Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Thực trạng công tác thanh tra việc thực hiện pháp luật an toàn, vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp FDI tại việt nam trong tình hình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.35 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý Nhà nước. Để quyết địnhquản lý
Nhà nước được các cơ quan, tổ chức và cá nhân chấp hành một cách chính xác, đầy đủ
thì các cơ quan, cá nhân đã ban hành quyết định phải đề ra quy trình thực hiện quyết
định. Trong quy trình đó không thể thiếu được hoạt động thanh tra, kiểm tra. Thanh
tra, kiểm tra là để đánh giá, nhận xét tình hình và kết quả thực hiện quyết định quản
lý; để kiểm nghiệm lại chính nội dung và chất lượng quản lý; khi cần thiết phải bổ
sung, sửa đổi, thậm chí phải huỷ bỏ một phần hay toàn bộ quyết định quản lý. Trong
điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, hoạt động thanh tra càng trở nên cần thiết. Hiện nay,
cách doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam không ngừng tăng và
đang dần khẳng địnhđược vị thế của mình trong nền kinh tế. Bên cạnh với việc thu hút
đầu tư, ViệtNam cũng đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong quá trình quản
lý,giám sát tình hình thực hiện các quy định pháp luật của những doanh nghiệp này,
trong đó có việc thực hiện pháp luật về An toàn, vệ sinh lao động. Nhận thấy được vai
trò và tầm quan trọng của công tác thanh tra việc thực hiện pháp luật An toàn, vệ sinh
lao động trong các doanh nghiệp FDI hiện nay, em đã quyết định chọn đề tài: “Thực
trạng công tác thanh tra việc thực hiện pháp luật An toàn, Vệ sinh lao động trong các
doanh nghiệp FDI tại Việt Nam trong tình hình hiện nay”. Bài viết không tránh khỏi
những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý và nhận xét của cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!

1


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC THANH TRA LAO ĐỘNG
1.1. Một số khái niệm liên quan
Thanh tra là việc kiểm tra, xem xét, đánh giá và xử lý việc thự chiện pháp luật
của tổ chức, cá nhân do tổ chức, người có thẩm quyền thực hiện theo trình tự pháp luật
quy định nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước,bảo vệ lợi ích nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể quyền sở hữu công nghiệp và tổ chức, cá nhân


khác.
Thanh tra lao động là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong lĩnh vực lao động đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp
luật về lao động, quy định chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc lĩnh vực lao
động.
Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra
nhà nước bao gồm: Thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
[ Khoản 1 – Điều 3, Luật Thanh tra 2010]
1.2.Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra lao động
Vị trí, chức năng của thanh tra lao động:
Căn cứ Khoản 1, Điều 238 của Bộ Luật Lao động (Sửa đổi bổ sung năm2012)
quy định: Thanh tra Bộ Lao động – Thương binh, Thanh tra Sở Lao động –Thương
binh và Xã hội thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về lao động. Theo đó
Thanh tra Lao động là tổ chức thanh tra thuộc ngành lao động; ở Trung ương có Thanh
tra Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội; ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có
Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội.
Thanh tra Lao động thực hiện chức năng hành chính và thanh tra chuyên ngành
về lao động trong phạm vi quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật.
Nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra lao động:
Các nhiệm vụ chủ yếu bao gồm:
(1) Thanh tra việc chấp hành các quy định pháp luật về lao động;
(2) Điều tra tai nạn lao động và những vi phạm an toàn lao động, vệ sinh lao
động;
(3) Tham gia hướng dẫn áp dụng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về
điều kiện lao động, an toàn lao động. vệ sinh lao động;
(4) Giải quyết khiếu nại, tố cáo về lao động theo quy định của pháp luật;
(5) Xử lý theo thẩm quyền và kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý các
vi phạm pháp luật về lao động.

2


[ Điều 237, Bộ Luật Lao động 2012 ]
Ngoài ra, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của các cơ quan thực hiện chức năng
thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội được quy định rõ trong chương 2,
Nghị định số 39/2013/NĐ-CP ban hành ngày 24 tháng 4 năm 2013của Chính phủ về tổ
chức và hoạt động của thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội.
1.3. Mục đích của thanh tra lao động
Mục đích hoạt động của thanh tra lao động nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế
quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện
pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ
quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích
cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
[Theo Điều 2, Chương 1, Luật thanh tra 2010].
1.4. Nguyên tắc thanh tra lao động
Căn cứ Điều 7-Luật Thanh tra 2010, Điều 4-Nghị định 39/2013/NĐ-CP hoạt
động thanh tra lao động phải đảm bảm tuân thủ theo các nguyên tắc:
1. Phải tuân theo pháp luật; Bảo đảm chính xác, trung thực, khách quan, công khai, dân
chủ và kịp thời;
2. Không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan
thực hiện chức năng thanh tra; Không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan
tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra;
3. Hợp tác với người sử dụng lao động và người lao động; Phối hợp, hợp tác với các cơ
quan, tổ chức có liên quan tới công tác thanh tra.
1.5. Cơ cấu tổ chức của thanh tra lao động
(1) Các cơ quan thanh tra nhà nước:
-Thanh tra Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
-Thanh tra Sở Lao động-Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương.
(2) Các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành:
- Tổng cục dạy nghề;
- Cục Quản lý Lao động ngoài nước.
[ Điều 5, Nghị định số 39/2013/ NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2013 quy định về
tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Lao đông – Thương binh và Xã hội]
1.6. Hình thức hoạt động của thanh tra lao động
Hoạt động thanh tra được thực hiện theo 2 hình thức: thanh tra theo kế hoạch và
thanh tra đột xuất.
3


Thanh tra theo kế hoạch được tiến hành trên cơ sở kế hoạch thanh tra đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Thanh tra đột xuất được tiến hành khi phát hiện cơ quan, tổ chức cá nhân có dấu
hiệu vi phạm pháp luật, theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng,
chống tham nhũng do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giao.
1.7. Phương thức hoạt động của thanh tra lao động
Công tác thanh tra lao động tiến hành bằng phương thức thanh tra viên phụ trách
vùng thông qua phiếu tự kiểm tra (Quyết định số 01/2006/QĐ-BLĐTBXH ngày 16
tháng 02 năm 2006 về việc ban hành quy chế hoạt động thanh tra nhà nước về lao
động theo phương thức thanh tra viên phụ trách vùng, quyết định số 02/2006/QĐBLĐTBXH ngày 16 tháng 02/2006 của Bộ LĐTBXH về việc ban hành quy chế sử
dụng phiếu tự kiểm tra thực hiện pháp luật lao động)
1.8. Nội dung thanh tra lao động
Theo quy định tại điểm 1, khoản 2, Điều 20 Nghị định số 39/2013/NĐ-CP ngày
24/4/2013 của Chính phủ về tổ chức hoạt động của thanh tra ngành Lao động-Thương
binh và Xã hội, thanh tra lao động là hoạt động thanh tra chuyên ngành:
“Thanh tra chuyên ngành việc thực hiện các quy định pháp luật lao động:
-Việc thực hiện các loại báo cáo định kỳ, tuyển dụng và đào tạo lao động;
-Hợp đồng lao động; thỏa ước lao động tập thể;

-Thời giờ làm việc và nghỉ ngơi; tiền lương và trả công lao động;
-An toàn lao động, vệ sinh lao động; việc thực hiện các quy định đối với lao động
nữ, lao động là người cao tuổi, lao động là người khuyết tật, lao động chưa thành niên;
việc thực hiện các quy định đối với lao động là người nước ngoài;
-Kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất; việc thực hiện các quy định đối với lao
động là người nước ngoài;
-Kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất;việc thực hiện các quy định khác của
pháp luật lao động”.

4


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THANH TRA VIỆC THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP FDI TẠI VIỆT NAM TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY
2.1. Khái quát về các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam
Doanh nghiệp FDI là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do nhà đầu tư nước
ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam hoặc là doanh nghiệp Việt
Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại. [Khoản 6, Điều 3,
Luật Đầu tư 2014]
Theo kết quả tổng hợp Tổng điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp của
Tổng cục thống kê thì nước ta hiện có gần 9500 Doanh nghiệp FDI với hơn 3,2 triệu
lao động đang làm việc; khoảng 75% doanh nghiệp FDI tại Việt Nam đến từ các quốc
gia láng giềng Châu Á (đặc biệt là Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản).Trong thời kỳ
hội nhập kinh tế hiện nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài được nhìn nhận như là một trong
những nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Vai trò của các doanh
nghiệp FDI được thể hiện rất rõ qua việc đóng góp vào các yếu tố quan trọng của tăng
trưởng kinh tế như bổ sung nguồn vốn đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu,chuyển giao công
nghệ, phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm... Hiện nay các doanh nghiệp FDI
đang chiếm trên 72% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước với mặt hàng chủ lực là

sản phẩm chế tạo có giá trị gia tăng cao, đóng góp khoảng 25% thu nội địa và 20%
GDP. Thống kê đến tháng 8 năm 2017, khu vực FDI chiếm khoảng 50% giá trị sản
lượng công nghiệp, trong đó dầu khí, điện tử,… chiếm tỷ trọng cao.
Bảng 2.1.Tổng số vốn đăng ký và vốn thực hiện của các doanh nghiệp FDI tại Việt
Nam giai đoạn 2014-2016.
Đơn vị tính:Triệu USD
Năm
2014
2015
Sơ bộ 2016

Tổng số vốn đăng ký
(Triệu USD) (*)
21.921,7
24.115,0
26.890,0

Tổng số vốn thực
hiện (Triệu USD)
12.500,0
14.500,0
15.800,0
Nguồn: Tổng cục thống kê

(*) Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm
trước. Riêng năm 2016 bao gồm cả 4510,8 triệu USD góp vốn, mua cổ phần của nhà
đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, các doanh nghiệp FDI cũng đóng góp tích cực vào tạo nguồn thu ngân
sách và thúc đẩy Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Nhờ có sự đóng
góp quan trọng của các doanh nghiệp FDI mà Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng

5


trưởng kinh tế cao trong nhiều năm qua và được biết đến là quốc gia phát triển năng
động, đổi mới, thu hút được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế.Tuy nhiên, thực tế cho
thấy một số doanh nghiệp FDI hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay chưa thực
hiện đúng và đủ những quy định của pháp luật Việt Nam về lao động như: không thực
hiện đúng chế độ bảo hiểm xã hội, kéo dài thời gian lao động trong ngày, cắt xén tiền
công, tăng cường độ lao động, không huấn luyện An toàn,vệ sinh lao động, không đo
kiểm môi trường lao động, không khám sức khỏe định kỳ cho người lao động, vi phạm
Quy chuẩn an toàn lao động, không cấp đủ phương tiện bảo hộ cá nhân cho người lao
động…
2.2. Thực trạng công tác thanh tra việc thực hiện pháp luật An toàn, Vệ sinh lao
động trong các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam
2.2.1. Cơ quan thực hiện chức năng thanh tra
Thanh tra Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội là cơ quan thực hiện thanh tra
việc thực hiện pháp luật An toàn, vệ sinh lao động các doanh nghiệp FDI trong phạm
vi cấp quốc gia.
Chức năng, nhiệm vụ của thanh tra Bộ:
+ Chủ trì hoặc tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo sự phân công
của Bộ trưởng; kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước về lao động, người có
công và xã hội.
+ Chủ trì xây dựng kế hoạch thanh tra trình Bộ trưởng; tổ chức thực hiện kế
hoạch thanh tra thuộc trách nhiệm của Thanh tra Bộ; hướng dẫn, theo dõi,đôn đốc,
kiểm tra việc thực hiện kế hoạch thanh tra thuộc trách nhiệm của cơ quan được giao
thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc Bộ.
+ Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan, tổ chức và cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Bộ; thanh tra công vụ;
thanh tra việc thực hiện hoạt động nghề nghiệp của viên chức thuộc ngành, lĩnh vực

quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật.
+ Thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực quản lý của Bộ.
(Theo điều 2, Quyết định số 614/QĐ-BLĐTBXH)
2.2.2. Lực lượng thanh tra lao động
- Lực lượng thanh tra lao động còn quá mỏng
Theo thống kê của Thanh tra Bộ, hiện nay cả nước có gần 500 thanh tra viên lao
động chịu trách nhiệm giám sát hơn 400.000 doanh nghiệp với hàng triệu lao động
trong nhiều lĩnh vực: Người có công, bảo hiểm xã hội, lao động trẻ em, khiếu nại tố
6


cáo, chính sách lao động… nhưng cán bộ thực hiện thanh tra về ATVSLĐ trong cả
nước chỉ chiếm 1/3 số cán bộ thanh tra nói trên (khoảng 150 người).. Đặc biệt ở khu
vực nông thôn, lực lượng này hầu như không có... Tính riêng số doanh nghiệp FDI
cũng tới hơn 9000 doanh nghiệp. Như vậy, tương quan giữa số thanh tra lao động với
số doanh nghiệp cần thanh tra có sự chênh lệch quá lớn. Bình quân một thanh tra viên
phải thanh tra hàng nghìn doanh nghiệp. Điều này là không thể. Có địa phương chỉ có
2 – 3 thanh tra lao động. Do vậy, việc số lượng thanh tra viên lao động quá ít này đã
dẫn đến hệ quả là số doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp FDI nói riêng được
thanh tra hàng năm cũng chỉ dừng lại ở con số rất ít chưa kể đến chất lượng thanh tra
đã được đảm bảo hay chưa, điều này tạo những lỗ hổng cho các doanh nghiệp tiếp tục
vi phạm pháp luật lao động của Việt Nam.
- Lực lượng thanh tra lao động thiếu chuyên môn, nghiệp vụ
Thực tế thì lực lượng thanh tra vừa thiếu về số lượng, vừa yếu kém về trình độ.
Có tới 30 - 50% cán bộ mới ra trường hoặc chuyển công tác. 25% cán bộ có trình độ
cao đẳng, trung cấp. Thực tế, Thanh tra các Sở LĐTBXH ở các tỉnh thành chưa đáp
ứng được nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra ở các địa phương. Thời gian chủ yếu là làm
việc và giải quyết đơn thư .Thêm nữa, thanh tra chuyên ngành về AT,VSLĐ hiện nay
chủ yếu là kiêm nhiệm, không được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực ATVSLĐ. Với
trình độ của lực lượng thanh tra lao động hiện nay thì chưa thể đáp ứng được yêu cầu

thanh tra các doanh nghiệp nói chung, các doanh nghiệp FDI nói riêng và nhất là trong
tình hình hiện nay khi số lượng các doanh nghiệp FDI đang không ngừng tăng lên.
2.2.3. Hình thức thanh tra lao động
Hiện nay công tác thanh tra việc thực hiện pháp luật về An toàn, Vệ sinh lao
động trong các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam đang áp dụng 2 hình thức thanh tra là
thanh tra theo kế hoạch và thanh tra đột xuất.
Trong công tác thanh tra theo kế hoạch cơ quan thanh tra lao động được quyền
chủ động trong việc xây dựng kế hoạch và tiến hành tổ chức thanh tra buộc các doanh
nghiệp FDI phải tuân thủ một cách nghiêm túc, đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
FDI có được sự chủ động với tinh thần phòng ngừa cao, với sự chuẩn bị kỹ lưỡng để
đối phó với cơ quan thanh tra lao động. Tuy nhiên điều này cũng tạo ra bất cập, doanh
nghiệp chủ động che dấu những sai phạm vì thanh tra kế hoạch nhiều lần doanh nghiệp
biết mình bị thanh tra những gì để chủ động đối phó. Phần lớn các Sở chưa tổ chức
thanh tra theo kế hoạch.
Công tác thanh tra đột xuất thể hiện tính kịp thời cao trong xử lý vi phạm, trực
tiếp điều chỉnh những hành vi sai phạm của các doanh nghiệp.

7







2.2.4.Phương thức thanh tra lao động
Thực trạng về phương thức thanh tra ATVSLĐ cho thấy: thanh tra viên phụ trách
vùng thông qua phát phiếu tự kiểm tra về các doanh nghiệp, tuy nhiên số lượng phiếu
phát ra chưa đủ, chỉ thu về 1/4 số lượng phiếu phát, chưa thể hiện đặc trưng của từng
nghề.

2.2.5. Nội dung thanh tra pháp luật về ATVSLĐ trong các doanh nghiệp FDI
Thanh tra việc thực hiện các quy trình, quy phạm về kỹ thuật an toàn và tiêu chuẩn vệ
sinh công nghiệp nhằm ngăn ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Thanh tra việc thi hành các biện pháp về tổ chức chỉ đạo thực hiện việc chấp hành các
quy định của pháp luật về lao động, an toàn, vệ sinh lao động
Thanh tra việc tổ chức thực hiện các chế độ bảo hộ lao động
Thanh tra việc thực hiện biên bản, kiến nghị.
2.2.6. Kết quả thanh tra pháp luật ATVSLĐ trong các doanh nghiệp FDI
Số cuộc thanh tra được tiến hành hàng năm còn ít. Đơn cử như năm 2016, cả
nước chỉ tiến hành được 4.184 cuộc thanh tra pháp luật về AT,VSLĐ và 1.366 cuộc
kiểm tra liên ngành.Theo Báo cáo của Bộ LĐTBXH, năm 2016 trên toàn quốc đã xảy
ra 7.981 vụ tai nạn lao động làm 8.251 người bị nạn và 862 người chết. Lĩnh vực xây
dựng là lĩnh vực có tỉ lệ tai nạn lao động cao nhất, chiếm 23,8% tổng số vụ, chiếm
24,5% tổng số người chết.Điển hình là vụ tai nạn sập giàn giáo ngày 25/3/2015 làm 13
người chết, 29 người bị thương tại hạng mục đúc thùng chìm, công trường thi công sản
xuất và lắp đặt thùng chìm trọng lực tại Dự án Formusa của Công ty TNHH Gang
Thép Hưng nghiệp Formusa Hà Tĩnh, Khu kinh tế Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh do Công ty
Samsung C&T Corporation là đơn vị thi công.
Tuy nhiên, việc thanh tra vẫn còn hình thức, chất lượng chưa cao. Cá biệt có
những tỉnh như Vĩnh Long, Vĩnh phúc cả năm không có nổi một cuộc thanh tra liên
ngành. Số các tỉnh khác có thanh tra pháp luật AT,VSLĐ, nhưng số cuộc thanh tra chỉ
đếm trên đầu ngón tay như Cao Bằng 2 vụ;Thừa Thiên Huế 5 vụ; Quảng Bình 6
vụ.Trong khi đó việc thanh tra mới chỉ chủ yếu diễn ra tại các doanh nghiệp Nhà nước,
thống kê của Cục An toàn lao động cho thấy, 60% cuộc thanh tra diễn ra trong doanh
nghiệp Nhà nước và chỉ có khoảng 20% tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(FDI). Điều này dẫn tới thực trạng, số các doanh nghiệp FDI không được thanh tra còn
rất nhiều. Như vậy thì rõ ràng vấn đề đảm bảo về AT,VSLĐ trong khu vực FDI bị bỏ
ngỏ là chuyện đương nhiên.
Hầu hết các doanh nghiệp FDI được thanh tra đều phát hiện thấy vi phạm các
quy định về an toàn, vệ sinh lao động, điển hình là: chưa bố trí cán bộ làm công tác an

toàn, vệ sinh lao động theo quy định; chưa thành lập mạng lưới an toàn, vệ sinh viên
8


theo quy định; chưa thực hiện kiểm định kỹ thuật an toàn lao động đối với đầy đủ máy,
thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động đang sử dụng theo quy
định; chưa kiểm soát, đánh giá đầy đủ các nguy cơ gây mất an toàn, vệ sinh lao động
tại xưởng sản xuất nơi người lao động trực tiếp làm việc để có biện pháp ngăn ngừa
theo quy định...
Hàng năm đã phát hiện hàng chục nghìn hành vi vi phạm luật pháp về lao động
và đưa ra hàng chục nghìn kiến nghị để các cơ sở thực hiện đúng chính sách chế độ
trong các lĩnh vực lao động xã hội. Đề xuất nhiều vấn đề về chính sách lao động, xã
hội được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chấp nhận để chỉ đạo chung hoặc
được pháp luật hoá thành những văn bản pháp quy hiện hành. Đảm bảo 100 % các vụ
tai nạn lao động làm chết người khi được các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất khai báo
đã được Thanh tra tại các Sở Lao động – Thương binh và Xã hội thực hiện điều tra tai
nạn lao động theo quy định.
2.2.7.Nhận xét
Nhìn chung, các thanh tra viên đã có nhiều nỗ lực trong việc tiến hành các cuộc
thanh tra nhằm tăng số lượng và tần suất các cuộc thanh tra hàng năm. Các cuộc thanh
tra tại những doanh nghiệp theo kế hoạch thanh tra đã tránh việc trùng lặp trong cùng
một thời gian, cùng một nội dung có nhiều đoàn thanh tra đến doanh nghiệp, hay trong
thời gian quá dài doanh nghiệp không được thanh tra dẫn đến lơ là không thực hiện
đầy đủ chế độ lao động dẫn đến tai nạn lao động và sự cố máy và thiết bị. Tuy nhiên,
số lượng và tần suất các cuộc thanh tra về lao động tại các doanh nghiệp còn rất thấp;
các cuộc thanh tra tại các doanh nghiệp không được phân bổ tương xứng với tỷ lệ các
doanh nghiệp phân theo hình thức sở hữu, đặc biệt số cơ sở sử dụng dưới 10 lao động
được thanh tra còn rất ít. Hiện tượng này dẫn đến tình trạng tác động, hiệu quả của
công tác thanh tra nhà nước về lao động chưa mang tính rộng khắp và cơ sở để đánh
giá về mức độ thực hiện pháp luật lao động chưa thực sự đầy đủ và chính xác.


9


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ











3.1. Đề xuất
Với thực trạng như trên, để công tác thanh tra lao động về ATVSLĐ nói chung và
thanh tra ATVSLĐ tại các doanh nghiệp FDI nói riêng đạt hiệu quả hơn, em xin đề
xuất một số ý kiến như sau:
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực lao động cần tiến hành rà
soát, kiểm tra lại hệ thống thanh tra: nhằm đưa ra các biện pháp tăng thêm quân số cho
lực lượng thanh tra, tăng biên chế cho thanh tra lao động. Ban hành tiêu chuẩn thanh
tra viên và tổ chức thi tuyển công chức hoạt động trong lĩnh vực thanh tra ATVSLĐ.
Tăng cường các cuộc thanh tra theo chuyên đề với thời gian, quy mô nhanh, gọn có
hiệu quả và chất lượng để giúp các cơ sở khắc phục những vi phạm có nguy cơ xảy ra
tai nạn lao động cao và để phục vụ việc hoàn thiện chính sách pháp luật.
Tăng cường hoạt động đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác thanh tra ATVSLĐ.
Xây dựng bộ tài liệu chuyên đề để đào tạo cho các thanh tra viên mới với thời gian đào
tạo từ 1-2 năm. Phối hợp hoạt động với các đơn vị, tổ chức quốc tế (như ILO,

USAID...) tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề để truyền đạt, tiếp thu kinh nghiệm tổ
chức, quản lý cũng như kiến thức chuyên môn nghiệp vụ của nước ngoài cho thanh tra
lao động ở Hà Nội. Để giảm nhẹ khối lượng công việc cho ngành thanh tra, cần tăng
cường công tác đào tạo, huấn luyện để người sử dụng lao động, định kỳ theo quý hoặc
theo năm, mở các lớp tạp huấn về ATVSLĐ cho doanh nghiệp để đảm bảo họ có đủ
khả năng tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với quy định của pháp luật.
Kết hợp việc đào tạo này cùng với cùng với tư vấn hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện
pháp luật trên các phương diện khác như: quan hệ lao động, bảo hiểm xã hội... để tiết
kiệm thời gian cho đơn vị thanh tra cũng như doanh nghiệp.
3.2. Kiến nghị
Cần xây dựng luật ATVSLĐ và các văn bản luật, dưới luật khác: trongđó, quy định về
việc thành lập riêng tổ chức thanh tra ATVSLĐ độc lập. Việc xây dựng Luật ATVSLĐ
trên cơ sở hệ thống hóa, mở rộng phạm vi điều chỉnh là cần thiết đáp ứng yêu cầu đổi
mới toàn diện công tác thanh tra, tạo cơ sở pháp lý cho việc cải cách tổ chức và hoạt
động của các cơ quan thanh tra về ATVSLĐ hiện nay; đồng thời cần hoàn thiện cơ chế
quản lý, tổ chức bộ máy,tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra; phối hợp
thống nhất nhiệm vụ, quyền hạn giữa các lực lượng thanh tra trong các lĩnh vực có liên
quan.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý phục vụ công tác thanh tra lao
động. Hệ thống này có vai trò phục vụ quản lý của lãnh đạo thanh tra(phát triển lực
lượng, xây dựng mô hình quản lý và phương pháp hoạt động);hậu thuẫn quá trình tác
10


nghiệp của thanh tra viên (thu thập thông tin, lập kếhoạch và triển khai công tác của
các đoàn thanh tra, kiểm tra, điều tra xácminh...). Bên cạnh đó hệ thống này còn phải
có sự kết hợp với hệ thống ngân hàng để nắm bắt được các thông tin của doanh nghiệp
như số tài khoản, số dư tài khoản... Qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác
thanh tra, đặc biệt là trong lĩnh vực xử lý vi phạm.
• Kết hợp với tổ chức Công đoàn hướng dẫn cho người lao động hiểu về cácquy trình

bảo hộ lao động để người lao động biết và chủ động phòng tránh. Từ đó giảm thiểu số
vụ tai nạn lao động cũng như lượng công việc cho cơ quanthanh tra.
• Cần xác lập phiên hiệu riêng cho thanh tra ATVSLĐ, tách riêng lực lượng thanh tra
ATVSLĐ ra khỏi lực lượng thanh tra lao động chung để hoạt động có hiệu quả.
• Tổ chức tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng về các điển
hình tiêu biểu trong thực hiện pháp luật về ATVSLĐ để các doanh nghiệp học tập kinh
nghiệm, lấy ví dụ để làm theo. Đồng thời có các giải thưởng hàng năm cho doanh
nghiệp chấp hành tốt quy định an toàn vệ sinh để kích thích sự tham gia của họ trong
việc đảm bảo xây dựng một môi trường làm việc lành mạnh.

11


KẾT LUẬN

An toàn, vệ sinh lao động là một chính sách kinh tế xã hội quan trọng trong chiến
lược phát triển của Đảng và Nhà nước ta. Ngày nay trong xu thế toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế, việc thực hiện các chính sách xã hội của doanh nghiệp không chỉ
còn là nghĩa vụ chấp hành pháp luật của doanh nghiệp mà còn là tiêu chí để doanh
nghiệp cạnh tranh tồn tại hay không tồn tại trên thương trường Quốc tế. Công tác
thanh tra, kiểm tra an toàn, vệ sinh lao động không chỉ để bảo đảm an toàn sức khoẻ
cho người lao động mà còn bảo vệ sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh của doanh
nghiệp. Chính vì vậy, các cơ quan quản lý Nhà nước, quản lí doanh nghiệp cần hiểu rõ
các nội dung của công tác thanh tra, kiểm tra về an toàn, vệ sinh lao động đối với
doanh nghiệp để thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn giúp doanh nghiệp thực hiện tốt công
tác này.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.

Luật Thanh tra số 56/2010/QH12
Luật An toàn,Vệ sinh lao động số 84/2015/QH13
Luật Đầu tư số 67/2014/QH13
Bộ Luật Lao động số 10/2012/QH13
Nghị định 39/2013/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của thanh tra ngành Lao
động - Thương binh và Xã hội.
Quyết định 01/2006/QĐ-BLĐTBXH về việc ban hành quy chế hoạt động thanh
tra nhà nước về lao động theo phương thức thanh tra viên phụ trách vùng
Quyết định 02/2006/QĐ-BLĐTBXH về việc ban hành quy chế sử dụng phiếu
tự kiểm tra thực hiện pháp luật lao động
Quyết định 614/QĐ-LĐTBXH năm 2013 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.







×