Tải bản đầy đủ (.pdf) (288 trang)

Phong cách nghệ thuật Sơn Nam (Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.29 MB, 288 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

------------------

LÊ THỊ NGÂN TRANG

PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
SƠN NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

------------------

LÊ THỊ NGÂN TRANG

PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
SƠN NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62. 22. 01. 21

Người hướng dẫn khoa học:



HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng
dẫn của PGS. TS Đoàn Trọng Huy và PGS. TS Nguyễn Văn Kha. Các số liệu,
những kết luận, nhận định là trung thực, chính xác và chưa từng được công bố trong
công trình của các tác giả khác
Tác giả luận án



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN .................... 5
1.1. Tình hình nghiên cứu phong cách nghệ thuật ............................................ 5
1.2. Nghiên cứu nét phong cách qua sáng tác nói chung. ................................. 9
1.3. Nghiên cứu một số phương diện thuộc yếu tố mang phong cách Sơn Nam 17
1.4. Một số vấn đề đặt ra đối với luận án ........................................................ 24
Chương 2. PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH
PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT SƠN NAM ................................................. 26
2.1. Khái niệm về phong cách nghệ thuật ....................................................... 26
2.1.1. Các quan điểm khác nhau về phong cách nghệ thuật ........................... 26
2.1.2. Bản chất phong cách nghệ thuật nhà văn .............................................. 32
2.2. Cơ sở hình thành phong cách nghệ thuật Sơn Nam ................................ 35
2.2.1. Thời đại và truyền thống văn hóa ......................................................... 36

2.2.2. Hoàn cảnh xuất thân và cá tính nhà văn................................................ 41
2.2.3. Quan niệm sáng tác văn chương của nhà văn Sơn Nam ....................... 45
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 52
Chương 3. CẢM QUAN VỀ THIÊN NHIÊN, CON NGƯỜI VÀ VĂN HÓA
NAM BỘ TRONG SÁNG TÁC SƠN NAM .................................................. 54
3.1. Cảm quan thiên nhiên Nam Bộ trong sáng tác Sơn Nam ........................ 54
3.1.1. Bức tranh thiên nhiên dữ dội, bí ẩn và đầy khắc nghiệt ....................... 54
3.1.2. Thiên nhiên trù phú, hiền hòa, thơ mộng gần gũi gắn bó với con người 57
3.2. Cảm quan về con người Nam Bộ trong văn xuôi Sơn Nam .................... 60
3.2.1. Con người hoàn cảnh – con người số phận........................................... 61
3.2.2 Con người với những tính cách đặc biệt điển hình Nam Bộ ................ 71


3.3. Cảm quan về văn hóa Nam Bộ trong sáng tác Sơn Nam ......................... 85
3.3.1. Văn hóa vật chất .................................................................................... 87
3.3.2. Văn hóa tinh thần .................................................................................. 95
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 106
Chương 4. NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT, GIỌNG ĐIỆU, NGÔN NGỮ
TRONG SÁNG TÁC SƠN NAM ................................................................. 108
4.1. Nghệ thuật trần thuật .............................................................................. 110
4.1.1. Người trần thuật (Ngôi phát ngôn)...................................................... 111
4.1.2. Điểm nhìn trần thuật............................................................................ 116
4.1.3. Trần thuật kết hợp với phương pháp miêu tả chân thực, sinh động.... 118
4.2. Giọng điệu nghệ thuật trong sáng tác Sơn Nam .................................... 121
4.2.1. Giọng điệu dân dã, mộc mạc ............................................................... 122
4.2.2. Giọng điệu trữ tình, sâu lắng ............................................................... 123
4.2.3. Giọng điệu hóm hỉnh, hài hước........................................................... 125
4.2.4. Giọng điệu triết lý, suy ngẫm sâu xa................................................... 127
4.3. Ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác Sơn Nam ..................................... 129
4.3.1. Ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày mộc mạc, dung dị đời thường ........... 130

4.3.2. Phương ngữ Nam Bộ........................................................................... 132
4.3.3. Nghệ thuật sử dụng lớp từ khẩu ngữ ................................................... 139
4.3.4. Nghệ thuật vận dụng văn học dân gian vào tác phẩm ........................ 142
Tiểu kết chương 4 .......................................................................................... 147
KẾT LUẬN ................................................................................................... 149
DANH MỤC BÀI BÁO VÀ CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ..................... 153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 154
PHỤ LỤC ...................................................................................................... 175


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sơn Nam sinh ra và lớn lên ở vùng đất phương Nam, có thể nói, đời văn của
Sơn Nam là cuộc hành trình đi tìm, quan sát, lắng nghe, ghi nhận, chắt lọc những chất
liệu từ hiện thực cuộc sống của người miền Nam để làm chất liệu sáng tác. Ông từng
tâm sự "Tôi là một con người của đồng quê, dòng máu, tâm hồn nông dân, giọng điệu
nông dân, kiến thức nông dân. Đồng bằng sông Cửu Long là giấc mơ, là chân trời
sáng tác suốt đời của tôi".
1.1. Sơn Nam bắt đầu sự nghiệp văn chương từ 1952 với hai truyện ngắn Bên
rừng Cù lao Dung và Tây Đầu Đỏ. Tuy cả hai truyện đều đạt giải Nhất và giải Nhì
trong cuộc thi văn học do Ủy Ban kháng chiến Nam Bộ tổ chức 1952 nhưng độc giả
Sài Gòn cũng chưa biết đến ông. Phải đến năm 1962, khi những truyện ngắn Con Bảy
đưa đò, Tình nghĩa Quốc văn giáo khoa thư, Bắt sấu rừng U Minh Hạ, Mùa “len”
trâu … của Sơn Nam được in trên các báo và được Nhà xuất bản Phù Sa tập hợp
thành tập truyện Hương rừng Cà Mau thì tên tuổi nhà văn mới được văn đàn Sài Gòn
công nhận và cũng là lúc phong cách Sơn Nam được hình thành. Ông đã khai sinh tên
tuổi "nhà văn miệt vườn" mà trong buổi Tọa đàm “50 năm Hương rừng Cà Mau của
nhà văn Sơn Nam” ngày 27/12/2013, nhà thơ Lê Minh Quốc đúc kết “Ông đã đẻ ra từ
“văn minh miệt vườn” đi vào văn học sử, được cả xã hội công nhận” [263].
Sự xuất hiện của Sơn Nam trên văn đàn miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 cùng

với Bình Nguyên Lộc, Võ Hồng..., đã tạo niềm tin cho người đọc giai đoạn này. Ông
được mệnh danh là Pho tự điển sống miền Nam. Sự nhận định, đánh giá Sơn Nam qua
sáng tác về đề tài, tư tưởng nhân văn, sắc màu văn hóa Nam Bộ, thi pháp trong truyện
ngắn... từ các nhà nghiên cứu trước đến nay đều nhất quán. Văn phong của ông từ đầu
đến cuối đều có sự ổn định.
1.2. Lâu nay các nhà nghiên cứu, phê bình văn học đã giành nhiều sức lực và
tâm huyết cho những sáng tác của Sơn Nam nhưng những công trình coi phong cách
nghệ thuật Sơn Nam, một phương diện quan trọng tạo cơ sở xác lập vị trí của ông
trong dòng văn học Nam Bộ nói riêng và văn học dân tộc nói chung chưa được chú
trọng. Cho đến nay, đây vẫn là một khoảng trống. Chúng tôi nghĩ rằng Sơn Nam là
một nhà văn lớn hiện đại của nước nhà, ông rất xứng đáng dành một đề tài chuyên
biệt nghiên cứu phong cách nghệ thuật tác giả. Trong đội ngũ các nhà văn hiện đại,
cũng đang thiếu những công trình có sự so sánh đối chiếu một cách đầy đủ phong
1


cách nghệ thuật Sơn Nam với các nhà văn Việt Nam cùng thời. Ngoài ra, văn nghiệp
của Sơn Nam có "độ mở" nhất định và đang tác động rõ rệt lên sáng tác không ít nhà
văn miền Nam đương đại. Đồng thời, sáng tác của Sơn Nam được tuyển chọn vào
giảng dạy bậc phổ thông đến cao đẳng, đại học... Chúng tôi chọn phong cách nghệ
thuật tác giả làm vấn đề nghiên cứu cho luận án. Một vấn đề vừa hấp dẫn, vừa khó
khăn. Những vấn đề về phong cách Sơn Nam trong cảm quan, tư tưởng nhà văn cũng
như nghệ thuật xây dựng nhân vật, kết cấu, giọng điệu, và phương thức tổ chức lời
văn... cần được khảo sát kỹ càng hơn để tìm ra tiếng nói riêng của nhà văn Sơn Nam.
1.3. Do tiếp cận đề tài từ góc độ phong cách nghệ thuật nhà văn nên luận án
không đi sâu trình bày lịch sử vấn đề lý luận về phong cách học và những mối quan
hệ đa dạng phức tạp của nó với các phạm trù khác của lý luận văn học. Nhiệm vụ chủ
yếu của luận án là trình bày hệ thống những đặc điểm tư tưởng - nghệ thuật tạo nên
sự độc đáo, mới mẻ, nhất quán mang tính giá trị của phong cách nghệ thuật Sơn
Nam, góp phần khẳng định những đóng góp và vị trí nhà văn trong lịch sử văn học

Việt Nam.
Từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn đi vào nghiên cứu vấn đề phong cách
nghệ thuật Sơn Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu :
Làm rõ đặc trưng phong cách nghệ thuật của Sơn Nam. Để đạt được mục tiêu
này, luận án cần xác định được cấu trúc của phong cách nghệ thuật nhà văn thể hiện
qua cảm quan nghệ thuật của Sơn Nam; những đặc điểm của nghệ thuật trần thuật,
giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nêu trên, luận án cần thực
hiện những nhiệm vụ sau:
- Xác lập nội hàm thuật ngữ phong cách nghệ thuật và các thuật ngữ có liên
quan đến đề tài, từ đó tìm ra mối quan hệ giữa các yếu tố tạo nên hệ thống chỉnh thể
trong sáng tác của nhà văn.
- Khảo sát, thống kê, phân tích, khái quát những yếu tố đặc sắc trong thế giới
nghệ thuật Sơn Nam, xác định tư tưởng nghệ thuật; cảm quan hiện thực đời thường
hoà kết với cảm quan văn hóa là yếu tố chủ đạo là cấu trúc phong cách tác giả.
- Chỉ ra mối quan hệ thống nhất hữu cơ giữa các yếu tố nổi trội, cảm quan hiện
thực, cảm quan văn hóa về cuộc sống, con người, nghệ thuật trần thuật, giọng điệu và
ngôn ngữ nghệ thuật Sơn Nam... Từ đó rút ra phong cách nghệ thuật tác giả.
2


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phong cách nghệ thuật Sơn Nam, được thể
hiện trên nhiều yếu tố trong một chỉnh thể hữu cơ. Đó là cảm quan nghệ thuật của
Sơn Nam; những đặc điểm trên những phương diện nội dung và nghệ thuật trần thuật;
giọng điệu và ngôn ngữ văn chương nhà văn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Nói đến phong cách nghệ thuật nhà văn là nói đến sự độc đáo toàn vẹn có tính
hệ thống của sự nghiệp sáng tác của nhà văn ấy. Đã có nhiều người nghiên cứu về Sơn
Nam nhưng chưa có công trình nào đề cập toàn diện đến phong cách nghệ thuật thể
hiện trong sáng tác văn chương của nhà văn. Có những tác phẩm được "đào xới" rất
kỹ như Hương rừng Cà Mau, Hình bóng cũ... Nhưng lại ít ai nêu lên mối quan hệ
thống nhất của chúng như một dấu hiệu phong cách nghệ thuật Sơn Nam.
Để làm rõ phong cách nghệ thuật Sơn Nam trong dòng văn học trước và sau
1975, chúng tôi tập trung nghiên cứu sâu vào văn xuôi của nhà văn bao gồm tiểu
thuyết, truyện ngắn, ký (hồi ký, bút ký)... để hiểu sâu hơn cái nhìn nghệ thuật của tác
giả. Các yếu tố cuộc đời, quá trình hoạt động cách mạng, quan niệm nghệ thuật của
ông cũng thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài vì nó lý giải những nguyên nhân chính
làm nên phong cách nghệ thuật của Sơn Nam. Nội dung đề tài được đặt trong dòng
chảy của dòng văn học miền Nam trước và sau 1975.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Để xác định phong cách nghệ thuật Sơn Nam, luận án vận dụng lý thuyết
phong cách học, lý thuyết cấu trúc - hệ thống, thi pháp học làm cơ sở phương pháp
luận để tiến hành khảo sát đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ phong cách nghệ thuật nhà văn, người viết sẽ vận dụng quan điểm
và thao tác nghiên cứu của phong cách học nghệ thuật, lý thuyết cấu trúc - hệ thống,
thi pháp học, sử dụng và kết hợp các phương pháp nghiên cứu văn học như:
- Phương pháp logic lịch sử được luận án sử dụng như một phương pháp
xuyên suốt của quá trình phân tích, giải quyết những nhiệm vụ mà luận án đặt ra.
- Phương pháp thống kê - phân loại và phân tích – tổng hợp. Trên cơ sở của
những vấn đề thống kê và phân loại các tác phẩm của Sơn Nam, luận án còn sử dụng

3



phương pháp phân tích tác phẩm để phân tích và tổng hợp thành hệ thống làm sáng tỏ
vấn đề một cách toàn diện nhất.
- Phương pháp so sánh và phương pháp liên ngành: Để thấy được sự độc đáo
trong nghệ thuật của nhà văn Sơn Nam, cũng như những ảnh hưởng, kế thừa và sự phát
triển truyền thống trong văn xuôi so với các nhà văn cùng thời, các thế hệ đi trước,
luận án vận dụng phương pháp so sánh và đối chiếu đồng thời sử dụng phương pháp
tổng hợp liên ngành văn học, văn hóa học, nghệ thuật học, tiểu sử… để hoàn thành
mục đích đề ra.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Sơn Nam là nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Luận án của
chúng tôi là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu có hệ thống về phong cách nghệ
thuật Sơn Nam.
- Luận án vừa kế thừa những nhận định đánh giá của các nhà nghiên cứu đi
trước, vừa phát hiện và bổ sung những tìm tòi của bản thân, lựa chọn một số phương
diện tiêu biểu, nổi trội, ổn định trong thế giới nghệ thuật nhà văn và đặt chúng trong
sự thống nhất hữu cơ, từ đó xác định phong cách nghệ thuật tác giả. Người viết nhìn
nhận cảm quan văn hóa kết hoà hiện thực đời thường là một hạt nhân phong cách
nghệ thuật Sơn Nam. Đây là yếu tố quan trọng chi phối mọi yếu tố khác tạo ra sự
thống nhất chặt chẽ, làm nên phong cách nghệ thuật nhà văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Nhìn nhận vị trí đặc biệt của Sơn Nam trước và sau 1975 trong dòng văn học
miền Nam và văn học dân tộc với tư cách phong cách nghệ thuật của một tác giả .
- Khẳng định những nét đặc sắc riêng của tác phẩm văn chương Sơn Nam
đồng thời khẳng định những đóng góp nhất định về nền văn hóa, văn nghệ miền Tây
Nam Bộ nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung tạo nên phong cách nghệ thuật
tác giả.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thực hiện đề tài góp phần tích cực cho các nhà nghiên cứu, các giáo viên, sinh
viên khi tìm hiểu về thế giới nghệ thuật của Sơn Nam giúp cho việc nghiên cứu giảng

dạy trong các trường Đại học và Cao đẳng, Trung học có thêm tài liệu tham khảo.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án gồm 4
chương như nêu ở Mục lục.
4


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN
Sơn Nam được xem là "Pho tự điển sống", "Một linh hồn sống của văn hóa
Nam Bộ". Ông sinh ra và lớn lên ở vùng đất trù phú mênh mông sông nước Rạch Giá
(Kiên Giang), vùng đất tận cùng của tổ quốc. Thiên nhiên và con người châu thổ
phương Nam đã thấm vào tâm hồn dạt dào cảm xúc của ông, tạo cho nhà văn một cốt
cách Nam Bộ thân tình và gần gũi “cả cuộc đời là một cuộc hành trình đi tìm hiểu,
quan sát, lắng nghe, ghi nhận, chắt lọc những chất liệu từ hiện thực đời sống của
người dân Nam Bộ để làm chất liệu sáng tác" (Nguyễn Thị Tuyết Hoa, 2011). Sơn
Nam đi nhiều, viết nhiều thể loại, thể loại nào cũng có tác phẩm để lại âm vang cho
đời. Có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về con người, cuộc đời và tác phẩm Sơn
Nam.Tìm hiểu những công trình nghiên cứu văn chương của Sơn Nam, các nhà nghiên
cứu tập trung nhận định và đánh giá về hai mặt chủ yếu, đó là cảm quan nghệ thuật và
phương thức nghệ thuật biểu hiện trong sáng tác của nhà văn.
Luận án chỉ điểm lại những ý kiến từ góc nhìn cảm quan nghệ thuật và hình
thức nghệ thuật trong sáng tác ít nhiều liên quan đến phong cách nghệ thuật tác giả.
1.1. Tình hình nghiên cứu phong cách nghệ thuật
Phong cách là một thuật ngữ được sử dụng trong nhiều ngành khoa học khác
nhau, nó mang ý nghĩa riêng tùy vào đối tượng khoa học mà nó phục vụ. Xét về
nguồn gốc thì phong cách (style) có gốc gác từ rất xưa. Thời cổ đại, người Hy Lạp
dùng từ “Stylos” đơn thuần chỉ dụng cụ dài như cái que, một đầu nhọn, một đầu tù.
Người La Mã thì gọi là stylus cũng để chỉ cái que đó nhưng đầu nhọn dùng để viết và

đầu tù dùng để xóa trên một bảng nhỏ có xoa sáp. Đến người Pháp thì dùng chữ style,
nhưng lúc đầu chỉ có nghĩa là nét chữ, sau này nó có nghĩa là bút pháp với những đặc
điểm về ngôn ngữ và văn thể để viết – có nghĩa là “một que vót nhọn để viết lên tấm
bảng có phủ nến” [149; 175]. Phong cách trong suốt một thời kỳ lịch sử dài từ Trung
cổ tới Phục hưng đã được coi như một thuật ngữ ngôn ngữ học, trong đó sớm nhất
phải kể đến công trình Thi pháp học, Tu từ học của Aristote. Việc hiểu khái niệm
phong cách theo nghĩa ngôn ngữ học được tiếp tục ở các nhà hùng biện Nga thế kỷ
XVII, XVIII cho tới thế kỷ XIX.
Cho đến nay, còn nhiều cách hiểu khác nhau về phong cách, người thì đứng ở
góc độ tư tưởng để tiếp cận phong cách, người thì đứng góc độ ngôn ngữ, cũng có
5


người xem phong cách là sự thống nhất hữu cơ của các thành tố tạo nên tác phẩm văn
học. Hiện nay việc nghiên cứu phong cách nhà văn là vấn đề lý luận được đề cập và
tranh cãi ở nhiều nước trên thế giới nhất là Liên Xô (cũ). Trong cuốn Những vấn đề lý
luận và phương pháp nghiên cứu văn học, do nhà xuất bản Đại học Quốc gia ấn hành
năm 2002, M. B. Khravchenko có định nghĩa phong cách như là một phạm trù lịch sử
- thẩm mỹ rộng nhất, bao quát và sự nhìn nhận nó như những đặc điểm của một tác
phẩm riêng lẻ. Ông đã thống kê tới gần 20 cách hiểu khác nhau về phong cách.
Khravchenko cho rằng: “Phong cách là phương pháp biểu đạt cách chiếm lĩnh đời
sống bằng hình tượng, là phương pháp thuyết phục và hấp dẫn người đọc”.
Ngoài tác giả Khravchenko, trong giới nghiên cứu văn học Nga, các tác giả
như V.V.Vinogradov, L.Novichenko, V.Turin… cũng đưa ra những quan niệm khác
nhau về phong cách. Có thể khái quát những quan niệm về phong cách của giới
nghiên cứu Xô Viết theo hai hướng: coi phong cách là tính cá thể hoặc tính độc đáo
hoặc xem xét phong cách theo quan điểm tổng hợp, coi phong cách là một hệ thống
các phương tiện biểu đạt, là hình thức nghệ thuật được xem xét trong tính quy luật và
các nguyên tắc hài hòa.
Bên cạnh những thành tựu nghiên cứu về phong cách của những nhà nghiên

cứu ở Liên Xô, các nhà nghiên cứu văn học Pháp, Mỹ cũng đưa ra nhiều ý kiến, quan
điểm về vấn đề phong cách trên cơ sở luận giải từ hệ hình cấu trúc, ngôn ngữ và thi
học. A. Compagnon, R. Jacobson, R. Barthes… là những tác giả tiêu biểu nhất. Trong
đó, các tác giả thường chú ý đến khía cạnh sáng tạo, những đặc điểm riêng biệt, độc
đáo của người nghệ sĩ được thể hiện trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của nhà văn,
được toát lên từ nội dung tư tưởng của tác phẩm và các phương thức biểu đạt.
Antoine Compagnon (Pháp) trong Bản mệnh của lý thuyết cho rằng phong cách “là
một quan niệm phức tạp, phong phú, mập mờ, phức hợp” [dẫn theo 122; 23]. Do vậy
không thể xác định một phong cách chung cho mọi loại hình nghệ thuật vì định nghĩa
chung về phong cách không thể loại bỏ đặc trưng của những hiện tượng phong cách
trong các loại hình nghệ thuật ngược lại sẽ hoàn toàn sai lầm nếu bỏ qua tính đặc thù
của sự phát triển lịch sử phong cách trong những lĩnh vực nghệ thuật khác nhau.
Phong cách nghệ thuật được xem là cá tính sáng tạo hay thuộc về phạm trù văn
phong, hành văn, bút pháp… Sự không rõ ràng này ở trong các quan niệm từ xưa đến
nay, cả phương Đông và phương Tây. Ở phương Đông, tiêu biểu là Trung Quốc, thuật
ngữ phong cách cũng được các nhà nghiên cứu, phê bình văn học quan tâm. Tiêu biểu
là các tác giả: Lưu Hiệp trong tác phẩm Văn tâm điêu long; Viên Mai trong Tùy Viên
6


thi thoại; Lỗ Tấn - nhà văn hiện thực lỗi lạc của Trung Quốc…Trong Văn Tâm Điêu
Long, Lưu Hiệp sử dụng thuật ngữ “Phong cốt” chỉ sự thống nhất giữa phong thái (tư
tưởng) và cốt cách (hình thức nghệ thuật ngôn từ). Quan niệm của Lưu Hiệp ở
phương Đông vào thế kỷ V cũng giống như quan niệm của các nhà lý luận phương
Tây được Nguyễn Thái Hòa dẫn ra trong Dẫn luận phong cách học, ông đưa ra nhiều
quan niệm về phong cách của các nhà nghiên cứu văn học, ngôn ngữ ở châu Âu, châu
Mỹ… từ thời cổ đại đến hiện đại “phong cách chính là bản thân con người”, “chỉ có
tư tưởng tạo ra cái nền phong cách… và phong cách chỉ là trật tự và sự vận động”
(Buffon), “Tính cách thế nào thì phong cách thế ấy” (Platon 428 – 348 tr. CN), “Lời
nói là diện mạo của tâm hồn” (Sénèque – thế kỉ I), “viết tốt tức là suy nghĩ tốt”

(Montaigne)…
Ở Việt Nam, từ thời trung đại, ảnh hưởng Trung Quốc nên cách hiểu về phong
cách là “văn như kỳ nhân”. Đến thời kỳ tiền hiện đại, các nhà lý luận văn học Việt
Nam dựa trên định nghĩa về phong cách của Buffon “Phong cách chính là bản thân
con người”, đồng nhất cá tính sáng tạo của nhà văn với phẩm chất con người nhà văn.
Ý thức về phong cách nhà văn là sự thể hiện của con người cá tính, con người cá nhân
nhà văn đã xuất hiện từ văn chương trung đại Việt Nam. Trong chuyên luận Phong
cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến, tác giả Biện Minh Điền cũng liệt kê một số quan
niệm về phong cách “Nói chung đức hạnh, học thức là cái gốc của văn chương” (Nhữ
Bá Sĩ), “Làm thơ thì phải gốc ở tính tình” (Cao Bá Quát), “Văn như con người của
nó, văn thâm sâu, con người của nó trầm mà tĩnh, văn cao khiết thì con người của nó
đạm mà giản, văn hùng hồn thì con người của nó cương và nhanh, văn uyên sâu thì
con người của nó thuần túy mà đúng đắn” (Nguyễn Đức Đạt). Đến thời kỳ hiện đại,
thuật ngữ phong cách được các nhà nghiên cứu văn học dùng với ý nghĩa là “lối văn”,
“giọng văn”, “sở trường”, “sở thích” trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Người ta
nghiên cứu phong cách trong mối quan hệ giữa văn bản với cá tính sáng tạo của nhà
văn, coi cá tính sáng tạo là một trong những nhân tố quy định phong cách nhà văn.
Phê bình phong cách học từ chỗ nghiên cứu phong cách dựa trên con người nhà văn
đã chuyển sang nghiên cứu phong cách ngôn ngữ của tác giả.
Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam (1942) – một công trình đầu tiên ở Việt
Nam, tiếp cận phong cách theo hướng hiện đại, đã nhận định về phong cách của một
số nhà thơ trong phong trào “Thơ Mới”. Tuy nhiên cách bình thơ của Hoài Thanh
dừng lại ở việc nhận định phong cách theo lối cảm thụ ấn tượng, không phải dựa trên
lý thuyết phong cách như sau này. Những quan niệm trên cũng có điểm đúng nhưng
7


đồng nhất tác giả với tác phẩm thì không hợp lý bởi như thế không thể giải thích được
những trường hợp cá tính sáng tạo khác xa với cá tính sinh hoạt, khí chất ngoài đời
của nhà văn.

Tiếp theo Hoài Thanh, vấn đề phong cách đã được nghiên cứu sâu rộng trong
giới nghiên cứu văn học ở nước ta. Các công trình khoa học chuyên sâu phải kể đến
Những nguyên lý về lý luận văn học của Lê Đình Kỵ, Dẫn luận phong cách học,
Những vấn đề thi pháp của truyện của Nguyễn Thái Hoà, Dẫn luận thi pháp học của
Trần Đình Sử... Bên cạnh đó còn có các công trình thể hiện cụ thể hơn ở những sách
công cụ về lý luận văn học như: Từ điển văn học do Đỗ Đức Hiểu chủ biên, Từ điển
thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi chủ biên, 150
thuật ngữ văn học do Lại Nguyên Ân biên soạn, Lý luận văn học do Hà Minh Đức
chủ biên, Lý luận văn học - vấn đề và suy nghĩ của Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như
Phương, Lý luận văn học của nhóm tác giả Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân
Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hoà, Thành Thế Thái Bình… Các công trình đều cho
rằng, phong cách là một phạm trù thẩm mỹ phản ánh sự thống nhất của hệ thống hình
tượng, biểu hiện cái nhìn độc đáo của nhà văn về cuộc sống và con người.
Bên cạnh những công trình chuyên sâu về lý luận phong cách, các nhà nghiên
cứu ở nước ta cũng đã đi sâu nghiên cứu những biểu hiện về phong cách nghệ thuật
của một số nhà văn tiêu biểu như Tác phẩm và chân dung của Phan Cự Đệ, Nhà văn
tư tưởng và phong cách của Nguyễn Đăng Mạnh, Văn học Việt Nam trong thời đại
mới của Nguyễn Văn Long, Tìm hiểu phong cáchNguyễn Du trong Truyện Kiều của
Phan Ngọc, Ba đỉnh cao Thơ mới: Xuân Diệu - Nguyễn Bính - Hàn Mặc Tử của Chu
Văn Sơn, Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu của Tôn Phương Lan, Phong
cách nghệ thuật Tô Hoài của Mai Thị Nhung,… Các công trình này hầu hết theo hình
thức dành một dung lượng nhỏ phần đầu bàn về vấn đề phong cách, dung lượng lớn
còn lại cụ thể hóa các biểu hiện của phong cách tác giả qua quan niệm nghệ thuật.
Công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều của Phan Ngọc
ấn hành năm 1985 đã thể hiện sự chuyển tiếp giữa hai giai đoạn nghiên cứu phong
cách học ở Việt Nam và được Phan Ngọc viết bằng thao tác luận. Phan Ngọc đã bước
đầu xác định đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu của phong cách học với tư
cách là một ngành khoa học, từ đó đi sâu tìm hiểu và khẳng định phong cách Nguyễn
Du trong Truyện Kiều.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh cũng dành nhiều tâm huyết để tìm hiểu,

nghiên cứu về phong cách. Khi thể hiện phong cách của các tác giả thì khái niệm của
8


Nguyễn Đăng Mạnh là tư tưởng nghệ thuật. Trong Nhà văn, tư tưởng và phong cách
do nhà xuất bản Tác phẩm mới ấn hành năm 1983, Nguyễn Đăng Mạnh đã nhấn
mạnh văn chương là một hình thái ý thức xã hội có đặc trưng riêng. Đây là lĩnh vực
cần đến năng khiếu và tài nghệ, cá tính và phong cách.
Khác với các tác giả trên, phong cách của Nguyễn Đăng Điệp là giọng điệu
nghệ thuật. Trong công trình Giọng điệu thơ trữ tình, ông đã cho rằng giọng điệu là
một hiện tượng siêu ngôn ngữ, là thứ hình thức mang tính quan niệm, là sản phẩm
sáng tạo đích thực của nhà văn, cho nên, tìm hiểu giọng điệu chính là tìm hiểu ngôn
ngữ chủ thể - nhân lõi tạo thành phong cách nghệ thuật nhà văn.
Gần đây nhất, năm 2016, trong công trình Văn học Việt Nam: Dấu ấn – Giao
lưu – Tác động, nhà nghiên cứu Tôn Thảo Miên – người có nhiều bài viết, công trình
về phong cách - đã khái quát lại các trường phái đã nghiên cứu về phong cách trên
phương diện lý luận cũng như trên cơ sở thực tiễn. Từ đó, tác giả đưa ra một số bài
viết để chứng minh cho luận điểm của mình có thể kể đến là: Trương Chính và một
phong cách nghiên cứu – phê bình văn học, Nguyễn Tuân – dấu ấn của cá tính sáng
tạo, Vũ trọng Phụng – Người thư ký của thời đại, Phong cách Thạch Lam…
Các công trình của các tác giả đi trước đã gợi mở cho chúng tôi một số hướng
đi để triển khai trong luận án này.
1.2. Nghiên cứu nét phong cách qua sáng tác nói chung.
Sơn Nam thuộc trong số những nhà văn được giới nghiên cứu phê bình và các
đồng nghiệp là các nhà văn, nhà thơ rất quan tâm và chú ý. Từ những tác phẩm đầu
tay cho đến những bài viết cuối cùng trước khi từ giã cuộc đời của nhà văn vùng đất
mới thường được nhiều ý kiến đánh giá, bình luận với tấm lòng trân trọng. Ngay từ
1966, nhàn đàm và phỏng vấn về 12 nhà văn đương đại trên tạp chí Bách Khoa (của
Nguyễn Ngu Í), được tập hợp in thành sách “Sống Và Viết Với…” (Nhất Linh, Lê
Văn Trương, Lê Văn Siêu, Á Nam, Doãn Quốc Sỹ, Đông Hồ, Sơn Nam, Bình

Nguyên Lộc, Lê Ngọc Trụ, Vi Huyền Đắc, Nguyễn Hiến Lê, Hồ Hữu Tường), Phần
viết về nhà văn Sơn Nam từ trang 200 – 213, Nguyễn Ngu Í cho biết Sơn Nam rất tâm
huyết và nhiệt tình khi viết các truyện về thời khai mở đất phương Nam khi mảnh đất
ấy còn “Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua” [86; 45]. Trong tác phẩm Mười gương
mặt văn nghệ hôm nay, Tạ Tỵ viết về các nhà văn Lãng Nhân – Nguyễn Tuân - Vũ
Bằng – Vũ Hoàng Chương – Nguyễn Bính – Đinh Hùng – Văn Cao – Mai Thảo –
Nguyên Sa và Sơn Nam thì Sơn Nam được nhắc tới cùng với những tác phẩm tiêu
biểu của ông như Tìm hiểu đất Hậu Giang (1959), Hương rừng Cà Mau (1962), Hình
9


bóng cũ (1963), Vạch một chân trời (1964)… đã làm nên “Hơi thở của miền Nam đất
Việt”. Tác giả nhận xét về nét đẹp tinh tế của một tâm hồn Nam Bộ từ ngòi bút Sơn
Nam “Tâm hồn Sơn Nam bình dị, thật bình dị như cỏ cây và thanh thoát như khí trời.
Những lời nói và hành động trong văn chương cũng như giữa cuộc sống đều toát ra sự
hiền hòa, chân thực chẳng riêng với mình, còn với người. Quê hương miền Nam và
kích thước của miền Hậu Giang như gói trọn trong cơ thể Sơn Nam, nó là những vi
huyết quản, nó là xương máu, da thịt. Nó là sự bất khả lìa” [196].
Năm 1973, trong cuốn tạp văn Gốc cây, cục đá và ngôi sao của Sơn Nam,
Bình Nguyên Lộc, nhà văn chuyên viết về văn hóa miền Nam, đặc biệt là văn hóa
vùng Đông Nam Bộ, rất tâm đắc với các tác phẩm biên khảo và sáng tác về Nam Bộ
của Sơn Nam. Tác giả cho rằng những điều Sơn Nam thể hiện, những đề tài Sơn Nam
phản ánh có một “vẻ đẹp” lấp lánh, ẩn vào chiều sâu của truyền thống dân tộc, có thể
chưa nhiều người cảm nhận và yêu thích văn ông nhưng nó vẫn để lại những dấu ấn
không bao giờ phai mờ. Nhà văn “Con nai hiền của bình nguyên” (Bình Nguyên Lộc)
đã có một nhận định về “nhà văn miệt vườn” rất thú vị “Sơn Nam là một tâm hồn lạc
lõng trong thế giới buyn-đinh và Mercedes, trong thế giới triết hiện sinh, tranh trừu
tượng và nhạc tuýt. Nhưng đó là một tâm hồn đẹp không biết bao nhiêu (…). Nhưng
phải nhìn nhận rằng, cái đẹp Sơn Nam bất hủ...” [3a; 12].
Như vậy, cả ba nhà văn miền Nam trước 1975 đều khẳng định nét đẹp dung dị

về hương sắc miền quê Nam Bộ trong cảm quan của Sơn Nam. Nhà văn Bình Nguyên
Lộc đã nhìn thấy nét “văn hóa phương đông” riêng biệt độc đáo, không bị lai tạp bởi
những văn hóa phương Tây đang ào ạt thâm nhập vào các đô thị miền Nam bấy giờ
của Sơn Nam. Qua những nhận xét ấy các nhà văn phát hiện thoáng qua nét dung dị
mà uyên thâm có chiều sâu địa – văn hoá và lịch sử như một nét đặc sắc của nghệ
thuật văn phong.
Sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975), nhà văn, nhà khảo cứu, nhà Nam
Bộ học Sơn Nam được nhắc đến nhiều qua các bài viết, chuyên luận… Hồ Sĩ Hiệp
trong Vài nét về văn xuôi kháng chiến Nam Bộ (tạp chí Văn nghệ quân đội, tháng
8/1986), đánh giá Sơn Nam là “một cây bút viết truyện ngắn đáng chú ý ở Nam Bộ
trong cuộc kháng chiến chín năm”. Năm 1992, trong tập Tác gia văn học Việt Nam
(Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đình Chú, Nguyên An biên soạn, nhà xuất bản Giáo
dục xuất bản), Sơn Nam được xem là “một nhà văn, một nhà khảo cứu, về mảnh đất
cực Nam của tổ quốc” [114].
Năm 1997, trong bài viết Chủ nhân của rừng tràm, có một nhận định về sở
10


trường sáng tác của Sơn Nam "Ông Sơn Nam viết truyện không chỉ bằng tâm hồn của
một nhà văn yêu thương xứ sở mà còn là vốn tri thức lịch lãm của một nhà khảo cứu,
nhà địa phương học, hiểu biết sành sõi kỹ lưỡng về tính nết thổ ngơi, sản vật lịch sử
và địa bàn cư trú của nhân dân vùng đất Mũi" [11; 65]. Đó là sự phát hiện chất uyên
bác thể hiện phần nào trên trang viết.
Năm 2000, Nhà xuất bản Văn nghệ tái bản tuyển tập 26 truyện ngắn của Sơn
Nam. Lê Minh Đức đánh giá rất cao ngòi bút của nhà văn miền sông nước trên hai
lĩnh vực khảo cứu và sáng tác văn chương trong bài giới thiệu Những câu chuyện cũ
về một vùng đất mới. Theo Lê Minh Đức, tác phẩm của Sơn Nam là “chìa khóa mở
cửa vào tâm hồn người miệt vườn ở Nam Bộ”. Đối với bạn đọc trên mọi miền đất
nước, Lê Minh Đức cho rằng “Đọc sách của Sơn Nam thấy bổ ích, người đọc như
được thưởng thức một bữa cơm bình dân trông đạm bạc mà ngon miệng” [49; 5].

Phải chăng đây cũng là phong vị văn chương dung dị mà dân dã. Thời gian này nhiều
tác phẩm truyện ngắn của Sơn Nam được chuyển thể thành phim và được trình chiếu
như Mùa “ len” trâu, Một cuộc bể dâu…
Các nhà nghiên cứu sau 1975 cũng đã phát hiện ra những sáng tác của Sơn
Nam hướng đến đời sống bình thường của người dân miền Nam, cũng như ông am
hiểu rất sâu sắc văn hóa của người bình dân. Đây chính là lối cảm nhận rất đặc trưng
của Sơn Nam về văn hóa và con người Nam Bộ: cảm nhận văn hoá kết hợp với cảm
nhận hiện thực đời thường, về những con người đời thường.
Theo hướng này, năm 2007, trong công trình Truyện ngắn Việt Nam lịch sử thi pháp – thể loại, Phan Cự Đệ đã khảo sát những đặc trưng và thi pháp truyện ngắn
Việt Nam hiện đại trong đó có truyện ngắn của Sơn Nam. Tác giả nhận định, Sơn
Nam “là nhà văn, nhà biên khảo tâm huyết về vùng đất và con người Nam Bộ” [36;
697]. Đồng thời tác giả công trình còn ghi nhận, nhà văn Sơn Nam là một trong số ít
những nhà văn “mà nhắc tới tên của họ, người đọc sẽ nghĩ ngay đến những vùng đất,
những con người của một miền tổ quốc” [36; 697]. Cũng trong công trình này,
Nguyễn Thị Năm Hoàng sau khi phân tích và bình luận những tác phẩm của Sơn
Nam cho rằng tác phẩm nhà văn luôn nghiêng về đề tài quê hương, vùng sông nước
rất đặc trưng “Không phải những phố xá đông đúc, ồn ào, xa hoa và tráng lệ, Nam Bộ
hiện lên qua truyện ngắn Sơn Nam với những kênh rạch chằng chịt, những rừng tràm
bao la, những cánh đồng mênh mông… của đồng bằng sông Cửu Long” [36; 697].
Ngày 13 tháng 8 năm 2008, Sơn Nam đã mãi mãi ra đi sau một thời gian dài
bạo bệnh nhưng người đọc không quên nhà văn cũng như những sáng tác của ông. Có
11


rất nhiều bài viết đăng trên báo, trên các trang web… tỏ lỏng thương tiếc một người
con tài hoa của đất Nam Bộ và đánh giá một cách trân trọng di sản văn học mà ông để
lại. Đặng Tiến trong bài Sơn Nam, Việt Nam viết “Báo chí loan tin thường gọi ông là
nhà văn Nam Bộ”. Cách gọi này dù thân thương nhưng vô tình giới hạn tầm cỡ của
một tác gia lớn. Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn ngậm ngùi gọi tên ông như một lời tiễn
biệt Cây đước lớn miền châu thổ Cửu Long, đây cũng là tên bài viết của tác giả. Mỗi

câu văn là sự trân trọng, yêu mến đối với một người con ưu tú của đất Nam Bộ, một
nhà văn miệt mài tận tụy lê đôi chân gầy guộc đi khắp đồng bằng châu thổ sông Cửu
Long, để lại cho đời một gia tài đồ sộ. Tác giả đã có một phát hiện mới về Sơn Nam
“Ông đã tích tụ vào mình cả một nền văn minh mà chính ông đã đặt tên là “văn minh
miệt vườn”, cả một nền văn hoá mà chính ông đã gọi là “văn hoá sông nước” để làm
trữ lượng cho một đời cầm bút” [237]. Trong bài Điếu tang Sơn Nam, nhà văn Lê Văn
Thảo thay mặt các văn nhân thi sĩ và thế hệ trẻ viết lên những lời thương tiếc trang
trọng “ông là cây đước bám vào phù sa đất sình vùng ngập mặn mà vẫn cố vươn với
đời” (Lê Văn Thảo, 2008).
Cũng trong năm 2008, nhà nghiên cứu Nguyễn Q. Thắng cho ra đời công trình
công phu Văn học Việt Nam nơi miền đất mới, tập 3. Công trình phác họa diện mạo
văn học ở khu vực phía Nam. Trong đó, Sơn Nam được giới thiệu với danh xưng khá
quen thuộc – nhà văn của miệt vườn Nam Bộ. Nguyễn Q. Thắng nghiên cứu kỹ lưỡng
và có cái nhìn sâu hơn về Sơn Nam, tác giả đã so sánh nhà văn miệt vườn với các nhà
văn cùng thời và nhận định Sơn Nam là một nhà văn có tâm huyết với vùng đồng
bằng sông Cửu Long, đặc biệt là vùng Tây Nam Bộ “Đa số độc giả đều nghĩ rằng
muốn hiểu sinh hoạt miền Nam trước đây thì đọc Hồ Biểu Chánh và gần hơn là đọc
Bình Nguyên Lộc (Đông Nam Bộ), Sơn Nam (Tây Nam Bộ). Do vậy muốn tham
quan đồng bằng sông Cửu Long thì Sơn Nam là một hướng dẫn viên đáng tin cậy”
[175; 1212].
Năm 2009, công trình do Lê Phú Khải chủ biên, tập hợp nhiều bài viết về cuộc
đời và sự nghiệp văn chương Sơn Nam của Lê Văn Thảo, Nguyễn Quang Sáng, Võ
Đắc Danh, Lê Phú Khải, Đoàn Minh Tuấn…, tập sách có tên là Đó là Sơn Nam. Đây
là những ghi nhận, ý kiến đánh giá về sự nghiệp sáng tác và biên khảo rất đáng trân
trọng của nhà văn Sơn Nam. Điển hình như Trần Phỏng Diều với bài viết Con người
trong truyện ngắn Sơn Nam, tác giả đi sâu phân tích tính cách con người Nam Bộ
trong truyện ngắn Sơn Nam và rút ra kết luận“Con người trong truyện ngắn Sơn
Nam. Trong bài viết cùng tên Đó là Sơn Nam,Lê Phú Khải có một nhận định thú vị về
12



truyện ngắn Sơn Nam “Đừng có ai đi tìm thể loại hay bố cục trong một truyện ngắn,
hay một cuốn sách của Sơn Nam. Nhưng đã cầm đến nó thì phải đọc đến trang cuối.
Vì càng đọc càng thấy yêu nhân vật của ông. Càng thấy yêu mảnh đất Nam Bộ, miền
cực Nam của đất nước” [91; 71]. Đánh giá cao vị trí của Sơn Nam trong bộ phận văn
học viết về Nam Bộ qua tập truyện Hương rừng Cà Mau, Đoàn Minh Tuấn viết “Sau
cụ Vương Hồng Sển thì Sơn Nam là cây viết sắc sảo về đồng bằng Nam Bộ với con
người, thiên nhiên, cỏ cây, sông nước vùng đất phương Nam này” [91; 88]. Những
nhận xét trên thể hiện tầm nhìn sắc sảo nhận biết sâu sắc và hiểu thấu đáo hồn đất,
tính người của nhà văn Sơn Nam .
Cuối năm 2012, trong buổi Tọa đàm 50 năm Hương rừng Cà Mau của nhà văn
Sơn Nam, các nhà văn, nhà thơ như Lê Minh Quốc, Vũ Đức Sao Biển, Mạc Can,
Nguyễn Đông Thức, nhà giáo Đinh Công Tâm và Lê Hữu Thành… đều có chung
nhận định “Nhà văn Sơn Nam đã hoàn thành sứ mệnh của mình với văn học miền
Nam”. Đặc biệt, nhà thơ Lê Minh Quốc dành rất nhiều tình cảm cho Sơn Nam trong
tham luận 50 năm Hương rừng Cà Mau “Rõ ràng “văn minh miệt vườn” trong tâm
thức của nhà văn Sơn Nam gắn chặt với cội nguồn của máu thịt nước Việt” [232].
Gần đây nhất (2013), trong chuyên luận khá công phu Văn hóa Nam Bộ qua
cái nhìn của Sơn Nam của Võ Văn Thành, tác giả chuyên luận đã khái quát những
vấn đề văn hóa Nam Bộ qua các sáng tác cũng như biên khảo của Sơn Nam và dựa
trên lý thuyết văn hóa học đánh giá những đóng góp của nhà văn Sơn Nam về sắc thái
văn hóa Nam Bộ đối với nền văn học nước nhà. Tác giả đã chia văn hóa Nam Bộ
được phản ánh trong biên khảo và sáng tác văn học của Sơn Nam thành hai bộ phận:
văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Nhà nghiên cứu kết luận rằng, những công
trình biên khảo và sáng tác văn học của Sơn Nam đã có những đóng góp đáng trân
trọng đối với nền văn học, văn hóa Nam Bộ “Ông đã cung cấp cho độc giả những tư
liệu vừa phong phú vừa đa dạng về công cuộc khẩn hoang của Nam Bộ (…), ông còn
có những nhận xét về văn hóa Nam Bộ rất đúng đắn và có giá trị….” [173; 177]. Điều
đó càng làm nổi bật cảm quan văn hoá nổi bật của Sơn Nam. Cũng năm 2013, nhà
ngôn ngữ học Huỳnh Công Tín nhận xét “Nhà văn Sơn Nam là người am hiểu nhiều

vấn đề Nam Bộ; biết rõ tâm lí, tính cách con người Nam Bộ. Các sáng tác của ông đã
giúp ích rất nhiều cho việc nghiên cứu những vấn đề Nam Bộ từ nhiều phương diện:
lịch sử, văn hóa, xã hội, phong tục, tập quán, lễ hội, phương ngữ, ngành nghề...”
[245]. Nhìn chung những nhận định của các nhà phê bình, những nhà nghiên cứu, độc
giả, người quan tâm đến Sơn Nam đều có chung nhận định là Sơn Nam có kiến thức
13


rất phong phú, sự am hiểu rất uyên thâm về mảnh đất và con người miền Nam miệt
mài chăm chỉ khó có ai qua được.
Đối với các tác phẩm cụ thể của nhà văn, cũng có những nhận định thống nhất
như những phát hiện về đặc điểm nghệ thuật viết của Sơn Nam. Nhà văn đã để lại
cho đời một di sản giá trị, bao gồm hai mảng: biên khảo và sáng tác văn chương.
Trong mảng sáng tác, ông viết nhiều thể loại từ tiểu thuyết, ký, truyện vừa, truyện
ngắn đến tạp văn và đề cập đến nhiều đề tài… ở thể loại nào, đề tài nào, ông cũng để
lại ấn tượng đẹp đẽ trong lòng người đọc. Nhưng thành công nhất có lẽ là tập truyện
ngắn Hương rừng Cà Mau. Tác phẩm được xuất bản nhiều lần nhưng vẫn có nhiều
độc giả tìm đọc. Và đây cũng là tác phẩm tốn không biết bao nhiêu giấy mực và tâm
huyết luận bình, đánh giá của các nhà lý luận, phê bình như Viễn Phương, Trần Bạch
Đằng, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đình Chú, Trần Văn Giàu, Trần Hữu Tá…
Năm 1986, khi tập sách Hương rừng Cà Mau được Nhà xuất bản Trẻ tái bản,
Viễn Phương trong Lời giới thiệu đã bộc lộ sự ngưỡng mộ chân thành đối với nhà văn
phương Nam, tác giả nhận định Hương rừng Cà Mau là những trang sử trường tồn
cùng với thời gian, hình ảnh thiên nhiên và con người trong tác phẩm là lời nhắc nhở
cho bao thế hệ sau nhớ đến công lao của cha ông trên con đường khai hoang mở đất
“Đọc Hương rừng Cà Mau, đồng bào hiểu thêm về đời sống, về con người của vùng
đất xa xôi, huyền bí này… dù có ít nhiều hạn chế, tuy nhiên Hương rừng Cà Mau vẫn
là một tác phẩm có giá trị và nó vẫn sống trong lòng người đọc, nó vẫn sống với thời
gian” [146; 6-7].
Đến năm 1998, theo nhu cầu bạn đọc, Nhà xuất bản Trẻ tiếp tục tái bản Hương

rừng Cà Mau. Trong Lời giới thiệu, Hoàng Phủ Ngọc Phan tâm đắc những câu
chuyện dân dã nhưng đậm tình người, tình quê hương, thấm đẫm văn hóa truyền
thống dân tộc như Cây huê xà, Hòn Cổ Tron, Miễu Bà Chúa xứ, Hương rừng… Ông
khẳng định “Hương rừng Cà Mau là một quyển cảo thơm, là một quyển sử không có
số chương…”, tác giả không tiếc lời ca ngợi, so sánh với tác phẩm tên tuổi trước đó
“Có thể ví Vang bóngmột thời và Hương rừng Cà Mau là hai mảnh dư đồ, đem ghép
lại sẽ có một bức tranh tuyệt tác của đất nước vào khoảng nửa đầu thế kỷ” [142; 6].
Năm 2000, Trần Hữu Tá trong Nhìn lại một chặng đường văn học đánh giá cao
và khẳng định vị trí của Sơn Nam trên văn đàn công khai 1954 - 1975, tác phẩm của
ông không chỉ giúp người đọc tiếp nhận kiến thức về văn hóa, con người Nam Bộ mà
còn tạo cho con người những cảm xúc thẩm mỹ "Hương rừng Cà Mau đáng quý vì
đem lại cho người đọc bình thường những cảm xúc thẩm mỹ bổ ích, những gợi ý tích
14


cực về đất nước và tình người" [165; 457]. Cũng Nguyễn Q. Thắng trong Văn học
Việt Nam - miền đất mới, tập 3 cho rằng Hương rừng Cà Mau là tác phẩm đáng chú ý
và sáng giá nhất của Sơn Nam về sông nước, kinh rạch miền Tây Nam đất mẹ “Tác
phẩm đã vẽ lên và cũng trình bày được thực trạng một địa phương giàu tiềm năng
kinh tế nông nghiệp nhưng bị xã hội cũ làm cho tha hóa. Hơn 40 năm tác phẩm ra đời
và được in đi in lại nhiều lần mà vẫn còn lắm độc giả tìm đọc” [175; 1215].
Nguyễn Trường nhận xét về phong cách độc đáo truyện ngắn Hương rừng Cà
Mau trong bài viết Sơn Nam - Nhà văn của miệt vườn Nam Bộ in trong tập Đó là Sơn
Nam như sau “Hấp dẫn ở truyện của ông là cái lạ ở vùng đất thuở ‘mồ hôi vã bãi lầy
thành đồng lúa’ (Nguyên Hồng) của người dân Nam Bộ. Một cảnh bắt sấu trong rừng
U Minh, hái thuốc trên núi, hát bội trên rừng... Với những nhân vật lạ lùng khác
người, đầy cá tính: những kẻ giang hồ tứ chiếng, lục lâm thảo khấu, anh hùng hảo
hớn…” [91; 19 - 20]. Bắt sấu rừng U Minh Hạ là một truyện ngắn được nhiều người
ưa thích vì chất hùng tráng và thơ mộng của nó. Trong cảnh dữ dội của sông nước
thời khẩn hoang, hình ảnh nhân vật Năm Hên như một anh hùng chiến đấu với thú

dữ, với thiên nhiên hoang sơ để bảo vệ thành quả của những người dân đi mở cõi,
trong Bắt sấu rừng U Minh Hạ của Sơn Nam: Hình tượng người nông dân mở đất,
Trần Phỏng Diều đánh giá “Bắt sấu rừng U Minh Hạ là một trong những truyện ngắn
đặc sắc của Sơn Nam. Nó cho ta thấy được diện mạo của vùng đất Nam Bộ thời khẩn
hoang, đồng thời thể hiện được nỗ lực của con người trong việc chống chọi lại với
thiên nhiên” [203].
Cuối năm 2012, nhà xuất bản Trẻ kết hợp với Báo Tuổi trẻ tổ chức buổi Tọa
đàm 50 năm Hương rừng Cà Mau của nhà văn Sơn Nam, trong bản tham luận 50 năm
Hương rừng Cà Mau, nhà thơ Lê Minh Quốc phát biểu rất hùng hồn về sự thành công
của tập truyện Hương rừng Cà Mau. Theo tác giả, “văn minh miệt vườn” trong tâm
thức của nhà văn Sơn Nam gắn chặt với cội nguồn máu thịt nước Việt. Trong khi các
nhà văn đương thời đi khai thác cảnh “phồn hoa đô hội” ở đô thị thì tất cả các truyện
của Sơn Nam đều quay về với về với sinh hoạt, phong tục, cảnh vật của vùng đất xa
xôi như Rạch Giá, Cà Mau, Gò Quao, Hòn Tre… giúp cho bạn đọc một cái nhìn thân
ái, gần gũi với những nơi “khỉ ho gà gáy” mà họ chưa từng biết đến trước đó. Điều đó
tạo nên sự thành công của tác phẩm. Nhà thơ kết luận thành công lớn của Hương
rừng Cà Mau là “tính cách nhân vật, bối cảnh lịch sử, địa lý (…) chứng minh phép
ứng xử văn hóa, nếp sống, bản lĩnh của người Nam Bộ đã hình thành nên “văn minh
miệt vườn”. Và văn minh đó (nếu được gọi như thế) là một bộ phận không thể tách
15


rời của một nước Việt Nam thống nhất” [232]. Cũng trong buổi Tọa đàm này, Anh
Vân cũng bình luận về các truyện ngắn trong Hương rừng Cà Mau, tác giả tỏ ra thích
thú đặc biệt với truyện ngắn Tình nghĩa giáo khoa thư, sau khi say sưa nói về ý nghĩa
của của những bài học trong sách giáo khoa mà hai nhân vật trong truyện nhắc đến,
tác giả khẳng định “Ai từng đọc Tình nghĩa giáo khoa thư không thể quên được tình
người nồng đượm trong từng câu chữ...” [252].
Mùa “len” trâu cũng là một tác phẩm kích thích sự tò mò và gây hứng thú cho
người đọc, ngay với cả những nhà làm phim. Phạm Thị Thu Thủy trong bài viết Dấu

ấn Nam Bộ trong truyện ngắn Mùa “len” trâu của nhà văn Sơn Nam, tỏ ra tâm đắc
với tác phẩm nên đã phân tích, bình luận một cách say mê về một hình thái nghề
nghiệp đặc trưng của vùng sông nước “Viết về mùa “len” trâu, nhà văn Sơn Nam đã
chạm vào nỗi lo, sự ám ảnh thường trực của những người nông dân đồng bằng sông
Cửu Long”. Công việc “len” trâu là công việc nặng nhọc và nhiều bất trắc nhưng
cũng đem lại cho con người những trải nghiệm về sự thơ mộng và hùng vĩ, cũng là
“hành trình từ con nít trở thành người lớn, thu nhận vào mình, bụi trần tục, nỗi truân
chuyên” [188]. Ngoài Hương rừng Cà Mau, có những bài viết lẻ tẻ về các tác phẩm
khác của Sơn Nam như Nguyễn Q. Thắng viết về Hình bóng cũ “nội dung mang hồn
tình người Việt muôn nơi và muôn thuở” [175: 1219]. Đối với truyện ngắn Tây Đầu
đỏ, trong bài viết Sơn Nam và truyện ngắn Tây Đầu đỏ (2012), Nguyễn Văn Hà cho
rằng, đây là một trong hai tác phẩm đầu tay được viết vào năm 1952 của Sơn Nam
nhưng sức khái quát của nhà văn thật đáng trân trọng. Truyện ngắn này không chỉ
phản ánh sự khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Pháp ở miền Nam, sự tàn ác của
giặc Pháp mà còn nêu bật được sức sống tiềm tàng của nhân dân Nam Bộ trong chiến
tranh dù bị bóc lột và chà đạp dưới gót giày của quân xâm lược. Tác giả nhấn mạnh
“So với truyện ngắn Nam Bộ cùng thời, Tây Đầu Đỏ nổi trội ở tầm khái quát hiện
thực và chiều sâu tư tưởng. Tuy là chuyện trong một xóm nhỏ nhưng với lối viết vừa
tả thực vừa gợi liên tưởng, Sơn Nam dường như hướng nhận thức người đọc tới những
vấn đề rộng lớn hơn: về “lòng dân”, về “con đường sống”…” [207].
Các công trình, các bài viết và những nhận xét trên không ít thì nhiều đã đề
cập đến một số phương diện thể hiện những đặc điểm phong cách nghệ thuật tác giả
nhưng chủ yếu mới chỉ là những nhận định nằm rải rác trong các công trình nghiên
cứu mang tính khái quát, giới thiệu, chưa thực sự đi sâu nghiên cứu chuyên biệt phong
cách nghệ thuật trong sáng tác của nhà văn Sơn Nam.

16


1.3. Nghiên cứu một số phương diện thuộc yếu tố mang phong cách Sơn Nam

Ngay từ 1970, Tạ Tỵ đã đánh giá Sơn Nam rất cao, ông cho Sơn Nam là một
trong những nhà văn “có giá trị của miền Nam nước Việt”. Năm 1986, đã có những
nhà nghiên cứu chú ý đến truyện ngắn của Sơn Nam. Khi Nhà xuất bản Trẻ cho ra đời
tập sách Hương rừng Cà Mau (tập 1), Viễn Phương, người viết lời tựa cho quyển
sách nhận định rằng đây là một cây bút viết truyện ngắn tiêu biểu của văn xuôi Nam
Bộ thế kỷ XX và tin tưởng vào sức sống và giá trị của tập truyện ngắn này. Ba mươi
năm qua, niềm tin của nhà văn Viễn Phương vẫn còn nguyên giá trị. Cùng năm, trên
Tạp chí Văn nghệ Quân đội, tác giả Hồ Sĩ Hiệp với bài viết Vài nét về văn xuôi kháng
chiến Nam Bộ cũng quan tâm và đánh giá cao những tác phẩm đầu tay của Sơn Nam
như Bên rừng Cù Lao Dung, Tây đầu đỏ, Cây đàn miền Bắc… Nhận xét về nghệ
thuật viết văn xuôi của Sơn Nam có nhiều ý kiến. Các nhà nghiên cứu tập trung chú ý
vào một số phương diện:
Nhiều nhận xét đánh giá về văn phong của Sơn Nam. Các nhà phê bình có
cùng chung một nhận định về văn phong của nhà văn miệt vườn thường mộc mạc,
giản dị như lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân lao động. Năm 1970, Tạ Tỵ trong
bài viết Sơn Nam, hơi thở của miền Nam nước Việt có một nhận xét rất hay về nhà
văn Sơn Nam khi cho rằng, ông có thể làm chủ bút pháp của mình trong nhiều tác
phẩm chuyên viết về đồng ruộng, là vì Sơn Nam đã am hiểu đất Hậu Giang thật chu
đáo “Sơn Nam viết văn giản dị như nói chuyện. Câu chuyện tuy quê mùa nhưng
không kém tế nhị sâu sắc” [196].
Trần Hữu Tá trong Nhìn lại một chặng đường văn học (2000) ghi nhận
“Hương rừng Cà Mau đem lại cho người đọc bình thường những cảm xúc thẩm mỹ”
[165; 457]. Trên tờ báo Thanh niên số 60 (2260), tháng 3/2002, Hà Đình Nguyên
trong Nhà văn Sơn Nam - Mời ông! Tiếp tục lên đường... cho rằng văn phong Sơn
Nam được “... dùng ngòi bút như lưỡi cày, bền bỉ cày xới lên ruộng vườn văn hóa
bằng một văn phong giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất thâm thúy như chính con người
ông”. Trần Mạnh Hảo trong bài viết Sơn Nam, dề lục bình Nam Bộ (2004) có một so
sánh thú vị “Văn Sơn Nam không ồn ào như gió chướng, lại không trong veo như
nước cất trong phòng thí nghiệm, mà nó là thứ nước chất lỏng hồng hào có tên phù
sa, chỉ cần vốc lên đã thấy màu mỡ cả bàn tay...” [209]. Còn Huỳnh Công Tín với bài

Sơn Nam - Nhà Nam Bộ học trong Cảm nhận bản sắc Nam Bộ nhận định, Văn phong
của nhà văn miệt vườn đã kế thừa và phát huy được văn phong những nhà văn Nam
Bộ đi trước như Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Trọng Quản, Phi Vân, Bình Nguyên Lộc…
17


Trong công trình qui mô Văn học Việt Nam - miền đất mới, tập 3, nhà lý luận phê
bình Nguyễn Q. Thắng trình bày và đánh giá tác phẩm của nhà văn miệt vườn một
cách chi tiết, ông đã kết luận về lối hành văn của Hình bóng cũ “Nghệ thuật kể
chuyện tự nhiên, đơn giản mà hấp dẫn người đọc bởi cái tinh thần hài hước, nhẹ
nhàng cộng với không khí hoài cổ man mác” [175; 1219]. Lê Phú Khải trong Đó là
Sơn Nam (2009) viết “Đọc Sơn Nam người ta kinh ngạc về sự độc đáo của văn
phong. Ông viết như nói... Nhưng sức nặng của thông tin và cảm xúc của người viết
khiến lời văn biến hóa khôn lường” [91; 71]. Đoàn Minh Tuấn nhận xét trong Nhớ
mãi nhà văn Hương rừng Cà Mau “Văn ông giản dị, tinh tế, hài hước và rất nhiều tư
liệu quý” [105: 88]. Từ những đánh giá của các nhà bình luận, những nét dung dị
nhưng uyên thâm trong văn phong Sơn Nam đã được phát hiện.
Nhân dịp buổi Tọa đàm 50 năm Hương rừng Cà Mau, cuối năm 2012, nhà
giáo Đinh Công Tâm có kể lại ấn tượng của mình đối với Sơn Nam. Ông đã lưu giữ
tất cả tác phẩm của “Nhà văn Nam Bộ” trong bộ sưu tập của mình và tâm đắc nhất
truyện Tình nghĩa giáo khoa thư trong Hương rừng Cà Mau. Ông cho rằng, văn Sơn
Nam đã giúp cho ông rất nhiều trong cuộc đời viết lách của mình “Lối viết bình dị
dân dã mang lại bài học vô giá, ngòi bút tải đạo đó giúp tôi tự rèn giũa và viết sách về
giáo dục về sau” [240].
Các nhà nghiên cứu trước và sau năm 1975 đều có một nhận định giống nhau
về văn phong Sơn Nam là giản dị nhưng tinh tế.
Về nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng phát hiện một số đặc điểm:
Tạ Tỵ và nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu cũng như độc giả miền Nam trước
1975 đều có cùng một nhận định là Sơn Nam là nhà văn của nông thôn, của vùng sông
nước Cửu Long nên các nhân vật của ông “rất xa lạ đối với dân thành phố nhưng rất

gần gũi với cuộc sống nông thôn” [196]. Năm 2006, Nhà văn Nguyễn Quốc Trung
trong bài viết Dấu ấn Sơn Nam đã có một đánh giá khá sâu sắc về nhân vật trong tác
phẩm Sơn Nam “Nhân vật của Sơn Nam nói năng khiêm cung, như tự hạ mình, nhưng
thực ra bên trong họ có những trí khôn và sức mạnh tiềm tàng” [248]. Năm 2009, trong
luận văn thạc sĩ Nghệ thuật kể chuyện của Sơn Nam qua Hương rừng Cà Mau, Hoàng
Thị Ngọc Bích đã khảo sát và phân loại nhân vật trong tập truyện Hương rừng Cà Mau
cho biết rằng mỗi truyện ngắn của Sơn Nam dung lượng trên chục trang và có ít nhân
vật. Theo thống kê của tác giả, tập truyện Hương rừng Cà Mau có 185 nhân vật, mỗi
truyện của ông có từ hai đến bốn nhân vật, trong đó có truyện đến hai nhân vật chính.
Nhà văn đi vào khám phá đời sống của nhân vật trong phạm vi hẹp “trong làng, ấp nhỏ
18


lẻ, hoang vắng, trong những mối quan hệ chòm xóm cùng lao động, cùng sinh hoạt văn
hóa” [10; 10]. Trong một bài viết Sự hướng thiện của các nhân vật trong tiểu thuyết
Sơn Nam, sau khi phân tích quá trình trăn trở, dằn vặt bản thân để đi đến tự hoàn thiện
mình của các nhân vật trong tiểu thuyết Xóm Bàu Láng, Bà Chúa Hòn, Vạch một chân
trời, Chim quyên xuống đất, tác giả Trần Thị Hạnh khái quát “Thành công của Sơn
Nam chính là nhìn được quá trình đấu tranh hướng đến cái thiện và tạo cơ hội cho các
nhân vật tự hoàn thiện mình. Ông đã thể hiện cái chất của con người Nam Bộ một cách
đặc sắc với đầy đủ tính hiện thực” [63].
Trong Ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn của Sơn Nam, sau khi khảo sát
các nhân vật trong truyện ngắn, chủ yếu là Hương rừng Cà Mau, Trần Phỏng Diều
nhận định “Nhân vật trong truyện ngắn Sơn Nam đa dạng và phong phú”. Một bài
viết đã phân tích nhân vật Tây đầu đỏ một cách tỉ mỉ và không kém phần sâu sắc của
Nguyễn Văn Hà trong Sơn Nam và truyện ngắn Tây đầu đỏ đã khái quát về nhân vật
kẻ xâm lược” điển hình, thật sự chứ không phải là “cái bóng” hoặc một hình ảnh mờ
nhạt “Nhân vật Tây Đầu đỏ của Sơn Nam là bước tổng hợp, nâng cao hình ảnh của
giặc Pháp ít nhiều đã được đề cập trong các sáng tác văn xuôi cùng thời” [207].
Như vậy, khi bàn về nhân vật trong truyện của Sơn Nam, Tạ Tỵ, Nguyễn Quốc

Trung, Trần phỏng Diều, Hoàng Ngọc Bích đều có chung nhận xét nhân vật trong
truyện Sơn Nam phong phú và đa dạng. Dù loại nhân vật nào họ cũng là những con
người bình dị của làng quê Nam Bộ.
Về lối kể chuyện, cách sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu… của Sơn Nam cũng
được các nhà phê bình chú ý.
Phần lớn các tác giả đều cho rằng Sơn Nam đã đưa lối nói Nam Bộ hồn nhiên
và dung dị vào văn chương một cách thú vị và độc đáo.
Ngay từ năm 1970, trong bài viết Sơn Nam – Hơi thở của miền Nam nước Việt
trích trong Mười khuôn mặt văn nghệ, nhà văn Tạ Tỵ đã rất tâm đắc với Sơn Nam,
với những câu chuyện bất hủ như Bác vật xà bông, Miễu Bà chúa Xứ, Cây huê xà, Cô
Út về rừng, Hát bội giữa rừng…đã có nhận xét về cách viết truyện của nhà văn của
vùng châu thổ này “Trong tác phẩm “Chim quyên xuống đất”, Sơn Nam áp dụng kỹ
thuật viết truyện dài với những gút thắt mở, với tình tiết ly kỳ để “bắt trớn” và đôi khi
rời bỏ quê hương – sở trường – để thử sức với đôi cánh. Đường bay tuy không đuối
nhưng nó làm người đọc bơ vơ, nhức mỏi” [196]. Hoàng Phủ Ngọc Phan nhấn mạnh
giá trị của tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau khi nó vừa được tái bản năm 1998
“... Cái hay của nó không chỉ ở hình ảnh, câu chữ mà còn ở cái “thần” của bút pháp
19


×