Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp kinh doanh khoáng sản niêm yết trên thị trường chứng khoán việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

NGUYỄN TRẦN BẢO UYÊN

NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN TÍNH THANH KHOẢN CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP KINH DOANH KHOÁNG SẢN NIÊM YẾT
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH

Đà Nẵng - Năm 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

NGUYỄN TRẦN BẢO UYÊN

NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN TÍNH THANH KHOẢN CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP KINH DOANH KHOÁNG SẢN NIÊM YẾT
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kế toán
Mã số: 60.34.30

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. TRƯƠNG BÁ THANH



Đà Nẵng - Năm 2015


MỤC LỤC


4

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngành khai thác khoáng sản của Việt Nam còn tồn tại nhiều điểm bất
cập. Vấn đề minh bạch và trách nhiệm giải trình cần được nâng cao để quản
lý hiệu quả hơn nguồn tài nguyên khoáng sản của đất nước. Để làm được điều
này, trước hết Chính phủ cần giao cho một tổ chức xã hội dân sự độc lập xây
dựng báo cáo về thực trạng khai thác và quản lý khoáng sản ở Việt Nam với
những kiến nghị cải cách theo một lộ trình thích hợp bao gồm sửa đổi, bổ
sung Luật Khoáng Sản, điều chỉnh quy định phân cấp về cấp phép khai thác
và quản lý khoáng sản… Ngoài ra, Chính phủ cần sớm có quyết định tham gia
Sáng kiến Minh bạch trong công nghiệp khai thác (EITI) và thực hiện đầy đủ
các tiêu chuẩn và quy định trong EITI.
Để các doanh nghiệp kinh doanh khoáng sản vượt qua khó khăn, hoạt
động hiệu quả nhằm góp phần ổn định và phát triển kinh tế, bên cạnh các
chính sách hỗ trợ từ các cơ quan quản lý Nhà nước thì bản thân doanh nghiệp
phải có những chiến lược và quyết sách đúng đắn. Một trong những vấn đề
cần được quan tâm nhất là nâng cao tính thanh khoản của doanh nghiệp.
Muốn vậy, nhà quản lý cần phải biết được những nhân tố nào ảnh hưởng đến
tính thanh khoản để từ đó đề ra các chính sách hợp lý giúp cho hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp an toàn và hiệu quả.
Tuy nhiên, hiện nay công tác nghiên cứu về tính thanh khoản và những

nhân tố ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ở Việt Nam nói
chung và các doanh nghiệp kinh doanh khoáng sản nói riêng còn một số hạn chế
do các nhà quản lý doanh nghiệp chưa tìm hiểu kỹ cũng như nắm bắt được các
nhân tố ảnh hưởng đến tính thanh khoản của doanh nghiệp, bên cạnh đó, hiện


5

nay ở Việt Nam chưa có công trình khoa học nào về nghiên cứu các nhân tố ảnh
hưởng đến tính thanh khoản của doanh nghiệp kinh doanh khoáng sản.
Từ những lý do trên, sau một thời gian tìm hiểu về ngành kinh doanh
khoáng sản, tôi cho rằng việc nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến tính
thanh khoản của các doanh nghiệp thuộc ngành này là một vấn đề có ý nghĩa
khoa học và thực tiễn. Do đó, tôi đã chọn đề tài:
“Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các
doanh nghiệp kinh doanh khoáng sản niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam”
2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu hướng đến ba mục tiêu chính:
- Thứ nhất, hệ thống hóa những lý luận cơ bản nhất về tính thanh
khoản và những nhân tố ảnh hưởng đến tính thanh khoản của doanh nghiệp
nói chung.
- Thứ hai, nghiên cứu, phân tích và đánh giá những nhân tố ảnh hưởng
đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp kinh doanh khoáng sản niêm yết
trên thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng.
- Thứ ba, dựa trên kết quả nghiên cứu đưa ra một số chính sách và kiến
nghị nhằm nâng cao tính thanh khoản của các doanh nghiệp kinh doanh
khoáng sản.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những nhân tố có ảnh hưởng đến tính thanh

khoản của doanh nghiệp kinh doanh khoáng sản.
Phạm vi nghiên cứu là các doanh nghiệp kinh doanh khoáng sản niêm
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin:


6

Trên cơ sở các Báo cáo tài chính theo năm của các doanh nghiệp kinh
doanh khoáng sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, tác giả thu
thập số liệu của các chỉ tiêu nghiên cứu chủ yếu từ Bảng Cân đối kế toán và
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh trong năm 2013.
Phương pháp xử lý và phân tích thông tin:
- Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu
được sử dụng trong suốt quá trình xử lý, phân tích số liệu.
- Phương pháp thống kê: Tác giả sử dụng phần mềm SPSS để phân tích
số liệu, xây dựng mô hình xác định ảnh hưởng của các nhân tố đến tính thanh
khoản của các doanh nghiệp kinh doanh khoáng sản niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam.
Tài liệu sử dụng:
- Tài liệu sơ cấp: Là tài liệu thu thập từ các giáo trình, nghiên cứu đã
được công bố.
- Tài liệu thứ cấp: Là tài liệu thu thập từ 36 doanh nghiệp kinh doanh
khoáng sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, tài liệu từ các bài
báo.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các bảng biểu, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 04 chương:
Chương 1: Lý luận chung về tính thanh khoản và các nhân tố ảnh hưởng

đến tính thanh khoản của doanh nghiệp.
Chương 2: Thiết kế nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tính thanh
khoản.
Chương 3: Phân tích kết quả nghiên cứu.
Chương 4: Hàm ý chính sách và kiến nghị.


7

6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Tính thanh khoản của doanh nghiệp đang là một trong những vấn đề
chưa được giải quyết quan trọng nhất trong lĩnh vực tài chính doanh nghiệp.
Mục tiêu chính đằng sau việc nghiên cứu các khả năng thanh toán của doanh
nghiệp thì điều quan trọng nhất với các công ty hiện nay là hoặc đầu tư vào tài
sản lưu động nhiều hơn hoặc đầu tư vào các tài sản kém thanh khoản hơn.
Ngoài ra, nhiều nghiên cứu cũng cho thấy việc quản lý thanh khoản là điểm
mấu chốt trong việc xác định các cơ hội đầu tư và khả năng vay mượn bên
ngoài trong tương lai. Mặc khác, nghiên cứu về tính thanh khoản giúp các nhà
quản trị hiểu rõ được tình hình thanh khoản thực tế của doanh nghiệp, từ đó
có những quyết định, chính sách phù hợp nhằm tăng tính thanh khoản của
công ty, giúp công ty tránh được rủi ro phá sản.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về tính thanh khoản và các nhân
tố ảnh hưởng đến tính thanh khoản của doanh nghiệp, các tác giả đã dùng
nhiều phương pháp khác nhau, nghiên cứu thực nghiệm ở những công ty
thuộc nhiều ngành nghề khác nhau trong những điều kiện kinh tế xã hội ở các
nước. Cụ thể như một số nghiên cứu sau đây:
- Trước tiên phải kể đến một trong những lý thuyết nổi bật nhất của tính
thanh khoản là “lý thuyết ưa chuộng tính thanh khoản” trong nghiên cứu
mang tên “The General Theory of Employment, Interest and Money” (Lý
thuyết tổng quát về Việc làm, Lãi suất và Tiền tệ) của Keynes. Ông đưa ra ba

động cơ lý giải cho mục đích nắm giữ tiền mặt của con người đó là: giao dịch,
dự phòng và đầu cơ. Học thuyết của Keynes đã trở thành nền tảng lý thuyết
cho các nghiên cứu sau này của nhiều tác giả khác phát triển theo đó.
- Bruinshoofd và Kool nghiên cứu về quản lý thanh khoản của các công
ty ở Hà Lan trong giai đoạn 1977-1997 với mẫu là 453 công ty phi tài chính.
Họ đã sử dụng thống kê mô tả và suy luận để phân tích dữ liệu. Thông qua


8

phân tích hồi quy, Bruinshoofd và Kool xác nhận tính thanh khoản tăng theo
quy mô của doanh nghiệp. Họ cũng nhận thấy một mối quan hệ tích cực và có
ý nghĩa thống kê giữa vốn lưu động và tính thanh khoản của công ty.
Bruinshoofd và Kool mô tả rằng lượng tài sản lưu động mà công ty nắm giữ
bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như chi phí giao dịch, chi phí cơ hội và bất đối
xứng thông tin. Theo thuyết trật tự phân hạng, nhà quản trị doanh nghiệp bao
giờ cũng có thông tin về giá trị doanh nghiệp tốt hơn các nhà đầu tư bên
ngoài. Sự bất đối xứng thông tin này dẫn đến chi phí cho việc có được nguồn
tài chính bên ngoài có xu hướng tăng, do đó, tạo ra nhu cầu phòng ngừa cho
thanh khoản của công ty.
- Opler và các cộng sự nghiên cứu về các yếu tố quyết định và những
tác động đến việc nắm giữ tiền mặt của công ty. Họ đã xây dựng một mẫu các
công ty ở Mỹ để nghiên cứu trong giai đoạn 1971-1994. Họ nhận thấy rằng
các doanh nghiệp có cơ hội phát triển mạnh mẽ và rủi ro hơn trong việc nắm
giữ tiền mặt khi tỷ lệ tiền mặt trên tổng tài sản cao. Các công ty có sự tiếp cận
tốt nhất đến các thị trường vốn (ví dụ, các công ty lớn và có xếp hạn tín dụng)
có xu hướng giữ tỷ lệ tiền mặt trên tổng tài sản thấp hơn.
- Afza và Adnan nghiên cứu về những yếu tố của việc nắm giữ tiền mặt
trong công ty ở Pakistan. Afza và Adnan thu thập mẫu gồm 205 công ty đại
chúng niêm yết trên thị trường chứng khoán Karachi (KSE) trong giai đoạn

1998-2005. Nghiên cứu của họ cho thấy rằng các công ty có biến động dòng
tiền lớn hơn có xu hướng nắm giữ tiền mặt nhiều hơn để tạo một điểm tựa an
toàn cho các hoạt động của công ty được trôi chảy. Kết quả nghiên cứu của
Afza và Adnan cũng cho thấy rằng các công ty lớn nắm giữ tiền mặt nhiều
hơn để tài trợ cho việc đầu tư và tránh tình trạng thiếu tính thanh khoản trong
trường hợp dòng tiền biến động, phù hợp với lý thuyết trật tự phân hạng của
Myers.


9

- Kim, Mauer và Sherman (1998) nghiên cứu những yếu tố quyết định
tính thanh khoản của công ty. Họ thu thập mẫu gồm 915 công ty công nghiệp
ở Mỹ trong giai đoạn 1975-1994. Kim, Mauer và Sherman dự đoán rằng có
mối quan hệ tích cực giữa chi phí tài chính bên ngoài và đầu tư vào tài sản lưu
động. Họ cũng dự đoán rằng các công ty có biến động dòng tiền lớn hơn có
xu hướng đầu tư vào tài sản lưu động nhiều hơn. Ngoài ra, nghiên cứu này
cũng chỉ ra rằng tính thanh khoản của công ty có mối quan hệ tích cực với tỷ
suất sinh lời của tài sản.
- Gill và Mathur (2011) nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến việc
nắm giữ các tài sản thanh khoản của các công ty ở Canada. Họ đã thu thập
một mẫu gồm 164 công ty thuộc ngành công nghiệp sản xuất và dịch vụ ở
Canada được niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán Toronto trong thời gian
ba năm (2008 – 2010). Trong nghiên cứu của mình, Gill và Mathur sử dụng
phương pháp nghiên cứu tương quan, nghiên cứu phi thực nghiệm và nghiên
cứu định lượng. Gill và Mathur xem xét việc quản lý thanh khoản của các
công ty với mục đích xác định các nhân tố ảnh hưởng đến cổ phiếu và thanh
khoản của công ty. Qua phân tích hồi quy, kết quả cho thấy việc công ty nắm
giữ thanh khoản có quan hệ tích cực với quy mô doanh nghiệp, tỷ lệ tài sản
lưu động trên tổng tài sản; có quan hệ tiêu cực với nợ ngắn hạn, vốn lưu động

ròng; không có mối quan hệ đáng kể với tỷ suất sinh lời tài sản ROA, tổng nợ.
- Muhammad Usama (2012) phân tích quản lý vốn lưu động và nghiên
cứu ảnh hưởng của vốn lưu động đến lợi nhuận và thanh khoản của công ty.
Usama lấy mẫu gồm 18 công ty thuộc ngành thực phẩm được niêm yết trên
thị trường chứng khoán Karachi trong thời gian từ 2006 – 2010. Usama kiểm
tra tác động của quy mô, kỳ thu tiền bình quân, kỳ trả nợ bình quân, vòng
quay hàng tồn kho, tỷ lệ nợ đến lợi nhuận và thanh khoản của các công ty.
Qua phân tích hồi quy, kết quả cho thấy có tác động tích cực của quy mô đến


10

lợi nhuận và thanh khoản, trong khi kỳ thu tiền bình quân có tác động tiêu cực
đến lợi nhuận của công ty.
- Niaz Ahmed Bhutto và các cộng sự (2011) nghiên cứu mối quan hệ
giữa chu kỳ chuyển đổi tiền mặt (một chỉ tiêu đo lường tính thanh khoản) với
quy mô doanh nghiệp, vốn lưu động và lợi nhuận của các doanh nghiệp ngành
công nghiệp ở Pakistan. Dữ liệu thu thập được từ các báo cáo tài chính năm
2009 của 157 công ty đại chúng được niêm yết trên sàn chứng khoán Karachi.
Nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ tiêu cực giữa chiều dài chu kỳ chuyển
đổi tiền mặt với lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), nhưng có mối quan hệ
tích cực với quy mô và lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA).
- Ở Việt Nam, bài báo của PGS. TS. Trương Quang Thông (2013)
nghiên cứu “Các nhân tố tác động đến rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân
hàng thương mại Việt Nam”. Kết quả nghiên cứu cho thấy rủi ro thanh khoản
ngân hàng không những phụ thuộc vào các yếu tố bên trong hệ thống ngân
hàng như quy mô tổng tài sản, dự trữ thanh khoản, vay liên ngân hàng và tỉ lệ
vốn tự có trên nguồn vốn mà còn chịu sự tác động của các biến kinh tế vĩ mô
như tăng trưởng kinh tế, lạm phát. Ngoài ra Ths. Bùi Văn Lâm cũng đã đưa ra
lý thuyết về đo lường tính thanh khoản của một doanh nghiệp. Trong quan hệ

thanh toán, hầu hết các doanh nghiệp (DN) đều có xu hướng thực hiện việc tài
trợ vốn thông qua vay nợ ngắn hạn. Vấn đề đặt ra là liệu DN có khả năng
thanh toán và thanh toán đúng hạn các khoản nợ? Do đó phải đo lường tính
thanh khoản của DN. Các DN chủ yếu sử dụng tỷ số thanh toán để đo lường
tính thanh khoản. Tuy nhiên, mỗi tỷ số đều có những ưu và nhược điểm riêng
trong việc đo lường tính thanh khoản nên tác giả đã tập trung phân tích những
nhược điểm, hạn chế của các tỷ số thanh toán hiện hành.


11

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍNH THANH KHOẢN VÀ CÁC
NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÍNH THANH KHOẢN CỦA
DOANH NGHIỆP
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍNH THANH KHOẢN CỦA DOANH
NGHIỆP
1.1.1. Tổng quan về tính thanh khoản
Tính thanh khoản, một khái niệm trong tài chính, chỉ mức độ mà một
tài sản bất kỳ có thể được mua hoặc bán trên thị trường mà không làm ảnh
hưởng đến giá trị thị trường của tài sản đó. Ví dụ, chứng khoán hay các khoản
nợ, khoản phải thu... có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt dễ dàng, thuận
tiện cho việc thanh toán hay chi tiêu. Các cách gọi khác của tính thanh khoản
là: tính lỏng, tính lưu động.
Một tài sản gọi là thanh khoản khi mà thị trường của tài sản đó có
nhiều người mua và người bán. Một tài sản có tính thanh khoản cao thường
được đặc trưng bởi số lượng giao dịch lớn. Tài sản có tính thanh khoản càng
cao thì mức độ rủi ro càng thấp.
Trong kế toán, tài sản lưu động được chia thành nhiều loại khác nhau

và được xếp theo tính thanh khoản từ cao đến thấp. Trong đó, tiền có tính
thanh khoản cao nhất, luôn luôn dùng được để thanh toán trực tiếp, lưu thông,
tích trữ. Còn hàng tồn kho có tính thanh khoản thấp so với các tài sản lưu
động khác vì phải trải qua giai đoạn phân phối và tiêu thụ chuyển thành khoản
phải thu, rồi từ khoản phải thu sau một thời gian mới chuyển thành tiền mặt.
Chứng khoán có tính thanh khoản là những chứng khoán có sẵn thị
trường cho việc bán lại dễ dàng, giá cả tương đối ổn định theo thời gian và
khả năng cao để phục hồi nguồn vốn đã đầu tư nguyên thủy của ngân hàng.


12

Khi lựa chọn chứng khoán để đầu tư, ngân hàng dứt khoát phải xem xét đến
khả năng bán lại trước khi chúng đáo hạn để tái tạo nguồn vốn đầu tư ban đầu.
Nếu khả năng tái tạo kém, nghĩa là khó tìm được người mua hoặc phải bán
mất giá, ngân hàng sẽ gánh chịu những tổn thất tài chính lớn. Và điều này gọi
là rủi ro thanh khoản trong đầu tư chứng khoán.
Nhờ có thị trường chứng khoán các nhà đầu tư có thể chuyển đổi chứng
khoán họ sở hữu thành tiền mặt khi họ muốn và khả năng thanh khoản chính
là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán với các nhà đầu tư.
Tính lỏng cho thấy sự linh hoạt và an toàn của vốn đầu tư, thị trường hoạt
động càng năng động và hiệu quả thì tính lỏng của chứng khoán giao dịch
càng cao. Có mối quan hệ chặt chẽ giữa chỉ số P/E và tính lỏng chứng khoán.
Chỉ số P/E cho thấy giá cổ phiếu hiện tại cao hơn thu nhập từ cổ phiếu đó bao
nhiêu lần, hay nhà đầu tư phải trả giá cho một đồng thu nhập là bao nhiêu.
Nếu P/E cao có nghĩa là nhà đầu tư dự kiến tốc độ tăng cổ tức cao trong tương
lai của cổ phiếu đó. Nhìn vào bảng thống kê tính thanh khoản của cổ phiếu,
nhà đầu tư dễ dàng nhận ra những cổ phiếu giao dịch sôi động nhất cũng là
những cổ phiếu có P/E cao hơn mức trung bình của thị trường. Đây là những
chứng khoán có tốc độ tăng giá cao và mang lại giá trị thặng dư cao cho cổ

đông thông qua việc chi tách cổ phiếu hay phát hành cổ phiếu mới.
Nhìn chung, các công ty đầu tư vào tài sản lưu động, hay nói cách khác
là các tài sản có tính thanh khoản cao. Tài sản lưu động tạo thành một bộ phận
đáng kể trong tổng tài sản và có ý nghĩa quan trọng hơn đối với các rủi ro và
hiệu quả của công ty. Ví dụ, theo Kim, David và Ann (1998) [22], tỷ lệ trung
bình của tiền mặt cộng với chứng khoán thị trường trên tổng tài sản trong giai
đoạn năm 1975 - 1994 của 915 công ty ngành công nhiệp ở Mỹ là 8,1%. Kim
và các cộng sự đã phân tích các chi phí và lợi ích của việc nắm giữ các loại tài
sản lưu động và kết luận rằng việc đầu tư vào tài sản lưu động (chẳng hạn như


13

đầu tư vào chứng khoán) là tốn kém hơn, vì đầu tư vào tài sản lưu động nghĩa
là các công ty chấp nhận chi phí cơ hội cho việc đầu tư vào tài sản dài hạn; hơn
nữa, các công ty cũng phải chịu chi phí giao dịch cho việc kinh doanh chứng
khoán tài chính. Tuy nhiên các công ty này nắm giữ một lượng đáng kể tài sản
lưu động và được dự đoán là dư thừa quá mức bởi vì sự không hoàn hảo của thị
trường vốn dẫn đến việc phải duy trì một lượng tài sản lưu động dư thừa để giải
quyết một số trường hợp khẩn cấp (Kim, David và Ann, 1998) [22].
Cụ thể, khi và chỉ khi các nguồn tài chính bên ngoài là tốn kém thì việc
đầu tư vào tài sản lưu động là câu trả lời thuận lợi nhất để tài trợ cho nhu cầu
sản xuất trong tương lai hoặc cơ hội đầu tư. Các chi phí tài chính bên ngoài
bao gồm các chi phí trực tiếp phát hành chứng khoán, các chi phí phát sinh từ
mâu thuẫn nội bộ tiềm ẩn, chi phí phát sinh từ những vấn đề lựa chọn bất lợi
do thông tin bất đối xứng (Smith, 1986) [29]. Myers và Majluf (1984) [27]
cũng cho rằng vì thông tin tài chính hạn chế do bất đối xứng thông tin gây ra,
các công ty nên tăng dự trữ vào tài sản lưu động để tài trợ cho các cơ hội đầu
tư trong tương lai với các quỹ nội bộ. Do đó, đầu tư vào thanh khoản dư thừa
có thể được xem như là một chi phí có hiệu quả và hợp lý để giảm sự phụ

thuộc của công ty vào chi phí tài chính bên ngoài tốn kém.
Theo Horne và David (1968) [18], thanh khoản có thể được diễn tả như
khả năng nhận ra giá trị của phương tiện được chấp nhận trong sự trao đổi. Là
phương tiện được chấp nhận để trao đổi, tiền là tài sản thanh khoản cao nhất
và cũng là một chuẩn mực cho việc kiểm soát giá trị của các loại tài sản khác
được so sánh như mức độ thay thế của nó. Ngoài ra, theo Horne và David có
hai thước đo về mức độ thanh khoản: một là, thời gian cần thiết để chuyển đổi
tài sản thành tiền; hai là, sự chắc chắn của giá thực hiện, tức là, sự ổn định của
tỷ lệ trao đổi giữa tiền và tài sản.


14

Trong thế giới kinh doanh, tồn tại nhu cầu cao về tính thanh khoản của
công ty, và trên thực tế các doanh nghiệp thuộc ngành tài chính và công
nghiệp quản lý các nhu cầu thanh khoản theo nhiều cách để thực hiện các kế
hoạch sản xuất và đầu tư trong tương lai một cách hiệu quả mà không bị đình
trệ bởi sự thiếu hụt thanh khoản nhất thời.
Nhà đầu tư có thể hiểu được khả năng thanh khoản bằng cách phân tích
các báo cáo tài chính của một công ty. Các chỉ tiêu tài chính sau được yêu cầu
phải xác định được để có thể đánh giá khả năng thanh khoản của một công ty:
• Tài sản ngắn hạn;
• Nợ ngắn hạn.
Một công ty có thể đầu tư tài chính của mình bằng cách kết hợp các
nguồn hạn hiện tại và lâu dài khác nhau. Nói cách khác, một công ty có thể
đầu tư tiền, được huy động thông qua nguồn ngắn hạn hoặc dài hạn, trong các
tài sản ngắn hạn hoặc tài sản dài hạn. Một số các chiến lược kinh doanh có
liên quan như sau:
• Tài trợ tài sản ngắn hạn bằng các nguồn ngắn hạn.
• Tài trợ tài sản ngắn hạn bằng các nguồn dài hạn.

• Tài trợ tài sản dài hạn bằng các nguồn ngắn hạn.
• Tài trợ tài sản dài hạn bằng các nguồn dài hạn.
Nhà đầu tư có thể nhận ra các chính sách trên bằng cách xem xét các
chỉ tiêu trên bảng cân đối hoặc xác định vốn lưu động của công ty.
Ngoài ra, thông qua việc xác định vốn lưu động ròng nhà đầu tư có thể
tìm hiểu khả năng thanh toán của công ty, cũng như cho thấy các quyết định
tài chính và đầu tư của công ty.
Vốn lưu động ròng là phần dư của tài sản ngắn hạn so với nợ ngắn hạn
(Tài sản ngắn hạn – Nợ ngắn hạn). Vốn lưu động ròng của một công ty có thể
xảy ra với một trong những trường hợp sau:


15

Vốn lưu động ròng > 0: Tài sản ngắn hạn lớn hơn Nợ ngắn hạn;
Vốn lưu động ròng < 0: Nợ ngắn hạn lớn hơn Tài sản ngắn hạn;
Vốn lưu động ròng = 0: Tài sản ngắn hạn bằng Nợ ngắn hạn.
Thông thường, thanh khoản của một công ty được đánh giá là tốt khi có
vốn lưu động ròng dương. Điều này là hợp lý, vì khi vốn lưu động ròng
dương thì có thể dễ dàng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn bằng các tài sản
ngắn hạn hiện có của công ty.
Xem xét mối quan hệ giữa vốn lưu động với các thành phần khác trên
bảng cân đối kế toán:
Nguồn vốn = Tài sản; hoặc
Vốn chủ sở hữu + Vay và nợ dài hạn + Nợ ngắn hạn = Tài sản ngắn hạn
+ Tài sản dài hạn; hoặc
Nguồn vốn thường xuyên + Nợ ngắn hạn = Tài sản ngắn hạn + Tài sản
dài hạn; hoặc
Nguồn vốn thường xuyên – Tài sản dài hạn = Tài sản ngắn hạn – Nợ
ngắn hạn; hoặc

Nguồn vốn thường xuyên – Tài sản dài hạn = Vốn lưu động ròng.
Như vậy, quản lý vốn lưu động không chỉ thông qua quản lý tài sản
ngắn hạn và nợ ngắn hạn, mà còn có thể thông qua quản lý các nguồn vốn
thường xuyên (nguồn vốn dài hạn) và tài sản dài hạn. Nói cách khác, tính
thanh khoản của một công ty có thể được quản lý bằng cách quản lý tài sản
ngắn hạn, nợ ngắn hạn, tài sản dài hạn và nguồn vốn dài hạn.
1.1.2. Lý thuyết ưa chuộng tính thanh khoản
Lý thuyết ưa chuộng tính thanh khoản là một trong những lý luận liên
quan đến nhu cầu tiền tệ lần đầu tiên được nêu ra bởi John Maynard Keynes
trong tác phẩm nổi tiếng của mình là “The General Theory of Employment,
Interest and Money” (Lý thuyết tổng quát về Việc làm, Lãi suất và Tiền tệ)


16

[21] và trở thành một trong những lý luận quan trọng của kinh tế học Keynes.
Tác phẩm đã diễn đạt toàn diện nhất tư tưởng kinh tế của Keynes, được giới
kinh tế học phương Tây đánh giá như một cuộc cách mạng trong kinh tế học
bởi sự mới mẻ trong tư tưởng kinh tế của ông.
Trong học thuyết của mình, Keynes đưa ra ba động cơ cho việc giữ
tiền:
Một là, động cơ giao dịch. Các cá nhân nắm giữ tiền vì đó là phương
tiện trao đổi có thể dùng để tiến hành các giao dịch hàng ngày. Keynes nhấn
mạnh rằng bộ phận của cầu tiền tệ đó trước tiên do mức giao dịch của dân
chúng quyết định. Con người kinh tế điển hình, khi có thu nhập nhiều hơn thì
tiêu dùng (giao dịch) nhiều hơn. Ông tin rằng “nếu chúng ta cố gắng khẳng
định rằng tiền là thức uống giúp kích thích hệ thống hoạt động, ta phải tự nhắc
mình rằng việc đưa cốc lên môi cũng có vài lần bị trượt” [21, trang 173]. Bây
giờ ông nhìn thấy sự gia tăng lượng tiền như một hệ quả, chứ không phải
nguyên nhân của sự phục hồi tổng cầu: mối quan hệ nhân quả đi từ chi tiêu

đến cung tiền, chứ không phải đi từ cung tiền đến chi tiêu. Do đó, lượng cầu
tiền mặt này là hàm số thuận của thu nhập.
Hai là, động cơ dự phòng. Keynes thừa nhận rằng ngoài việc giữ tiền
để giao dịch hàng ngày, người ta còn giữ thêm tiền để dùng cho những nhu
cầu bất ngờ trong tương lai. Tiền dự phòng được sử dụng trong các cơ hội
mua thuận tiện hoặc cho nhu cầu chi tiêu bất thường. Keynes tin rằng số
tiền dự phòng mà người ta muốn nắm giữ được xác định trước tiên bởi mức
độ các giao dịch mà người ta dự tính sẽ thực hiện trong tương lai và những
giao dịch đó tỷ lệ thuận với thu nhập, do đó, lượng cầu tiền dự phòng tỷ lệ
thuận với thu nhập.
Từ hai nhân tố trên, theo quan điểm của Keynes, có hai nguyên nhân
làm cho thu nhập ảnh hưởng đến cầu tiền, đó là:


17

- Thứ nhất, khi nền kinh tế tăng trưởng, tức là hoạt động sản xuất kinh
doanh phát triển, đầu tư gia tăng, thì thu nhập và của cải tăng lên làm cho mọi
người có mong muốn giữ tiền nhiều hơn như là tài sản lưu trữ. Việc lưu giữ
tiền mặt nhằm nắm bắt được cơ hội đầu tư kinh doanh như đầu tư vào trái
phiếu, cổ phiếu, bất động sản...
- Thứ hai, trong giai đoạn tăng trưởng của nền kinh tế, con người sẽ
thực hiện nhiều giao dịch cần đến tiền hơn. Chính vì vậy lượng cầu tiền sẽ
tăng lên.
Ba là, động cơ đầu cơ. Keynes đồng ý rằng tiền là phương tiện cất giữ
của cải và gọi động cơ giữ tiền là động cơ đầu cơ. Keynes đồng ý với các nhà
kinh tế Cambridge rằng của cải gắn chặt với thu nhập nên bộ phận cấu thành
manh tính đầu cơ của cầu tiền tệ có liên quan đến thu nhập, nhưng Keynes
cũng cho rằng lãi suất đóng một vai trò rất quan trọng. Keynes chia các tài sản
có thể được dùng cất giữ của cải làm hai loại: tiền và trái khoán. Keynes giả

định rằng lợi tức dự tính về tiền là số không, lợi tức dự tính đối với trái khoán
gồm tiền lãi và tỷ lệ dự tính về khoản lợi vốn. Keynes giả định rằng: các cá
nhân tin rằng lãi suất có chiều hướng quay về một giá trị thông thường nào
đó. Nếu lãi suất thấp hơn giá trị thông thường đó thì người ta dự tính lãi suất
của trái khoán tăng lên trong tương lai và như vậy dự tính sẽ bị mất vốn về
trái khoán đó. Kết quả là mọi người có thể muốn giữ của cải của mình bằng
tiền hơn là bằng trái khoán và lúc này cầu tiền sẽ cao. Ngược lại, nếu lãi suất
cao hơn giá trị thông thường đó, cầu tiền sẽ thấp. Hay nói các khác, lãi suất
càng hấp dẫn thì người ta càng ít giữ tiền mặt, lãi suất kém hấp dẫn thì có xu
hướng giữ tiền mặt nhiều hơn. Từ lập luận trên, lượng cầu tiền mặt cho động
cơ này là hàm số nghịch với lãi suất.
Sau Keynes cũng có nhiều tác giả nghiên cứu về thuyết ưa chuộng tính
thanh khoản. Thuyết ưa chuộng thanh khoản đưa ra những lựa chọn xác định


18

bao nhiêu của cải được đầu tư vào các tài sản tài chính và quan tâm đến sự
phân bổ số tiền này vào tiền mặt và các tài sản tài chính thay thế khác. Có hai
trường hợp có thể xảy ra của việc ưu tiên tính thanh khoản và chúng không
loại trừ lẫn nhau. Một là, sự không linh hoạt về kỳ vọng lãi suất trong tương
lai. Hai là, sự không an toàn của lãi suất trong tương lai.
Kaldor (1939) [20] cho rằng ưa chuộng thanh khoản như một lý thuyết
về nhu cầu đối với tiền đã có đóng góp to lớn cho việc hoàn thành chủ nghĩa
tiền tệ. Miễn là nhu cầu về tiền có thể được thống kê là ít co giãn hơn và cung
tiền được xác định là đủ cho nhu cầu, cung tiền là yếu tố quyết định chính của
nền kinh tế.
Mott (1985-1986) [24] nói rằng ưu tiên thanh khoản là một lý thuyết về
việc mong muốn giữ tài sản ngắn hạn hơn so với các tài sản dài hạn và tình
trạng thanh khoản được xác định chủ yếu bởi năng suất kinh doanh của doanh

nghiệp.
Theo Reilly và Brown (2003) [32], lý thuyết về ưa chuộng thanh khoản
nói rằng lợi nhuận cao hơn phải được đưa ra trên các khoản đầu tư dài hạn
hơn là những khoản đầu tư ngắn hạn, bởi vì một số nhà đầu tư đầu tư vào
chứng khoán ngắn hạn nhằm tránh sự biến động giá lớn của các chứng khoán
có kỳ hạn dài hơn, hay nói cách khác, các chứng khoán ngắn hạn là ít biến
động và có thể dễ dàng được chuyển đổi thành một lượng tiền mặt hơn khi
gặp các sự kiện bất ngờ.
Boudoukh và các cộng sự [30] cho rằng trực giác cơ bản đằng sau
thuyết ưa chuộng thanh khoản là các trái phiếu dài hạn hơn thì rủi ro cao hơn,
tức là, chúng nhạy cảm hơn với các biến động hoặc lãi suất không ổn định
hơn so với trái phiếu ngắn hạn và các cá nhân đã yêu cầu được bồi thường cho
rủi ro của việc nắm giữ các trái phiếu này, do đó, lợi tức dự tính của trái phiếu
dài hạn sẽ cao hơn trái phiếu ngắn hạn.


19

1.1.3. Ý nghĩa của tính thanh khoản trong doanh nghiệp
Một công ty không thể trả nợ đúng hạn và không thể tiếp tục giữ đúng
nghĩa vụ thanh toán của mình đối với các nhà cung cấp tín dụng, dịch vụ và
hàng hóa thì công ty đó có thể đang rơi vào tình trạng yếu kém hoặc bị phá
sản. Không có khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn có thể ảnh hưởng
đến hoạt động của công ty và trong nhiều trường hợp có thể ảnh hưởng nhiều
đến uy tín của công ty.
Thiếu tiền mặt hoặc tài sản lưu động sẽ làm cho doanh nghiệp bỏ lỡ
những ưu đãi được đưa ra bởi các nhà cung cấp tín dụng, dịch vụ và hàng hóa.
Mất ưu đãi như vậy có thể dẫn đến chi phí cao hơn do đó ảnh hưởng đến lợi
nhuận của doanh nghiệp.
Tất cả các bên liên quan đều quan tâm đến khả năng thanh toán của một

công ty. Các nhà cung cấp tín dụng, hàng hóa và dịch vụ sẽ kiểm tra tính
thanh khoản của công ty trước khi cho vay hay bán chịu. Thanh khoản đôi khi
được yêu cầu bởi các ngân hàng khi họ đánh giá một khoản cho vay. Nếu một
công ty cần một khoản vay, ngân hàng có thể sẽ yêu cầu công ty đó duy trì
mức thanh khoản tối thiểu nhất định, như một phần của thỏa thuận cho vay.
Vì lý do đó, các bước cải thiện thanh khoản là cần thiết.
Các nhân viên cũng quan tâm đến tính thanh khoản của công ty để biết
liệu các công ty có thể đáp ứng các nghĩa vụ liên quan đến các nhân viên của
mình như: tiền lương, lương hưu, quỹ tích lũy...
Các cổ đông quan tâm đến tính thanh khoản do tác động rất lớn của nó
đến lợi nhuận. Các cổ đông có thể không thích tính thanh khoản cao khi lợi
nhuận được chia cho các cổ đông và thanh khoản có mối quan hệ tỷ lệ nghịch.
Tuy nhiên, các cổ đông cũng nhận thức được rằng không có khả năng thanh
khoản sẽ làm cho công ty mất đi những ưu đãi từ các nhà cung cấp, các tổ


20

chức cho vay và ngân hàng; và thậm chí công ty có thể bị phá sản nếu như bị
mất tính thanh khoản.
Như vậy có thể nói rằng trong hoạt động kinh doanh, thì tính thanh
khoản được xem như là mạch máu duy trì sự sống của công ty. Một khi công
ty bị mất tính thanh khoản thì sẽ không thể thanh toán được các khoản nợ và
tất nhiên sẽ rơi vào tình trạng vỡ nợ. Lúc này khoảng cách giữa vỡ nợ và phá
sản chỉ là vấn đề về thời gian nếu doanh nghiệp không kịp thời khôi phục
được tính thanh khoản. Do đó, việc hiểu rõ về tính thanh khoản của công ty
giúp cho các nhà quản lý kinh doanh tránh được các rủi ro thanh khoản trong
tương lai.
1.1.4. Đo lường tính thanh khoản
Đo lường thanh khoản của công ty là một phần không thể thiếu trong

phân tích tài chính, đặc biệt là trong định giá tín dụng, và các tỷ số thanh
khoản thường được sử dụng để đo lường khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
của công ty. Điều này được thực hiện bằng cách so sánh tài sản thanh khoản
nhất của công ty (hoặc các loại tài sản có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền
mặt) với các khoản nợ ngắn hạn của công ty đó. Nói chung, tỷ số thanh khoản
càng cao sẽ càng tốt vì nó chứng tỏ rằng công ty có thể thanh toán được các
khoản nợ đến hạn mà vẫn có thể tài trợ cho các hoạt động liên tục của mình.
Mặt khác, tỷ số thanh khoản thấp sẽ đem đến một dấu hiệu tiêu cực cho các
nhà đầu tư vì nó cho thấy công ty gặp khó khăn trong việc đáp ứng các nghĩa
vụ nợ cũng như tài trợ cho các hoạt động kinh doanh của công ty.
Có ba tỷ số thông thường để đo lường thanh khoản của một công ty,
bao gồm: tỷ số thanh toán hiện hành, tỷ số thanh toán nhanh và tỷ số thanh
toán tức thời. Khác biệt lớn nhất giữa ba tỷ số này là loại tài sản được sử dụng
để tính toán. Trong khi các tỷ số thanh toán sử dụng các tài sản lưu động thì


21

với mỗi tỷ số thận trọng hơn sẽ loại trừ một số tài sản lưu động có tính thanh
khoản giảm dần.
Ngoài ba tỷ số này, hiện nay chỉ tiêu chu kỳ chuyển đổi tiền mặt cũng
được nhiều nhà phân tích ưa chuộng sử dụng để phân tích, đánh giá tính thanh
khoản của một công ty.
a. Tỷ số thanh toán hiện hành
Tỷ số thanh toán hiện hành có lẽ là tỷ số thanh toán phổ biến nhất được
sử dụng để đo lường thanh khoản của một công ty, được xác định bằng cách
lấy thương số giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn.
Tỷ số thanh toán

=


Tài sản ngắn hạn

hiện hành
Nợ ngắn hạn
Tài sản ngắn hạn bao gồm các khoản vốn bằng tiền, đầu tư tài chính
ngắn hạn (bao gồm chứng khoán thị trường), các khoản phải thu ngắn hạn,
hàng tồn kho và tài sản ngắn hạn khác.
Nợ ngắn hạn là các khoản nợ phải trả trong năm bao gồm: vay và nợ
ngắn hạn, vay dài hạn đến hạn trả, phải trả người bán và các khoản phải trả
ngắn hạn khác.
Ý nghĩa của tỷ số thanh toán hiện hành là cho thấy một đồng nợ ngắn
hạn của công ty được đảm bảo bởi bao nhiêu đồng tài sản ngắn hạn.
Tỷ số này được chấp nhận hay không tùy thuộc vào sự so sánh với tỷ số
thanh toán của các công ty cạnh tranh hoặc so sánh với các năm trước để thấy
sự tiến bộ hay giảm sút.
Nếu tỷ số thanh toán hiện hành giảm cho thấy khả năng thanh toán của
công ty giảm và cũng là dấu hiệu báo trước những khó khăn về tài chính sẽ
xảy ra.
Nếu tỷ số thanh toán hiện hành cao điều đó có nghĩa là công ty luôn sẵn
sàng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu tỷ số này quá cao


22

chưa hẳn đã tốt. Nó chỉ cho thấy sự dồi dào của doanh nghiệp trong việc
thanh toán nhưng có thể dẫn đến việc quản lý và sử dụng tài sản ngắn hạn
không hiệu quả (ví dụ: có quá nhiều tiền mặt nhàn rỗi, nợ phải thu nhiều,
hành tồn kho bị ứ đọng).
Hạn chế của chỉ tiêu này là nó dựa trên khái niệm thanh lý toàn bộ tài

sản ngắn hạn của công ty, kể cả những tài sản khó hoán chuyển thành tiền để
đáp ứng tất cả các khoản nợ ngắn hạn. Trong thực tế, điều này là không thể
xảy ra. Nhà đầu tư phải nhìn một công ty như là một hoạt động liên tục. Thời
gian để chuyển đổi tài sản vốn lưu động của công ty thành tiền mặt để thanh
toán các nghĩa vụ hiện tại mới chính là chìa khóa cho thanh khoản của công
ty. Do đó, trong nhiều trường hợp, tỷ số thanh toán hiện hành không phản ánh
chính xác khả năng thanh toán của công ty. Nói một cách khác, đôi khi tỷ số
này sẽ “gây hiểu nhầm”.
Một so sánh đơn giản, nhưng chính xác, về vị trí hiện tại của hai công
ty sẽ minh họa cho sự yếu kém của việc dựa vào tỷ số thanh toán hiện hành
hoặc vốn lưu động là một chỉ số duy nhất để đánh giá tính thanh khoản.
Chỉ tiêu
Tài sản ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
Vốn lưu động
Tỷ số thanh toán hiện hành

Công ty ABC
600$
300$
300$
2,0

Công ty XYZ
300$
300$
0$
1,0

Thoạt nhìn vào kết quả tính toán tỷ số thanh toán hiện hành, công ty

ABC có vẻ như là người chiến thắng áp đảo trong cuộc thi thanh khoản. Công
ty ABC có một khoản dự trữ dồi dào của tài sản ngắn hạn so với nợ ngắn hạn,
khả năng thanh toán hiện hành dường như tốt, và vốn lưu động là 300$. Công
ty XYZ không có biên độ an toàn giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn, khả
năng thanh toán hiện hành dường như yếu kém, và không có vốn lưu động.
Tuy nhiên, nếu giả định như:


23

(1) Nợ ngắn hạn của hai công ty có thời hạn thanh toán trung bình là 30
ngày.
(2) Công ty ABC cần 6 tháng (180 ngày) để thu hồi các khoản phải thu
và vòng quay hàng tồn kho là 365 ngày 1 vòng.
(3) Công ty XYZ được khách hàng thanh toán ngay và có số vòng quay
hàng tồn kho là 365 ngày 24 vòng.
Như vậy, trong ví dụ này, công ty ABC là rất kém thanh khoản và
không thể hoạt động theo các điều kiện trên. Các hóa đơn thanh toán của ABC
đến nhanh hơn so với tốc độ sản sinh ra tiền mặt, trong khi đó, ABC không
thể thanh toán các hóa đơn này bằng vốn lưu động mà phải thanh toán bằng
tiền mặt. Lúc này, công ty XYZ có thanh khoản tốt hơn nhiều vì quá trình
chuyển đổi tiền mặt của nó nhanh hơn.
Để giải quyết hạn chế của chỉ tiêu này, khi phân tích có thể loại trừ
những tài sản khó hoán chuyển thành tiền ra khỏi tử số, như: các khoản nợ
phải thu khó đòi, hàng tồn kho kém phẩm chất, các khoản thiệt hại chờ xử
lý...
b. Tỷ số thanh toán nhanh
Tỷ số thanh toán nhanh là một chỉ số thanh khoản chọn lọc hơn so với
tỷ số thanh toán hiện hành bởi nó đo lường tổng các tài sản ngắn hạn có tính
thanh khoản nhất có thể trang trải nợ ngắn hạn, bằng cách loại trừ chỉ tiêu

hàng tồn kho và tài sản ngắn hạn khác ra khỏi tử số vì hai bộ phận này có giá
trị và thời gian hoán chuyển thành tiền không chắc chắn nhất. Do đó, tỷ số
thanh toán nhanh cho phép đánh giá tốt hơn tính thanh khoản của doanh
nghiệp so với tỷ số thanh toán hiện hành.
Tiền và các khoản tương đương tiền + Đầu tư

Tỷ số thanh
toán nhanh

=

ngắn hạn + Nợ phải thu
Nợ ngắn hạn


24

Tỷ số này nói lên tình trạng tài chính ngắn hạn của một công ty có lành
mạnh hay không. Về nguyên tắc, hệ số này càng cao thì khả năng thanh toán
công nợ càng cao. Hệ số này bằng 1 hoặc lớn hơn cho thấy khả năng đáp ứng
thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn cao, hay nói cách khác, doanh nghiệp
không gặp khó khăn nếu cần phải thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn.
Trái lại, nếu một công ty có tỷ số thanh toán nhanh nhỏ hơn 1, nó sẽ không đủ
khả năng thanh toán ngay lập tức toàn bộ các khoản nợ ngắn hạn. Phân tích
sâu hơn, khi tiến hành so sánh giữa tỷ số thanh toán hiện hành và tỷ số thanh
toán nhanh của một công ty, nếu tỷ số thanh toán hiện hành cao hơn đáng kể,
điều này chứng tỏ rằng tài sản ngắn hạn của công ty phụ thuộc nhiều vào hàng
tồn kho. Trong trường hợp này, tính thanh khoản của tài sản ngắn hạn là
tương đối thấp. Ngoài ra, cần phải so sánh tỷ số thanh toán nhanh của năm
nay so với những năm trước để nhận diện xu hướng biến động, và so sánh với

tỷ số thanh toán nhanh của các doanh nghiệp cùng ngành để đánh giá tương
quan cạnh tranh.
Tất nhiên, với tỷ lệ nhỏ hơn 1, doanh nghiệp có thể không đạt được tình
hình tài chính tốt nhưng điều đó không có nghĩa là doanh nghiệp chắc chắn bị
phá sản vì có nhiều cách để huy động thêm vốn cho việc trả nợ. Ở một khía
cạnh khác, nếu tỷ số thanh toán nhanh quá cao thì vốn bằng tiền quá nhiều,
vòng quay vốn lưu động thấp, hiệu quả sử dụng vốn cũng không cao.
Xét về tính khả thi theo lý thuyết, như một công ty hoạt động liên tục phải
chú trọng vào thời gian cần để chuyển đổi các tài sản vốn lưu động sang tiền
mặt, đó là thước đo thực sự của thanh khoản. Vì vậy, nếu các khoản phải thu có
thời gian chuyển đổi sang tiền mặt là một vài tháng chứ không phải vài ngày, thì
lúc này thuộc tính “nhanh” của chỉ số này là một vấn đề cần xem xét lại.
c. Tỷ số thanh toán tức thời


25

Tỷ số thanh toán tức thời là một chỉ số thanh khoản của công ty, tiếp
tục được chọn lọc hơn cả tỷ số thanh toán hiện hành và tỷ số thanh toán
nhanh, bằng cách đo lượng tiền mặt, các khoản tương đương tiền và các quỹ
đầu tư trong tài sản ngắn hạn để trang trải nợ ngắn hạn.
Tỷ số thanh

=

Vốn bằng tiền

toán tức thời
Nợ ngắn hạn
So với hai tỷ số thanh toán hiện hành và tỷ số thanh toán ngay, tỷ số

thanh toán tức thời đòi hỏi khắt khe hơn về tính thanh khoản. Nó chỉ nhìn vào
các tài sản ngắn hạn thanh khoản nhất của công ty, đó là những tài sản có thể
dễ dàng được sử dụng để thanh toán các nghĩa vụ hiện tại một cách nhanh
chóng nhất. Tỷ số này bỏ qua hàng tồn kho và các khoản phải thu vì không có
sự đảm bảo rằng hai khoản mục này có thể được chuyển đổi nhanh thành tiền
mặt để kịp thời đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn.
Tuy nhiên rất ít công ty sẽ có đủ tiền mặt và các khoản tương đương
tiền để trang trải đầy đủ nợ ngắn hạn, do đó tỷ số thanh toán tức thời rất ít khi
lớn hơn hay bằng 1. Đây không nhất thiết là một vấn đề xấu. Một doanh
nghiệp giữ tiền mặt và các khoản tương đương tiền ở một mức cao để đảm
bảo chi trả các khoản nợ ngắn hạn là một việc không thực tế vì như vậy cũng
đồng nghĩa với việc doanh nghiệp không biết sử dụng loại tài sản có tính
thanh khoản cao này một cách có hiệu quả. Doanh nghiệp hoàn toàn có thể sử
dụng số tiền và các khoản tương đương tiền này để tạo ra doanh thu cao hơn
(ví dụ như cho vay ngắn hạn).
Mặc dù chỉ tiêu này phản ánh được mức thanh khoản cao nhất của tài
sản doanh nghiệp, nhưng tính khả dụng của nó lại tương đối hạn chế. Vì vậy,
tỷ số thanh toán tức thời ít khi được sử dụng trong báo cáo tài chính và các
nhà phân tích cũng ít khi dùng chỉ số này trong phân tích cơ bản một công ty.
d. Chu kỳ chuyển đổi tiền mặt


×