đổi mới sản phẩm,
nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường.
Xây dựng tiềm lực nhằm phát triển một nền khoa học tiên tiến, bao gồm: đẩy
mạnh các hình thức đào tạo và sử dụng cán bộ khoa học, chuyên gia; tăng cường
cơ sở vật chất kĩ thuật cho các nghành khoa học và công nghệ; xây dựng và thực
hiện tốt cơ chế, chính sách tạo động lực cho sự phát triển khoa học và công
nghệ; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và công nghệ.
Do hiện nay nguồn vốn trong nước ở nước ta còn hạn hẹp nên ta phải tận
dụng, khai thác nguồn vốn từ bên ngoài, đồng thời phải kết hợp chặt chẽ với
quản lý sử dụng tốt, có hiệu quả cao và khai thác tối đa khả năng vốn đã có.
Phải có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên nguồn nhân
lực, đảm bảo cơ cấu, tốc độ và quy mô phát triển hợp lý, đáp ứng yêu cầu của
mỗi thời kỳ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đồng thời bố trí, sử
dụng tốt nguồn nhân lực đã được đào tạo, phải phát huy đầy đủ khả năng, sở
trường và nhiệt tình lao động sáng tạo của mỗi người để họ tạo ra năng suất,

chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, đónh góp xứng đáng vào sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Để mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại thì chúng ta cần phải xây dựng một
đương lối kinh tế đối ngoại đúng đắn vừa đạt hiệu quả kinh tế cao, kết hợp được
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, vừa giữ vững được độc lập, chủ quyền
dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Trang 13


Bài tiểu luận

Đỗ Văn Sỹ

C. KẾT LUẬN
Nước ta là một nước đông dân, có nguồn lao động rất dồi dào, để tạo ra một
nguồn lực to lớn để phát triển nền kinh tế xã hội. Hơn nữa người lao động nước
ta rất trẻ trung, năng động, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất.
Từ sau năm 1945, sau khi giành được chính quyền, nhân dân ta đã rất hăng
hái tham gia lao động sản xuất. Từng trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ nhưng nước ta vẫn không ngừng sản xuất và vươn lên sau khi đất
nước được thống nhất năm 1975, nhân dân ta đã thực hiện chiến lược khôi phục
kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh và đã đạt được những kết quả khả
quan. Từ năm 1986 đến nay thì ta tiến hành đổi mới, thực hiện những chiến lược
lâu dài, áp dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật lần thứ hai, theo phương
châm đi tắt đón đầu và chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn.
Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự nổ lực phấn đấu vươn lên của
nhân dân cả nước, nước ta đã từng bước xóa đói giảm nghèo và từng bước nâng
cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Đưa nước ta từ một nước có nền kinh tế
kém phát triển thành một nước có nền kinh tế phát triển năng động trong khu

vực Đông Nam Á và Châu Á Thái Bình Dương. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế
hàng năm tương đối cao và ổn định vào khoảng hơn 7% một năm và cố gắng
phấn đấu đến năm 2020 sẽ trở thành một nước công nghiệp.
Là sinh viên, là chủ nhân tương lai của đất nước, chúng ta cần phải hành
động ngay hôm nay, ngay bây giờ bằng cách cố gắng phấn đấu vươn lên trong
học tập, trao dồi rèn luyện phẩm chất đạo đức để trở thành một công dân có ích
cho xã hội, cùng tham gia lao động sản xuât với toàn dân để xây dựng nước Việt
nam ta ngày càng văn minh, giàu đẹp hơn.

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/Giáo trình Triết học Mác - Lênin Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - 2009.
2/Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. NXB
Chính trị quốc gia - 2013.
3/Bảng công bố số liệu thống kê kinh tế - xã hội năm 2012, Cổng thông tin
điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
4/C.Mác và Ăngghen toàn tập, NXB Chính trị quốc gia - 1995.

Trang 14


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài:..............................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:...................................................................1
2.1. Mục đích nghiên cứu:.....................................................................................1
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:....................................................................................1
3. Phạm vi nghiên cứu:..........................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu:..................................................................................2
5. Đóng góp của đề tài:..........................................................................................2
B. PHẦN NỘI DUNG...........................................................................................3

Chương 1: Cơ sở lý luận về sản xuất vật chất và vai trò của nó...........................3
1.1 Định nghĩa và phân tích về sản xuất - sản xuất vật chất :...............................3
1.1.1 Khái niệm:...................................................................................................3
1.1.2 Phân tích quá trình sản xuất vật chất:..........................................................3
1.2 Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội:........5
Chương 2: Liên hệ vào thực tiễn Việt nam ta hiện nay.........................................7
2.1 Tình hình thực tiễn của đất nước trong giai đoạn hiện nay:............................7
2.2 Những thành tựu đạt được sau hơn 25 năm đổi mới:......................................8
2.3 Những mặt khuyết điểm và yếu kém:............................................................13
2.4 Một số giải pháp:...........................................................................................13
C. KẾT LUẬN.....................................................................................................14
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................14



×