Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

những vấn đề cơ bản về tài chính tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.05 KB, 15 trang )

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI CHÍNH VÀ TIỀN TỆ
Trong chương này sinh viên sẽ được tìm hiểu khái quát về hai vấn đề, hai đối tượng
được nghiên cứu chủ yếu của môn học là Tài chính và tiền tệ. Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu
qua các nội dung sau:
Tiền tệ: Khái niệm, cách hình thái tồn tại, các chức năng của tiền tệ
Tài chính: Tài chính , Hệ thống tài chính
I. Tiền tệ
1. Các vấn đề về tiền tệ
1.1. Khái niệm:
Có nhiều quan điểm, có nhiều cách hiểu như thế nào là tiền. Tuy nhiên ta có thể hiểu :
“ Tiền là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong thanh toán để đổi lấy hàng hoá,
dịch vụ hoặc để hoàn trả các khoản nợ”.
Phân biệt tiền với thu nhập và của cải!
Một tờ giấy bạc nếu dùng gấp thuyền giấy, hoặc đem đốt thì có coi là tiền không?
Cách hiểu trên mới cho ta cách nhận biết như thế nào thì được coi là tiền tệ mà chưa
nói rõ vì sao nó được chọn làm tiền tệ. Muốn hiểu được ta sẽ tìm hiểu bản chất của tiền tê.
1.2. Bản chất:
+ Tiền thực chất là vật trung gian môi giới trong trao đổi hàng hoá, nó là phương
tiện giúp cho quá trình trao đổi được thực hiện dễ dàng hơn.
+ Bản chất của tiền tệ được thể hiện rõ hơn qua hai thuộc tính: Giá trị và giá trị sử
dụng.
- Thuộc tính “Giá trị của tiền tệ được hiểu qua “Sức mua của tiền tệ”, đó là khả
năng có thể đổi được nhiều hay ít hàng hoá khác trong trao đổi.
- Thuộc tính “giá trị sử dụng của tiền tệ”
Nói đến giá trị sử dụng là ta nói đến khả năng thoả mãn nhu cầu sử dụng làm vật
trong gian trong trao đổi.
Thuộc tính này là do xã hội quy định và do đó khi có nhu cầu trao đổi thì người ta
mới cần tiền. Khi không còn được thừa nhận là thực hiện tốt vai trò làm vật trung gian trong
trao đổi nữa thì khi ấy giá trị sử dụng của vật, với tư cách là tiền tệ không còn tồn tại. Và đó
chính là nguyên nhân giải thích vì sao có sự xuất hiện, có sự mất đi của các hình thái, các
dạng tiền tệ trong lịch sử.


Vậy có những hình thái tiền tệ nào trong lịch sử, ta sang phần tiếp theo.
2. Các hình thái của tiền tệ.

1


Tiền tệ là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hoá. Sau khi ra đời, tiền tệ là công
cụ quan trọng để phát triển nền kinh tế, xã hội. Để tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông
hàng hoá và dịch vụ, phát triển nền kinh tế và xã hội, hình thái của tiền tệ cũng ngày càng
được hoàn thiện hơn.
Lịch sử phát triển của các hình thái tiền tệ đã cho ta thấy tiền tệ xuất hiện dưới
dạng: tiền tệ hàng hoá (phi kim, kim loại); tiền tệ ở dạng dấu hiệu (tiền giấy, tiền, tín dụng,
…). Cụ thể.
2.1. Tiền tệ ở dạng hàng hoá
Hàng hoá sử dụng làm tiền tệ trong trao đổi phải có giá trị thực sự và giá trị của nó phải có
giá trị ngang với giá trị hàng hoá đem ra trao đổi.
2.1.1. Tiền tệ ở dạng phi kim loại (hoá tệ phi kim loại).
Là hình thái tồn tại sơ khai nhất của tiền. Nó là tiền tệ dưới dạng hàng hoá (trừ kim loại).
Tại sao tiền tệ lại xuất hiện ở dạng hoá tệ phi kim kim loại trước tiên?
+ Trong thời kỳ đầu, hàng hoá đem ra trao đổi thường được chọn là vật có giá trị sử
dụng cần thiết chung cho mọi người, có thể bao quản lâu, mang đặc trưng vùng miền (ví dụ:
Tuần lộc ở nhiều nơi thuộc Nga, da ở Pháp và Ý, hạt tiêu ở Sumatra,…)
+ Tuy nhiên, hoá tệ phí kim có nhiều điểm bất tiện như tính không đồng nhất, dễ hư
hỏng, khó bảo quản (ví dụ: dầu….); khó phân chia hay gộp lại (gia súc, gia cầm) và hạn chế
cho chỉ được công nhận theo vùng miền, vì thế hoá tệ phi kim dần bị đào thải và được thay
thế bằng hình thái thứ 2 của tiền tệ là hoá tệ kim loại.
2.1.2 Hoá tệ kim loại:
Được sử dụng làm tiền tệ ở hình thái này thông là các loại kim loại như vàng, bạc,
đồng, kẽm.
+ Việc sử dụng kim loại làm tiền tệ có ưu điểm hơn phi kim là ở độ bền, dễ chia nhỏ

hay gộp lại phù hợp với quy mô giao dịch; chất lượng và trọng lượng có thể xác định dễ
dàng, chính xác hơn,…
Lịch sử cho thấy kim loại vàng là loại được sử dụng lâu và phổ biến nhất với tư
cách là tiền tệ.
Tại sao vậy?
Vàng có những ưu điểm hơn hẳn những kim loại khác trong việc thực hiện chức
năng tiền tệ, đó là do:
- Đặc tính lý hoá của vàng
- Là loại hàng hoá được nhiều người chuộng và nhu cầu sở hữu nó có từ sớm trong
lịch sử.

2


- Giá trị của vàng ổn định trong thời gian tương đối dài, ít chịu ảnh hưởng của người
lao động tăng lên như các hàng hoá khác (nếu có áp dụng tiến bộ KHKT vào khai thác cũng
không tăng nhiều NSLĐ làm ra vàng)
Tuy có nhiều điểm thích hợp cho việc dùng làm tiền tệ, nhưng tiền vàng vẫn không
thể đáp ứng được đủ nhu cầu của xã hội khi mà nền sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển
mạnh mẽ.
- Nhu cầu về phương tiện trao đổi bị thiếu hụt khi nền sản xuất ngày càng phát triển
mạnh trong khi lượng vàng sản xuất ra không tương ứng nhu cầu.
- Nslđ sản xuất ra vàng không theo kịp nslđ chung của các ngành sản xuất khác như
đã nói trên đã làm cho giá trị tương đối của vàng so với các hình thức khác tăng lên – giá trị
của vàng trở nên quá lớn -> các giao dịch mua bán nhỏ lẻ thì vàng không thể đáp ứng được
nhu cầu làm vật ngang giá chung. Còn trong các giao dịch lớn thì lại cồng kềnh.
- Lượng vàng trong tự nhiên là có hạn. Việc sử dụng nó trong trao đổi dẫn tới sự
thất thoát qua sự mài mòn tự nhiên, gây ra sự lãng phí nguồn tài nguyên vốn có hạn. Ngoài
ra sử dụng vàng làm tiền tệ đã kéo theo sự cắt giảm cho các nhu cầu khác của xã hội như
mạ vàng, làm vật trang sức…

Vì những lý do trên nên xã hội đã tìm ra một dạng tiền tệ mới phù hợp hơn. Đó là
tiền dưới dạng dấu hiệu và hình thái ta sẽ nghiên cứu đầu tiên là tiền giấy.
2.2. Tiền tệ ở dạng dấu hiệu.
2.2.1. Tiền giấy.
+ Tiền giấy xuất hiện đầu tiên dưới dạng các giấy chứng nhận có khả năng đổi ra
vàng hoặc bạc.
Giấy này do NHTM phát hành (dần dần các giấy này được chuẩn hoá thành tờ tiền
có in mệnh giá và có khả năng đổi ra vàng theo hàm lượng vàng quy định cho đổi tiền đó việc này được thực hiện ở ngân hàng phát hành ra nó).
Do được tự do trao đổi ra vàng hoặc bạc nên nếu người sở hữu không đến ngân
hàng đổi thì họ có thể sử dụng nó trong thanh toán như vàng và bạc. Việc sử dụng loại tiền
này hoàn toàn mang tính tự nguyện. Tuy nhiên, do sự hỗn loạn trong việc các ngân hàng tự
do phát hành tiền của ngân hàng mình gây nên sự hỗn loạn trong thanh toán, trao đổi. Do
vậy sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, các nhà nước đã siết chặt quản lý việc phát hành
giấy bạc ngân hàng và quy định việc phát hành tiền chỉ do duy nhất NHTW đảm nhiệm.
+ Đề cập tới khả năng chuyển đổi ra vàng hoặc bạc của tiền giấy, không lâu sau khi
xuất hiện và do chịu ảnh hưởng nặng nền tàn dư của chiến tranh thế giới lần thứ nhất và
khủng hoảng kinh tế 1929- 1933, đã nhiều lần tiền giấy bị mất khả năng đổi ngược ra vàng.
Sau WWII thì chỉ duy nhất còn USD là còn khả năng đổi ra vàng. Tuy nhiên sau 1971 khi

3


chính phủ Mỹ tuyên bố đồng USD bị ngừng đổi ra vàng thì sự tồn tại của đồng tiền giấy có
khả năng đổi ra vàng đã thực sự chấm dứt.
Ngày nay tiền giấy thực chất là các giấy nợ (IOU) của NHTW đối với người sở hữu
nó (đối với NHTW là khoản nợ về giá trị - hay sức mua - của lượng tiền đã phát hành).
+ Lợi ích, ưu điểm của sử dụng tiền giấy ?
Tiền giấy dễ mang theo, dễ cất trữ; có thể in nhiều mệnh giá phù hợp với nhiều quy
mô giao dịch. Về phía chính phủ, có thể thấy, chi phí in tiền nhỏ hơn nhiều so với giá trị mà
nó đại diện và có thể phát hành không phụ thuộc vào số lượng hàng hoá dùng làm tiền tệ

trước đây, Chính phủ có thể nhận được khoản chênh lệch giữa giá trị mà tiền giấy đại diện
so với giá in ấn, phát hành ra chúng -> nguồn thu cho NSNN
Tuy có nhiều ưu điểm nổi trội nhưng hạn chế không phải không có:
Tiền giấy không bền, chi phí lưu thông còn lớn; tốc độ thanh toán còn hạn chế nếu
là giao dịch cách trở địa lý; độ an toàn và cồng kềnh khi vận chuyển vẫn tồn tại; lại dễ bị
làm giả. Ngoài ra còn có tác động của yếu tố vĩ mô như lạm phát (do tiền giấy có ít giá trị
nội tại và không tự điều tiết được số lượng tiền giấy trong lưu thông như tiền vàng).
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của các nền sản xuất hàng hoá, ra đời và phát
triển mạnh mẽ của các định chế tài chính (đặc biệt là hệ thống ngân hàng) nên đã xuất hiện
những hình thái tiền tệ mới mà ta sẽ tiếp tục tìm hiểu sau đây.
2.2.2. Tiền tín dụng.
+ Tiền tín dụng là tiền nằm trên tài khoản mở ở ngân hàng, nó được hình thành dựa
trên các khoản tiền gửi của khách hàng vào ngân hàng – Ngân hàng sẽ mở một tài khoản và
ghi có đối với số tiền gửi ấy cho khách hàng. Và khi ấy tiền giấy của khách đã trở thành tiền
tín dụng (tiền tài khoản).
+ Thực chất của loại tiền này là ngân hàng cam kết cho người gửi tiền (người chủ
tài khoản) được rút ra số tiền giấy đúng bằng số dư (không quá số dư) ghi có trong tài
khoản của họ. Và do có sự tin tưởng và hệ thống ngân hàng nên mọi người có thể sử dụng
luôn các cam kết ấy như tiền mà không phải đổi ra tiền giấy trong các hoạt động thanh toán.
+ Cần chú ý là các hoạt động thanh toán bằng tiền tín dụng phải cần thông quá hệ
thông ngân hàng làm trung gian. Các ngân hàng sẽ ký với nhau các hoạt động làm đại lý của
nhau, theo đó các ngân hàng mở tài khoản cho nhau để ghi lại các khoản tiền chuyển qua lại
giữa chúng -> thay vì chuyển tiền thực sự thì họ chỉ cần ghi có hoặc nợ vào tài khoản được
mở
Hoạt động chuyển tiền thực sự chỉ xảy ra định kỳ theo thoả thuận của các ngân hàng
-> Cơ chế này làm tăng nhanh tốc độ thanh toán và tiền tín dụng thực chất chỉ là những con

4



số ghi trên tài khoản được mở tại ngân hàng -> có thể nói tiền tín dụng là đồng tiền phi vật
chất và nó cũng là đồng tiền mang dấu hiệu giá trị.
+ Như đã đề cập, khi sử dụng tiền tín dụng thì cần phải có hệ thống ngân hàng làm
trung gian. Người chủ TK sẽ phải sử dụng các lệnh thanh toán để lệnh cho ngân hàng nơi tài
khoản mình mở sẽ thanh toán hộ mình. Có nhiều loại lệnh khác nhau (séc, uỷ nhiệm chi,
…). Tuy nhiên, phổ biến nhất hiện nay là Séc. Để sử dụng hình thức này người gửi tiền vào
bank sẽ phải mở một tài khoản Séc.
Séc ngân hàng và Séc du lịch.
-> Séc:
* Là tờ lệnh do chủ tài khoản Séc yêu cầu ngân hàng thanh toán từ khoản của mình
cho người được hưởng lợi ghi trên từ Séc một khoản tiền nhất định.
* Khi mở tài khoản Séc, ngân hàng sẽ cấp cho chủ TK một tập Séc (Séc thường
được phát hành theo mẫu nhất định).
Séc có hiệu lực khi có chữ ký của chủ TK. Chủ TK Séc ghi tên người thụ hưởng, số
tiền và ký xác nhận. Người được thanh toán sẽ đem tờ Séc tới bank giữ tài khoản Séc để
thanh toán.
* Việc dử dụng Séc trong thanh toán có lợi: Tiết kiệm phí giao dịch do giảm bớt
việc phải chuyển tiền liên tục giữa các bank; Tốc độ thanh toán nhanh một khá an toàn và
tiện lợi do có thể viết ra bất kỳ lượng tiền nào (trong phạm vi số dư tài khoản).
-> Séc du lịch.
* Là loại séc do bank phát hành cho những người đi ra nước ngoài hưởng.
Tại nước đến, người cầm séc có thể dùng nó để thanh toán trực tiếp thay tiền mặt;
hoặc đến ngân hàng được ngân hàng phát hành séc uỷ thác để đổi ra tiền mặt.
( Ngân hàng nhận séc du lịch sẽ thông qua hệ thống thanh toán giữa các banh để thu
tiền từ ngân hàng phát hành séc).
Séc du lịch không hoàn toàn giống với séc thông thường đó là:
Séc du lịch được in mệnh giá như tiền mặt, nó được in tên ngân hàng phát hành và
được in cả tên người hưởng lợi séc (chính là chủ tài khoản séc). Do vậy đi du lịch có thể
dùng séc du lịch, giúp cho có thể mang theo một lượng ngoại tệ lớn mà vẫn an toàn (do cấp
đích danh nên muốn đổi nó ra tiền mặt cần phải có chữ ký của chủ TK, cung cấp cho ngân

hàng số hộ chiếu của chủ TK séc,… Loại séc này đã khắc phục được hạn chế của séc thông
thường ở nhiều điểm, đặc biệt là việc không thanh toán, không ký phát séc từ TK séc được
đối với séc thông thường khi ở nước ngoài - nếu cho phép thì chi phí cho việc cung cấp dịch
vụ sẽ cao hơn nhiều so với chi phí cung cấp séc du lịch.

5


Tuy có nhiều ưu điểm nhưng việc sử dụng séc trong thanh toán vẫn còn có một số
hạn chế nhất định, đó là: thời gian để kiểm tra tính hợp lệ của séc,… chi phí cho việc xử lý
các chứng từ liên quan đến thanh toán bằng séc cũng gây ra tốn kém đáng kể cho xã hội.
Chính vì thế, để đáp ứng đòi hỏi, đáp ứng sự phát triển của nhu cầu trao đổi, thanh
toán trong nền kinh tế, cần có thêm hình thái tiền tệ mới hoàn thiện hơn, ta sẽ tìm hiểu tới
hình thái tiền tệ mới hoàn thiện hơn, ta sẽ tìm hiểu tới hình thái tồn tại ở dạng tiền điện tử Đây là hình thái của tiền xuất hiện cho có sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật, mạng máy tính
áp dụng cho liên kết, kết nối giữa các ngân hàng.
2.2.3. Tiền điện tử.
+ Tiền điện tử là tiền tệ tồn tại dưới hình thức điện tử (số hoá)
+ Với sự phát triển của KHKT và việc áp dụng công nghệ thông tin vào hệ thống
ngân hàng, phương thức thanh toán điện tử đã dần thay thế phương thức thanh toán sử dụng
các chứng từ bằng giấy.
Phương thức thanh toán điện tử được xác lập khi tiền trong các tài khoản mở tại
bank được lưu trữ trong hệ thống máy tính của bank dưới hình thức điện tử lớn như CHIPS,
SWIFT, Fedwine,…
Các giao dịch qua thanh toán bằng tiền điện tử chiếm tỷ trọng rất lớn.
+ Ngoài các hoạt động chuyển khoản, tiền điện tử còn được sử dụng trực tiếp trong
các giao dịch dưới các hình thức sau:
- Các thể thanh toán
* ATM
* Thẻ tín dụng
* Thẻ ghi nợ

* Thẻ thông minh
- Tiền mặt điện tử:
Loại này thường được sử dụng để mua hàng trực tuyến trên internet.
- Séc điện tử:
Cho phép người sử dụng internet có thể thanh toán các hoá đơn qua internet mà
không cần gửi Séc bằng giấy như trước.
Lưu ý: Tuy là tiền điện tử xét về lợi thế (độ nhanh gọn, tiết kiệm chi phí,…) có hơn
tiền giấy hoặc Séc, tuy nhiên ta chưa thể sử dụng nó hoàn toàn trong các giao dịch vì:
+ Việc thiết lập hệ thống mạng máy tính, máy đọc thẻ,…phục vụ rất tốn kém.
+ Sử dụng Séc giấy cho ta chứng cứ của giao dịch (khác với tiền điện tử).
+ Độ trễ trong giao dịch bằng séc giấy có lợi cho chủ TK vì…

6


+ Sử dụng tiền điện tử sẽ đối mặt với an ninh của khoản tiền, đỡ bị trộm
3. Chức năng của tiền tệ.
Khi nghiên cứu chức năng, ta cần tìm hiểu tại sao có chức năng ấy đặc điểm điều
kiện đảm bảo thực hiện chức năng và ý nghĩa chức năng ấy.
Ngày nay các nhà kinh tế đều thống nhất với nhau ở 3 chức năng cơ bản của tiền tệ.
- Chức năng: Phương tiện trao đổi
- Chức năng thước đo giá trị
- Chức năng cất trữ giá trị
3.1. Phương tiện trao đổi
Chức năng này là chức năng đầu tiên của tiền tệ, nó phản ánh lý do tại sao tiền tệ ra
đời và tồn tại trong nền kinh tế hàng hoá và nó cũng chính là cái phân biệt giữa tiền với
những tài sản khác như chứng khoán, bất động sản,…
+ Là phương tiện trao đổi do tiền chỉ được coi là phương tiện chứ không phải mục
đích của trao đổi (không cần đủ giá trị). Xã hội sử dụng tiền là vật trung gian trong quá trình
trao đổi hàng hoá dịch vụ. Các hàng hoá trước tiên được đổi ra tiền rồi tiền ấy lại được sử

dụng mua hàng hoá và dịch vụ mà họ cần sau đó. Do vậy tiền được coi là phương tiện trao
đổi, đóng vai trò môi giới giúp cho việc trao đổi được thực hiện dễ dàng và nhanh chóng,
tiền chỉ xuất hiện thoáng qua trong trao đổi, nó có thể có giá trị thực hoặc có thể chỉ là dấu
hiệu giá trị.
+ Để thực hiện được chức năng phương tiện trao đổi thì đòi hỏi đồng tiền (hàng hoá
hoạt động được một cách hữu hiệu như tiền) cần phải dễ nhận biết; phải được thừa nhận
rộng rãi, số lượng được cung cấp đầy đủ, dễ dàng đáp ứng nhu cầu trao đổi trong các giao
dịch, bao gồm nhiều mệnh giá, không bị hư hỏng một cách nhanh chóng, có tính đồng nhất,
+ Việc dùng tiền làm phương tiện trao đổi giúp đẩy mạnh hiệu quả của nền kinh tế,
khắc phục hạn chế của trao đổi hàng hoá trực tiếp (hạn chế do nhu cầu không trùng khớp),
khắc phục hạn chế về thời gian (việc mua và bán phải diễn ra đồng thời) khắc phục hạn chế
về không gian, trách ách tắc trong các giao dịch, giúp lưu thông nhanh hơn và giúp nền kinh
tế phát triển.
3.2. Thước đo giá trị
+ Trong nền kinh tế có sử dụng tiền tệ thì mọi hàng hóa dịch vụ đều được quy đổi
về tiền. Khi đó tiền tệ trở thành phương tiện để biểu hiện, để đo lường giá trị của hàng hóa,
dịch vụ đem ra trao đổi.
+ Để thực hiện chức năng này thì bản thân tiền tệ phải có giá trị - đặc trưng của nó
là sức mua của tiền.

7




Khi tiền tồn tại dạng hàng hóa thì sức mua của nó phụ thuộc vào trị

giá trao đổi của nó với hàng hóa khác.



Khi tiền tồn tại dạng dấu hiệu thì giá trị của tiền lại thuộc vào cung

cầu tiền tệ trên thị trường, lạm phát sự phát triển hay suy thoái của nền kinh tế, ....
chứ không còn được đảm bảo từ nguyên vật liệu làm ra tiền.
- Phải có tiêu chuẩn giá cả.
Tiêu chuẩn giá cả là khái niệm chỉ về một hàm lượng vàng nhất định cho đơn vị tiền
tệ và tên gọi của tiền tệ. Ngày nay tiền giấy không còn khả năng đổi ra vàng (ám chỉ hàm
lượng vàng tương ứng với mỗi đồng tiền) thì tiêu chuẩn giá cả phụ thuộc vào sức mua của
đơn vị tiền tệ chuẩn đối với hàng hóa.
- Đồng tiền cần được pháp luật quy định, bảo vệ và phải được dân chúng chấp nhận
sử dụng cần có giá trị ổn định lâu dài.
+ Nhờ chức năng này mà mọi hình thức giá trị của tiền tồn tại ở hình thức nào cũng
có thể dùng tiền tệ để định lượng (đơn giá, định lượng bản cá nhân, GDP, giá sản xuất,
thuế,....)
Sự phức tạp trong trao đổi trực tiếp cũng bị xóa bỏ đối với trao đổi trực tiếp khi số
hàng hóa đem ra trao đổi là N thì cần N (N - 1) mức giá  quá phức tạp .
2
3.3. Cất giữ giá trị.
+ Khi tạm chưa có nhu cầu sử dụng tiền tệ làm phương tiện trao đổi (chưa có nhu
cầu mua sắm hàng hóa, dịch vụ) thì tiền được cất trữ lại dành cho các nhu cầu giao dịch
trong tương lai (tiền khi ấy có tác dụng như nơi cất trữ sức mua hàng qua thời gian, cất trữ
tiền cũng giống như cất trữ một lượng hàng hóa, dịch vụ mà nó có thể đổi được).
+ Khi cất trữ thì quan trọng là tiền cần phải giữ nguyên giá trị, giữ nguyên sức mua
qua thời gian. Sẽ không ai giữ tiền nếu đồng tiền ấy liên tục giảm giá trị theo thời gian hoặc
mất giá nhanh chóng. Họ sẽ tìm cách lưu giữ sức mua qua các hình thức khác. Tiền không
phải là cách thức cất trữ giá trị duy nhất mà những tài sản như bất động sản, cổ phiếu,
thương phiếu, kim loại quý... cũng được coi là phương tiện cất trữ giá trị. Nhiều trong số
chúng còn mang lại nguồn lợi nhuận lớn hơn so với việc giữ tiền. Tuy nhiên do tính lỏng
mà tiền vẫn được ưu tiên hơn.
(Tính lỏng là khả năng chuyển 1 tài sản thành phương tiện thanh toán (tiền mặt) để

mua sắm hàng hóa dịch vụ hoặc chi trả nợ một cách nhanh chóng mà ít chi phí nhất.
+ Chức năng này rất hữu ích bởi chúng ta hầu hết không muốn hoặc không thể chi
tiết hết thu nhập của mình ngay khi vừa nhận được mà đợi khi ta có nhu cầu thực sự. Ngoài
ra rất bất tiện và tốn kém nếu phải bán hàng hóa của mình khi cần tiền mua hàng hóa khác.

8


4. Khối tiền tệ:
Chưa có định nghĩa chính xác về tiền tệ, do vậy quan niêm về các khốI tiền tệ (nghĩa là cách
đo lượng tiền cung ứng) cũng khác nhau. Tuy nhiên, quan niệm về khốI tiền tệ mà được
nhiều nhà kinh tế thừa nhận hơn cả là cách quan niệm dưới đây:
4.1. Khối tiền tệ M1:
Đây là khối tiền tệ theo nghĩa hẹp nhất về lượng tiền cung ứng, nó chỉ bao gồm những
phương tiện được chấp nhận ngay trong trao đổi hàng hoá mà không phảI qua một bước
chuyển đổi nào. VớI khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm:


Tiền đang lưu hành (gồm tiền mặt do NHTW phát hành và đang lưu hành ngoài hệ
thống ngân hàng)



Tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng thương mại (tiền gửi mà chủ sở hữu của nó có
thể phát séc để thanh toán tiền mua hàng hoá hay dịch vụ).

4.2. Khối tiền tệ M2:
Bao gồm lượng tiền M1 và Tiền gửi tiết kiệm ở các NHTM.
4.3. Khối tiền tệ M3:
Bao gồm lượng tiền M2 và Tiền gửi có kỳ hạn ở các NHTM.

4.3. Khối tiền tệ L:
Bao gồm lượng tiền M3 và Các chứng từ có giá có tính lỏng cao (dễ chuyển thành tiền mặt)
như: chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, tín phiếu, trái phiếu…
II. Tài chính
1. Sự cần thiết khách quan của tài chính.
Sản xuất hàng hoá và tiền tệ:
Vào thời kỳ công xã nguyên thuỷ tan rã, xã hội bắt đầu có sự phân công lao động ,
có sự chiếm hữu về tư liệu sản xuất, sản phẩm lao động và kéo theo đó là sự ra đời của nền
sản xuất hàng hoá và tiền tệ.
Trong nền kinh tế hàng hoá, việc trao đổi hàng hoá được tiến hành dễ hàng hơn
thông qua tiền tệ làm môi giới trung gian, từ đó người ta sử dụng tiền tệ với các chức năng
là phương tiện trao đổi và phương tiện cất trữ để phân phối tổng sản phẩm xã hội. Kết quả
là các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các cá nhân đã tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ
trong nền kinh tế nhằm mục đích tiêu dùng và đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Các mối
quan hệ kinh tế cũng từ đó làm nảy sinh phạm trù tài chính.
Nhà nước ra đời:

9


Khi có sự chiếm hữu khác nhau về tư liệu sản xuất cũng là khi có sự phân chia giai
cấp và xuất hiện phạm trù Nhà nước. Nhà nước ra đời với chức năng và quyền lực của
mình đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế hàng hoá, mở rộng phạm vi
hoạt động của tài chính. Bên cạnh đó, để duy trì hoạt động của mình, Nhà nước đã tạo lập
quỹ ngân sách nhà nước thông qua quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức
giá trị và hình thành lĩnh vực tài chính nhà nước.
Tóm lại: bên cạnh tiền tề quyết định làm nảy sinh phạm trù tài chính (là sản xuất
hàng hoá và tiền tệ), Nhà nước ra đời làm cho hoạt động tài chính ngày càng phát triển hơn.
2. Tài chính
* Quy trình phân phối trong xã hội.

+ Mọi quá trình sản xuất trong nền kinh tế gồm 4 khâu:
"- Sản xuất - Phân phối - Trao đổi - Tiêu dùng "
Trong khâu phân phối thì giá trị sản phẩm sản xuất ra được thực hiện giá trị trên thị
trường (được bán ra) và rồi sẽ được đem phân phối cho các chủ thể có đóng góp vào quá
trình sản xuất ra sản phẩm đó. Về cơ bản, giá trị của sản phẩm sản xuất được chia thành:
- Phần bù đắp phí bỏ ra trong quá trình sản xuất hàng hóa, dịch vụ như: Chi phí
khấu hao, chi phí nhiên vật liệu, giá trị mua ngoài,....
- Phần trả cho hao phí sức lao động của người công nhân.
- Phần còn lại là lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Với sự xuất hiện của tiền tệ thì giá trị của sản phẩm sản xuất ra khi được thực hiện
trên thị trường sẽ tồn tại ở hình thái tiền tệ. Và giá trị phân phối vì thế sẽ là quá trình chia
các khoản thu bằng tiền  kết quả của quá trình phân phối là sự hình thành của các quỹ
tiền tệ trong xã hội, bao gồm quỹ tiền tệ của đơn vị và của công nhân quá trình phân phối
này được gọi là phân phối lần đầu.
Chưa dừng lại ở đó, nhằm đáp ứng nhu cầu của mình, các chủ thể trong nền kinh tế
lại tiếp tục phân chia các quỹ tiền tệ của mình và sử dụng chúng - việc hình thành các quỹ
tiền tệ mới - các quá trình phân phối này gọi là quá trình phân phối lại.
Doanh nghiệp:
- Quỹ phục vụ tái sản xuất.
- Chi cho cổ đông
- Đầu tư ra bên ngoài
Cá nhân:
- Chi tiêu
- Tiết kiệm
- Bảo hiểm

10


Nhà nước ..............

Tóm lại:
Biểu hiện bên ngoài của tài chính là sự vận động của các luồng giá trị dưới hình
thái tiền tệ giữa các quỹ tiền tệ do kết quả của việc tạo lập và sử dụng các quỹ này nhằm
đáp ứng các nhu cầu chi tiêu hoặc tích lũy của các chủ thể kinh tế.
+ Các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế gồm những nhóm nào?
Gồm quỹ tiền tệ:

- Cá nhân
- Doanh nghiệp
- Tổ chức tài chính trung gian
- Tổ chức chính trị, xã hội
- Nhà nước

Tuy vậy quỹ tiền tệ không chỉ hình thành từ việc thực hiện giá trị sản phẩm sản xuất
mà còn được tạo ra từ các tài sản ở dạng hiện vật có khả năng chuyển hóa thành tiền. Ngoài
ra xét trên phạm vi quốc gia còn có các quỹ tiền tệ hình thành từ các luồng tiền tệ trong và
ngoài nước.
Tổng hợp lại ta có khái niệm nguồn tài chính.
"NGUỒN TÀI CHÍNH": Là tổng hợp tất cả các quỹ tiền tệ và các tài sản hiện vật có
khả năng chuyển hóa thành tiền !.
Nguồn tài chính là cơ sở và là đối tượng của họat động phân phối nhằm đáp ứng
nhu cầu của chủ thể trong nền kinh tế. Phân phối trong tài chính không chỉ là phân phối
giữa các chủ thể mà còn cả trong nội bộ chủ thể kinh tế đó
Có 4 phương pháp pháp phân phối tài chính, tương ứng là 4 quan hệ tài chính:
-

Quan hệ tài chính hoàn trả (VD: Tín dụng...)

-


Quan hệ tài chính hoàn trả có điều kiện và không tương đương (VD: Bảo hiểm).

-

Quan hệ tài chính không hoàn trả

-

Quan hệ tài chính nội bộ.

Mối quan hệ này bao trùm đối với các chủ thể tham gia trong nền kinh tế.

NSNN

BH

Tín dụng
TTT
chính

DN

TC Hộ gia đình

11


Từ những tìm hiểu trên ta có thể rút ra:
"Tài chính là quá trình phân phối các nguồn lực tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu của
các thủ thể kinh tế".

Chú ý:
Phân biệt tài chính với một số phạm trù kinh tế có liên quan:
Tiền tệ về bản chất là vật ngang giá chung trong trao đổi hàng hoá với các chức
năng vốn có: thước đo giá trị, phương tiện trao đổi (gồm phương tiện lưu thông và phương
tiện thanh toán) và phương tiện cất trữ. Còn tài chính là sự vận động tương đối của tiền tệ
với chức năng phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ trong lĩnh vực phân phối nhằm
tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Giá cả là phạm trù kinh tế liên quan đến phân phối dưới hình thức giá trị, nhưng là
phân phối được tiến hành thông qua sự chênh lệch giữa giá trị và giá cả hàng hoá trong trao
đổi. Còn tài chính là phạm trù phân phối phản ánh sự chuyển dịch giá trị thông qua việc tạo
lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế. Tiền lương cũng là phạm trù phân phối thể
hiện một lượng tiền tệ nhất định được trả cho người lao động theo những nguyên tắc nhất
định và tiền lương muốn thực hiện được phải thông qua phạm tài chính (nghĩa là phải thông
qua các quan hệ kinh tế trong phân phối tổng sản phẩm xã hội nhằm hình thành và sử dụng
quỹ tiền lương).
3. Chức năng của tài chính
Chức năng của tài chính là sự cụ thể hoá bản chất của tài chính, nó mở ra nội dung
của tài chính và vạch rõ tác dụng xã hội của tài chính. Chức năng của tài chính là khả năng
bên trong, biểu hiện tác dụng xã hội của nó và tác dụng đó chỉ có thể có được với sự tham
gia nhất thiết của con người.
Tài chính vốn có hai chức năng cơ bản :
 Chức năng phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới dạng hình thái giá trị.
 Chức năng giám đốc bằng tiền đối với toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội (gọi tắt là
chức năng giám đốc).
3.1 Chức năng phân phối
Phân phối của cải xã hội, trải qua quá trình phân phối lần đầu và nhiều lần phân phối lại.
 Phân phối lần đầu là phân phối tiến hành trong lĩnh vực sản xuất vật chất, hình
thành nên quỹ bù đắp tư liệu sản xuất, những khoản thu nhập ban đầu cho người lao

12



động và thu nhập thuần tuý của xã hội (thu nhập thuần tuý của các doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế, dân cư và thu nhập thuần tuý tập trung của Nhà nước).
Phân phối lần đầu, mới chỉ tạo ra những khoản thu nhập cơ bản, chưa thể đáp ứng
nhu cầu của xã hội. Do đó phải trải qua quá trình phân phối lại.
 Phân phối lại thu nhập là tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản được hình
thành qua phân phối lần đầu, để đáp ứng nhu cầu tích luỹ và tiêu dùng của toàn xã
hội (các ngành không sản xuất: Quân đội, Giáo dục, Y tế…)
Mục đích của phân phối lại là bổ sung thêm vào Ngân sách Nhà nước để đáp ứng
nhu cầu chi tiêu cho toàn xã hội. Tạo ra nguồn thu nhập cho các lĩnh vực không sản
xuất vật chất và những người làm việc trong các lĩnh vực đó.
Điều hoà thu nhập giữa các ngành, giữa các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế,
các tầng lớp dân cư. Điều tiết các hoạt động kinh tế trên phạm vi vĩ mô.
Phân phối lại được tiến hành thông qua ba biện pháp: Biện pháp tài chính – tín dụng
(vai trò trung tâm), biện pháp giá cả và hoạt động phục vụ.
3.2 Chức năng giám đốc
Chức năng này là thuộc tính vốn có của phạm trù tài chính, bắt nguồn từ quan hệ tài
chính và có quan hệ chặt chẽ với chức năng phân phối.
Chức năng giám đốc của tài chính là chức năng mà nhờ vào đó việc kiểm tra bằng đồng tiền
được thực hiện đối với quá trình phân phối của cải xã hội thành các quỹ tiền tệ và sử dụng
chúng theo những mục đích đã định.
Đối tượng giám đốc của tài chính là quá trình phân phối của cải xã hội dưới hình thái tiền tệ
Quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung theo các mục
tiêu đã định.
Mục đích của giám đốc tài chính là bảo đảm cho các cơ sở kinh tế cũng như toàn bộ nền
kinh tế phát triển theo những mục tiêu định hướng của Nhà nước, bảo đảm việc chấp hành
pháp luật trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo tính đúng đắn, tính hiệu quả,
tính hiệu lực của việc tạo lập các quỹ tiền tệ.
Đặc điểm của giám đốc tài chính là:

 Giám đốc của tài chính là sự giám đốc bằng tiền thông qua sử dụng chức năng
thước đo giá trị và chức năng phương tiện thanh toán của tiền tệ trong vận động của
tiền vốn để tiến hành giám đốc.

13


 Giám đốc bằng tiền của tài chính là sự giám đốc bằng tiền thông qua phân tích các
chỉ tiêu tài chính – các chỉ tiêu phản ánh tổng hợp toàn bộ các hoạt động của xã hội
và của các doanh nghiệp.
 Giám đốc bằng tiền của tài chính còn được thực hiện đối với sự vận động của tài
nguyên trong xã hội.
Nội dung giám đốc tài chính gồm có những nội dung chính sau:
 Giám đốc tài chính trong quá trình thành lập và thực hiện kế hoạch NSNN.
 Giám đốc tài chính trong các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế dựa trên cơ sở chế
độ hạch toán kinh tế và hợp đồng kinh tế.
 Giám đốc tài chính trong quá trình cấp phát, cho vay và thanh toán vốn đầu tư
XDCB.
 Ngoài ra, Giám đốc tài chính còn được thực hiện trong các hộ kinh tế dân cư.
Giám đốc tài chính dù thực hiện ở đâu, cũng đều là sự giám đốc toàn diện mặt giá trị đối với
quá trình hình thành phân phối và sử dụng các nguồn vốn trong quá trình hoạt động của
từng khâu và trong toàn xã hội.
Hai chức năng của tài chính có mối quan hệ hữu cơ, bổ sung cho nhau, trong đó việc thực
hiện chức năng phân phối là tiền đề để thực hiện chức năng giám đốc, và ngược lại việc
thực hiện tốt chức năng giám đốc sẽ tạo điều kiện để thực hiện chức năng phân phối tốt hơn.
4. Hệ thống tài chính
Trong nền kinh tế, các quan hệ tài chính xuất hiện đan xen, liên hệ và tác động ràng
buộc nhau trong 1 thể thống nhất gọi là hệ thống tài chính.
Cấu trúc của hệ thống tài chính bao gồm các tụ điểm vốn và bộ phận dẫn vốn được
tổ chức theo sơ đồ dưới đây

TCC (NSNN)

TC
D
N

TT
TC/
TG
TC

TC hộ
gia
đình

Các tụ điểm vốn là bộ phận mà tại đó các nguồn tài chính được tạo ra, đồng thời
cũng là nơi hút trở lại các nguồn vốn với mức độ và phạm vi khác nhau.

14


Bộ phận dẫn vốn thực hiện chức năng truyền dẫn vốn giữa các tụ điểm vốn trong hệ
thống tài chính, bao gồm thị trường tài chính và các tổ chức trung gian tài chính.
Các bộ phận tài chính trên có mối qua lại và quan hệ nội bộ nhằm giúp các chủ thể
kinh tế đạt được mục tiêu cuối cùng.
TCDN: Mục đích kinh tế cuối cùng lợi nhuận -> mọi hoạt động để nhằm tối đa lợi
nhuận (tái đầu tư, tích luỹ, đầu tư ngoài,…)
TC hệ gia đình:
Mục đích cuối là thoả mãn tối đa nhu cầu tiêu dùng trên cơ sở thu nhập hiện tại và
tương lai -> phân bổ mọi nguồn lực cho nhu cầu hiện tại và tương lại hiệu quả nhất (chi

tiêu, tiết kiệm, bảo hiểm).
Phần lớn nguồn lực tài chính cho hoạt động của doanh nghiệp có nguồn gốc từ hộ
gia đình.
Kế hoạch tiêu dùng của hộ gia đình có ảnh hưởng mạnh đến đầu tư và hoạt động sản
xuất kinh doanh của ……-> hộ gia đình là đối tưọng phục vụ của doanh nghiệp..
-> Mối quan hệ hữu cơ.
TC công: Là hoạt động mang tính chất kinh tế của nhà nước gồm các cấp dịch vụ
công và điều tiết kinh tế vĩ mô.
TC công
+ Tài trợ hoạt động của nhà nước.
+ Giúp thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
+ Ảnh hưởng đến hai bộ phận còn lại là tài chính doanh nghiệp và tài chính hộ gia
đình ảnh hưởng đến hành vi tiều dùng và định lý đầu tư.
Thị trường TC & TGTC: Giúp vốn hưu chuyển từ nơi thừa tới nơi thiếu qua kênh
dẫn vốn trực tiếp và gián tiếp thông qua TGTC hoặc các công cụ tài chính trên TTTC.

Gián
tiếp

Gián tiếp

TGTC

tiếp
Vốn
Người cho vay

Gián
tiếp


tiếp
TTTC
Vốn
tiếp

15

Người đi vay



×