Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

TƯ TƯỞNG GIÁO dục của KHỔNG tử QUA LUẬN NGỮ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.72 KB, 86 trang )

Luận văn tốt nghiệp

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

BỘ MÔN NGỮ VĂN

NGUYỄN THỊ BÉ HAI

TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG
TỬ QUA LUẬN NGỮ

Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn

Cán bộ hướng dẫn: TS. BÙI THỊ THÚY MINH

GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

1

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai


Luận văn tốt nghiệp

ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
Lời tựa
Phần mở đầu
1 Lý do chọn đề tài
2 Lịch sử vấn đề


3 Mục đích yêu cầu
4 Phạm vi nghiên cứu
5 Phương pháp nghiên cứu
Phần nội dung
Chương 1: Khổng Tử và Luận Ngữ
1.1 Quá trình hình hình thành tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
1.1.1 Tình hình lịch sử Trung Quốc thời Xuân Thu
1.1.2 Đôi nét về cuộc đời Khổng Tử
1.1.3 Sự nghiệp giáo dục của Khổng Tử
1.2 Giới thiệu về Luận Ngữ
1.2.1 Hoàn cảnh ra đời Luận Ngữ
1.2.2 Đặc điểm nội dung
1.2.3 Đôi điều về việc chuyển ngữ Tiếng Việt Luận Ngữ ở Việt Nam
1.2.4 Ảnh hưởng của Luận Ngữ trong đời sống xã hội hiện nay
1.3.1 Ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục Khổng Tử trong nhà trường
1.3.2 Đối với giáo viên
1.3.3 Đối với người học
Chương 2: Phương pháp giảng dạy của Khổng Tử qua Luận Ngữ
2.1 Quan điểm của Khổng Tử về nhiệm vụ của người thầy
2.1.1 Truyền đạt kiến thức
2.1.2 Giải thích
2.2 Phương pháp giảng dạy của Khổng Tử
2.2.1 Phương pháp phân loại người mà dạy
2.2.2 Tùy tính cách học sinh
GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

2

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai



Luận văn tốt nghiệp

2.2.3 Tùy khác biệt ở biểu hiện hành vi
2.2.4 Tùy sở thích mà bồi dưỡng nhân tài
2.2.5 Tùy thực tiễn khác biệt
2.2.6 Tùy khác biệt công việc của từng học sinh
2.3 Phương pháp học tập của Khổng Tử
2.3.1 Phương pháp nghe nhiều, thấy nhiều, hiếu học, bác học
2.3.2 Phương pháp học tập tổng hợp
2.3.3 Nghe 1 hiểu 10
2.4 Tính nhân văn trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử qua Luận Ngữ
Chương 3: Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử qua Luận Ngữ
3.1 Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử: hữu giáo vô loại
3.2 Mục đích giáo dục của Khổng Tử: dạy nhân cách, bồi dưỡng nhân tài
3.3 Nội dung giáo dục của Khổng Tử
3.3.1 Bồi dưỡng đạo đức
3.3.2 Bồi dưỡng tri thức : Thi, Thư , Lễ
3.4 Một số ưu điểm và hạn chế trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
3.4.1 Những ưu điểm trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
3.4.1.1 Thái độ trị học nghiêm túc
3.4.1.2. Phương pháp gợi ý, dẫn dắt
3.4.1.3 Thể hiện những phương pháp chuẩn tác hành vi, luân lý
3.4.1.4 Tuyên dương tư tưởng đức chánh, huệ dân
3.4.2 Những khuyết điểm trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
3.4.2.1 Thiếu tính bình dân
3.4.2.2 Mang tư tưởng hiếu cổ
3.4.2.3 Thiếu tính thực tế
3.4.2.4 Tư duy nhị phân, thiếu bao quát
Phần kết luận

Tài liệu tham khảo

GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

3

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai


Luận văn tốt nghiệp

Lời tựa

Bốn năm không phải là chặng đường dài trong cuộc đời của mỗi con
người, nhưng nó cũng không phải là thời gian ngắn để cho mỗi chúng ta đánh
giá lại bản thân. Trong bốn năm đèn sách ở mái trường Đại Học, tôi đã được
thầy cô trang bị cho vốn kiến thức, vốn hiểu biết ở nhiều lĩnh vực. Những tri
thức lãnh hội được quả thật tôi cũng chưa biết mình đã tiếp thu đến đâu. Để
kiểm nghiệm lại khả năng tiếp nhận của chính bản thân ư? Thật không đơn
giản chút nào.
Công việc làm luận văn phần nào giúp tôi tự đánh giá được mình không
dừng lại ở sự đánh giá, công việc giúp tôi có dịp tìm hiểu học hỏi, tiếp thu
những cái mới và làm phong phú thêm vốn kiến thức đã được trang bị trước đó.
Do chưa có kinh nghiệm, nên gặp không ít khó khăn cũng như kiến thức còn
hạn hẹp cho nên trong quá trình thực hiện đề tài này, người viết chắc chắn
không tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót. Rất mong sự đóng góp của quý thầy
cô và các bạn sinh viên.
Đề tài này được hoàn thành tôi cũng được sự hướng dẫn tận tình của cô
Bùi Thị Thúy Minh. Qua đây, tôi vô cùng biết ơn sự dìu dắt, hướng dẫn của cô
để đề tài được hoàn thành đúng thời hạn qui định.


Sinh Viên Thực Hiện
Nguyễn Thị Bé Hai

GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

4

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai


Luận văn tốt nghiệp

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục là một trong những vấn đề quan trọng của các quốc gia trên thế
giới hiện nay. Bước vào thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thời kì
công nghệ thông tin, giáo dục càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết.
Trãi qua bao thăng trầm của lịch sử, dù bất kể trong điều kiện như thế nào
thì nền giáo dục nước ta vẫn được quan tâm, đầu tư. Ngay sau khi cách mạng
tháng 8 – 1945 thành công, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký ngay sắc lệnh thành
lập “ Bình dân học vụ”, kêu gọi tất cả mọi người dân tham gia học tập để xoá
nạn mù chữ. Người xác định trong ba thứ giặc, giặc đói, giặc ngoại xâm thì
giặc dốt là nguy hiểm nhất, nếu không diệt được giặc dốt thì nguy cơ mất nước
ngày càng cao.
Xác định được tầm quan trọng của giáo dục, Đảng và Nhà nước ta đã tích
cực đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục, kế thừa phát triển những tư tưởng
giáo dục tiến bộ của nhân loại, trong đó có tư tưởng giáo dục của Khổng Tử một nhà giáo dục lớn của Trung Quốc cổ đại, và cả nhân loại.
Trải bao thăng trầm của lịch sử, mặc dù có lúc bị lãng quên, không được coi
trọng ngay tại đất nước, quê hương Khổng Tử, nhưng do giá trị xuyên thời đại

của tư tưởng giáo dục tiến bộ, mà tư tưởng Khổng Tử đã đến với mọi quốc gia,
dân tộc, nhất là các nước ở phương Đông như: Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapore, Việt Nam... Những giá trị tiến bộ, tích cực trong tư tưởng giáo dục
Khổng Tử được nhân loại kế thừa, phát triển trong những điều kiện mới.
Tồn tại, phát triển hơn 2000 năm, những tư tưởng của Khổng Tử đã ảnh
hưởng mạnh mẽ trong đời sống của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt trong giáo dục,
thì tư tưởng giáo dục Khổng Tử đã góp phần không nhỏ cho việc hình thành,
giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam.

GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

5

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai


Luận văn tốt nghiệp

Thấy được giá trị của tư tưởng đó, nên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Tư
tưởng giáo dục của Khổng Tử qua Luận Ngữ ” làm đề tài khoá luận tốt
nghiệp. Bài nghiên cứu của người viết chưa thể xem là đóng góp đáng kể cho
giáo dục Việt Nam nhưng đề tài sẽ giúp người viết tích lũy thêm nhiều kinh
nghiệm và kiến thức cá nhân. Những kinh nghiệm và kiến thức ấy sẽ rất cần
thiết nếu mai sau người viết có thể bước vào môi trường sư phạm.

2. Lịch sử vấn đề
“Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử qua Luận Ngữ” là đề tài còn tương đối
mới mẻ, chưa được đào sâu nghiên cứu, hiện vẫn còn nhiều bỏ ngỏ và chắc
chắn sẽ được tìm hiểu thêm. Do đó rất ít tài liệu được tìm thấy. Đa số các nhà
nghiên cứu chỉ có bài viết liên quan mà chưa trực tiếp nghiên cứu sâu về đề tài

này. Một số tài liệu được người viết sưu tập như sau:
 Quyển “Quan điểm của Nho giáo về con người, về giáo dục và đào tạo
con người” do Nguyễn Thị Tuyết Mai viết năm 2009. Đây là quyển đề cập đến
:mục đích, chủ trương, nguyên tắc, phương pháp giáo dục của Nho giáo. Tuy
nhiên trong bài viết này đã đề cập ngắn gọn đến tư tưởng giáo dục cũng như
phương pháp giáo dục của Khổng Tử nhưng chưa đi vào được các ý chính.
 Quyển “Khổng học đăng” do Phan Bội Châu viết năm 1929. Đây là
quyển chuyên sâu về nghiên cứu tư tưởng Khổng học chính thống mang tính
chất nhân bản rất sâu sắc, phát huy được những phẩm chất cao cả của con
người nhằm phục vụ cho cuộc sống tốt đẹp của một xã hội bình đẳng. Cho dù
hoàn cảnh lịch sử đã đổi thay, Khổng học vẫn luôn là ngọn đèn sáng, soi rọi
cho đời sống tinh thần con người Á Đông.
 Quyển “Nhà giáo họ Khổng” do Nguyễn Hiến Lê viết năm 1992. Ở
quyển này Nguyễn Hiến Lê đã nêu lên một cách khái quát chứ chưa phân tích
cụ thể. Nhưng đó là cơ sở quan trọng để phát triển nghiên cứu về sau. Nguyễn
Hiến Lê viết: “ Có thể nói Khổng Tử chẳng phải sáng tạo, mà còn làm một

GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

6

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai


Luận văn tốt nghiệp

cuộc cách mạng lớn ở thời ông nữa. Ông lại có công lập tư học, đào tạo giai cấp
kẻ sĩ, để thăng tiến giai cấp bình dân, giảm sự bất công trong xã hội, ảnh hưởng
rất lớn đến đời sau.”[11; tr.32].
 Quyển “Lịch sử văn minh” tác giả Will Durant đã nghiên cứu hơn 39

năm về các dân tộc châu Á và phương Đông, trong đó ông đã khẳng định: “Chỉ
trong đạo Ki-tô và Phật giáo chúng ta mới lại thấy một sự gắng sức đầy dũng
khí như vậy để khai hóa con người, ráng làm cho bản tính tàn bạo của con
người hóa ra nhân từ, thuần hậu. Ngày nay cũng như ngày xưa, cho hấp thụ
nhiều tư tưởng trong Khổng học là phương thuốc tốt nhất cho những dân tộc
nào bị suy nhiễm cái hại của một nền giáo dục quá thiên về trí dục, luân lí suy
đồi, từ cá nhân đến toàn thể dân tộc đều kém tư cách.” [ 5; tr.91].
Chưa có những kết quả nghiên cứu chuyên về đề tài “Tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử qua Luận Ngữ” được công bố ở Việt Nam. Chỉ có những nhận định
chung về tư tưởng Nho giáo về giáo dục con người. Những bài viết ban đầu đó
vẫn chưa làm rõ được tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Hy vọng ngày càng có
thêm nhiều bài viết về đề tài này hơn nữa, để thế hệ mai sau sẽ được cung cấp
những kiến thức về người Thầy- nhà hiền triết được toàn diện hơn.

3. Mục đích yêu cầu
Đây là đề tài nghiên cứu khá hấp dẫn, để giải quyết những vấn đề đặt ra cần
phải tập trung những yêu cầu sau:
Giá trị của Luận Ngữ trong cuộc sống xưa và nay. Ảnh hưởng của Luận
Ngữ trong xã hội cũng như trong nhà trường hiện nay.
Khái quát được tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và sự nghiệp giáo dục của
Khổng Tử để thấy được Khổng Tử là nhà giáo kiệt xuất của nhân loại thời cổ
đại và tính nhân văn trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử qua Luận Ngữ.
Tìm hiểu một số phương pháp dạy và học của Khổng Tử trong Luận Ngữ để
thấy được những tiến bộ trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử so với thời nay.

GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

7

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai



Luận văn tốt nghiệp

Từ những yêu cầu đặt ra, nghiên cứu đề tài sẽ giúp tôi nắm được một cách
sâu sắc nhiều vấn đề về phương pháp giáo dục thông qua Luận Ngữ . Đồng thời
có cơ hội được nghiên cứu một trong những nhà giáo, nhà triết học kiệt xuất
của nhân loại. Và giúp tôi củng cố năng lực nghiên cứu của bản thân. Đó cũng
là mục đích chính của việc nghiên cứu đề tài này.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Những tài liệu trực tiếp liên quan đến Khổng Tử không được bảo toàn do
nhiều nguyên nhân nhưng tư tưởng giáo dục của Khổng Tử qua các tác phẩm
và hoạt động thực tiễn của ông còn lại cũng khá đồ sộ như Luận Ngữ. Qua tác
phẩm Luận Ngữ, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về những tư tưởng Khổng Tử,
nhất là tư tưởng giáo dục, đó là tác phẩm chứa nhiều tư liệu có giá trị khoa học
lịch sử, góp phần quan trọng trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo của chúng ta
hiện nay và đề tài nghiên cứu của chúng ta là “ Tư tưởng giáo dục của Khổng
Tử qua Luận Ngữ” do đó phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung vào Luận Ngữ bản
dịch của Đoàn Trung Còn- NXB Trí Đức, Sài Gòn-1950.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, tôi đã áp dụng nhiều phương pháp khác nhau.
Trước tiên là sưu tầm tài liệu, đọc và lược ra những tài liệu có liên quan đến đề
tài. Sau đó nghiên cứu, tổng hợp nhiều tài liệu theo hệ thống, thứ tự cần thiết.
Riêng bài viết sẽ được vận dụng nhiều phương pháp: phân tích, tổng hợp, diễn
dịch, quy nạp, so sánh đối chiếu, chọn lọc thông tin thuyết minh giảng giải làm
rõ luận điểm bằng những lý lẽ có đi kèm dẫn chứng cụ thể, rõ ràng nhằm giải
quyết các yêu cầu của đề tài đặt ra.


GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

8

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai


Luận văn tốt nghiệp

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHỔNG TỬ VÀ LUẬN NGỮ
1.1 Quá trình hình thành tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
1.1.1 Tình hình lịch sử Trung Quốc thời Xuân Thu
Triết học Trung Quốc hình thành và phát triển trong thời kì xã hội Trung
Quốc đang có sự chuyển biến hết sức căn bản và lớn lao. Đó là lúc xã hội Trung
Quốc bước vào thời Xuân Thu - Chiến Quốc, thời kì tan rã của chế độ chiếm hữu
nô lệ và chế độ phong kiến sơ kỳ đang lên.
Thời Xuân Thu, nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ thời đại đồ đồng
sang đồ sắt, việc dùng bò kéo cày trở nên phổ biến, hệ thống thủy lợi phát triển, kỹ
thuật trồng trọt được cải tiến. Nhờ công cụ sản xuất bằng sắt phát triển và thuỷ lợi
mở mang nên ruộng đất do nông dân khai hoang biến thành ruộng tư ngày càng
nhiều. Bọn quý tộc có quyền cũng chiếm dần ruộng của công xã làm ruộng tư.
Trên cơ sở phát triển sản xuất thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng phát triển hơn
trước, tiền tệ đã xuất hiện. Sự hình thành của thương nghiệp, buôn bán đã xuất
hiện một giai cấp trong xã hội là loại quý tộc mới với thế lực ngày càng mạnh,
tranh giành quyền lực với tầng lớp quý tộc cũ.
Về chính trị xã hội, thời Tây Chu, chế độ tông pháp “phong hầu kiến địa”
vừa có ý nghĩa ràng buộc về kinh tế, vừa có ý nghĩa về chính trị, ràng buộc về
huyết thống, có tác dụng giúp cho nhà Chu giữ được một thời gian dài hưng thịnh,
thì đến thời Xuân Thu chế độ tông pháp nhà Chu không còn được duy trì nữa.

Thiên Tử nhà Chu không còn uy quyền, cai quản các nước chư hầu khắp thiên hạ.
Việc các nước gây chiến tranh thôn tính lẫn nhau, cũng như các lãnh chúa bóc lột
tàn khốc dân chúng, không chỉ dẫn tới diệt vong của hàng loạt nước chư hầu nhỏ,
mà còn phá hoại lễ nghĩa nhà Chu, phá hoại trật tự triều hội, triều cống, chinh phạt
giữa các nước chư hầu làm cho mâu thuẫn giai cấp thống trị ngày càng trở nên gay
gắt và sự rối loạn trong xã hội ngày càng tăng.

GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

9

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai


Luận văn tốt nghiệp

Đặc biệt những nghi lễ chặt chẽ tôn nghiêm trước đây đã từng góp phần bảo
vệ, làm hưng thịnh chế độ tông pháp nhà Chu, đến lúc này cũng bị xem thường.
Tình trạng lễ nghĩa, cương thường đảo lộn, đạo đức suy đồi ở thời kì Xuân Thu
biểu hiện ra qua các tệ nạn xã hội như “tiến ngôi việt vị”, chư hầu chiếm dụng lễ
nghĩa của Thiên Tử, đại phu chiếm dụng lễ nghĩa của chư hầu... Trong thời kì loạn
lạc này, đạo đế Vương đời trước mờ tối, người đời say đắm về đường công lợi,
không ai thiết nghĩ gì đến nhân nghĩa nữa. Cảnh tôi giết vua, con hại cha, anh em
vợ chồng chia lìa thường xuyên xảy ra, thiên hạ trở thành “vô đạo”, trật tự lễ
nghĩa, cương thường xã hội đảo lộn.
Trước tình cảnh trên, người đời đã than rằng: “khắp thiên hạ đều loạn lạc như
nước đổ cuồn cuộn, làm thế nào cho thiên hạ trị?” [10; tr.303]. Đó là ung nhọt xã
hội mà theo Khổng Tử, nó đã âm mục ruỗng từ lâu.
Chính điều kiện lịch sử xã hội ấy, đã đặt ra một vấn đề hết sức cơ bản và cấp
bách, buộc kẻ cầm quyền và các nhà tư tưởng phải giải quyết, làm thế nào để cải

biến được xã hội, giáo hoá con người, khiến cho xã hội bình trị. Và vì thế cục biến
loạn, dân tình khổ sở, người trong nước tìm cách sửa đổi để cứu vớt thiên hạ, các
nhà tư tưởng thời kì này đã đưa ra nhiều phương pháp “trị nước, an dân” mơ ước
xây dựng một xã hội lí tưởng, tốt đẹp.
Đứng trước bối cảnh xã hội như thế, trên cơ sở thuyết về bản tính thiện của
con người, về đức “trung hoà”, “trung dung”, là đạo lí của trời đất, Khổng Tử đã
san định đạo của Thánh hiền thành một học thuyết có hệ thống, lấy nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín mà dạy người, lấy cương thường mà hạn chế nhân dục, để giữ trật tự trong
xã cho bền vững. Phương pháp mà Khổng Tử dùng để trị nước là “đức trị” và đề
cao việc giáo hoá con người. Hệ thống những tư tưởng, triết học của Khổng Tử ra
đời với mong muốn lập lại trật tự kỉ cương của đạo đức xã hội.

1.1.2 Đôi nét về cuộc đời Khổng Tử
Khổng Tử (孔子)(TCN 551- TCN 479) tên thật là Khâu, tự Trọng Ni (仲尼),
là nhà tư tưởng, nhà chính trị, nhà giáo dục nổi tiếng cuối Xuân Thu và là người
sáng lập của học phái Nho gia.
GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

10

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai


Luận văn tốt nghiệp

Khổng Tử sinh ở thôn Xương Bình, ấp Trâu, nước Lỗ (nay gần núi Nam Ni,
phía đông thành Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông). Tổ tiên ông trước đây vốn là quý tộc
sa sút của nước Tống, sau trong nước chính trị hỗn loạn, chạy sang nước Lỗ. Thuở
nhỏ nhà nghèo khổ, cuộc sống khó khăn.
Năm Khổng Tử 3 tuổi cha mất, 17 tuổi mẹ cũng qua đời. Khoảng 20 tuổi, ông

từng là Ủy lại coi kho và quản lý gia súc. Ở hai vị trí này ông đều cần mẫn làm
việc rất tốt.
Năm 30 tuổi, ông bắt đầu thu nhận học trò dạy học, sáng lập ra nền giáo dục
bình dân.
Năm 51 tuổi, ông làm quan huyện ở Trung Đô nước Lỗ. Ông có tinh thần trách
nhiệm trong công việc, theo thiên “Khổng Tử thế gia” thì trong một năm ông cai
quản Trung Đô, “bốn phương đều kéo đến”, có nghĩa là các nơi chung quanh đều
học tập Trung Đô.
Do danh vọng bấy giờ của ông rất cao, làm quan ở Trung Đô có nhiều thành
tích, nên rất mau chóng ông từ một chức quan thấp nước Lỗ được đề bạt làm Tiểu
tư không của chính quyền trung ương quý tộc nước Lỗ. Tiểu tư không là quan nắm
giữ công trình thủy lợi. Không lâu ông lại được đề bạt làm Đại tư khấu trông coi
hình sự.
Năm 498 TCN, khi Khổng Tử 54 tuổi, ông được Lý Hoàn Tử tin dùng, thay
mặt Lý Hoàn Tử trông coi việc nước và tham gia thảo luận việc nước. Thời gian
đầu nhậm chức ở nước Lỗ, công việc của Khổng Tử rất thuận lợi, mấy năm sau thì
nổ ra xung đột sâu sắc với các nhân vật có thực lực trong tập đoàn thống trị nước
Lỗ. Vì vậy, khi 55 tuổi, ông đã từ quan. Trong thời gian tham chính ở nước Lỗ,
khoảng chừng 4 năm, trong đó thời gian nhậm chức Đại tư khấu là khoảng 3 năm.
Sau khi rời nước Lỗ, Khổng Tử chu du liệt quốc, bôn ba 14 năm trời. Ông từng
qua nước Tống, Vệ, Trần, Thái, Tề, Sở… Mục đích chu du của ông: một là “cầu
quan”, tìm cơ hội để ra làm quan, có dịp cai quản quốc gia; hai là “hành đạo”, tức
là tuyên truyền chủ trương chính trị của mình cho giai cấp thống trị các nước.
Nhưng trong suốt 14 năm ấy, ở đâu ông cũng gặp trắc trở, tựa hồ như “con chó
GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

11

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai



Luận văn tốt nghiệp

nhà có tang”, không những không kiếm được một chút quan chức nào mà chủ
trương chính trị của ông cũng không ai thu nạp.
Năm 484 TCN, Khổng Tử 68 tuổi, ông trở về nước Lỗ. Từ đấy trở đi ông dồn
sức vào sự nghiệp giáo dục, chỉnh lý “Thi”, “Thư” và các sách cổ khác, đồng thời
san định “Xuân Thu”.
Khổng Tử mất, lúc 73 tuổi, năm thứ 16 đời Lỗ Ai Công (479 TCN). Mộ ông
nằm bên bờ sông Tứ… Vua Lỗ và các vua chúa Trung Quốc khác, đời đời nối tiếp
nhau tế lễ Khổng Tử theo nghi thức tế lễ quốc gia trang trọng nhất.

1.1.3 Sự nghiệp giáo dục của Khổng Tử
Trong lịch sử nhân loại, có lẽ chưa có một người nào lại chiếm được một vị trí
độc tôn, phi phàm như Khổng Tử không những là một nhà hiền triết của Trung
Quốc mà còn là một người thầy của mọi thời đại “vạn sư thế biểu” của thế giới.
Tư tưởng của ông tuy có nhiều mặt hạn chế bởi xã hội đương thời, như “tam
cương ngũ thường”... nhưng ông đã để lại cho muôn đời nhiều câu nói bất hủ với
nhiều quan điểm mà cho đến nay, trong vấn đề giáo dục con người, ta vẫn còn
phải noi theo. Cống hiến của đời ông chủ yếu là dạy học. Ông đã đào tạo được
hàng nghìn học trò trong đó có 72 người hiền (Thất thập nhị hiền) nổi tiếng trong
lịch sử.
Một đời Khổng Tử đề cao việc học và chính ông cũng là tấm gương học tập
không mệt mỏi. Ông cho rằng phàm là con người ai ai cũng phải học, vua phải học
để làm vua, quan phải học để làm quan, dân phải học để làm dân. Đây là đóng góp
to lớn của Khổng Tử, ngay cả trong thời đại ngày nay, khi mà cánh cửa của nền
kinh tế tri thức đang mở ra, hướng nhân loại vào kỷ nguyên tin học, kỷ nguyên
khoa học kỹ thuật, khi mà việc học tập thường xuyên, suốt đời đã trở thành hiện
thực.
Nhớ Khổng Tử, chúng ta không chỉ nhớ một người thầy vĩ đại, đồng thời còn

nhớ một nhà sư phạm có đóng góp lớn lao trong việc chỉnh lý hệ thống và viết
sách giáo trình, giáo khoa nữa. Những trước tác vĩ đại do ông san định như Kinh
Thi, Kinh Dịch, Kinh Nhạc, Kinh Lễ, đã trở thành những tác phẩm kinh điển của
GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

12

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai


Luận văn tốt nghiệp

bao thế hệ Nho giáo. Ông lại viết bộ Kinh Xuân Thu, hợp thành bộ đại giáo khoa
thư: Lục Kinh, về sau bộ Kinh Nhạc bị thất truyền, vì thế hậu nho chỉ còn lại năm
kinh (Ngũ Kinh). Khổng Tử còn một bộ sách vĩ đại nữa là Luận Ngữ là cuốn sách
ghi chép những lời nói, những câu chuyện hàm nghĩa giáo huấn sâu xa của ông đối
với các đệ tử, cùng với nhiều ý kiến có liên quan tới nhiều lĩnh vực như kinh tế,
chính trị, đạo đức, văn học, triết học...Các tư tưởng và học thuyết về giáo dục của
Khổng Tử về sau được các môn đệ tiếp tục kế thừa và phát triển, và người có công
đầu chính là Mạnh Tử (372-289 TCN) với học thuyết Nhân - Nghĩa đã trở thành
"Khuôn vàng thước ngọc" của các triều đại phong kiến phương Đông trong việc trị
quốc an dân. Vì thế đạo Nho do Đức Khổng sáng lập và Mạnh Tử kế tục còn gọi
là đạo Khổng - Mạnh. Dù hơn mấy nghìn năm trôi qua, vượt mọi thăng trầm của
lịch sử nhưng những tư tưởng giáo dục độc đáo của Khổng Tử ảnh hưởng sâu sắc
tới đời sống tinh thần cũng như nền giáo dục của các nước phương Đông, trong đó
có Việt Nam. Những tư tưởng giáo dục đó góp phần làm cho công tác dạy và học
ở một số nước phương Đông, cũng như quá trình giáo dục nhân cách cho con
người thu được nhiều thành quả quan trọng trong xu thế hội nhập phát triển và
toàn cầu hoá. Đặc biệt, dưới sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường làm
mất đi giá trị đạo đức truyền thống, giá trị nhân văn của dân tộc.


1.2 Giới thiệu về Luận Ngữ
1.2.1 Hoàn cảnh ra đời Luận Ngữ
Luận Ngữ là một trong bốn quyển sách kinh điển của Nho gia (Tứ Thư, Đại
Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử). Luận Ngữ gồm những lời dạy của
Khổng Tử (chính xác hơn là lời đối thoại, bình luận giữa ông và học trò) được học
trò của ông biên soạn nên. Luận Ngữ [論 語] đã trở thành cuốn sách tập trung
được những tinh hoa có tính lịch sử về chính trị, về tư tưởng, về nhân văn đương
thời. Sách Luận Ngữ bắt đầu được ghi chép từ cuối thời kỳ Xuân Thu (770 - 476)
và thành sách ở thời kỳ đầu chiến quốc (476 - 221) TCN .Và sau khi Luận Ngữ ra

GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

13

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai


Luận văn tốt nghiệp

đời, đã có tác dụng quan trọng trong xã hội Trung Quốc cũng như các nước
Phương Đông.
Từ thời Hán đã lưu truyền 3 bản Luận Ngữ .
1. Lỗ Luận Ngữ, 20 thiên.
2. Tề Luận Ngữ, 22 thiên.
3. Cổ Văn Luận Ngữ, 21 thiên.
Bản được sử dụng hiện nay là Lỗ Luận. Sách Luận Ngữ được khảo cứu, dịch
thuật ở Trung Quốc cũng như trên thế giới rất nhiều, có thể lên đến trên dưới ba
nghìn bản. Ở nước ta phổ biến ba bản dịch của Đoàn Trung Còn, Nguyễn Hiến Lê
và Lê Phục Thiện.


1.2.2 Đặc điểm nội dung
“Luận Ngữ” là bộ sách ghi lại lời nói và việc làm của Khổng Tử và học trò của
ông. Bộ sách được các đệ tử của ông biên soạn lại. Sách có 20 phần, nội dung bao
gồm nguyên tắc giáo dục, phương pháp giáo dục, chủ trương chính trị, quan niệm
luân lí, tu dưỡng đạo đức nhân tâm…của Khổng Tử. Tên của từng phần lúc đầu
không có. Về sau người ta trích hai ba chữ ở câu đầu tiên mỗi phần mà đặt tên cho
từng phần.
Hiện nay nó là tác phẩm có thể phản ánh chân thực tư tưởng của Khổng Tử, là
tài liệu trực tiếp nhất, đáng tin cậy nhất để nghiên cứu Khổng Tử . Nội dung của
Luận Ngữ thật sâu sắc trong mọi phương diện học tập, giáo dục, xử thế….có nhiều
câu ngắn gọn mà thâm thúy đáng gọi là châm ngôn hoặc đã được coi là thành ngữ
như: “dục tốc bất đạt”, “hòa nhi bất đồng”, “ôn cố tri tân”, “dĩ trực báo oán”,
“quân tử cố cùng”, “phú quí như phù vân”, “danh chính ngôn thuận”. Vì vậy,
ngày nay Luận Ngữ vẫn không mất đi giá trị chân thực mà ngày càng có ảnh
hưởng rộng rãi, trở thành viên ngọc quý trong kho tàng văn hóa phương Đông và
nhân loại. Ở nước ta vẫn tiếp tục nghiên cứu để tiếp thu những tư tưởng hạt nhân
tiến bộ, đặc biệt là tư tưởng giáo dục Khổng Tử. Đó không chỉ là tài sản quý giá
của dân tộc Trung Hoa, mà còn là tài sản quý của cả nhân loại. Vì như sự đánh giá

GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

14

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai


Luận văn tốt nghiệp

của Triệu Tấn - Tể tướng đời Tống đã từng nói: “Chỉ cần nắm được một nửa kiến

thức của Luận Ngữ là đã có đủ trình độ để làm quan cai trị thiên hạ.”[19; tr.8].
Qua tác phẩm Luận Ngữ, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về những tư tưởng
Khổng Tử, nhất là tư tưởng giáo dục, đó là tác phẩm chứa nhiều tư liệu có giá trị
khoa học lịch sử, góp phần quan trọng trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo của
chúng ta hiện nay.

1.2.3 Đôi điều về việc chuyển ngữ Tiếng Việt Luận Ngữ ở Việt Nam
Luận Ngữ là một trong những tác phẩm kinh điển lớn của nho giáo Trung Hoa
xuất hiện từ thời Xuân Thu không chỉ chi phối lĩnh vực tư tưởng và đời sống văn
hóa xã hội của Trung Quốc mà còn được lưu truyền và ảnh hưởng sâu sắc ở các
nước ảnh hưởng văn hóa Hán như Việt Nam, Nhật Bản, bán đảo Triều Tiên. Luận
Ngữ xếp hàng đầu trong Tứ Thư được nghiên cứu chú giải ở Trung Quốc và dịch
chú ở nước ta cũng như các nước trong khu vực lưu truyền kinh điển này.
Trước đây, Luận Ngữ là loại sách hàng đầu trong chương trình cử nghiệp mà
nhà Nho nào cũng phải thuộc làu. Việc nghiên cứu và giải thích ngữ nghĩa cũng
như tư tưởng của Luận Ngữ ở Việt Nam đã có một quá trình lâu dài, liên tục. Do
được viết bằng chữ Hán nên Luận Ngữ ở Việt Nam từng được chú giải bằng chữ
Nôm. Sau khoa thi chữ Hán cuối cùng vào đầu thế kỉ XX bị bãi bỏ, người ta mới
bắt đầu nghĩ đến chuyện dịch chú nó sang chữ Quốc ngữ để giới thiệu với người
học đương thời.
- Tính đến nay, ngoài Luận Ngữ trích lục diễn giải (Khổng học đăng) của Sào
Nam Phan Bội Châu, có thể kể đến một số bản dịch toàn bộ Luận Ngữ. Tình hình
giới thiệu và dịch chú của các bản dịch có thể tóm tắt như sau:
- Khổng học đăng, tác giả Sào Nam Phan Bội Châu soạn năm 1929, được nhà
Anh Minh xuất bản năm 1957. Trong Khổng học đăng có Luận Ngữ trích lục diễn
giải. Chương I là Khổng Tử lược truyện, 18 chương còn lại tác giả trích lục và
diễn giải Luận Ngữ theo chủ đề như “học”, “chí”, “nhân”… chứ không theo thứ
tự các chương của nguyên bản. Cách trình bày lời dịch xen kẽ lời bình, hướng
người đọc đến nhận thức luân lý đạo đức, giáo dục, gọi là “trích lục” nhưng phần
GVHD: Bùi Thị Thúy Minh


15

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai


Luận văn tốt nghiệp

lớn các câu trong Luận Ngữ đã được dịch và diễn giải. Sách không có chú giải
riêng biệt, nhất là cách hiểu khác nhau về câu chữ cũng chưa bàn tới.
- Luận Ngữ của Đoàn Trung Còn có thể xem là bản dịch Luận Ngữ sớm nhất,
xuất bản năm 1950, tại nhà in Trí Đức tòng thơ, Sài Gòn. Sách không có phần dẫn
luận. 20 chương được trình bày cả nguyên văn chữ Hán, phiên âm và dịch nghĩa.
Sau văn bản dịch thường có lời bình và những tồn nghi của dịch giả.
Cũng như Khổng học đăng của Phan Sào Nam, bản dịch Luận Ngữ của Đoàn
Trung Còn in đậm dấu vết của chữ Quốc Ngữ thuở sơ khai trong sở học của các
nhà Nho thời đầu thế kỷ XX, cùng với một số từ còn mang đậm màu sắc địa
phương mà ta dễ dàng tìm thấy trong bản dịch. Cả hai sách trên dịch giả đều
không chỉ dẫn bản dịch dựa trên văn bản chữ Hán nào.
- Luận Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch, Nxb. Văn Hóa, H.1991, Nxb. Văn học
tái bản 2003. Theo Lời giới thiệu, bản dịch hoàn thành năm 1978. Trong quá trình
dịch chú tác giả có tham khảo bản dịch của Đoàn Trung Còn. Ngoài ra còn tham
khảo Luận Ngữ độc bản (sách chữ Hán) của Thẩm Tri Phương và Tưởng Bá Tiềm,
Luận Ngữ nhị thập giảng (sách chữ Hán) của Vương Hướng Minh. Có thể nói đây
là bản dịch rất công phu và chú thích khá đầy đủ về tên người, tên đất…Tuy vậy,
người dịch chưa so sánh với các bản dịch trong nước một cách cụ thể.
- Luận Ngữ do Lê Phục Thiện dịch Nxb. Văn học, H. 2003 là bản dịch Luận
Ngữ do Chu Hi tập chú. Sách dịch toàn bộ nguyên văn Luận Ngữ và phần chú giải
của Chu Hi, có thêm chú giải của người dịch. Phần này chủ yếu chú thích tên
người, tên đất, từ đa nghĩa và khó hiểu.

Bản dịch Luận Ngữ thuộc bộ Tứ thư, Nxb Quân đội nhân dân, H.2003 do Trần
Trọng Sâm và Kiều Bách Vũ Thuận biên dịch. Các dịch giả cho biết bản Luận
Ngữ được biên dịch từ nguyên bản tiếng Trung Quốc do Vương Thành Trung chú
dịch, Nxb Nhân dân Hà Nam, 1998. Sách không in nguyên văn, phiên âm và chú
giải mà chỉ có phần dịch nghĩa với lời bình. Có thể nói đây là bản dịch thuần túy
Luận Ngữ và lời bình của tác giả Trung Quốc hiện đại, không có sự đối chiếu so
sánh hay tồn nghi nào.
GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

16

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai


Luận văn tốt nghiệp

Khổng Phu tử và Luận Ngữ, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2004 do Phạm Văn
Khoái biên soạn dịch chú. Ngoài phần cuộc đời và học thuyết của Khổng Tử, phần
dịch chú Luận Ngữ được trình bày nguyên văn chữ Hán, phiên âm và dịch. Đây là
bản dịch gần đây nên thể hiện tính kế thừa rõ rệt nhất. Đặc biệt là phần chú thích,
tác giả đã nêu ra các cách hiểu khác nhau của 8 trường hợp, phần lớn là các ý kiến
của các học giả Trung Quốc, Đài Loan và châu Âu.
Như vậy, trong các công trình dịch chú Luận Ngữ kể trên tuy ít nhiều có sự kế
thừa nhưng việc chú giải một cách đầy đủ các bản dịch vẫn còn để trống và nhất là
chưa đưa ra hướng giải quyết các trường hợp đó.

1.2.4 Ảnh hưởng của Luận Ngữ trong đời sống xã hội hiện nay
Trong xã hội Trung Quốc, Khổng học đã chiếm vị trí thống trị hơn 2000 năm,
đủ chứng minh rõ sức hấp dẫn về tư tưởng quản lí và giáo dục của Khổng Tử.
Ngày nay khi thế giới đang bước vào nền văn minh công nghiệp hiện đại, Nhật

Bản, Trung Quốc và những con rồng Châu Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng
Kong, Singapore…đang vươn sức bay cao là không thể thiếu vai trò của Khổng
Giáo. Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử qua Luận Ngữ có tầm vĩ mô đang được cả
thế giới coi trọng. Nếu như thế kỉ XX là thế kỉ phát triển cực kì hưng thịnh của văn
minh Phương Tây. Song thế kỉ XXI với sự trỗi dậy của văn hoá Phương Đông,
văn minh Phương Tây trong tất yếu lịch sử đang suy sụp nhường chỗ cho văn
minh văn hoá Phương Đông. Trong đó có sự toả sáng của tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử qua Luận Ngữ .
Ngày nay tại Hoa Kỳ, các học sinh xuất sắc gốc Á châu thường có nguồn gốc
từ bốn quốc gia là Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Nhiều người
đặt câu hỏi nguyên nhân nào đã dẫn đến sự vươn lên của giới trẻ trong phạm vi
học đường, từ tiểu học đến đại học? Các học sinh gốc Thái Lan, Căm Bốt... với
nền căn bản Phật Giáo Tiểu Thừa, cho cuộc đời là vô thường, cũng như các học
sinh Indonesia hay Mã Lai theo đạo Hồi, đã không dấn thân vào cộng đồng, không
thấy rõ trách nhiệm của họ đối với gia đình và xã hội như những con em của các
gia đình có căn bản về Khổng Giáo.
GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

17

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai


Luận văn tốt nghiệp

Sợi dây ràng buộc một cá nhân với gia đình, với cộng đồng, với xã hội của
triết lý Khổng Học đã khiến cho cá nhân phải vượt trội. Cũng vì lợi ích của những
điều giảng huấn Khổng Học mà tại Triều Tiên, Đài Loan và Nhật Bản, Khổng
Giáo đã gây được các ảnh hưởng rất lớn lao và được áp dụng vào cách xử thế của
mọi người. Nền văn minh “nhân bản”, đặt căn bản trên các giáo điều Khổng Học,

đã làm đẹp con người, làm đẹp cách xử thế trong cộng đồng và xã hội.
Khổng Tử quả là một trong các bậc Thầy vĩ đại của lịch sử Trung Hoa. Quan
niệm về Lễ, Nghĩa của con người cùng sự quan trọng của đức tính Nhân và lòng
Nhân Đạo trong chính trị và trong đời sống hàng ngày đã được sau này Mạnh Tử
khai triển và được Tuân Tử đưa vào thực tế.
Do các điều giảng dạy đạo làm người rất thực tế và đầy lòng Nhân, nên Luận
Ngữ vẫn tiếp tục được coi là một triết lý sống rất mạnh và phổ thông tại Trung
Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam .

1.3 Ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục Khổng Tử trong nhà trường
1.3.1 Đối với giáo viên
Có thể nói, tư tưởng giáo dục của Khổng Tử đến ngày nay vẫn còn có nhiều
giá trị, nó ảnh hưởng to lớn đến sự nghiệp giáo dục của nhiều nước phương Đông
trong đó có Việt Nam chúng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Nhiều yêu cầu
giáo dục hiện đại vẫn có thể tìm thấy cách làm đáng tham khảo trong tư tưởng
giáo dục đào tạo của Khổng Tử, cho nên muốn khắc phục ảnh hưởng đó thì phải
nghiên cứu kế thừa tư tưởng đạo đức và giáo dục của Khổng Tử.” [16; tr.190].
Phương pháp giáo dục của Khổng Tử chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, đó là những
tài liệu quý cung cấp cho các thầy cô giáo dạy học hiện nay. Với các phương pháp
như: Phân loại học sinh mà dạy, tùy tính cách học sinh mà dạy, tùy khác biệt công
việc của từng học sinh... ngày nay chúng ta đang cố gắng học tập và vận dụng
sáng tạo vào quá trình dạy và học trong nền giáo dục Việt Nam. Bên cạnh kế thừa
những mặt tích cực trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, khi đất nước bước vào
hội nhập thì đòi hỏi người giáo viên phải nâng cao năng lực, phẩm chất, đạo đức,
để đáp ứng với yêu cầu của thời đại mới. Vì vậy, trong tình hình hiện nay Đảng và
GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

18

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai



Luận văn tốt nghiệp

Nhà nước đòi hỏi người giáo viên phải nâng cao trình độ dạy học luôn có nhiều
sáng kiến trong phương pháp giảng dạy.
Trong quá trình truyền thụ tri thức cho người học, Khổng Tử luôn muốn người
học phải suy nghĩ tìm ra câu trả lời, sau đó Ông mới làm sáng tỏ vấn đề giúp
người học hiểu kĩ nội dung bài học hơn. Đây là một sáng kiến lớn trong phương
pháp dạy học, để chất lượng giáo dục được nâng cao và phát huy vai trò chủ đạo
của người học, chúng ta đã kế thừa, vận dụng phù hợp điều này vào trong việc
giảng dạy hiện nay.
Việt Nam bước vào hội nhập, phát triển, dưới tác động của nền kinh tế thị
trường, đòi hỏi người giáo viên không chỉ nâng cao năng lực, trình độ mà còn phải
có phẩm chất trong sáng của người giáo viên nhân dân nữa, vì thế Đảng ta xác
định tư cách người giáo viên trong thời đại ngày nay phải có bốn mặt sau:
Về mặt đạo đức, Chủ Tịch Hồ Chí Minh nói: “Trách nhiệm nặng nề và vẻ vang
của người thầy học là chăm lo dạy dỗ con em của nhân dân thành người công dân
tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, cán bộ tốt của nước nhà.”[16; tr.6].
Muốn làm tròn trách nhiệm đó, người cán bộ giáo dục phải luôn gương mẫu về
mọi mặt, không ngừng bồi dưỡng đạo đức cách mạng, lập trường chính trị, phải ra
sức giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, trong cuộc sống cũng như trong công việc. Người
thầy phải luôn là tấm gương đạo đức trong sáng mẫu mực cho học trò noi theo,
Khổng Tử cũng là một tấm gương sáng về nhân cách, phẩm chất mà học trò rất
kính trọng đó là một người thầy “dạy không biết chán, học không biết mỏi”. Hơn
thế nữa, người thầy không chỉ dạy chữ mà còn phải dạy làm người cho học trò, vì
vậy người thầy phải hết lòng yêu thương vì học trò thân yêu, có trách nhiệm, ý
thức trong công việc, luôn tận tụy với nghề nghiệp. Đạo đức của người giáo viên
có tác động đến việc hình thành nhân cách của học sinh, người thầy phải luôn có
phẩm chất đạo đức trong sáng, là tấm gương gương mẫu về mọi mặt và đặc biệt

trong nghề nghiệp phải như lời dạy của “vạn thế sư biểu” là “dạy không biết chán,
học không biết mỏi”.

GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

19

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai


Luận văn tốt nghiệp

Về mặt tri thức: người thầy giáo phải có kiến thức sâu rộng và vững chắc về
chuyên môn, không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết các lĩnh vực trong xã hội.
Khổng Tử am hiểu và giỏi Thi, Thư, Lễ, Nhạc...về đạo lý làm người ở đời, nên
người đời phong Ông là Thánh Sư, Tiên Sư.
Ngày nay, thời đại khoa học kĩ thuật phát triển, công nghệ thông tin bùng nổ,
đòi hỏi người giáo viên phải hiểu biết trên nhiều lĩnh vực, biết mười mà dạy một,
thì mới đáp ứng được đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước và nhu cầu phát triển
của xã hội.
Trong tình hình hiện nay, người giáo viên không chỉ có đạo đức nghề nghiệp,
có tri thức chuyên môn, mà đòi hỏi người thầy phải là một tấm gương sáng trong
nghiên cứu khoa học, để phục vụ cho công tác giảng dạy, đồng thời cũng nâng cao
kiến thức. Do chỉ chú trọng học tập các môn xã hội, nên các nước phương Đông
ảnh hưởng từ Nho giáo có nền kinh tế yếu kém, ì ạch không thoát ra khỏi nghèo
nàn lạc hậu được, đó là bước cản trở cho quá trình hội nhập. Vì vậy, người thầy
ngày nay phải ra sức nghiên cứu khoa học, cập nhật thông tin, làm giàu vốn hiểu
biết cho mình, đồng thời phải tham khảo nhiều tài liệu, đọc sách vở nhằm nâng
cao chất lượng bài giảng, làm rõ bản chất vấn đề của bài học, giúp học sinh hiểu
bài và nắm vững kiến thức.

Để học sinh hiểu bài và có tinh thần hăng say học tập, người thầy phải có
phương pháp truyền đạt kiến thức, là thầy dạy chứ không phải là người thợ dạy, vì
vậy người thầy chính là nghệ sĩ trên sân khấu bục giảng. Trong giờ học, người
thầy phải biết biến tấu làm cho bài học sinh động, tránh tình trạng thầy đọc trò
chép, mà thông qua bài giảng để người học tìm thấy kiến thức cho mình. Kế thừa
phương pháp giáo dục của Khổng Tử, người giáo viên phải luôn kích thích trí tò
mò, ham học hỏi cũng như sự tự giác của học sinh. Hiện nay, ở nước ta tình trạng
thầy đọc trò chép còn nhiều, Đảng và Nhà nước đang khuyến khích tinh thần hăng
say lao động sáng tạo trong dạy học của người giáo viên, nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục Việt Nam trong thời đại mới.

GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

20

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai


Luận văn tốt nghiệp

1.3.2 Đối với người học.
Khổng Tử cho rằng giáo dục là: “hữu giáo vô loại”, có nghĩa là tất cả mọi
người được tham gia học tập, không phân biệt nghèo hèn hay giàu sang. Với nền
giáo dục Việt Nam hiện nay, kế thừa tư tưởng đó, Đảng ta mở rộng nền giáo dục
hướng đến toàn dân, nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Mục
đích, giáo dục của Khổng Tử là nhằm đào tạo người quân tử trước hết làm người
sau đó ra làm quan giúp đời cứu người. Còn Việt Nam hiện nay, mục đích giáo
dục là nhằm giáo dục nên những con người có đạo đức, tri thức để xây dựng bảo
vệ Tổ Quốc. Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII có nêu, giáo
dục hiện nay nhằm “Hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có

năng lực thực hành, tự chủ, năng động sáng tạo có đạo đức cách mạng, có tinh
thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, nhà trường đào tạo thế hệ trẻ theo hướng
toàn diện, có năng lực chuyên môn sâu, có ý thức và khả năng tạo việc làm trong
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần” [17; tr.175].
Trong thời đại mới, Việt Nam bước vào hội nhập và đang trên con đường đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, để đóng góp sức mình vào sự nghiệp xây dựng đất
nước người học phải xác định được mục đích, động cơ của việc học, học trước hết
để làm người, để làm việc rồi mới phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ Quốc. Như vậy,
học để có kiến thức là quan trọng, nhưng trước tiên có kiến thức thì người học
phải có đạo đức trong sáng, như quan niệm của cha ông ta, của Chủ Tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định “Đức là gốc của con người”. Vì thế hiện nay rất nhiều trường
học ở nước ta nêu cao khẩu hiệu đã có từ ngàn xưa “Tiên học lễ, hậu học văn” là
để nhằm vào mục đích đó. Do đó, đối với việc “giáo dục ngày nay không chỉ
hướng con người tu dưỡng đạo đức, nuôi cái mầm thiện, mà hướng con người tu
dưỡng nghề nghiệp, tri thức, hội nhập tri thức và đạo đức đem lại hạnh phúc cho
cá nhân, gia đình, cộng đồng Tổ Quốc” [17; tr.198].
Kế thừa tư tưởng hợp lý tiến bộ của Khổng Tử trong giáo dục, ngày nay chúng
ta không chỉ xây dựng đạo đức, phẩm chất cho người học, mà còn luôn nâng cao
trình độ, trang bị đầy đủ kiến thức cho người học, để tham gia vào sự nghiệp đổi
GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

21

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai


Luận văn tốt nghiệp

mới và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong xu thế mở cửa, giao lưu hội
nhập và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa

của nước ta hiện nay. Nhìn chung, trong giáo dục hiện nay Đảng và Nhà nước
quan tâm đến việc giáo dục cả tài và đức cho người học, vừa có tài phải vừa có
đức, có tài không có đức tham ô hủ hoá có hại cho nhà nước, có đức không có tài
như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được cho ai.
Để học tập đạt kết quả cao, người học phải có ý thức trong học tập, chăm chỉ,
ham học hỏi và sáng tạo, đó là ba đức tính tối thiểu cần thiết đối với người học.
Khổng Tử dạy: “Ngọc bất trác bất thành khí. Nhân bất học bất tri đạo” - ngọc
không mài dũa không thành trang sức quý, người không học thì không có tri thức,
kiến thức loài người là vô tận do đó người học phải nổ lực hết mình thì mới có thể
lĩnh hội được tri thức, mới làm chủ được bản thân. Người thầy giáo phải là giáo
viên chứ không phải là thợ dạy, tránh tình trạng thầy đọc trò chép, người thầy phải
là người dẫn đường cho người học đi đến đỉnh cao của tri thức. Còn người học
phải tự học là chính, tránh lý thuyết nhiều mà thực hành ít, phải vận dụng một
cách hợp lý sáng tạo những kiến thức đã học vào trong cuộc sống, phát huy nâng
cao trình độ cũng như kĩ năng kĩ xảo trong học tập.
Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi người học phải có tri thức,
trình độ tay nghề cao so với những giai đoạn trước đây. Tri thức, tay nghề, chuyên
môn, trình độ không phải là sản phẩm sẵn có, mà do học hỏi, tích lũy mới có. Hiện
nay ở Việt Nam trong giáo trình đạo đức học dùng cho sinh viên các trường đại
học, cao đẳng thì việc “học tập không biết mỏi” là một trong sáu phẩm chất của
đạo đức cá nhân. Học tập không biết mỏi, đã được Khổng Tử nói đến cách đây
hơn mấy nghìn năm: “Học không chán là trí đấy, dạy không mỏi là nhân đấy”, như
thế mới biết giá trị lịch sử của tư tưởng giáo dục Khổng Tử có tác dụng to lớn và
ảnh hưởng đến thời đại ngày nay như thế nào.
Với tinh thần học không biết mỏi, học không biết chán, giúp người học có tinh
thần, ý chí hăng say học tập trau dồi cả tri thức và đạo đức, đây là một tư tưởng
tiến bộ, ngày nay chúng ta đang nhân rộng ra khắp các trường trong cả nước. Cha
GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

22


SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai


Luận văn tốt nghiệp

ông ta từ xưa đã chủ động tiếp nhận tư tưởng này, xây dựng một nền giáo dục Nho
học rực rỡ, đào tạo nên nhiều nhân tài cho đất nước, gây dựng nên trong nhân dân
tâm lý hiếu học và ham học. Ngày nay, trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, cần phải khơi dậy lại trong xã hội truyền thống ham học đó, xã hội cần tạo
những điều kiện mở mang, khuyến khích việc dạy và học tạo mọi điều kiện tốt
nhất để người học phát huy được khả năng của mình.

GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

23

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai


Luận văn tốt nghiệp

CHƯƠNG 2. PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY CỦA KHỔNG
TỬ QUA LUẬN NGỮ
2.1 Quan điểm của Khổng Tử về nhiệm vụ của người thầy
2.1.1 Truyền đạt kiến thức
Khổng Tử cho rằng, tác dụng của người thầy là hướng dẫn cho học trò tự học.
Ngoài quá trình tự học là quá trình học trong sự tương tác thầy trò. Ở đó người
thầy chỉ cần làm các công việc: chỉ cho học trò biết phương pháp học tập, gợi ý để
học trò suy nghĩ, giải đáp thắc mắc cho học trò chứ không phải nhồi nhét tri thức

cho học trò mình. Người thầy không phải là người thợ dạy sách, học trò không
phải là cái giá đựng sách. Quá trình dạy và học là một quá trình giao lưu trao đổi,
thông suốt, thế mới bồi dưỡng nên những học trò có kiến thức, biết tự lập, ứng phó
được với mọi hoàn cảnh.
Một trong những nhiệm vụ cơ bản của giáo dục là truyền đạt kiến thức cho học
trò. Điều đó là đúng nhưng vấn đề là truyền đạt như thế nào, truyền đạt tri thức gì?
Khổng Tử ghét những ông thầy chỉ biết tri thức trong sách hiện có mà không cung
cấp thêm chút ít tư tưởng gì của mình cho học trò; học trò chỉ biết ghi chép lời của
thầy. Phương pháp truyền thụ lý tưởng của Khổng Tử là: tri thức do học trò tự
mình học lấy, tốt nhất như trường hợp Nhan Hồi học một biết mười, nếu không
được như thế thì bất cứ vấn đề gì trước khi chấp nhận cũng phải có sự suy nghĩ
của bản thân, phải có tư duy tích cực đối với lời thầy dạy, cũng như đối với sách
vở của tiền nhân. Trong quá trình học tập của học trò, người thầy phải giúp họ có
những phương pháp học tập hợp lý, có tư duy tích cực, giải đáp thắc mắc cho học
trò, khiến việc học tập trở thành một hoạt động tư duy chủ động, hứng thú. Do
những tư tưởng trên mà Khổng Tử trở thành người thầy mẫu mực trong mấy nghìn
năm lịch sử.
Khổng Tử được tôn xưng là “người thầy gương mẫu của muôn đời” (vạn thế sư
biểu). Điều đó khẳng định sự cống hiến lớn lao của Khổng Tử trong lĩnh vực giáo
dục. Xã hội biến đổi, quan niệm về giáo dục cũng biến đổi theo. Lịch sử Trung

GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

24

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai


Luận văn tốt nghiệp


Quốc đến thời Khổng Tử thì cách giáo dục, cách đào tạo, quan niệm về giáo dục,
đào tạo đã có một bước ngoặt to lớn. Nói cách khác, Khổng Tử đã mở ra một nền
giáo dục mới, khác về chất so với thời trước ông. Khổng Tử tiếp thu truyền thống
nhà Chu, như ông đã từng khẳng định “吾 從 周” “Ngô tùng Chu” (ta theo nhà
Chu) [4; tr.41], song ông đã tạo ra một phương pháp giáo dục mới, mà cái mới đó
phụ thuộc vào chính nội dung giáo dục, cũng tức là nội dung học thuyết của
Khổng Tử.

2.1.2 Giải thích
Học thuyết của Khổng Tử không biểu lộ rõ ý nghĩa của việc giáo dục, song
thông qua một số đoạn trong tác phẩm Luận Ngữ, thông qua các khái niệm “giáo”
(dạy dỗ), “học” (học tập), “hối” (dạy, đào tạo)…chúng ta có thể thấy được cái ý
nghĩa bao hàm trong đó. Luận Ngữ còn chép lại: “ 子曰:學 而 時 習 之,不

亦 說 乎?” (Tử viết: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ?”) “Khổng Tử nói
rằng: “Kẻ học đạo lý mà thường ngày luyện tập cho tinh thông, nhuấn nhã, há
không lấy đó làm vui sao?” [4; tr.5]. “Tử Hạ nói: “賢 賢 易 色;事 父 母 能

竭 其 力,事 君 能 致 其 身,與 朋 友 交,言 而 有 信,雖 曰 未
學,吾 必 謂 之 學 矣.” (Hiền hiền dịch sắc, sự phụ mẫu năng kiệt kỳ lực, sự
quân năng trí kỳ thân, dữ bằng hữu giao, ngôn nhi hữu tín, tuy viết vị học, ngô tất
vị chi học hĩ.) “Người nào biết đổi bụng hóa sắc ra làm bụng mộ người hiền, đem
hết sức mình mà thờ cha mẹ, liều thân mình mà phụng sự quốc trưởng, giao tiếp
với bằng hữu thì ăn nói thật tình, người như vậy, dẫu có ai nói rằng chưa học văn
chương đạo lý, chớ tôi bảo rằng đã có học rồi đó.” [4; tr.7]. Rõ ràng ở đây, học
không chỉ là nghiên cứu học vấn, cái quan trọng hơn là hành vi thiện, là đạo đức,
tức là chú trọng đến hành động thực tiễn. Khổng Tử nói: “弟 子 入 則 孝,出

則 弟;謹 而 信,汎 愛 眾;而 親 仁,行 有 餘 力,則 以 學 文.”
(Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân. Hành


GVHD: Bùi Thị Thúy Minh

25

SVTH: Nguyễn Thị Bé Hai


×