Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và việc hoàn thiên quy định của pháp luật về vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.61 KB, 16 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó tòa án
có thẩm quyền tiến hành xem xét và giải quyết vụ án hình sự, ra bản án, quyết định tố
tụng theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ chế độ, pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ tài sản của nhà nước, của tập thể; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân góp
phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Xét xử sơ thẩm là những phán quyết đầu
tiên của tòa án đối với một vụ án, nó cũng có thể là phán quyết cuối cùng trong trường
hợp không có kháng cáo, kháng nghị. Để giải quyết vụ án sơ thẩm thì thẩm quyền thuộc
về nhiều chủ thể khác nhau. Trong thực tiễn xét xử hiện nay còn nhiều trường hợp xét
xử sơ thẩm sai thẩm quyền, có sự tranh chấp thẩm quyền khi xét xử. Đó là những lỗ
hổng trong quy định của bộ luật tố tụng hình sự, là nhận thức sai lệch của một số cá
nhân, cơ quan có thẩm quyền. Với đề tài “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và
việc hoàn thiên quy định của pháp luật về vấn đề này ” tôi muốn mọi người hiểu thêm
về vấn đề này và góp phần nhỏ của mình trong việc hoàn thiện bộ luật tố tụng hình sự.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án.
1. Khái niệm, phân loại, ý nghĩa thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
1.1.

Khái niệm.

Như chúng ta đã biết, trong LTTHS thẩm quyền xét xử của Tòa án theo nghĩa
rộng gồm thẩm quyền xem xét và giải quyết vụ án, ra bản án hoặc các quyết định khác
như quyết định đình chỉ, quyết định tạm đình chỉ vụ án…Theo đó thẩm quyền của tòa án
bao gồm hai yếu tố liên quan chặt chẽ với nhau là thẩm quyền về hình thức và thẩm
quyền vế nội dung. Thẩm quyền về hình thức là thẩm quyền xem xét và phạm vi xem
xét (giới hạn xét xử của Tòa án). Thẩm quyền về nội dung là quyền hạn giải quyết;
quyết định của tòa án vệ những vấn đè được xem xét. Trong phạm vi bài này, ta chỉ
nghiên cứu thẩm quyền về hình thức của Tòa sơ thẩm. Theo đó: Thẩm quyền xét xử sơ
thẩm là quyền mà pháp luât quy định cho phép tòa án được xét xử sơ thẩm vụ án



1


hình sự căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nơi thực
hiện tội phạm hoặc nơi khác theo quy định của pháp luật.
Việc quy định thẩm quyền xet xử của Tòa án cần dựa vào: đường lối, chính sách
của đảng, nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự, tính chất mà mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, tính nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ của thẩm phán cũng như điều tra viên, kiểm sát viên, biên chế
và cơ sở vật chất, tình hình tội phạm và yêu cầu phòng chống tội phạm.
1.2.

Phân loại thẩm quyền xét xử sơ thẩm.

Có nhiều cách để xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của vụ án hình sự:
* Căn cứ vào thẩm quyền xét xử theo sự việc thì luật tố tụng hình sự phân thành
hai loại: Thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực và Thẩm
quyền của tòa án nhân dân cấp tỉnh, tòa án quân sự cấp quân khu.
* Căn cứ vào thẩm quyền xét xử theo đối tượng thì cũng được phân thành hai
loại: Thẩm quyền xét xử của TAND và thẩm quyền xét xử của TAQS.
* Căn cứ vào thẩm quyền theo lãnh thổ để xác định nơi tội phạm thực hiện hành
vi phạm tôi và nơi kết thúc điều tra.
1.3.

Ý nghĩa

Xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án có ý nghĩa quan trọng và là cơ sở
để các định thẩm quyền xét xử của Tòa án trong các giai đoạn tiếp theo. Khi xét xử, Tòa
án ra bản án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bản án của tòa án cụ

thể hóa đường lối, chính sách, quan điểm của nhà nước đối với việc xử lí người có hành
vi phạm tội. Xác định đúng thẩm quyền xét xử là điều kiện để công nhận một bản án có
hiệu lực pháp luật hay không? Là cơ sở để bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Xác định thẩm quyền xét xử ta còn coi đó để xem xét trách nhiệm của cá nhân, tổ
chức có thẩm quyền trong việc xét xử cũng như khi có các vi phạm khác xảy ra trong
quá trình xét xử vụ án hình sự đó.

2. Quy định của pháp luật hiện hành vể thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.
2


Thẩm quyền xét xử sơ thẩm gồm thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội
dung. Trong phạm vi của bài này, ta chỉ xem xét thẩm quyền về hình thức. Thẩm quyền
này được xác định dựa trên 3 tiêu chí: sự việc, đối tượng và lãnh thổ.
2.1.

Thẩm quyền xét xử theo sự việc.

2.1.1. Thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân cấp huyện và tòa án quân sự khu vực.
Trong hệ thống tòa án của nhà nước ta, TAND huyện và TAQS khu vực (gọi
chung là TA cấp huyện) là cấp xét xử thấp nhất. Có thể nói kết quả xét xử của tòa án cấp
huyện là cơ sở, nền tảng đầu tiên để giải quyết một vụ án hình sự, việc xác định thẩm
quyền của TA cấp huyện đúng đắn sẽ tạo điều kiện thuận lơi cho việc xác định thẩm
quyền của TA cấp tỉnh và TAND tối cao.
Điều 170 bộ luật TTHS năm 2003 quy định về thẩm quyền xét xử của TA các
cáp. Theo quy định của điều nay, TAND cấp huyện có thẩm quyền xét xử các vụ án
hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và tội phạm rất nghiên trọng
trừ những trường hợp sau đây:
- Các tội xâm phạm an ninh quốc gia

- Các tội xâm phạm hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh
- Các tội quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223,
224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình sự.
Như vậy, so với các quy định về thẩm quyền xét xử trước đây, Bộ luật TTHS mở
rộng một bước đáng kể thẩm quyền xét xử của TA cấp huyện. Nếu trước đây, các tội
xâm phạm ANQG đều không thuộc thẩm quyền xét xử của TA cấp huyện thì hiện nay,
bộ luât TTHS quy định chỉ những tội phạm đặc biệt nguy hiểm xâm phạm ANQG mới
không thuộc thẩm quyền xét xử của TA cấp huyện, còn những tội khác xâm phạm
ANQG TA cấp huyện vẫn được quyền xét xử.
Mặt khác, nếu trước đây TA cấp huyện chỉ được xét xử các tội có khung hình
phạt đến 5 năm tù, đến bộ luât TTHS năm 1988 nâng lên mức 7 năm tù thì hiện nay TA
cấp huyện còn được xét xử cả những tội rất nghiêm trọng, đến 15 năm tù. Tuy vậy, có
một số tôi phạm mặc dù hình phạt dưới 15 năm tù TA cấp huyện vẫn không có quyền
xét xử như tội vô ý làm lộ bí mật của nhà nước, tội làm mất tài liệu bí mật của nhà nước.
3


Mặc dù mức cao nhất của khung hình phạt của tội này là 7 năm tù nhưng vẫn không
thuộc thẩm quyền xét xử của TA cấp huyện. Ngoài ra, còn có các tội quy định tại điếu
93, 95, 96, 172, 216…cũng không thuộc cũng không thuộc thẩm quyền của TA cấp
huyên. Sở dĩ như vậy là vì việc điều tra, truy tố, xét xử các tội đó có khó khăn do tính
chất phức tạp của các tội này, TA cấp huyện khó có thể đảm bảo về mặt trình độ, nhận
thức cũng như kinh nghiệm để giải quyết đúng đắn các vụ việc này, do đó pháp luật hiên
hành không trao quyền xét xử sơ thẩm cho TA cấp huyện về các tội này. Tuy nhiên qua
gần 15 năm thực hiện quy định ta điều 145 bộ luật TTHS năm 1988 về thẩm quyền xét
xử của TAND cấp huyện đã mang lại những kết quả nhất định song thực tiễn điều tra,
truy tố, xét xử trong những năm qua cho thấy số vụ án mà TAND cấp tỉnh phải xét xử
vụ án sơ thẩm ngày càng nhiều. Do vậy, bộ luật TTHS năm 2003 một lần nữa mở rông
thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện vì những lí do sau:
Thứ nhất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm Phán ở hầu hết các TA cấp

huyện ngày càng được nâng cao và có khả năng xét xử những vụ án mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là 15 năm tù trở xuống.
Thứ hai, số lượng biên chế của TA cấp huyện và cơ sở vật chất đã tương đối ổn
định.
Thứ ba, việc tăng thẩm quyền xét xử cho TA cấp huyện sẽ tránh được việc tồn
đọng án ở cấp tỉnh , dành thời gian cho TA cấp tỉnh tập trung xét xử phúc thẩm, giảm
đốc thẩm và tái thẩm,
Thứ tư, việc mở rông thẩm quyền xét xử của TA cấp huyện tiết kiệm thời gian và
tránh được việc hoãn tòa vì lí do vắng mặt của những người tham gia tố tụng.
Thứ năm, việc xét xử ở TA cấp huyện sẽ phát huy được tác dụng giáo dục,
Thứ sáu, việc xét xử ở TA cấp huyện có hiệu quả kinh tế hơn vì người lảm chứng
nơi xảy ra vụ án sẽ không phải đi xa, TA không phải thanh toán tiền phương tiện đi lại,
tiền lưu trú, tiền ở trong trường hợp vụ án phải xét xử nhiều ngày.
Một điểm khác cơ bản về thẩm quyền xét xử của bộ luật TTHS năm 2003 là: các
văn bản pháp luật trước đây cho phép TA cấp huyện căn cứ vào mức hình phạt mà TA
tuyên để xác định thẩm quyền, còn bộ luật TTHS năm 2003 quy định thẩm quyền căn cứ
4


vào mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định. Theo quy định của bộ luât
TTHS, TA chỉ dựa vào khung hình phạt để xác định thẩm quyền xét xử chứ không phải
dự kiến trước hình phạt TA sẽ áp dụng: “Sự thay đổi này chứng tỏ cách nhìn nhận mới
của cơ quan lập pháp nước ta đối với hoạt động tố tụng hình sự nói chung và xét xử nói
riêng, bảo đảm cho các TA xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, quyết định trên cơ
sở xem xét các chứng cứ tại phiên tòa mà không hề có sự “dư kiến” hình phạt, chỉ đạo
án… vẫn tồn tại trong những năm trước đây” 1
=> Từ sự phân tích trên ta có thể thấy:
* Nếu một điều luật có nhiều khoản thì những trường hợp phạm tội thuộc khoản
có mức hình phạt cao nhất từ 15 năm tù trở xuống là thuộc thẩm quyền xét xử của TA
cấp huyện, không phụ thuộc vào khoản thứ mấy của điều luật áp dụng.

* TA cấp huyện có thẩm quyền xét xử cùng một lần một người phạm nhiều tội,
nếu các tội đó có mức hình phạt do luật định từ 15 năm tù trở xuống (trừ các tội quy
định tại các điểm a, b, c, khoản 1 điều 170 bộ luật TTHS năm 2003)
* TA cấp huyện cũng có thẩm quyền xét xử người đang phải chấp hành một bản
án (không kể là bản án của cấp nào đã xét xử ) mà lại bị truy tố về một tội thuộc thẩm
quyền xét xử của TA cấp huyện, không kể là tội phạm được thực hiện trước hay sau khi
có bản án đang phải chấp hành. Tuy nhiên đối với những người đã bị phạt tù chung thân
hoặc tử hình mà chưa được giảm thời hạn chấp hành hình phạt thì VKSND tỉnh hoặc
VKSQS cấp quân khu truy tố tội phạm mới của họ để TAND cấp tỉnh hoặc TA quân sự
cấp khu vực xét xử.
2.1.2. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh và TAQS cấp quân khu.
Theo quy định của bộ luật TTHS hiện hành thì thẩm quyền xét xử của TAND cấp
tỉnh và TAQS cấp quân khu (sau đây gọi chung là TA cấp tỉnh) giảm bớt một số lượng
vụ việc đáng kể so với quy định trước đó. Thẩm quyền xét xử của TA cấp tỉnh được quy
dịnh tại khoản 2 Điều 170 bộ luật TTHS năm 2003. Theo quy định của điều luật, TA có
thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự không thuộc thẩm quyền của TA cấp
1

Nguyễn Văn Huyên, luận án tiến sĩ luật học “Thầm quyền tòa án các cấp theo luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Hà Nội,
2002

5


huyện hoăc những vụ án thuộc thẩm quyền của cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử phù
hợp với quy định của pháp luật.
Như vậy TA cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự về tội đặc biệt
nghiêm trọng, tức là những vụ án về những tội mà mức cao nhất của khung hình phạt là
trên 15 năm tù; những vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của TA cấp huyện được
quy định tại Điểm a, b, c khoản 1 Điều 170 bộ luât TTHS; những vụ án thuộc thẩm

quyền của TA cấp huyện nhưng TA cấp tỉnh thấy cần thiết phải lấy lên dể xét xử do tính
chất đặc biệt của vụ án.
Bộ luật TTHS năm 2003 không có điều luật nào quy định cụ thể về các điều kiện
để TA cấp tỉnh lấy các vụ án thuộc thẩm quyền của TA cấp huyện lên để xét xử. Do đó,
chánh án TAND cấp tỉnh, viện trưởng VKS và thủ trưởng cơ quan điều tra căn cứ vào
tình hình thực tế của vụ án và năng lực điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán cấp
huyện để quyết định những vụ án nào cần lấy lên để điều tra, truy tố, xét xử ở cấp tỉnh.
Hiện nay cơ quan tiến hành tố tụng vẫn đang thực hiện theo tinh thần của thông tư liên
nghành số 02/TTLN ngày 12 tháng 1 năm 1989 của TAND tối cao, VKSND tối cao, bộ
Tư pháp, bộ Nội vụ hướng dẫn thi hành một số điều luật của bộ luật TTHS năm 1988.
Theo hướng dẫn của thông tư trên thì thông thường TAND cấp tỉnh lấy lên để xét xử
những vụ án:
- Những vụ án phức tạp, có nhiều tình tiết khó đánh giá thống nhất về tính chất
vụ án liên quan đến nhiều cấp, nhiếu ngành
- Những vụ án mà bị cáo là thẩm phán, kiểm sát viên, sỹ quan công an, cán bộ
lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người nước ngoài, người có chức sắc cao trong
tôn giáo hoặc có uy tín trong dân tộc ít người.
Khi xác định những vụ án thuộc loại trên đây mà VKS đã truy tố để xét xử ở TA
cấp huyện thì TA trả hồ sơ cho VKS cùng cấp để VKS chuyển hồ sơ lên VKS cấp tỉnh
để truy tố trước TA cấp tỉnh.
2.2.

Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ.

Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ là sự phân định Thẩm quyền xét xử căn cứ vào
tội phạm được thực hiện và nơi kết thúc điều tra. Đây là thẩm quyền xét xử được phân
6


định dựa vào dấu hiệu địa diểm thực hiện tội phạm hoặc địa điểm thực hiện hành vi tố

tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, nơi cư trú của người phạm tội hoặc địa điểm khác do
pháp luật quy định. Theo khoản 1 điều 171 bộ luât TTHS năm 2003 về thẩm quyền xét
xử theo lãnh thổ TA có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là TA nơi tội phạm được thực
hiện. Đối với tội phạm kéo dài hoặc tội phạm liên tục, khi hành vi phạm tội được thực
hiện trong những khoảng thời gian khác nhau, địa điểm khác nhau thì một tội phạm
được thực hiện được xác định là nơi kết thúc của hành vi phạm tội. Trong trường hợp
không xác định được nơi thực hiên TP thì TA có thẩm quyền xét xử vụ án là TA nơi kết
thúc việc điếu tra.
Khoản 2 điều 171 bộ LTTHS quy định bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở
Việt Nam thì do TAND cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước xét xử.
Nếu bị cáo phạm tôi ở nước ngoài và thuộc quyền xét xử của TAQS thì do TAQS cấp
quân khu trở lên xét xử theo quy định của Chánh án TAQS Trung ương.
Về thẩm quyền xét xử những tội phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc lãnh hải
của Việt Nam được quy định tai Điều 172 bộ luật TTHS năm 2003. Điều này quy định
thẩm quyền xét xử của TA Việt Nam đối với những tội phạm xảy ra trên tàu bay hoặc
tàu biển của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt đông ngoài không
phận hoặc lãnh hải của Việt Nam. Theo đó, tội phạm được thực hiên trên tàu bay hoặc
tàu biển của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam đang hoạt động ngoài không
phận hoặc lãnh hải của Việt Nam (bao gồm lãnh thổ nước ngoài và không phận, hải
phận quốc tế) thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp tỉnh, TAQS cấp quân khu
của Việt Nam nơi có sân bay hoặc bến cảng trở về đầu tiên hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó
được đăng kí.2
2.3. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng.
Thẩm quyền xét xử theo đối tượng là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa
TAND và TAQS căn cứ vào đối tượng phạm tội.

2

Bình luận khoa học BLTTHS năm 2003, Võ Khánh Vinh ( chủ biên), Nxb.CAND, Hà Nội


7


Điều 3 pháp lệnh tổ chức TAQS năm 2002 quy định: “Các TAQS có thẩm quyền
xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là:
1. Quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị trong
thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân
quân, tự vệ phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và những
người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp
quản lí;
2. Những người không thuộc các đối tượng quy định tai khoản 1 điều này mà phạm
tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội”.
Bí mật quân sự là bí mật của quân đội, bí mật về an ninh quốc phòng được xác
định là bí mật quân sự và được quy định trong các văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm
quyên ban hành. Gây thiệt hại cho quân đội là gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tự
do, danh dự, tính mạng, nhân phẩm của những người được quy định tại khoản 1 điều 3
pháp lệnh tổ chức TAQS hoặc tài sản của những người này được quân đội cấp phát để
thực hiện nhiệm vụ quân sự, gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của quân đội.
Pháp lệnh tổ chức TAQS quy định: quân nhân tại ngũ phạm tội trong quân đội và
ngòai xã hội đều thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS. Trường hợp vụ án vừa có bị cáo
hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS, vừa có có bị cáo hoặc tội phạm
thuộc thẩm quyền xét xử của TAND thì TAQS xét xử toàn bộ vụ án. Nếu có thể tách ra
để xét xử riêng thì TAND và TAQS xét xử những bị cáo thuộc thẩm quyền của mình.
Những người không còn phục vụ trong quân đội mà phát hiên tội phạm của họ được
thực hiện trong thời gian phục vụ quân đội; hoặc những người bị phát hiện là phạm tội
trước khi nhập ngũ thì thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS về những tội phạm liên quan
đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội, còn những tôi phạm khác thì do
TAND xét xử. Thẩm quyền xét xử đối với thường dân phạm tội có liên quan đến bí mật
quân đôi hoặc gây thiệt hại cho quân đội được xác định tùy từng trường hợp cụ thể. Nếu

vụ án có những tình tiết cần điều tra liên quan đến bí mật quốc phòng như địa điểm,
thiết bị, kế hoạch quân sự… thì TAQS xét xử. Những việc phạm tội khác TAQS có thể
8


chuyển vụ án cho TAND. Nếu có tranh chấp về thẩm quyền giữa TAND và TAQS thì
Chánh án tòa án nhân dân tối cao xem xét và quyết định 3

II. Thực trạng trong quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự hiện nay.
1. Những kết quả đạt được trong quy trình thực hiện thẩm quyền xét xử
sơ thẩm của TA các cấp trong thời gian qua.
Bộ luật TTHS đã được ban hành và thực hiện gần 8 năm. Trong 8 năm đó bộ luật
TTHS năm 2003 ra đời đã mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cho
TAND cấp huyện từ chỗ chỉ xét xử sơ thẩm những vụ án có mức hình phạt được quy
định trong bộ luật hình sự đến 7 năm tù lên 15 năm. Trên thực tế, trong những năm qua,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ thẩm phán và cơ sở vật chất của TAND cấp
huyện đã được nâng lên, đáp ứng với yêu cầu xét xử theo thẩm quyền mới. Do tình hình
của mỗi địa phương có khác nhau nên việc tăng thẩm quyền phải được tiến hành theo lộ
trình gồm nhiều giai đoạn: Ngày 26/11/2003 Quốc Hội ban hành nghị quyết
24/2003/QH 11 về thi hành bộ luật TTHS năm 2003, trong đó đề cập đến việc triển khai
thực hiên thẩm quyền xét xử mới cho TA cấp huyện. Cũng theo tinh thần của Nghị
quyết này, cơ quan tiến hành tố tụng đã tiến hành khẩn trương củng cố cơ sở vật chất,
đội ngũ cán bộ để đáp ứng thẩm quyền xét xử mới. Ngày 24/4/2004/Ủy ban thường vụ
Quốc hội ra nghị quyết số 523/2004/NQ-UBTVQH quyết định giao cho 107 TA được
thực hiện thảm quyền xét xử quy định tai khoản 1 Điều 170 bộ luật TTHS từ ngày
1/7/2004, trong đó gồm 21 TAND quận, 9 TAND huyện, 39 TAND thị xã, 21 TAND
tỉnh và thành phố, 17 TAQS khu vực
Theo quy định tại khoản 1 Điều 170n bộ luật TTHS năm 2003 thì số lượng vụ án
hình sự dồn về TA cấp huyện là rất lớn, khoảng 80% các tội phạm được quy định trong

bộ luật hình sự. Để thực hiện tốt nhiệm vụ TANDTC đã đề xuất tăng thẩm quyền đợt 1
cho 90 TAND cấp huyện, 17 TAQS khu vực 4
3

Nguyễn Văn Huyên, Luận án tiến sĩ luật học, Thẩm quyền của TA các cấp theo luật TTHS Việt Nam, Hà Nội, 2002

4

TANDTC, ( 2008) báo cáo số 07/BC-TA vê thực hiện các nghị quyết của Quốc Hội, Ủy ban thường vụ Quốc Hội về tăng
thẩm quyền xét xử cho TAND cấp huyện

9


Về trình độ, trong những năm gần đây, trình độ của thẩm phán TAND cấp huyện
nhìn chung đã được nâng lên một bước, đa số thẩm phấn về cơ bản hoàn thành các tiêu
chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm xét xử, được đào tạo cơ bản và đã qua
khóa học về nghiệp vụ xét xử.
Việc đổi mới cơ chế quản lí cán bộ và quản lí kinh phí của ngành TAND theo
hướng phân cấp mạnh cho Chánh án TAND cấp tỉnh đã tạo sự chủ động cho các TA địa
phương trong hoạt động của mình, trong đó có việc bố trí, sắp xếp nguồn lực cho các
TA cấp huyện, đáp ứng yêu cầu giải quyết vụ án theo thẩm quyền mới. Công tác phối
hợp giữa TA và các cơ quan tiến hành tố tụng khác được đảm bảo chặt chẽ, đúng quy
định của pháp luật. Đối với các đơn vị đã được tăng thẩm quyền: trong thời gian qua, số
lượng cán bộ của các TA này đã tiếp tục được tăng cường một bước, cả về số lượng và
chất lượng. Tổng biên chế phân bổ cho 486 TA này là 6260 biên chế (2719 thẩm phán,
2879 thư kí, 662 cán bộ khác). Trình độ của đội ngũ cán bộ, thẩm phám của các TA này
cũng được nâng lên. Trong số 2538 thẩm phấn có 2400 thẩm phán có trình độ đại học
Luật, 35 người có trình độ cao đẳng TA, 103 người có trình độ luân huấn.5
Về cơ sở vật chất của TAND cấp huyện: trong 3 năm 2005, 2006, 2007 ngành TA

tiến hành đầu tư xây dựng mới 132 trụ sở TAND cấp huyện, trong đó hoàn thành 90 trụ
sở, đồng thơi cải tạo, mở rộng trụ sở làm việc cho 240 TA cấp huyện, đã hoàn thành 178
trụ sở. Nhà nước cũng cấp kinh phí để các TA cấp huyện triển khai mua sắm các trang
thiết bị như bàn ghế làm việc, hội trường xét xử, máy tính, tài liệu … đáp ứng hoạt động
cho các TA cấp huyện.6
2.

Những bất cập, vướng mắc trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm
theo quy định của bộ luật TTHS hiện hành.
2.1 Bất cập về quy định của pháp luật về thẩm quyền xử.
Thứ nhất, quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh tại khoản

2 điều 170 bộ luật TTHS trong đó quy định TAND cấp tỉnh có quyền lấy những vụ án
thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp dưới lên để xét xử ở cấp mình. Tuy nhiên,
5

TANDTC, (2008) báo cáo số 07/BC-TA về thực hiện các nghị quyết của Quốc Hội, Ủy ban thường vụ Quốc Hội về tăng
cường thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện
6
TANDTC ( 2008), chỉ thị số 01/2008/CT-TA về triển khai, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác của ngành
TAND năm 2008, Hà Nội.

10


trong luật không quy định trường hợp nào thì TAND cấp tỉnh được lấy những vụ án
thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện lên để xét xử. Dù trước đây có Thông tư liên
ngành số 02/TTLN ngày 12/01/1989 của TANDTC, VKSNDTC, Bộ tư pháp, Bộ nội vụ
có hướng dẫn thi hành quy định này TAQS cấp trên của TAQS quân khu là TAQS trung
ương - một bộ phận của TANDTC, mà TANDTC nhưng hiện nay văn bản này đã hết

hiệu lực và chưa có văn bản nào thay thế.7
Thứ hai, tại Điều 171 ở đoạn cuối có quy định: “Bị cáo phạm tội ở nước ngoài,
nếu thuộc thẩm quyền xét xử của TA quân sự thì do TAQS cấp quân khu trở lên xét xử
theo quy định của Chánh án TAQS trung ương”. Ở đây có cụm từ “TAQS cấp quân khu
trở lên xét xử”, theo luật tổ chức TA hiện nay thì thì không có thẩm quyền xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự. Do đó, nhà làm luật thêm chữ “trở lên” làm sai cơ bản về thẩm
quyền xét xử của điều luật.
Thứ ba, cách diễn đạt điều luật nhiều chỗ còn tồn tại những bất hợp lí. Ở điều 174
bộ luật TTHS về việc chuyển vụ án có quy định: “Chỉ được chuyển vụ án cho TA khác
khi vụ án chưa được xét xử”. Tuy nhiên, ở dưới lại quy định: “Nếu vụ án thuộc thẩm
quyền của TAQS hoặc TA cấp trên thì vụ án được đưa ra xét xử vẫn phải chuyển cho TA
có thẩm quyền”. Cách diễn đạt như vậy đã tạo nên sự mâu thuẫn trong điếu luật làm cho
những người áp dụng pháp luật nếu không cẩn thận sẽ dễ lúng túng khi gặp phải trường
hợp này.
Thứ tư, Trong điều 179 BLTTHS, tại điểm a, khoản 1 có quy định Thẩm phán ra
quyết định trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung trong trường hợp “khi cần xem xét
thêm những chứng cứ quan trọng đối với những vụ án mà không thể bổ sung tại phiên
tòa được”. Điểm bất hợp lí trong quy định này là ở chỗ: khi phiên tòa chưa được mở thì
làm sao biết được chứng cứ nào là chứng cứ “không thể bổ sung tại phiên tòa” được?
Quy định này mang tính suy đoán, mà tội phạm hình sự là tội phạm mang tính nguy
hiểm cho xã hội. Mọi thủ tục đều phải được quy định nghiêm ngặt nhằm “không bỏ lọt
7

Trần Thị Lê Na, luận văn thạc sĩ luật học, hoàn thiện quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự của TAND các cấp,
Hà Nội, 2009.

11


tội phạm, không làm oan người vô tội” vì vậy, điều luật quy định phải có cơ sở, không

được mang tính chất suy đoán như trên.
Thứ năm, tại điều 196 bộ luật TTHS quy định về giới hạn của việc xét xử có
đoạn viết: “TA chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố
và TA quyết định đưa ra xét xử”. Liệu quy định này đã khách quan chưa trong khi một
trong những nguyên tắc cơ bản nhất của luật TTHS la TA xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật. Đàng này, nhà làm luật lại đưa ra một giới hạn để hạn chế tính độc lập
của TA, buộc TA phải phụ thuộc vào lời buộc tội của VKS. Theo tôi như thế là trái với
nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp và pháp luật.
2.2.

Bất cập về thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về thẩm quyền xét xử.

Một là, khi quy định về thẩm quyền xét xử theo đối tượng, pháp luật nước ta quy
định: nếu người thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội là quân nhân thì TAQS sẽ
xét xử. Trên thực tế, có những vụ án người phạm tội là quân nhân nhưng TAND vẫn thụ
lí xét xử. Chẳng hạn như vụ án “Vũ Xuân Trường” về buôn bán ma túy có 3 người phạm
tội là quân nhân (3 người náy sử dụng xe, phương tiện của quân đội để vân chuyển chất
ma túy). Theo quy định của pháp luật thì 3 người này phải thuộc thẩm quyền xét xử của
TAQS. Tuy nhiên, nếu tách 3 người này ra để TAQS giải quyết thì việc xét xử vụ án
không hoàn thiện, toàn diện. Trước tình hình đó thì thứ trưởng bộ quốc phòng và thứ
trưởng bộ nội vụ (nay là bộ công an) đã họp bàn với nhau và đi đến quyết định “tước
quân tịch” của 3 quân nhân này để cơ quan điều tra thành phố Hà Nội có thể tiến hành
điều tra, VKSND thành phố Hà Nội có thể buộc tội và TAND thành phố Hà Nội có thể
xét xử. Mặc dù đây là trường hợp đặc biệt và cần thiết phải nhưng xét thấy việc tước
quân tịch của quân nhân để TAND có thể mang ra xét xử là không nên. Nếu việc tước
quân tịch này được áp dụng tương tự như trên thì sự tồn tại của TAQS bên cạnh TAND
còn có ý nghĩa gì nữa không?
Hai là, vướng mắc trong thủ tục xác định thẩm quyền của TA Theo quy định của
bộ luật TTHS thì việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền do chánh án tòa án cấp trên
trực tiếp quyết định. Việc giải quyết tranh chấp xét xử giữa TA cấp huyện thuộc các

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau do chánh án tòa án nhân dân cấp tỉnh
12


nơi kết thúc việc điều tra quyết định. Việc giải quyết tranh chấp giữa TAND và TAQS
do chánh án tòa án nhân dân tối cao quyết định. Bộ luật TTHS cũng quy định: “khi thấy
vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì TA chuyển vụ án cho TA có thẩm
quyền để giải quyết.” Tuy nhiên BLTTHS không quy định và các văn bản khác không
hướng dẫn thủ tục chuyển vụ án. Vì thế cho nên trên thực tế việc áp dụng quy định này
thiếu thống nhất; có trường hợp TA chuyển trả hồ sơ cho VKS để VKS chuyển cho cấp
có thẩm quyền truy tố; có tòa lại chuyển thẳng cho cấp có thẩm quyền để trả cho VKS
cùng cấp truy tố lại.8
Ba là, hiện nay, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng đang rất lúng túng đối với
những vụ án có yếu tố nước ngoài. Bội luật TTHS chỉ quy định TAND thành phố Hà nội
và TAND thành phố Hồ Chí Minh hoặc TAQS cấp quân khu có thẩm quyền xét xử
những vụ án xảy ra ở nước ngoài. Còn các vụ án xảy ra ở nước ngòai khác như bị can, bị
cáo, người bị hại là người nước ngoài, trường hợp bị can, bị cáo vưa phạm tôi ở nước
ngoài, vừa phạm tội ở trong nước thì không quy định. Vì vậy cơ quan tiến hành tố tụng
rất lúng túng trong việc điều tra, truy tố, xét xử.
Bốn là, xác định thẩm quyền xét xử của TAND theo đối tượng cũng đang gặp
nhiều vướng mắc trong thực tiễn. Thông thường TAND tỉnh quyết định lấy các vụ án
mà người phạm tội là các cán bộ chủ chốt cấp huyện, người có chức sắc cao trong tôn
giáo, người có uy tín cao trong dân tộc ít người lên để xét xử. Tuy nhiên hiện nay chưa
có văn bản nào quy định về điều này.
3.

Nguyên nhân của những bất cập, vướng mắc.
Trước hết, xuất phát từ trong những quy định của pháp luật. Trong bộ luật TTHS

hiện hành và các văn bản hướng dẫn thực hiện vẫn còn chưa đầy đủ, có nhiều vấn đè tồn

tại trong thực tế vẫn chưa được đề cập đên, đó là lỗ hỏng, những thiếu sót làm cho pháp
luật không theo kịp với sự phát triển của xã hội. Có nhiều nội dung chưa được đưa vào
bộ luật TTHS mà chỉ quy định trong các văn bản dưới luật làm cho hiệu lực của các quy
định không cao và giảm tính phổ biến của nó. Cụ thể:
8

Trần Thị Lê Na, luận văn thạc sĩ luật học, hoàn thiện quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự của TAND các cấp,
Hà Nội, 2009

13


Một số quy định về thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ, theo sự việc chưa được quy
định cụ thể, chi tiết mà chỉ dừng lại ở mức độ hướng dẫn nên dẫn đến sai sót, thiếu
thống nhất khi áp dụng.
Thẩm quyền xét xử theo đối tượng có nhiều quy định chưa rõ ràng. Nhiều quy
định có trong pháp lệnh tổ chức TAQS chứ không có trong bộ luật TTHS. Các quy định
về việc chuyển vụ án khi không có thẩm quyền xét xử cũng chưa rõ ràng
Hai là, nhận thức pháp luật của những người tiến hành tố tụng chưa cao. Vấn đề
thẩm quyền không được những người tiến hành tố tụng quan tâm nghiên cứu và cập nhật
các văn bản liên quan. Mặt khác, ở cơ quan tiến hành tố tụng cấp huyện, công tác đảm
bảo vật chất còn rất hạn chế, trình độ của các điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán của
một số cơ quan còn thấp, số lượng án không đồng đều.
Ba là, nhận thức của công dân về các quy định của pháp luật về thẩm quyền xét
xử còn kém dẫn đến những vi phạm về thẩm quyền khi thực hiện quyền về khiếu nại, tố
cáo hoặc kháng cáo đối với các vụ án.
Bốn là, giữa các cơ quan tiến hành tố tụng chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong
việc phát hiện và xử lí vụ án có những yếu tố phức tạp, khó xác định thẩm quyền.

III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện luật về vấn đề này.

1. Hoàn thiện các quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
Như đã phân tích ở trên thì nhiều điều luật quy định còn có những bất hợp lì về
nội dung cũng như là cách diễn giải điều luật. Trên cơ sở đó tôi xin đưa ra ý kiến cá
nhân để sửa đổi các điều luật như sau, góp phần hoàn thiện hơn các quy định đó:
Một là, tại điều 171 bộ luật TTHS, ở đoạn cuối nên bỏ chữ “trở lên” thành quy
định: “Bị cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS thì do tòa
quân sự cấp quân khu xét xử theo quyết định của Chánh án TAQS Trung ương”.
Hai là, cơ quan có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về quy định khi
nào, trong những trường hợp nào thì TAND cấp tỉnh được lấy những vụ án thuộc thẩm
quyền của TAND cấp huyện lên để xét xử.
Ba là, tại điều 179 BLTTHS, quy định tại điểm a còn bất hợp lí thì nên sửa bỏ đi
cụm từ “không thể bổ sung tại phiên tòa”, và sau đó phải có hướng dẫn kèm theo.
14


2. Hoàn thiện quy định về chuyển vụ án.
Để tránh trường hợp TA sau khi thụ lí thấy vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử
của TA mình nhưng ngại phức tạp nên không chuyển vụ án cho TA khác cùng cấp có
thẩm quyền mà lại giữ vụ án lại để xét xử. Đồng thời để tạo sự thống nhất về nhận thức
trong thực hiện thẩm quyền về xét xử sơ thẩm của TA các cấp thì cần sửa Điều 170 bộ
luật TTHS theo hướng sau khi thụ lí, nếu xét thấy vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử
thì TA phải chuyển cho TA có thẩm quyền xét xử.
3. Hoàn thiện quy định về tranh chấp thẩm quyền xét xử.
Hiện nay, tranh chấp thẩm quyền xét xử chủ yếu xảy ra giữa TAND cấp huyện và
TAQS khu vực. Việc giải quyết tranh chấp này thuộc thẩm quyền của Chánh án tòa án
nhân dân tối cao. Tuy nhiên, không phải mọi tranh chấp thuộc thẩm quyền trong bất kì
giai đoạn tố tụng nào cũng có thể được báo cáo chánh án tòa án nhân dân tối cao và
được giải quyết kịp thời. Do vậy, cần quy định một cơ chế đơn giản, mềm dẻo trong
phát hiện và giải quyết tranh chấp thẩm quyền xét xử, đồng thời, chánh án tòa án nhân
dân tối cao cũng cần có cơ chế hợp lí để phát hiện các vụ án được xét xử sai thẩm quyền

và có quyết định kịp thời.

KẾT LUẬN.
Trên đây là sự phân tích các quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự. Vì xét xử sơ thẩm là giai đoạn quan trọng trong hoạt đông tố tụng, làm
nền tảng cho các giai đoan tiếp theo nên ngay từ xét xử sơ thẩm, mọi hoạt động cần phải
đúng. Mà muốn vậy thì trước hết cần phải có một chuẩn mực pháp luật thống nhất, quy
định chặt chẽ các vấn đề liên quan. Song thực tiễn, pháp luật nước ta hiện nay lại chưa
được hoàn thiện, cùng với sự phát triển của xã hội thì nó cần được sử đổi, bổ sung để
phù hợp hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
15


1. Trường Đại Học Luật Hà Nội, Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2008.
2. Khoa luật – Đại học Quốc Gia Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.
3. Võ Khánh Vinh (chủ biên), Bình luận khoa học bộ luật tố tụng hình sự năm 2003,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2004.
4. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 04/2004/NQHDTP ngày 05/11/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định của bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003.
5. Nguyễn Văn Huyên, Thẩm quyền của tòa án các cấp theo luật tố tụng hình sự
Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội, 2002.
6. Trần Thị Lê Na, Hoàn thiện quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự của
tòa án nhân dân các cấp, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, 2009.
7. TANDTC (2008) Báo cáo số 07/BC-TA về thực hiện các nghị quyết của Quốc
Hội, Ủy ban thường vụ Quốc Hội về tăng thẩm quyền xét xử cho TAND cấp
huyện.

8. Các trang web:


16



×