Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Hành vi lựa chọn giới tính khi sinh và các yếu tố ảnh hưởng của các cặp vợ chồng tại huyện gia lâm, thành phố hà nội giai đoạn 2010 đến 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.53 MB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO – BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG

BÙI THU HƯỜNG
BÙI THU HƯỜNG

HÀNH VI LỰA CHỌN GIỚI TÍNH KHI SINH
VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC CẶP
VỢ CHỒNG TẠI HUYỆN GIA LÂM
THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2010 – 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG
MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 60.72.03.01

HÀ NỘI, 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO – BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG

BÙI THU HƯỜNG

ÙI THU HƯỜNG

HÀNH VI LỰA CHỌN GIỚI TÍNH KHI SINH
VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC CẶP
VỢ CHỒNG TẠI HUYỆN GIA LÂM
THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2010 – 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG
MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 60.72.03.01



PGS.TS. LƯU BÍCH NGỌC

ThS. ĐỖ THỊ HẠNH TRANG

HÀ NỘI, 2016


i

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn tôi đã nhận được sự
hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của các thầy cô, các anh chị và các bạn. Lời đầu tiên tôi
xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo sau đại học,
Trường Đại học Y tế Công cộng đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập.
Tôi xin bày tỏ sự kính trọng và biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Lưu Bích Ngọc
và Ths. Đỗ Thị Hạnh Trang đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo, giúp đỡ và
động viên tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Ban Giám đốc Trung tâm Dân số KHHGĐ huyện Gia Lâm, Ban chỉ đạo công tác Dân số - KHHGĐ xã Cổ Bi, Dương
Quang, Văn Đức đã tạo điều kiện cho tôi được thực hiện nghiên cứu tại địa phương.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các bác trưởng thôn, bí thư chi bộ, các cặp vợ chồng
cùng gia đình 3 xã đã nhiệt tình tham gia vào nghiên cứu, cung cấp những thông tin
quý báu cho nghiên cứu này.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn người thân trong gia đình và bạn bè đã
luôn động viên tinh thần và là nguồn động lực lớn lao cho tôi trong suốt những năm
tháng học tập và thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2016
Học viên


Bùi Thu Hường


ii

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................... iv
DANH MỤC CÁC BẢNG..........................................................................................v
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ ................................................................................... vi
TÓM TẮT NGHIÊN CỨU ...................................................................................... vii
ĐẶT VẤN ĐỀ.............................................................................................................1
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU........................................................................................3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU .....................................................................4
1.1.Cơ cấu giới tính của dân số và xu hướng MCBTSGTKS ................................. 4
1.1.1.

Một số khái niệm ................................................................................. 4

1.1.2.

Xu hướng MCBTSGTKS ...................................................................... 5

1.2.Các yếu tố ảnh hưởng tới MCBTSGTKS ....................................................... 13
1.3.Đặc điểm địa bàn nghiên cứu .......................................................................... 21
1.4.Khung lý thuyết ............................................................................................... 23
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................................................25
2.1. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................... 25
2.1.1. Với tiếp cận định lượng ........................................................................... 25
2.1.2. Với tiếp cận định tính .............................................................................. 25
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu .................................................................. 25

2.2.1. Thời gian nghiên cứu .............................................................................. 25
2.2.2. Địa điểm nghiên cứu ............................................................................... 25
2.3. Thiết kế nghiên cứu ........................................................................................ 25
2.4. Cỡ mẫu ........................................................................................................... 25
2.5. Phương pháp chọn mẫu .................................................................................. 26
2.5.1. Với tiếp cận định lượng ........................... Error! Bookmark not defined.
2.5.2. Với tiếp cận định tính .............................. Error! Bookmark not defined.
2.6. Phương pháp và công cụ thu thập số liệu ...................................................... 27
2.6.1. Với tiếp cận định lượng ........................... Error! Bookmark not defined.
2.6.2. Với tiếp cận định tính .............................. Error! Bookmark not defined.
2.7. Các chỉ số, biến số nghiên cứu ....................................................................... 28


iii

2.7.1. Các chỉ số ................................................................................................ 28
2.7.2. Chủ đề phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm .................................................. 29
2.8. Khái niệm, thước đo, tiêu chuẩn đánh giá ..................................................... 29
2.9. Phân tích số liệu ............................................................................................. 30
2.10. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu ................................................................ 31
2.11. Hạn chế trong nghiên cứu, sai số và các biện pháp khắc phục .................... 31
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................33
3.1. Thực trạng MCBTSGTKS trên địa bàn huyện Gia Lâm giai đoạn 2010 –
2014 ....................................................................................................................... 33
3.2. Hành vi xác định và lựa chọn giới tính trước sinh của các cặp vợ chồng trên
địa bàn huyện Gia Lâm ......................................................................................... 33
3.3. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lựa chọn giới tính trước sinh
của các cặp vợ chồng trên địa bàn huyện Gia Lâm............................................... 36
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN ........................................................................................50
4.1. Xu hướng MCBTSGTKS trên địa bàn huyện GL giai đoạn 2010 – 2014..... 50

4.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lựa chọn giới tính trước sinh của các cặp
vợ chồng trên địa bàn huyện Gia Lâm .................................................................. 50
KẾT LUẬN ...............................................................................................................60
KHUYẾN NGHỊ .......................................................................................................61
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................62
Tiếng Việt .............................................................................................................. 64
Tiếng Anh .............................................................................................................. 66
PHỤ LỤC ..................................................................................................................69
Phụ lục 1: GIẤY ĐỒNG Ý THAM GIA TRẢ LỜI PHỎNG VẤN ..................... 69
Phụ lục 2: HƯỚNG DẪN THẢO LUẬN NHÓM ................................................ 70
Phụ lục 3: HƯỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU .................................................... 72
Phụ lục 4: HƯỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU BỐ/MẸ CHỒNG ....................... 75
Phụ lục 5: HƯỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU CÁN BỘ Y TẾ LÀM SẢN ....... 76
Phụ lục 6: HƯỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU CB DÂN SỐ HUYỆN/XÃ........ 77


iv

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BSS

Bác sĩ sản

KHHGĐ

Kế hoạch hóa gia đình

MCBTSGTKS


Mất cân bằng tỷ số giới tính khi sinh

TĐTDS

Tổng điều tra Dân số

TSGTKS

Tỷ số giới tính khi sinh

UNFPA

Quỹ Dân số Liên hợp quốc


v

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Tỷ số giới tính khi sinh ở một số quốc gia, 2004 – 2009 ....................... 5
Bảng 1.2. TSGTKS theo thứ tự sinh của một số nước............................................ 6
Bảng 1.3. Các yếu tố góp phần làm thay đổi thay đổi TSGTKS ở Trung Quốc, Ấn
độ, Hàn Quốc và Việt Nam ................................................................................... 15


vi

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1.1. Tỷ số giới tính khi sinh ở Trung Quốc qua các năm .......................... 7
Biểu đồ 1.2. Tỷ số giới tính khi sinh phân theo thành thị và nông thôn ............... 10

Biểu đồ 1.3. Tỷ số giới tính khi sinh theo khu vực ................................................ 10
Biểu đồ 1.4. Tỷ số giới tính khi sinh theo các lần sinh ......................................... 11
Biểu đồ 1.5. TSGTKS theo thứ tự sinh và số con trai đã có trong các lần sinh
trước, cơ cấu giới tính của số con theo năm sinh .................................................. 12
Biểu đồ 1.6. Những áp lực góp phần vào hành vi lựa chọn giới tính ................... 14
Biểu đồ 1.7. MCBTSGTKS của huyện Gia Lâm và một số quận huyện thuộc Hà
Nội ......................................................................................................................... 22


vii

TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Mất cân bằng tỷ số giới tính khi sinh sẽ tác động đến cấu trúc dân số trong
tương lai, dẫn đến tình trạng thừa nam, thiếu nữ có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng
như gia tăng áp lực kết hôn sớm với các em gái, bất bình đẳng giới, gia tăng tệ nạn
xã hội như mại dâm; hiếp dâm; lạm dụng tình dục; buôn bán trẻ em, phụ nữ,... Số
liệu báo cáo của Trung tâm Dân số - Kế hoạch hóa gia đình huyện Gia Lâm trong
những năm gần đây (Năm 2010 là 109; năm 2011 là 116; năm 2012 là 117; năm
2013 là 118; năm 2014 là 117) cho thấy chênh lệch tỷ số giới tính khi sinh trên địa
bàn huyện có xu hướng tăng cao liên tục. Cho đến nay, tại huyện Gia Lâm chưa có
một báo cáo toàn diện nào phân tích xu hướng MCBTSGTKS cũng như các yếu tố
ảnh hưởng đến hành vi lựa chọn giới tính thai nhi của các cặp vợ chồng ở địa
phương. Trước tình hình đó, đề tài nghiên cứu “Xu hướng mất cân bằng tỷ số giới
tính khi sinh và các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lựa chọn giới tính thai nhi của các
cặp vợ chồng tại huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội giai đoạn 2010 - 2014” được
thực hiện nhằm phân tích xu hướng mất cân bằng tỷ số giới tính khi sinh và các yếu
tố ảnh hưởng đến thực trạng mất cân bằng tỷ số giới tính khi sinh tại huyện Gia
Lâm.
Nghiên cứu sử dụng phương pháp tiếp cận định lượng kết hợp với tiếp cận
định tính. Với tiếp cận định lượng, nghiên cứu tiến hành thu thập các báo cáo tổng

kết, kế hoạch về công tác Dân số - KHHGĐ huyện Gia Lâm từ năm 2010 đến 2014.
Với tiếp cận định tính, nghiên cứu thực hiện phỏng vấn sâu các cặp vợ chồng, bố mẹ
chồng, lãnh đạo, cán bộ y tế và thực hiện thảo luận nhóm với lãnh đạo, chính quyền
địa phương. Khảo sát thực địa được thực hiện tại 3 xã huyện Gia Lâm từ tháng 12
năm 2014 đến tháng 6 năm 2015.
Kết quả cho thấy TSGTKS trên địa bàn huyện Gia Lâm giai đoạn 2010 – 2014
đang ở mức cao và cao hơn hẳn so với mức chung của toàn thành phố Hà Nội. Năm
2010, TSGTKS là 109, năm 2013 là 116, đến năm 2014 tỷ số này là 117,4. Trong
22 xã trên địa bàn huyện Gia Lâm, 3 xã có TSGTKS cao nhất trong vòng 5 năm trở
lại đây: xã Dương Quang, xã Văn Đức và xã Cổ Bi. TSGTKS tại những xã này


viii

trong những năm gần đây tăng cao với nguyên nhân chính vẫn là quan niệm trọng
nam khinh nữ của người dân. Phần lớn họ có tư tưởng ưa thích con trai để nối dõi
tông đường, chăm sóc cha mẹ lúc về già. Ngoài ra, nghiên cứu nhận thấy sự sẵn có
thông tin về phương pháp lựa chọn giới tính và các dịch vụ giúp xác định và lựa
chọn giới tính, việc áp dụng các biện pháp lựa chọn giới tính khi sinh như siêu âm,
cắt thuốc uống theo nhận định của các bà mẹ có xác suất thành công cao, các đối
tượng được khảo sát đều biết giới tính thai nhi trong quá trình mang thai và với các
dịch vụ phá thai dễ dàng, nhiều bà mẹ đã lựa chọn phương pháp này để loại bỏ thai
nhi khi giới tính không như mong muốn. Sự hiểu biết và tuân thủ pháp luật, quy
định của nhân viên y tế cũng như người dân còn kém, sự ảnh hưởng của chính sách
dân số kiểm soát mức sinh dẫn đến việc các bà mẹ lựa chọn giới tính khi sinh ở lần
đầu và tăng dần ở các lần sinh tiếp theo.
Kết quả nghiên cứu cho thấy cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục về các quy
định pháp luật cũng như làm cho người dân nhận thức rõ hơn về hậu quả của
MCBTSGTKS; tăng cường tuyên truyền đến người dân về hậu quả MCBTSGTKS
có quy định nghiêm và chế tài xử phạt rõ ràng với cơ sở y tế tư nhân công bố giới

tính khi sinh, phá thai lựa chọn giới tính; giáo dục về bình đẳng giới, lồng ghép nội
dung bình đẳng giới vào các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện điều kiện
sống và hệ thống an sinh xã hội; nên tuyên truyền để người dân phát hiện cung cấp
bằng chứng về vi phạm để xử phạt cơ sở y tế tư nhân công bố giới tính khi sinh, phá
thai lựa chọn giới tính.


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS) bắt đầu gia tăng tại một số quốc gia Châu
Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ từ cuối những năm 1970, cùng với sự xuất
hiện của siêu âm và kỹ thuật chọc ối, giúp cho các cặp vợ chồng biết được giới tính
của thai nhi. Sau 20 năm, vào cuối những năm 1990, TSGTKS của Trung Quốc,
Hàn Quốc lên tới 115. Ở Việt Nam, sự gia tăng bất thường của TSGTKS đã xuất
hiện trong mấy năm gần đây, vấn đề này trở lên “nóng” và được xã hội quan tâm rất
nhiều. Theo số liệu Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009, TSGTKS có xu
hướng tăng từ 107 năm 1999 lên 111 vào năm 2009. TSGTKS tăng không đồng đều
giữa các vùng, các tỉnh. Đặc biệt cao nhất ở Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh. Hà
Nội cũng là một trong những thành phố có tình trạng gia tăng TSGTKS: năm 2012,
tỷ số này là 116; năm 2013 là 115.
Tại huyện Gia Lâm, theo báo cáo của Trung tâm Dân số - Kế hoạch hóa gia
đình (KHHGĐ) huyện, xu hướng mất cân bằng tỷ số giới tính khi sinh
(MCBTSGTKS) đã xảy ra khi TSGTKS năm 2010 là 109, năm 2011 là 116 và năm
2014 là 119, trong đó một số xã có tình trạng MCBTSGTKS rất cao như: Dương
Quang là 132, Đặng Xá 136, Kiêu Kỵ 135, Trâu Quỳ 133, Phù Đổng 130... [2].
Theo nhận định, TSGTKS gia tăng trên địa bàn huyện do hành vi lựa chọn giới tính
khi sinh, có trường hợp phá thai khi siêu âm và biết thai nhi không như ý muốn [2].
Nếu tình trạng MCBTSGTKS kéo dài có thể gây hậu quả nghiêm trọng và đã
được Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc cảnh báo: nếu xu hướng này lặp lại ở Việt Nam

và lan rộng, diễn ra với tốc độ nhanh sẽ trở thành vấn đề nghiêm trọng trong tương
lai, ảnh hưởng đáng kể đến cơ cấu giới tính và nhân khẩu học. Nếu không có can
thiệp hiệu quả để giảm MCBTSGTKS thì sau 20 năm nữa Việt Nam sẽ có 4,3 triệu
thanh niên ít có cơ hội lấy được vợ trong nước. Dù làm tốt can thiệp để giảm
MCBTSGTKS tại thời điểm này thì con số đó cũng còn tới 2,3 triệu, tạo sự khan
hiếm phụ nữ trong tương lai gây thêm áp lực về kết hôn độ tuổi trẻ hơn, tảo hôn,
tăng nhu cầu mại dâm, buôn bán phụ nữ, bạo hành giới là nguy cơ mà phụ nữ và các
em gái phải đối mặt; có thể gây suy giảm chất lượng lao động, kéo tụt đà phát triển


2

bền vững của đất nước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc củng cố quốc phòng - an
ninh…[40].
Trong khi TSGTKS có dấu hiệu tăng cao liên tục, cho đến nay tại huyện Gia
Lâm chưa có một báo cáo toàn diện nào phân tích xu hướng MCBTSGTKS cũng
như các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lựa chọn giới tính thai nhi của các cặp vợ
chồng ở địa phương. Vì vậy, việc thực hiện đề tài nghiên cứu: “Hành vi lựa chọn
giới tính khi sinh và các yếu tố ảnh hưởng của các cặp vợ chồng tại huyện Gia
Lâm, thành phố Hà Nội giai đoạn 2010 – 2014” thực sự cấp thiết. Kết quả nghiên
cứu này sẽ góp phần cung cấp thêm bằng chứng khoa học giúp cho chính quyền địa
phương có những biện pháp tích cực hơn trong thực hiện công tác Dân số KHHGĐ trên địa bàn, đồng thời giúp các nhà hoạch định chính sách trong việc xây
dựng biện pháp phù hợp nhằm góp phần hạn chế MCBTSGTKS.


3

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

1. Mô tả hành vi lựa chọn giới tính khi sinh ở các cặp vợ chồng tại địa bàn

huyện Gia Lâm giai đoạn 2010 – 2014.
2. Mô tả một số yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lựa chọn giới tính khi sinh tại địa
bàn huyện Gia Lâm giai đoạn 2010 - 2014.


4

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.

Cơ cấu giới tính của dân số và xu hướng MCBTSGTKS

1.1.1. Một số khái niệm
Theo Điều 3 – Pháp lệnh Dân số định nghĩa: Dân số là tập hợp người sinh
sống trong một quốc gia, khu vực, vùng địa lý hoặc một đơn vị hành chính. Như
vậy, một tập hợp người sẽ bao gồm quy mô, cơ cấu, chất lượng của tập hợp người
đó và xét theo không gian là sự phân bố dân cư giữa các khu vực, vùng địa lý, kinh
tế, đơn vị hành chính.
Cơ cấu Dân số là tổng số dân được phân loại theo giới tính, độ tuổi, dân tộc,
trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân và các đặc trưng khác (Điều 3 Pháp lệnh dân số). Theo cách xác định trên, cơ cấu dân số nhằm phản ánh các đặc
trưng của mỗi người dân và của toàn bộ dân số. Các đặc trưng về giới tính, độ tuổi
phản ánh về nhân khẩu học, các đặc trưng về dân tộc, tôn giáo, tình trạng hôn nhân,
trình độ học vấn phản ánh về mặt kinh tế. Ngoài ra các đặc trưng khác về giai cấp,
thành phần xã hội nhằm phân loại tập hợp người theo các khía cạnh của đời sống xã hội.
Tỷ số giới tính: là số nam giới so với 100 nữ giới tính chung trong toàn bộ dân số.
Được tính theo công thức:

SR

=


Tổng số nam
Tổng số nữ

*100

Tỷ số giới tính khi sinh: là số trẻ trai sinh ra so với 100 trẻ gái sinh ra trong
một năm tại một quốc gia, một vùng hay một tỉnh. Được tính theo công thức:
(SBR) =

Số bé trai sinh ra
Số bé gái sinh ra

*100

TSGTKS thông thường 103 đến 106 trẻ nam so với 100 trẻ nữ được sinh ra, tỷ
số này nhìn chung rất ổn định qua thời gian và không gian giữa các châu lục, quốc
gia, khu vực và chủng tộc người. Như vậy nếu tỷ số này thay đổi (số trẻ nam được
sinh ra nhỏ hơn 103 hoặc lớn hơn 106) thì sẽ xảy ra MCBTSGTKS.


5

1.1.2. Xu hướng MCBTSGTKS
Xu hướng MCBTSGTKS trên thế giới

1.1.2.1.

Phần lớn các quốc gia trên thế giới có TSGTKS dao động ở mức 104-106 trẻ
em trai cho 100 trẻ em gái. Tuy nhiên, TSGTKS đã tăng dần trong 25 năm qua ở

một số quốc gia châu Á [18]. Theo thống kê của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc,
Châu Á là nơi có sự MCBTSGTKS cao nhất thế giới đặc biệt là Trung Quốc và Ấn
Độ [5]. TSGTKS ở một số vùng của hai quốc gia này rất cao, đạt mức trên 125
hoặc 130. Đáng chú ý nhất là các vùng phía Đông Trung Quốc hay Tây Bắc Ấn
Độ, có TSGTKS tăng liên tục từ những năm cuối thập kỷ 80 và đạt mức cao trên
120 từ năm 2000 đến nay [18].
Bảng 1.1. Tỷ số giới tính khi sinh ở một số quốc gia, 2004 – 2009 [18]
Quốc gia/vùng

TSGTKS

Thời kỳ

Nguồn số liệu

Armenia

115,8

2008

Hệ thống đăng ký khai sinh

Azerbaijan

117,2

2007

Hệ thống đăng ký khai sinh


Georgia

111,9

2006

Hệ thống đăng ký khai sinh

120,6

2008

Ước lượng quốc gia

Tỉnh Giang Tây

137,1

2004

TĐTDS, mẫu 1%

Tỉnh An Huy

132,2

2004

TĐTDS, mẫu 1%


Tỉnh Thiểm Tây

132,1

2004

TĐTDS, mẫu 1%

110,6

2006-08

Hệ thống đăng ký khai sinh mẫu

119,6

2006-08

Hệ thống đăng ký khai sinh mẫu

118

2006-08

Hệ thống đăng ký khai sinh mẫu

114,9

2006-08


Hệ thống đăng ký khai sinh mẫu

Pakistan

108,9

2003-07

Điều tra Nhân khẩu và Sức khỏe

Hàn Quốc

106,4

2008

Hệ thống đăng ký khai sinh

111,5

2008

Hệ thống đăng ký khai sinh

Vùng Caucasus (*)

Châu Á
Trung Quốc


Ấn Độ
Bang Punjab
Bang Haryana
Bang Rajastham

Đông Nam Châu Âu
Albania


6

Quốc gia/vùng

TSGTKS

Thời kỳ

109,6

2004-08

Kosovo

112

2010

Hệ thống đăng ký khai sinh

Macedonia


109

2009

Hệ thống đăng ký khai sinh

Montenegro

Nguồn số liệu
Tỷ số giới tính trẻ em

(Nguồn: Văn phòng thống kê, UNFPA 2010, Eurostat)
Ở một số nước trên thế giới, MCBTSGTKS xảy ra ngay từ lần sinh thứ
nhất, thứ hai và cao nhất ở lần sinh thứ ba trở đi.
Bảng 1.2. TSGTKS theo thứ tự sinh của một số nước [17]
Tên nước

SRB lần 1

SRB lần 2

SRB lần 3

Năm thống kê

Armenia

106,8/100


110,4/100

176,9/100

2001-2008

Trung Quốc

108,4/100

143,2/100

156,4/100

2005

111/100

112/100

116/100

2001

Ấn Độ

(Nguồn: Báo cáo phát triển con người năm 2013)
1.1.2.2.

Mất cân bằng tỷ số giới tính khi sinh ở Trung Quốc


Hiện nay MCBTSGTKS ở Trung Quốc vẫn đang ở mức khá cao, mặc dù đã
triển khai nhiều giải pháp tổng thể mạnh mẽ về chính trị, pháp luật, kinh tế - xã
hội, nhưng vẫn chưa có kết quả rõ ràng. Sự thay đổi chậm chạp, thậm chí rất khó
khăn do các định kiến về con trai, con gái đã ăn sâu, bám rễ hàng nghìn năm
trong phong tục, tập quán của cộng đồng dân cư và người dân [17].


7

Biểu đồ 1.1. Tỷ số giới tính khi sinh ở Trung Quốc qua các năm [45]
Suốt từ những năm 1990 cho đến nay, TSGTKS ở Trung Quốc luôn ở
mức cao và rất cao: năm 1990 là 111,3/100, năm 1995 là 116,8/100, năm 2000 là
119,9/100, năm 2005 là 120,5/100 và giai đoạn 2009 - 2011 vẫn ở mức 118,1/100.
Qua kết quả điều tra chọn mẫu 2005 cho thấy tỷ lệ giới tính khi sinh của Trung
Quốc đã rất cao (120,49); và ở 31 tỉnh/thành có sự chênh lệch rất lớn, tỉnh cao nhất
là Giang Tây (137,31); thấp nhất là Tây Tạng (105,15), đây là tỉnh được coi như có
tỷ lệ giới tính khi sinh hoàn toàn bình thường theo quy luật nhân khẩu học. Trong
tổng số 31 tỉnh/thành có 3 tỉnh có mức trên 130; 8 tỉnh có mức trên 120; 16 tỉnh có
mức trên 110 và chỉ có 4 tỉnh có mức trên 100, tức được coi là bình thường theo
quy luật nhân khẩu học. Phân tích theo thứ tự số sinh cho thấy rất rõ hành vi cố sinh
con trai, tỷ lệ giới tính khi sinh của lần sinh thứ nhất là 108,41; đây là mức hoàn
toàn bình thường theo quy luật nhân khẩu học. Tỷ lệ giới tính khi sinh của con thứ
hai đã vọt lên 143,22; đây là mức MCBTSGTKS nghiêm trọng, cao hơn mức
MCBTSGTKS chung là 122,49. Đến tỷ lệ giới tính khi sinh của con thứ ba là
152,88; đây là mức quá bất bình thường. Ngoài ra tình hình MCBTSGTKS vẫn tăng
mạnh, theo Uỷ ban Dân số-KHHGĐ Trung Quốc, tại một số tỉnh như Hải Nam,
Quảng Đông, sự mất cân bằng tăng nhanh với con số tương ứng 121,97 (2005) lên
135,6 (2007) và 119,93 (2005) lên 130,3 (2007). Mặc dù việc chọn lựa giới tính thai
nhi bị nghiêm cấm, nhưng nhiều gia đình ở Trung Quốc vẫn "khát" con trai và bất

chấp rủi ro, đặc biệt tại các khu vực nông thôn [17].
1.1.2.3.

Mất cân bằng tỷ số giới tính khi sinh ở Ấn Độ

Ấn Ðộ, với dân số hơn 1,2 tỉ người; là đất nước mà tình trạng mất thăng bằng
về giới tính được đánh giá là đã vượt mức trung bình. Rất nhiều phụ nữ Ấn Ðộ đang
đặt tình trạng sức khỏe mình vào rủi ro, thậm chí có thể trở thành vô sinh, khi chấp
nhận trải qua những vụ phá thai liên tục để chỉ sinh con trai. Theo truyền thống Ấn
Độ, một gia đình phải có ít nhất một con trai, ngoài ra tập tục con gái muốn lập gia
đình phải có của hồi môn cho nhà chồng, tuy bất hợp pháp nhưng cũng là một lý do
nữa khiến phụ nữ muốn phá thai nếu biết sẽ sinh con gái. Phá thai là hợp pháp ở Ấn


8

Ðộ nên không chỉ phụ nữ thuộc tầng lớp nghèo mà phụ nữ ở vùng thành thị giàu có
hơn cũng liên tục phá thai để cố sinh con trai. Kết quả từ cuộc điều tra dân số mới
nhất của Ấn Độ cho thấy tỷ lệ trẻ em nữ so với trẻ em nam đã xuống thấp kỷ lục kể
từ khi nước này độc lập vào năm 1947 [17].
Hiện toàn Ấn Độ tỷ lệ này là 914 trẻ em nữ so với 1.000 trẻ em nam ở độ từ 06 tuổi. Tỷ lệ trung bình của thế giới hiện nay là 1.050 nữ/1.000 nam. Tạp chí y tế
Lancet của Anh trong một cuộc nghiên cứu thực hiện hồi năm 2006 cho thấy tại Ấn
Độ có nửa triệu bào thai được xác định là nữ đã bị bỏ. Tình trạng trên xảy ra ngay
cả tại những bang thịnh vượng nhất ở Ấn Độ như Punjab, Haryana, Delhi và Uttar
Pradesh, có nghĩa là kinh tế tăng trưởng không phải là điều bảo đảm cho sự thay đổi
nhận thức xã hội. Nhờ vào sự tiến bộ của công nghệ, việc siêu âm để xác định giới
tính thai nhi hiện chỉ tốn có 10 USD. Mặc dù pháp luật nghiêm cấm và tại các
phòng khám đều phải treo bảng “Không kiểm tra giới tính thai nhi” nhưng việc thực
hiện lại rất lỏng lẻo, thậm chí người ta còn xách cả những chiếc máy siêu âm di
động đến những khu làng hẻo lánh để thực hiện công việc đó [17, 28].

1.1.2.4.

Thực trạng MCBTSGTKS tại Việt Nam

MCBTSGTKS ở Việt Nam diễn ra muộn nhưng tốc độ gia tăng nhanh
Ở Việt Nam, những số liệu Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 1989 và 1999
không cho thấy sự bất thường nào của TSGTKS [10]. Do vậy không có nhiều bằng
chứng về xu hướng này ở Việt Nam trong thập kỷ trên. Nhưng một số nghiên cứu
sâu lấy số liệu từ bệnh viện phát hiện ra rằng TSGTKS theo thứ tự sinh và giới tính
của những đứa con được sinh trước đó cao hơn so với kỳ vọng và một số nhóm xã
hội - đặc biệt là các cán bộ nhà nước có mức sống cao và cơ hội có học vấn cao - có
xu hướng chịu áp lực về việc phải lựa chọn giới tính của đứa con được sinh ra [10].
Bước sang thiên niên kỷ mới, những nghiên cứu sâu hơn đã cho thấy Việt
Nam đã xảy ra tình hình MCBTSGTKS. Mặc dù năm 2000, TSGTKS vẫn bình
thường ở mức 106 bé trai trên 100 bé gái, đến năm 2009, tỷ số này đã tăng lên mức
111 bé trai trên 100 bé gái; năm 2010 là 111,2; năm 2011 là 111,9 [23]; kết quả điều
tra giữa kỳ năm 2014 tỷ số là 112 [12]. Từ kết quả trên có thể thấy rằng
MCBTSGTKS diễn ra muộn nhưng tốc độ gia tăng nhanh.


9

Tình trạng MCBTSGTKS ở Việt Nam xảy ra ở cả thành thị và nông thôn, nhiều
vùng địa lý; một số vùng có TSGTKS cao liên tục qua nhiều cuộc điều tra; một số
tỉnh TSGTKS đã ở mức rất cao.
Kết quả Điều tra Biến động Dân số - KHHGĐ ngày 1/3/2011 cho thấy
MCBTSGTKS xảy ra cả ở thành thị và nông thôn (nông thôn 111,1 và thành thị
114,2) [23].
Nghiên cứu phân tích sâu từ kết quả của Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm
2009 cho thấy, ở cấp quốc gia không có sự khác biệt nào đáng kể về TSGTKS giữa

khu vực nông thôn (110,6) và thành thị (110,7). Đây là một kết quả bất ngờ vì sự
khác biệt nông thôn/thành thị là một đặc điểm quan trọng của hiện tượng
MCBTSGTKS ở các quốc gia Châu Á khác. Ở Việt Nam, TSGTKS ở khu vực nông
thôn của các tỉnh phía Bắc cao hơn hẳn so với khu vực thành thị, thể hiện rõ rệt nhất
ở vùng Đồng bằng sông Hồng với TSGTKS ở nông thôn là 117 so với mức 111 ở
thành thị. Tương tự, các khu vực Bắc Trung bộ và Duyên Hải miền Trung cũng có
khác biệt về TSGTKS ở khu vực nông thôn cao hơn ít nhất là 5 điểm phần trăm
(biểu đồ 1.2). Ngược lại, ở các vùng khác, TSGTKS ở khu vực thành thị lại cao hơn
ở khu vực nông thôn. Những phát hiện này cho thấy tính chất phức tạp về xã hội
của hiện tượng này. Một mặt, lựa chọn giới tính trước sinh đang diễn ra trong nhiều
gia đình nông thôn ở miền Bắc Việt Nam, nơi có văn hóa mang nặng tính gia phong
rõ nét hơn các khu vực khác. Trong khi mức sinh giảm làm tăng nguy cơ không có
con trai, thì nhu cầu có con trai có lẽ mạnh mẽ nhất trong các hộ gia đình nông
nghiệp của vùng Đồng bằng sông Hồng. Nhưng ở các vùng còn lại của cả nước, nhu
cầu có con trai lại tỏ ra mạnh mẽ hơn ở các khu vực đô thị. Các dịch vụ y tế tốt hơn
tại các khu đô thị và mức sinh thấp hơn đã có tác động đến hiện tượng này. Thực
hành lựa chọn giới tính trước sinh đã diễn ra theo những cơ chế khác nhau giữa
miền Bắc và các vùng còn lại của Việt Nam [18].
Thành thị

Nông thôn


10

Biểu đồ 1.2. Tỷ số giới tính khi sinh phân theo thành thị và nông thôn
Năm 1999 có 3/8 vùng địa lý kinh tế xảy ra MCBTSGTKS, thì đến năm 2011
con số này là 6/8, 2 vùng không xảy ra tình trạng này là Duyên hải miền Trung 103,3
và Tây Nguyên (104,3); cao nhất là vùng Đồng bằng sông Hồng (122,4). Sự khác biệt
này là hoàn toàn có ý nghĩa [23].


Biểu đồ 1.3. Tỷ số giới tính khi sinh theo khu vực [23]
Ở cấp tỉnh, năm 1999 có 36 tỉnh, thành phố xảy ra MCBTSGTKS trong đó có
28 tỉnh từ 110 trở lên; đến năm 2009 có 45 tỉnh, thành phố MCBTSGTKS (tăng thêm


11

9 tỉnh), trong đó có 35 tỉnh từ 110 trở lên (tăng thêm 7 tỉnh); có 10 tỉnh TSGTKS từ
115 trở lên; thậm chí có 2 tỉnh Hải Dương và Hưng Yên vượt trên mức 120.
TSGTKS cao ở những tỉnh xung quanh Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng,
trong đó cao nhất là các tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng Sông Hồng như Hưng Yên,
Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Nam Định,… Đây là những địa phương thuộc
vùng kinh tế năng động, tư tưởng nho giáo khá nặng nề, sự ưa thích con trai mãnh
liệt và người dân có điều kiện tiếp cận khá dễ dàng các dịch vụ chọn lọc trước sinh
[18].
Tỷ số giới tính khi sinh và thứ tự sinh

Biểu đồ 1.4. Tỷ số giới tính khi sinh theo các lần sinh [23]
(Nguồn: Báo cáo tổng quan về mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam)
Theo biểu đồ 1.4 tại Việt Nam cho đến nay các ước lượng đáng tin cậy về
MCBTSGTKS theo thứ tự sinh chưa có do các mẫu phân tích quá nhỏ. Số liệu phân
tích kết quả TĐTDS 2009 cho thấy MCBTSGTKS xảy ra ngay từ lần sinh đầu tiên.
Điều này có nghĩa là một số cặp vợ chồng có thể đã thực hiện lựa chọn giới tính
trước sinh ngay trong lần sinh thứ nhất. Hiện tượng này hiếm khi được ghi nhận ở
các quốc gia khác. Đáng ngạc nhiên là TSGTKS lại thấp hơn ở lần sinh 2, tăng cao
ở lần sinh thứ 3.


12


Biểu đồ 1.5. TSGTKS theo thứ tự sinh và số con trai đã có trong các lần sinh
trước, cơ cấu giới tính của số con theo năm sinh
TSGTKS cao ở những gia đình có kinh tế khá giả, những phụ nữ có trình
độ học vấn cao
TSGTKS thấp nhất (105) ở nhóm 20% dân số nghèo nhất và tăng ở 3 nhóm
dân cư giàu nhất (112). Đặc biệt đối với 20% dân số giàu nhất ở lần sinh thứ 3 trở
lên, tỷ số giới tính khi sinh rất cao: 133 [10]. TSGTKS thấp nhất (107) ở nhóm phụ
nữ không biết chữ và tăng dần theo trình độ học vấn, lên đến 114 ở nhóm các bà mẹ
có trình độ cao đẳng trở lên [18].
Những gia đình có kinh tế khá giả, những phụ nữ có trình độ học vấn cao, có
mức sinh thấp hơn một cách rõ rệt so với các đối tượng khác. Những phụ nữ có
trình độ học vấn cao biết chủ động sử dụng các biện pháp tránh thai và chủ động
điều chỉnh số con mong muốn; những phụ nữ này thường lại có điều kiện kinh tế tốt
hơn để có thể chi trả dịch vụ lựa chọn giới tính trước sinh và họ thỏa mãn được cả 2 mục
tiêu: quy mô gia đình nhỏ và có con trai [18].
Hậu quả của mất cân bằng giới tính:


13

Theo Ủy ban về Các vấn đề xã hội đã tổng hợp và đưa ra những hậu quả về
mất cân bằng giới tính khi sinh.
Việt Nam bắt đầu xảy ra tình trạng MCBGTKS từ năm 2006 và sau khoảng
20-25 năm (tính từ năm 2006), số lượng nam giới trưởng thành sẽ nhiều hơn so với
nữ trưởng thành. Như vậy, sẽ có nhiều đàn ông đến tuổi kết hôn nhưng không tìm
được bạn đời tương ứng, từ đó có thể gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị
và trật tự an toàn xã hội, cụ thể như:
Nam giới khó kết hôn, kết hôn muộn, thậm chí là không thể kết hôn do không
tìm được bạn đời dẫn đến phải tìm cô dâu là người nước ngoài. Trong khi việc kết

hôn với người nước ngoài cũng có nhiều vấn đề này sinh như: khác biệt lớn về văn
hóa, ngôn ngữ … sẽ dẫn đến nguy cơ ảnh hưởng đối với gia đình, phân biệt đối xử
và mất bình đẳng giới.
Ngoài ra, do gia đình nhà chồng hoặc người chồng muốn có con trai, khi
người vợ không sinh được con trai theo ý muốn, người chồng bỏ rơi hoặc ly dị vợ;
gia đình chồng ép người chồng bỏ rơi vợ, hay cặp vợ chồng đẻ được con gái, cho
con gái đi làm con nuôi…
Tình trạng MCBGTKS đã để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng ở một số nước là
thậm chí còn nghiêm trọng hơn so với Việt Nam như hiện tượng giết chết trẻ em gái
mới sinh (rải rác xuất hiện ở Ấn Độ, Trung Quốc).
Hiện nay, hàng trăm ngàn cô dâu Việt Nam ở Hàn Quốc, Đài Loan; 65% trong
số gần 5.000 vụ buôn bán người phát hiện trong 5 năm vừa qua là số phụ nữ Việt
Nam bị bán, bị lừa đi lấy chồng Trung Quốc, có lẽ đó là những bằng chứng điển
hình về hậu quả MCBGTKS [25].
1.2.

Các yếu tố ảnh hưởng tới MCBTSGTKS

Mô hình của Guilmoto năm 2009 về những áp lực góp phần vào hành vi lựa
chọn giới tính


14

Biểu đồ 1.6. Những áp lực góp phần vào hành vi lựa chọn giới tính [11]
Theo Guilmoto 2009 về các điều kiện cần thiết với tâm lý ưa thích con trai và
nhu cầu chọn lọc giới tính trước sinh cần xem xét ba điều kiện:
-

Thứ nhất và là điều kiện tiên quyết là sự hiện hữu của tâm lý ưa thích con

trai trong xã hội. Đây là một chiều cạnh phức tạp, bao hàm cả quan niệm
truyền thống kế thừa từ quá khứ và các giá trị hiện đại hình thành từ sự
chuyển đổi nền kinh tế trong thời gian qua.

-

Điều kiện thứ hai là sự có mặt của các cơ sở chăm sóc y tế hiện đại đáp ứng
cho việc chẩn đoán và lựa chọn giới tính trước sinh.

-

Điều kiện cuối cùng là mức sinh thấp, bởi vì ít có con đồng nghĩa với tăng
nguy cơ không có con trai.
Một nghiên cứu khác tổng quan 37 tài liệu về chủ đề TSGTKS của các nước

Châu Á đặc biệt là Trung Quốc, Ấn Độ và Hàn Quốc và Việt Nam năm 2010 của
UNFPA cho thấy năm nhóm yếu tố: 1) Quan niệm và các chuẩn mực truyền thống;
2) Gia đình; 3) Những thay đổi về kinh tế - xã hội; 4) Chính sách và 5) Tiếp cận tới
công nghệ là những yếu tố làm góp phần làm thay đổi TSGTKS tại các quốc gia này


15

[10]. Bảng dưới đây trình bày tóm tắt các yếu tố cơ bản góp phần làm thay đổi
TSGTKS ở Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc và Việt Nam.
Bảng 1.3. Các yếu tố góp phần làm thay đổi thay đổi TSGTKS ở Trung Quốc,
Ấn độ, hàn Quốc và Việt Nam [10]
Các yếu tố tác động tới sự gia tăng TSGTKS

Trung


Ấn

Hàn

Việt

Trung Quốc, Ấn độ, Hàn Quốc và Việt Nam

Quốc

Độ

Quốc

Nam

X

X

X

X

Các chuẩn mực và giá trị truyền thống/gia đình
1

Sự ưa thích con trai
Chi phí cao cho của hồi môn/chi phí nuôi


2

dạy con gái học ở trình độ cao hơn và cho Không

X

Không Không

con gái lấy chồng muộn hơn
3
4
5

Khuôn mẫu giới truyền thống
Tích cực lựa chọn giới tính nhằm đạt được
quy mô gia đình mong muốn
Tuổi và số lần sinh của người mẹ

X

?

?

X

X

X


X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

Tác động của các thành viên trong gia
6

đình có nhiều thế hệ bao gồm cả cha mẹ
chồng

7

Có chồng là con trai duy nhất


?

X

X

?

8

Mô hình phân công lao động truyền thống

X

X

X

?

X

X

X

X

Các thay đổi về kinh tế - xã hội

9

Nâng cao học vấn và sự tham gia vào lực
lượng lao động của nữ giới

10

Phụ nữ có học vấn cao hơn

X

X

X

X

11

Di cư ra sống ở thành thị

X

X

X

X

X


X

X

X

?

X

?

?

12

13

Sự phát triển kinh tế - xã hội và đô thị hóa
nhanh chóng
Các thay đổi trong đời sống/vị thế được
nâng cao do đô thị hóa


×