Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

LUẬT điều ước QUỐC tế123

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.83 KB, 15 trang )

LUẬT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
I.KHÁI NIỆM VÀ NGUỒN CỦA LUẬT QUỐC TẾ
1. Khái niệm
a. Luật điều ước quốc tế là gì?
Có thể nói ngắn gọn Luật điều ước quốc tế là tổng thể các nguyên tắc và quy
phạm Luật quốc tế điều chỉnh trình tự, thủ tục ký kết điều ước quốc tế.
b. Nguyên tắc Luật điều ước quốc tế
Là một ngành của Luật quốc tế, Luật điều ước quốc tế được hình thành và phát
triển dưới nền tảng của các nguyên tắc cơ bản của LQT.

• Nguyên tắc chung:
- Bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia.
- Các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau.
- Tuân thủ các cam kết quốc tế.

• Nguyên tắc riêng:
- Bình đẳng và tự nguyện giữa các chủ thể: Các quốc gia không phân biệt
lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, mạnh hay yếu, không phụ thuộc vào chế độ
chính trị, xã hội,…đều bình đẳng trong việc đàm phán, ký kết và thực
hiện điều ước quốc tế.
- Tận tâm, thiện chí: Phải có tinh thần, thái độ hợp tác và xây dựng trong
đàm phán và ký kết điều ước quốc tế. Tôn trọng, thực hiện điều ước quốc
tế một cách tận tâm, thiện chí phù hợp với khách thể và mục đích ký kết.
- Rõ ràng, chặt chẽ: Ngôn ngữ trong sáng, rõ ràng, dễ hiểu, chặt chẽ và
logic.
2. Nguồn của Luật điều ước quốc tế
Về cơ bản nguồn của Luật điều ước quốc tế hiện đại là:
-Điều ước quốc tế( các hình thức pháp lý ghi nhận các nguyên tắc và quy
phạm LQT về thủ tục, trình tự ký kết và thực hiện điều ước QT).
- Tập quán quốc tế.( CHỖ NÀY LÊN SLIDE THEO 2 CÁI GẠCH ĐẦU DÒNG. XONG VÔ
TỪNG CÁI NỘI DUNG Ở DƯỚI NHA!)




Điều ước quốc tế có vai trò quan trọng nhất trong các nguồn của Luật điều ước
quốc tế là Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969. Công ước này mang tính
phổ biến và được ký kết dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc. Công ước này được coi là
Bộ luật của cộng đồng quốc tế về vấn đề mà Luật điều ước quốc tế điều chỉnh.
Tập quán quốc tế là hình thức pháp lý chứa đựng quy tắc xử sự chung, hình thành
trong thực tiễn quan hệ quốc tế và được các chủ thể luật quốc tế thừa nhận là luật. Có 2
loại:
- Thứ nhất, mang tính truyền thống, bao gồm các quy tắc xử sự không thành văn,
hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế và được các quốc gia thừa nhận.
- Thứ hai, bao gồm các quy tắc xử sự được ghi nhận trong một số văn kiện, được
các quốc gia thừa nhận hiệu lực pháp lý bắt buộc đối với mình với tư cách là tập quán
pháp lý quốc tế. Đặc điểm của loại này là không hình thành từ văn kiện quốc tế mà
chúng có thể hình thành từ điều ước quốc tế cũng như từ các văn kiện quốc tế khác,
thường là nghị quyết của tổ chức quốc tế.

II. KHÁI NIỆM ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
1. Định nghĩa
-Khái quát: Xem xét về phương diện lịch sử, điều ước quốc tế ra đời muộn hơn so
với tập quán quốc tế. Tuy nhiên, với những ưu điểm riêng của mình, hiện nay điều ước
quốc tế đã và đang trở thành một trong những loại nguồn cơ bản của luật quốc tế và được
sử dụng như là một công cụ chủ yếu để điều chỉnh hầu hết các quan hệ hợp tác giữa các
chủ thể của luật quốc tế.
- Căn cứ vào các quy định của luật quốc tế và thực tiễn sinh hoạt quốc tế, điều ước
quốc tế được hiểu là sự thỏa thuận giữa các chủ thể của LQT với nhau trên cơ sở tự
nguyện, bình đẳng nhằm thiết lập những quy tắc pháp lý bắt buộc gọi là những quy phạm
LQT, để ấn định, thay đổi hoặc hủy bỏ những quyền và nghĩa vụ đối với nhau.
- Liên quan đến khái niệm điều ước quốc tế, bên cạnh khái niệm chung được đưa
ra trong các văn bản pháp lý quốc tế, luật quốc tế cũng tạo điều kiện cho các quốc gia,

trong khả năng của mình được phép ban hành các văn bản pháp luật (nhưng phải đảm bảo
tính phù hợp với pháp luật quốc tế) quy định về vấn đề trên. Cùng với pháp luật của các
quốc gia khác, trong Luật ký kết và thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam năm 2005
cũng đã đưa ra khái niệm về điều ước quốc tế, theo đó điều ước quốc tế mà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam là một bên ký kết được hiểu "là thỏa thuận bằng văn bản
được ký kết giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và một hoặc nhiều quốc gia,
tổ chức quốc tế hoặc chủ thể khác của pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi


như hiệp ước, công ước, định ước, hiệp định, nghị định thư, công hàm trao đổi và danh
nghĩa ký kết".
Cách xác định trên đây liên quan đến khái niệm điều ước quốc tế của pháp luật
Việt nam là có sự tương đồng với các quy định của pháp luật quốc tế hiện hành và thực
tiễn ký kết điều ước quốc tế của Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác.
• Giá trị pháp lý của điều ước quốc tế
- Là hình thức pháp luật cơ bản chứa đựng các quy phạm LQT để xây dựng và ổn
định các cơ sở pháp luật cho các quan hệ pháp luật quốc tế hình thành và phát triển.
- Là công cụ, phương tiện quan trọng để duy trì và tăng cường các quan hệ hợp tác
quốc tế giữa các chủ thể.
- Là đảm bảo pháp lý quan trọng cho quyền lợi và lợi ích hợp pháp của chủ thể
LQT.
- Là công cụ để xây dựng khung pháp luật quốc tế hiện đại, cũng như để tiến hành
hiệu quả việc pháp điển hóa LQT.
• Điều kiện để một điều ước quốc tế trở thành nguồn của Luật quốc tế
Không phải tất cả các điều ước quốc tế được ký kết đều là nguồn của LQT. Một
điều ước muốn trở thành nguồn của LQT phải thỏa mãn các điều kiện sau:
- Điều ước đó phải được ký kết dựa trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng.
- Nội dung của điều ước phải phù hợp với những nguyên tắc cơ bản và các quy
phạm Jus Cogens của LQT.
- Điều ước đó phải được ký kết phù hợp và tuân theo các quy định có liên quan

của pháp luật của các bên ký kết về thẩm quyền và thủ tục ký kết.

2. Các đặc điểm đặc trưng của điều ước quốc tế
Từ định nghĩa nêu trên về điều ước quốc tế, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy một
số đặc điểm đặc trưng tạo ra sự khác biệt giữa điều ước quốc tế và văn kiện quốc tế khác,
cũng như thấy được sự khác biệt giữa điều ước quốc tế và các văn bản pháp lý quốc gia.
Theo đó, để được coi là điều ước quốc tế, văn kiện pháp lý quốc tế phải đảm bảo một số
đặc trưng sau:
a. Đặc trưng về chủ thể
Chủ thể của điều ước quốc tế phải là chủ thể của luật quốc tế (bao gồm: quốc gia,
tổ chức quốc tế và các chủ thể khác của LQT).


b. Đặc trưng về hình thức của điều ước quốc tế
Chúng ta cần khẳng định ngay rằng: điều ước quốc tế tồn tại chủ yếu dưới hình
thức văn bản.
Trước đây, trong quan hệ quốc tế có sự xuất hiện của một số điều ước quân tử (bất
thành văn), tuy nhiên các điều ước loại này hiện nay hầu như không còn tồn tại trong
quan hệ giữa các chủ thể của luật quốc tế. Xem xét đặc trưng về hình thức của điều ước
quốc tế, chúng ta sẽ cùng xem xét một số vấn đề sau:
•Về tên gọi của điều ước quốc tế:
"Điều ước quốc tế" là tên khoa học pháp lý chung (gần giống với danh từ "văn bản quy
phạm pháp luật" trong hệ thống pháp luật quốc gia) để chỉ các văn bản pháp luật quốc tế
do hai hay nhiều chủ thể luật quốc tế ký kết.
- Việc xác định tên gọi cụ thể cho một điều ước quốc tế hoàn toàn phụ thuộc vào
sự thỏa thuận của các bên. Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, phụ thuộc vào phạm vi và nội
dung của điều ước, mà điều ước quốc tế có thể có một số tên gọi khác nhau như: Hiệp
ước, công ước, định ước, nghị định thư, hiệp định...
-Việc một văn bản được xác định là điều ước quốc tế hay không không phụ thuộc
vào tên gọi của điều ước đó là gì, và cũng không phụ thuộc vào việc điều ước đó được

ghi nhận trong một hay nhiều văn kiện. Luật quốc tế không đưa ra một quy tắc chung nào
để bắt buộc các bên liên quan đến việc sử dụng tên gọi nào đó cho điều ước quốc tế được
ký kết. Tuy nhiên, việc đặt tên cho một điều ước quốc tế cụ thể nào đó không thể mang
tính tùy tiện mà phải tuân theo những thông lệ nhất định.
VD: Khi nói đến Công ước, chúng ta nhận thấy ngay đó là điều ước quốc tế có số
lượng thành viên đông và chúng thường là các điều ước quốc tế mang tính đa phương
toàn cầu (Công ước Viên 1969 ..)
Các điều ước quốc tế song phương và khu vực thường có tên gọi như Hiệp ước, Hiệp
định (Hiệp ước Bắc đại tây dương...);
Nghị định thư không bao giờ đứng độc lập, nó luôn gắn với các Hiệp định vì nhiệm vụ
của nó là nhằm sửa đổi hoặc bổ sung cho điều ước quốc tế đã ký trước đó;
Hiến chương là văn bản pháp lý mang tính chính trị cao, nó thường được gắn với 1 tổ
chức quốc tế nhất định;.....v..v
• Về cơ cấu của điều ước quốc tế:
Hầu hết các điều ước quốc tế song phương và đa phương thường được kết cấu thành 3
phần chính:


- Phần lời nói đầu: Phần này không được chia thành từng chương, từng điều hoặc
từng khoản. Trong phần lời nói đầu không chứa đựng các quy phạm cụ thể nhằm xác lập
quyền và nghĩa vụ cho các bên mà chỉ nêu các nội dung như: lý do ký kết, mục đích ký
kết, tên của các bên tham gia ký kết...
- Phần nội dung chính: Đây là phần quan trọng nhất của điều ước. Nó chứa đựng
các quy phạm pháp lý quốc tế nhằm xác lạp quyền và nghĩa vụ cho các bên tham gia kết
ước. Phần này thường được chia thành từng chương, điều cụ thể nhằm điều chỉnh các lĩnh
vực hợp tác giữa các bên.
- Phần cuối cùng: Phần này thường bao gồm các điều khoản quy định về thời hạn,
thời điểm có hiệu lực của điều ước, ngôn ngữ soạn thảo điều ước, vấn đề sửa đổi, bổ
sung, bảo lưu điều ước....
Ngoài cơ cấu 3 phần trên đây, trong một số điều ước quốc tế đa phương phổ cập còn có

một hoặc một số phụ lục đính kèm. Các phụ lục này cũng chính là phần không thể tách
rời và luôn đi kèm với điều ước quốc tế đó.
•Về ngôn ngữ của điều ước quốc tế:
-Điều ước quốc tế được soạn thảo bằng ngôn ngữ nào là do sự thỏa thuận, lựa
chọn của các bên tham gia kết ước. Tuy nhiên, yếu tố thỏa thuận này chủ yếu được thể
hiện trong việc lựa chọn ngôn ngữ của các điều ước quốc tế song phưong và thường được
ghi nhận trong phần cuối cùng của điều ước.
- Các văn bản pháp lý quốc tế được soạn thảo bằng ngôn ngữ được lựa chọn đều là
văn bản gốc và có giá trị pháp lý như nhau. Thông thường, điều ước quốc tế song phương
thường được soạn thảo bằng ngôn ngữ của cả 2 bên (trừ khi có thỏa thuận khác). Riêng
đối với các điều ước quốc tế đa phương phổ cập thường được soạn thảo bằng các ngôn
ngữ làm việc chính thức của Liên hợp quốc đó là: tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng
Trung Quốc, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ả Rập.
c. Đặc trưng về bản chất của điều ước quốc tế:
Là sự thỏa thuận tự nguyện của các bên tham gia kết ước.
d. Đặc trưng về luật điều chỉnh quá trình ký kết và thực hiện điều ước quốc
tế:
Quá trình ký kết và thực hiện điều ước quốc tế phải được điều chỉnh bằng các quy
định của luật quốc tế và phải tuân thủ các quy phạm Jus cogens của luật quốc tế.
=> Nhận xét: Từ những đặc điểm ban đầu này của điều ước quốc tế, chúng ta thấy
rằng không phải mọi văn bản pháp lý quốc tế hay thỏa thuận quốc tế đều là điều ước
quốc tế, để có thể trở thành điều ước quốc tế văn bản pháp lý quốc tế hay thỏa thuận
quốc tế đó phải đáp ứng một số điều kiện nhất định.


VD: thỏa thuận quốc tế giữa quốc gia A và công ty B (thuộc quốc gia B) liên quan
đến vấn đề thương mại...đây không phải là điều ước quốc tế, và quan hệ này cũng thuộc
đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế, mà là quan hệ thuộc sự điều chỉnh của tư pháp
quốc tế.
Ngoài những điều kiện nêu trên, giữa điều ước quốc tế và các thỏa thuận quốc tế

khác có sự khác biệt cơ bản nữa là tính ràng buộc về quyền và nghĩa vụ của các bên tham
gia kết ước. VD đối với các tuyên bố chung trong quan hệ quốc tế. Các tuyên bố này
không tạo ra sự ràng buộc cho các bên mặc dù nó cũng là kết quả của sự thỏa thuận giữa
các bên, tuy nhiên nội dung của nó không nhằm xác lập các quyền và nghĩa vụ cho các
bên, mà chủ yếu để thể hiện quan điểm, lập trường của quốc gia tuyên bố về một vấn đề
nào đó.
3. Phân loại điều ước quốc tế:
Có thể phân chia điều ước quốc tế thành nhiều loại trên cơ sở các căn cứ khác
nhau, nhìn chung việc phân loại thường dựa vào các cơ sở sau:
- Dựa vào số lượng các bên kết ước, điều ước được phân thành: điều ước quốc tế
song phương, điều ước quốc tế đa phương;
- Dựa vào lĩnh vực điều chỉnh, điều ước được phân thành: điều ước về chính trị,
điều ước về kinh tế...;
- Dựa vào phạm vi áp dụng, có điều ước song phương, điều ước khu vực, điều ước
phổ cập (điều ước toàn cầu).
Ngoài ra, trong một số tài liệu còn phân chia thành điều ước khế ước, điều ước luật, điều
ước thời bình, điều ước thời chiến

III. THỦ TỤC VÀ TRÌNH TỰ KÝ KẾT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
1. Khái niệm
Ký kết điều ước quốc tế là một quá trình ký kết điều ước trong các giai đoạn
liên tục, kế tiếp nhau với những thủ tục, trình tự điều kiện khác nhau dựa trên cơ
sở Luật quốc tế và thoả thuận của các bên. Quá trình này do tính chất phức
tạp của vấn đề mà điều ước điều chỉnh, bản chất và số lượng các bên tham gia
điều ước đó quyết định.
Quá trình ký kết điều ước quốc tế phải dựa trên cơ sở Luật quốc tế. Chẳng


hạn, đàm phán phải được tiến hành trên nguyên tắc tự nguyện và bình đẳng, do
đại diện hợp pháp của các bên tiến hành. Ngoài ra đàm phán cũng phải được

tiến hành theo thủ tục, trình tự mà luật điều ước quy định (ví dụ, thư uỷ nhiệm,
ký tắt...).
Ngoài Luật quốc tế nói chung, thủ tục, trình tự, điều kiện ký kết điều ước
quốc tế còn phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên (Ví dụ đàm phán có thể tiến
hành qua các kênh ngoại giao hoặc đàm phán trực tiếp). Việc xác định phương
thức đàm phán và ký kết nào phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên.
2. Các giai đoạn ký kết điều ước quốc tế
Thông thường, quá trình ký kết điều ước quốc tế bao gồm các giai đoạn sau:

 Giai đoạn 1: Đàm phán, soạn thảo và thông qua văn bản điều ước
quốc tế
a. Đàm phán
Đàm phán là một bước quan trọng của quá trình ký kết điều ước quốc tế.
Bản chất của đàm phán là sự thương lượng, đấu tranh về lợi ích giữa các chủ thể
tham gia ký kết điều ước quốc tế nhằm đi đến một thỏa thuận chung nhất. Do đó, sự
thành công hay thất bại của đàm phán phụ thuộc rất nhiều vào thiện chí và sự hợp tác của
các bên.
Đàm phán quyết định nội dung và hình thức của điều ước quốc tế.
Có nhiều cách thức đàm phán khác nhau, như: đàm phán trên cơ sở của dự thảo văn
bản đã chuẩn bị trước của mỗi bên hay một bên hoặc cùng đàm phán để trực tiếp xây
dựng văn bản điều ước.
b. Soạn thảo văn bản điều ước quốc tế
Văn bản điều ước quốc tế được hình thành trên cơ sở những vấn đề đã được
thoả thuận giữa các bên.
Việc thông qua văn bản điều ước được tiến hành thông qua sự xác nhận
của các bên. Việc xác nhận văn bản được hiểu là cách thức mà theo đó các
bên thừa nhận rằng văn bản cụ thể này của điều ước được các bên thoả thuận.
Sự xác nhận văn bản được tiến hành theo các cách thức như ký tượng
trưng (ad referendum) hoặc ký tắt. Việc chọn cách thức xác nhận văn bản phụ
thuộc vào thoả thuận của các bên.

Ký tượng trưng là việc các đại diện ký vào văn bản với điều kiện sau đó
phải có sự xác nhận của quốc gia hoặc tổ chức quốc tế.
Ký tắt là việc xác nhận của các đại diện vào từng trang văn bản đã thoả
thuận.
Thông qua văn bản điều ước là một việc làm bắt buộc, tuy nhiên nó chưa có


ý nghĩa về mặt pháp lý, vì điều ước chỉ phát sinh hiệu lực khi các quốc gia thừa
nhận hiệu lực của nó dưới những phương thức nhất định.
Đối với điều ước đa phương, thì việc soạn thảo sẽ được giao cho một cơ
quan do các bên thông nhất lập ra. Thời gian soạn thảo dự thảo phụ thuộc vào
tính phức tạp của vấn đề mà điều ước điều chỉnh, cách thức tiến hành và cuối
cùng là thái độ hợp tác của các bên.
c. Thông qua văn bản điều ước
Đây là thủ tục không thể thiếu trong giai đoạn này. Thông qua văn bản điều ước
chính là hình thức để các bên biểu hiện sự nhất trí của mình đối với văn bản điều ước đã
được soạn thảo. Thực tiễn ký kết điều ước quốc tế cho thấy, có nhiều cách để thông qua
văn bản điều ước, như: biểu quyết, ký tắt, thỏa thuận miệng. Văn bản được các bên nhất
trí thông qua là văn bản cuối cùng, các bên không được phép đơn phương sửa đổi, chỉnh
lý hoặc thay đổi bất kỳ quy định nào trong văn bản

Giai đoạn 2: Thừa nhận hiệu lực của điều ước quốc tế
Công nhận hiệu lực pháp lý của điều ước quốc tế là sự thừa nhận của
các chủ Luật quốc tế giá trị pháp lý của các điều ước quốc tế. Việc công nhận
này được tiến hành theo các phương thức: ký kết điều ước, phê chuẩn, phê duyệt
điều ước, gia nhập điều ước và các hình thức khác mà các bên thoả thuận.Trong
đó ký kết điều ước là phương thức phổ biến nhất.
a.Ký kết điều ước quốc tế
Về nguyên tắc, các điều ước quốc tế đều phải ký kết. Ký kết điều ước quốc tế
là một quá trình mà trong đó ký đầy đủ là bước quan trọng biểu hiện sự nhất

trí của các bên đối với điều ước quốc tế. Bởi vì, nếu điều ước đó không quy
định thủ tục khác, thì sau khi ký đầy đủ, điều ước quốc tế sẽ phát sinh hiệu lực
pháp lý.
b. Phê chuẩn điều ước quốc tế
Phê chuẩn điều ước quốc tế là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền
của Nhà nước chính thức xác nhận là điều ước đó có hiệu lực pháp lý đối với
mình.
Về nguyên tắc, điều ước quốc tế nào cần phải phê chuẩn đều phải được quy
định ngay trong nội dung điều ước đó, còn thẩm quyền phê chuẩn hoàn toàn do
luật trong nước mỗi quốc gia quy định.
Thông thường, việc phê chuẩn điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền của
nguyên thủ quốc gia hoặc quốc hội. Phê chuẩn điều ước quốc tế không chỉ là
chế định của Luật quốc gia, mà còn là chế định của pháp Luật quốc tế. Điều đó
thể hiện ở quy định thủ tục phê chuẩn là bắt buộc đối với một số loại điều ước
nhất định (Ví dụ chuyển giao lãnh thổ)
Sau khi phê chuẩn, các bên phải tiến hành trao đổi thư phê chuẩn. Đối


với điều ước đa phương, thư phê chuẩn của các bên thường được chuyển đến Bộ
ngoại giao của nước bảo quản điều ước hoặc ban thư ký của tổ chức quốc tế - cơ
quan có trách nhiệm bảo quản điều ước.
c. Phê duyệt điều ước quốc tế
Phê duyệt điều ước quốc tế là hành vi của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
biểu hiện sự nhất trí với nội dung điều ước. Phương thức này khác với phương
thức ký kết đầy đủ ở chỗ, nếu ký kết đầy đủ là việc các vị đại diện của các cơ quan
có thẩm quyền ký vào điều ước, thì phê duyệt là văn bản của cơ quan có thẩm
quyền thừa nhận giá trị pháp lý của điều ước mà các vị đại diện đã ký tượng
trưng vào văn bản điều ước.
Phê duyệt điều ước và phê chuẩn điều ước giống nhau ở chỗ, cả hai đều là hành vi
thể hiện sự nhất trí tán thành với nội dung của điều ước nào đó. Nhưng chúng

khác nhau ở thẩm quyền tiến hành cụ thể. Nếu phê chuẩn thường được tiến hành
ở cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất (nguyên thủ quốc gia, quốc hội), thì phê
duyệt điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền của cơ quan hành pháp (chính phủ).
d. Gia nhập điều ước quốc tế
Gia nhập điều ước quốc tế là việc một chủ thể Luật quốc tế tuyên bố bằng
văn bản pháp lý đồng ý ràng buộc mình với điều ước quốc tế đã có hiệu lực pháp
luật nào đó mà họ chưa phải là thành viên.
Gia nhập điều ước chỉ đặt ra đối với điều ước đa phương, còn vấn đề điều ước
đa phương nào được gia nhập và điều ước nào không được gia nhập phụ thuộc
hoàn toàn vào quy định cụ thể của từng điều ước hoặc vào sự thoả thuận của các
thành viên của điều ước.
Thủ tục gia nhập điều ước do từng điều ước quy định. Việc gia nhập có thể
thực hiện bằng cách gửi công hàm xin gia nhập đến quốc gia bảo quản điều ước
hay ban thư ký của tổ chức quốc tế bảo quản điều ước.
e. Bảo lưu điều ước quốc tế
Bảo lưu điều ước quốc tế là hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia nhằm loại
trừ hoặc thay đổi hiệu lực của một hoặc một số điều khoản nhất định của điều ước.
Các bên có quyền bảo lưu và phản đối bảo lưu, nên họ cũng có quyền rút
bảo lưu và tuyên bố huỷ bỏ bảo lưu vào bất cứ thời điểm nào nếu thấy cần thiết.
Trên thực tế bảo lưu đối với điều ước song phương có nghĩa đó
là một đề nghị, đòi hỏi hai bên đàm phán lại. Nếu nhất trí thì điều ước sẽ
được ký kết, nếu không điều ước sẽ bị huỷ bỏ. Do vậy, việc làm đó không
phải là sự bảo lưu như đã đề cập ở trên. Hay nói một cách khác, không có vấn
đề bảo lưu đối với điều ước song phương.


• Hệ quả pháp lý của bảo lưu
Bản chất của bảo lưu không nhằm đưa các điều khoản bị bảo lưu ra khỏi nội dung
của một điều ước quốc tế, nhưng về tổng thể quan hệ giữa các quốc gia thành viên của
một điều ước sẽ thay đổi trong phạm vi có bảo lưu. Theo đó,

- Quan hệ giữa quốc gia bảo lưu và quốc gia chấp nhận bảo lưu được thực hiện bằng
các điều ước quốc tế, trừ các điều khoản liên quan đến bảo lưu.
- Quan hệ giữa quốc gia bảo lưu và quốc gia phản đối bảo lưu vẫn được điều chỉnh
bằng điều ước quốc tế đó, không loại trừ các điều khoản bảo lưu không được chấp nhận.
Tuy nhiên, từ việc phản đối bảo lưu do một quốc gia đưa ra, cũng có thể làm cho quốc gia
bảo lưu và quốc gia phản đối bảo lưu không còn tồn tại quan hệ điều ước. Điều này phụ
thuộc vào quan điểm của mỗi bên.
IV. HIỆU LỰC CỦA ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ

Điều ước quốc tế sẽ có hiệu lực khi đáp ứng đc 2 điều kiện:
-Chủ quan: Được ký kết sự trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, phù hợp với
quy định về thẩm quyền theo quy định của pháp luật các quốc gia.
- Khách quan: Phù hợp với các quy phạm Jus cogens của Luật quốc tế.
1. Hiệu lực của điều ước quốc tế theo không gian và thời gian

a. Hiệu lực của điều ước quốc tế theo không gian
- Một điều ước quốc tế phát sinh hiệu lực sẽ ràng buộc các bên kết ước trong
toàn lãnh thổ thuộc phạm vi điều chỉnh của điều ước đó, trừ TH có các quy định
khác.
- Trên thực tế, điều ước có thể có hiệu lực một phần hay hiệu lực toàn bộ
phụ thuộc vào nội dung của điều ước.
VD: Đam Mạch năm 1987 về việc áp dụng Công ước vận chuyển hàng hóa quốc
tế cho đảo Farioe.

b. Hiệu lực của điều ước quốc tế theo thời gian
• Thời điểm có hiệu lực của điều ước quốc tế:
- Đối với các điều ước song phương: Thời điểm có hiệu lực là thời điểm các bên
tiến hành ký đầy đủ hoặc tiến hành trao đổi thư phê chuẩn hoặc phê duyệt
VD: Sau khi VN và Hoa Kì tiến hành đầy đủ vào Hiệp định thương mại 2, 2 bên
phải tiến hành phê chuẩndo hiệp định này quy định phải đc phê chuẩn. Sau đó, cơ quan



có thẩm quyền của 2 QG đã tiễn hành thủ tục phê chuẩn, người đứng đầu 2 quốc gia sẽ
làm thư phê chuẩn để tiến hành trao đổi.
-Đối với cá điều ước quốc tế đa phương: Thời điểm có hiệu lực khi các điều kiện
về hiệu lực được ghi nhận trong điều ước quốc tế cụ thể được thỏa mãn.
VD: Công ước về quyền trẻ em quy định: Công ước này có hiệu lực khi có 20
quốc gia phê chuẩn và có hiệu lực sau đó 30 ngày
VD: Công ước Luật Biển 1982 quy định công ước sẽ có hiệu lực sau khi quốc gia
thứ 60 phê chuẩn. Nếu quốc gia thứ 60 phê chuẩn ngày 19/05/1993 thì 19/05/1994 Công
ước mới có hiệu lực.
• Thời hạn có hiệu lực của điều ước quốc tế:2 nhóm chính
- Nhóm điều ước có thời hạn: Bao gồm những điều ước ngắn hạn,trung hạn, dài
hạn.
VD: các hiệp định về Kinh tế, thương mại,..
-Nhóm điều ước vô thời hạn: Các điều ước này chỉ quy định thời điểm có hiệu lực
của điều ước mà không quy định thời điểm chấm dứt.
VD: Các hiệp ước, điều ước liên quan đến các lĩnh vực, Chiến Tranh, biên giới,
vấn đề mang tính toàn cầu.
2. Hiệu lực của điều ước quốc tế và quốc gia thứ ba
Căn cứ vào hiệu lực chủ thể thì điều ước quốc tế chỉ phát sinh với các bên tham
gia điều ước. Tuy nhiên, các trường hợp đặc biệt ngoại lệ làm phát sinh quyền và nghĩa
vụ với bên thứ 3:
- TH1: TH điều ước quốc tế xác định quyền và nghĩa vụ cho bên thứ 3, nếu bên
thứ 3 đồng ý.
VD: căn cứ điều 87 Công ước Biển 1982 quy định: ‘’
-TH2:Điều ước được tạo ra hoàn cảnh khách quan, mặc dù không phải thành viên
của điều ước nhưng quốc gia này cũng có nghĩa vụ phải tuân thủ mọt các triệt để những
nghĩa vụ này.
VD: Hiệp định về Nam cực được kí kết 1959 giữa Mỹ, Liên Xô và một số quốc

gia khác. Từ hiệp ước này , Nam Cực trở thành 1 vùng lãnh thổ và không quốc gia nào
được quyền xác lập chủ quyền với Nam cực cho mục đích nghiên cứ hoặc thương mại.
-TH3: Điều ước quốc tế đước các quốc gia không phải là thành viên dẫn đến với tư
cách là tập quán pháp


-TH4: Điều ước quốc tế có điều khoản tối huệ quốc
3. Ảnh hưởng của các yếu tố khách quan, chủ quan đến hiệu lực của điều ước
quốc tế dẫn đến hệ quả chấm dứt vĩnh viễn hoặc tạm thời đình chỉ hiệu lực :
• Mặt chủ quan:
-Do các bên thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của điều ước
-Do điều ước quốc tế hết thời hạn
-Do một bên đơn phương tuyên bố hủy bỏ khi kí kết khác đã vi phạm nghiêm
trọng điều ước đó
-Do các bên thỏa thuận kí một điều ước quốc tế về cùng một vấn đề
-Do có hành vi bảo lưu điều ước.
• Về mặt khách quan:
-Do có sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh (Rebus-sic-stantibus).
-Do có sự xung đột vũ trang giữa các quốc gia ( trừ công ước biên giới, công ước
Giownevo về bảo hộ nạn nhân chiến tranh)
V. THỰC HIỆN ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ

Trong quá trình thực hiện điều ước các thành viên thực hiện điều ước phải
giải quyết một số vấn đề như sau:
1. Giải thích điều ước
Giải thích điều ước quốc tế là một hoạt động rất quan trọng và cần thiết. Thông
qua việc giải thích điều ước quốc tế, mỗi quy phạm cũng như toàn bộ điều ước quốc tế sẽ
được hiểu một cách chính xác và thống nhất hơn, điều này có tác động trực tiếp đến quá
trình thực thi pháp luật quốc tế.
• Nguyên tắc giải thích điều ước:

Theo Điều 31 khoản 1 Công ước Viên năm 1969, để giải thích điều ước quốc tế cần tuân
thủ hai nguyên tắc cơ bản sau”
- Thứ nhất, Nguyên tắc giải thích phải thiện chí. Hoạt động giải thích điều ước cần
hướng đến mục đích chung là giải thích nhằm để thực hiện đầy đủ chính xác điều ước đã
ký, tránh tình trạng do không thiện chí tuân thủ điều ước mà lợi dụng việc giải thích điều
ước để “hợp pháp hóa” cho hành động không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các
cam kết.


- Thứ hai, Nguyên tắc giải thích phải phù hợp với đối tượng, mục đích của chính
điều ước.
• Căn cứ giải thích điều ước quốc tế
Theo công ước Viên 1969, các bên phải dựa trên các căn sứ sau đây để giải thích
điều ước quốc tế:
- Toàn văn điều ước quốc tế bao gồm cả phần lời nói đầu, phần nội dung chính,
phần cuối cùng và các phụ lục nếu có;
- Các thỏa thuận có liên quan đến điều ước đã được các bên nhất trí khi ký kết điều
ước;
- Các văn kiện do một hoặc nhiều thành viên đưa ra khi ký kết điều ước và được
các quốc gia thành viên khác chấp thuận là văn kiện có liên quan đến điều ước.
- Các thỏa thuận sau khi điều ước đã ra đời về giải thích hoặc thực hiện điều ước
giữa các bên;
- Thực tiễn trong thực hiện điều ước thể hiện sự thỏa thuận giữa các thành viên về
việc giải thích điều ước quốc tế;
- Các nguyên tắc của Luật quốc tế áp dụng trong quan hệ giữa các quốc gia thành
viên.
• Hình thức giải thích điều ước:
Theo thực tiễn giải thích điều ước quốc tế trên thế giới, hình thức giải thích điều
ước quốc tế gồm:
- Hình thức giải thích không chính thức: Giải thích của các cá nhân, tổ chức,…

( như các luật gia, các cơ quan nghiên cứu pháp luật,…)
- Hình thức giải thích chính thức: Các thành viên điều ước thảo luận và thống nhất
giải thích, kết quả giải thích là chính thức có giá trị pháp lý cho các bên. Đây là hình thức
giải thích thông dụng và có uy tín nhất hiện nay
• Các phương pháp giải thích
- Giải thích theo văn phạm: tìm kiếm nghĩa thông thường, được tiến hành theo cơ
sở phân tích văn bản, cấu tạo câu văn, nghĩa của từ, nguồn gốc ngôn ngữ.
- Giải thích logic: căn cứ vào đối tượng và mục tiêu của điều ước.
- Giải thích theo ngữ cảnh: căn cứ vào bối cảnh cụ thể (bối cảnh đàm phán, thực
hiện điều ước )
- Giải thích bằng các công cụ bổ trợ: các văn bản liên quan tới ĐƯ


2. Đăng ký và công bố điều ước quốc tế
a. Đăng ký điều ước quốc tế
Hiện nay việc đăng ký điều ước quốc tế do Ban thư ký của LHQ đảm nhiệm.
Theo Điều 102 Hiến chương Liên Hợp Quốc ‘ Bất cứ điều ước hay điều ước quốc tế nào
do một thành viên Liên hợp quốc ký kết sau khi Hiến chương này có hiệu lực đều phải
được đăng ký càng sớm càng tốt tại Ban thư ký và do Ban thư ký công bố.
Về nguyên tắc, điều ước đăng ký hoặc không đăng ký đều có giá trị pháp lý như
nhau nếu các điều ước này thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực. Việc đăng ký hay không
tùy thuộc vào thẩm quyền của mỗi quốc gia.
Tuy nhiên, khoảng 2 Điều 102 Hiến chương LHQ cũng quy định rằng: ‘ Nếu một
quốc gia nào ký kết điều ước hay điều ước quốc tế mà không đăng ký, theo qui định tại
đoạn 1 Điều này thì không có quyền đưa điều ước hoặc điều ước đó ra trước một cơ quan
nào của Liên hợp quốc’.
b. Công bố điều ước quốc tế
-Công bố điều ước là việc các quốc gia ký kết phổ biến điều ước trước nhân dân
bằng các phương tiện thông tin đại chúng phù hợp.
-Mục đích xóa bỏ chính sách ngoại giao bí mật và thông báo trước cộng đồng nội

dung điều ước quốc tế.

3.Thi hành điều ước và đảm bảo thực hiện điều ước
a. Thi hành
Các quy phạm điều ước quốc tế là các quy phạm Luật quốc tế chứ không phải là
Luật quốc gia, muốn thực thi các điều ước quốc tế trên lãnh thổ quốc gia mình, các nước
thành viên phải thực hiện sự chuyển hóa điều ước quốc tế.
Có 2 phương pháp chuyển hóa điều ước:
-Viễn dẫn áp dụng điều ước ( kèm theo công bố điều ước trước công luận). cách
này thường áp dụng đối với các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương nhưng
không mang tính phổ biến.
-Ban hành các văn bản Luật quốc gia có nội dung tương ứng: được áp dụng đối
với các điều ước quốc tế phổ biến ( ví dụ như quyền con người)
Pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quy định rằng: nếu các quy
định của pháp luật Quốc gia trái với các quy định của điều ước quốc tế mà quốc gia đó ký
kết hoặc tham gia thì áp dụng các quy định của điều ước quốc tế. Trong một số các văn


bản pháp luật của VN như Luật quốc tịch, Luật hôn nhân và gia đình, Bộ luật dân sự,…
cũng có các quy định như vậy.

b. Đảm bảo thực hiện điều ước quốc tế
• Khái niệm: là việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa sự vi
phạm ĐƯQT từ phía các bên ký kết.
Các biện pháp đó có thể do:
-

Chính các bên thực hiện
Các chủ thể khác thực hiện( đó là cam kết của các QG tham gia điều ước về
việc bảo trợ việc thực thi điều ước từ các bên ký kết,..)

Do tổ chức quốc tế hoặc các quy định thể hiện chế định trách nhiệm pháp lý
quốc tế



×