Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

LUẬN văn LUẬT HÀNH CHÍNH các GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG lập PHÁP của QUỐC hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 91 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP CỦA
Trung tâm Học liệu ĐH CầnQUỐC
Thơ @ TàiHỘI
liệu học tập và nghiên cứu

Cán bộ hướng dẫn:
PHẠM THỊ DIỆU HIỀN

Sinh viên thực hiện:
TRƯƠNG TẤN LỘC
MSSV: 5044180
Lớp: Luật Hành Chính K30

Cần Thơ, 2008


Mục Lục
·—¸

Trang
Lời mở đầu……………………………………………………………………………..
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG ĐẠI DIỆN CỦA QUỐC HỘI…….
I. Địa vị pháp lý của Quốc hội ………………………………………………
1. Khái quát chung…………………………………………………………….
2. Cơ cấu tổ chức của Quốc hội………………………………………………


2.1 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch Quốc hội…………………..
2.2 Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội………………………..
2.3 Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội…………………………
3. Nhiệm vụ và quyền hạn cơ bản của Quốc hội………………………………
3.1 Quyền lập hiến và lập pháp của Quốc hội……………………………..
3.2 Quyền quyết định những vấn đề quan trọng của quốc gia……………..
3.3 Quyền giám sát tối cao của Quốc hội………………………………….
II. Chức năng lập pháp của Quốc hội……………………………………………..
1. Cơ sở pháp lý………………………………………………………………
2. Chức năng lập pháp của Quốc hội………………………………………….
2.1 Khái
quát
chung……………………………………………………….
Trung tâm Học liệu
ĐH
Cần
Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
2.2 Các giai đoạn quy trình lập pháp của Quốc hội……………………….
CHƯƠNG II: CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP
CỦA QUỐC HỘI……………………………………………………………………………
I.Đánh giá chất lượng dự án luật, pháp lệnh hiện nay…………………………
1. Về phương diện nội dung…………………………………………….
1.1 Những kết quả đạt được………………………………………….
1.2 Những hạn chế ……………………………………………………
2. Về phương diện hình thức……………………………………………..
2.1 Những kết quả đạt được………………………………………….
2.2 Những hạn chế…………………………………………………..
II.Một số vấn đề về hoạt động lập pháp của Quốc hội khoá XI………………..
1. Đánh giá chung………………………………………………………
2. Những đổi mới cụ thể trong công tác xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội

khóa XI………………………………………………………………………
2.1 Trong việc đổi mới nhận thức và lý luận về hoạt động lập pháp…………
2.2 Trong việc đổi mới quy trình lập pháp………………………………
2.3 Trong tổ chức thực hiện……………………………………………….
3. Những kết quả đạt được…………………………………………………….
3.1 Về việc lập chương trình xây dựng pháp luật………………………
3.2 Việc soạn thảo dự án luật, pháp lệnh của Quốc hội…………………
3.3 Việc xem xét, thông qua các dự án luật, pháp lệnh………………….
4. Những hạn chế cơ bản trong quá trình lập pháp của Quốc hội khoá XI….


III. Các giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động lập pháp của Quốc hội……………….
1. Quan điểm và nguyên tắc cơ bản tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức ……….
2. Các giải pháp chủ yếu tăng cường hiệu quả hoat động lập pháp……………
2.1 Năng cao hơn nữa nhận thức về nhà nước và pháp luật…………………
2.2 Đổi mới tư duy pháp lý trong hoạt động lập pháp……………………
2.3 Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật……………………………..
2.4 Cần xác định rõ hơn vị trí, vai trò và cơ cấu tổ chức…………………..
2.5 Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn………………………
2.6 Năng cao chất lượng, đổi mới chế độ bầu cử………………………….
2.7 Nâng cao chất lượng Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban…………………
2.8 Thu hút sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học……..............
Kết luận………………………………………………………………………………………….

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu


Luận văn tốt nghiệp

Trương Tấn Lộc


LỜI NÓI ĐẦU
·—¸

Để tiếp tục đổi mới Quốc hội một cách đúng hướng, phù hợp với nhiệm vụ đặt
ra của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng cộng sản Việt Nam, trước hết cần
phải có sự thống nhất về các quan điểm và nguyên tắc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Quốc hội ở nước ta trong thời gian tới. Trong đó, đổi mới hơn nữa qui trình xây
dựng luật, giảm nhẹ việc ban hành pháp lệnh là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
trong công tác “ đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội”. Đặc biệt, hiện nay trước
tình trạng thiếu nhiều luật điều chỉnh các vấn đề trong xã hội và thực trạng luật đã có
hiệu lực mà không áp dụng được vì phải chờ các nghị định, thông tư hướng dẫn của
Chính phủ, và các bộ, ngành v.v…đã có nhiều ý kiến cho rằng Quốc hội phải dành
việc làm luật và chủ động làm luật trong thời gian tới, nói đúng hơn phải tăng cường
hiệu quả hơn nữa trong công tác hoạt động lập pháp của Quốc hội để Quốc hội thực sự
là “ cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và đáp ứng yêu cầu xu thế quốc tế hóa
ngày càng mạnh mẽ. Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI đã đi qua, một chặng đường hoạt
động với không ít thách thức nhưng cũng có rất nhiều thành công, đồng thời cũng sẽ
có những vấn đề trong nhiệm kỳ Quốc hội cần đặt ra xem xét, đánh giá rút kinh
nghiệm và nêu lên các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác lập pháp của
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Quốc hội. Tuy nhiên, để việc tổng kêt, đánh giá hoạt động của Quốc hội khóa XI cũng
như của các khóa Quốc hội tiếp theo thật sự có hiệu quả thì phải có những đổi mới cơ
bản và triệt để trong đánh giá. Nhưng yêu cầu trước hết phải đặt ra là xác định đúng,
cụ thể đối tượng, mục đích, ý nghĩa, phương pháp nghiên cứu, nguyên tắc, tiêu chí
đánh giá. Đây là nghiên cứu, tổng hợp, phân tích và đề xuất có tính cách cá nhân qua
việc đúc kết những mặt được, chưa được trong qui trình lập pháp của Quốc hội vừa
qua, nêu ra các giải pháp nhằm góp phần xây dựng Quốc hội mạnh hơn, có hiệu lực

hơn, hiệu quả hơn, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của nhân dân cả nước và yêu cầu
hội nhập quốc tế hiện nay nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Do trình độ còn hạn chế và khả năng nghiên cứu chưa sâu nên trong quá trình
soạn thảo, thực hiện đề tài vẫn không tránh được những sai sót nhất định. Rất mong
nhận được ý kiến đóng góp, phê bình, trao đổi của quý thầy cô và ban đọc về đề tài
này.
Đăc biệt, xin chân thành cảm ơn cô Phạm Thị Diệu Hiền- Giáo viên, Khoa luật
hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
#Sinh viên thực hiện

1


Luận văn tốt nghiệp

Trương Tấn Lộc

Chương I
QUỐC HỘI
W—X
I. Địa vị pháp lý của quốc hội
1. Khái quát chung
Quốc hội là một thiết chế đại diện cho nhân dân, dù ở chế độ tư bản chủ
nghĩa hay chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhìn lại lịch sử hình thành Nghị viện trên thế giới,
nghị viện ra đời là nhằm đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân để giám sát lại
chính phủ ( mà ban đầu là nhà vua). Từ chức năng đại diện mới sinh ra tất cả các
quyền lực của Quốc hội. Quyền lực của Quốc hội được hành xử trên cơ sở đại diện và
vì sự đại diện. Do đó nói đến Quốc hội thực quyền có nghĩa là làm sao để Quốc hội
thực sự là một thiết chế đại diện cho nhân dân, chứ không phải bắt đầu từ cách đặt vấn

đề làm sao để Quốc hội trở thành một cơ quan quyền lực cao nhất. Nhà nước pháp
quyền, trước hết, là một nhà nước đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức, hoạt động

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật

phải là cơ sở của mọi hình thức tổ chức quyền lực công, mọi đường lối, chính sách,
quyết định của nhà nước đều phải dựa vào hiến pháp và các đạo luật, phục tùng pháp
luật và tất cả các mối quan hệ qua lại giữa nhà nước và cá nhân cũng phải dựa trên cơ
sở của pháp luật. Tuy nhiên khác với nhà nước pháp tại, pháp luật của nhà nước pháp
quyền phải vươn tới sự đầy đủ, toàn diện tất cả các lĩnh vực, với phương châm: đối với
“cá nhân thì cho phép làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm”, còn đối với “cơ
quan nhà nước và những người có thẩm quyền, chỉ được phép làm những gì mà pháp
luật qui định”. Pháp luật của nhà nước pháp quyền phải là pháp luật vì con người, bảo
vệ quyền con người, pháp luật phải trở thành phương tiện cho mọi cá nhân phát huy
năng lực sáng tạo, tham gia một cách tích cực vào công việc xây dựng và phát triển đất
nước, tạo lập hành lang pháp lý đầy đủ cho sự phát triển của xã hội, bảo đảm dân chủ,
bình đẳng trong xã hội. Để xây dựng nhà nứoc pháp quyền xã hội chủ nghĩa trước hết
phải xây dựng được hệ thống pháp luật tốt cả về nội dung và hình thức thể hiện và
được mọi công dân đề cao, tôn trọng, nghiêm túc chấp hành. Việc xây dựng và hoàn

2


Luận văn tốt nghiệp

Trương Tấn Lộc

thiện hệ thống pháp luật, do vậy, là một đòi hỏi mang tính tất yếu, khách quan, thời

đại. Mức độ hoàn thiện pháp luật và tuân thủ pháp luật chính là một tiêu chí để đánh
giá tính pháp quyền của một nhà nước. Nâng cao chất lượng các văn bản pháp luật
chính là quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của việc
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân ở nước ta hiện nay. Điều này cũng có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế xã hội đất nước, đặc biệt là khi nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Để hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng xây dựng nhà nước pháp
quyền, một trong những tiêu chí hàng đầu cần hướng tới đó là đảm bảo tính thống
nhất, hiệu quả, hiệu lực của hệ thống pháp luật. Đây được coi là một nguyên tắc, một
yêu cầu quan trọng trong qui định lập pháp, bởi lẽ, việc chỉnh lý những sai xót, yếu
kém về nội dung, không phát huy hiệu quả, chồng chéo, biểu hiện vi hiến và không
thống nhất trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật là những biểu hiện của nhà
nước yếu kém về mặt quản lý, không phát huy được nguồn lực trong xã hội, đi ngược
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
lại xu hướng tiến bộ của nhân loại, hơn nữa, việc nâng cao hiệu quả công tác lập pháp

cũng sẽ hạn chế tối đa khả năng gây thiệt hại cho nhà nước và xã hội do việc cho ra
đời những văn bản quy phạm pháp luật mâu thuẫn, trái hiến pháp, pháp luật.
Trong nhận thức chung không chỉ ở Việt Nam mà trên phạm vi toàn thế
giới, Quốc hội hay Nghị viện chính là cơ quan lập pháp, hay cơ quan làm luật. Định
nghĩa về Quốc hội hay nghị viện của các từ điển luật học, chính trị học, cũng như Hiến
pháp của nhiều quốc gia trên thế giới đều ghi nhận rằng Quốc hội là cơ quan dân cử,
cơ quan thảo luận, được trao quyền để làm luật, sửa luật hoặc bãi bỏ luật. Quốc hội (
Parliament, legislature, lawmaking body) là cơ quan ban hành pháp luật (lập pháp)
trong mối quan hệ với chính phủ là cơ quan thực thi pháp luật ( hành pháp) và tòa án là
cơ quan bảo vệ pháp luật ( tư pháp ). Có thể nói lập pháp là chức năng hàng đầu của
Quốc hội, đồng thời có ý nghĩa quyết định trong việc triển khai thực hiện quyền hành

pháp và quyền tư pháp.
Qui định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là một trong những
nội dung cơ bản của Hiến pháp nước ta. Trong tất các bản Hiến pháp của nước ta, từ

3


Luận văn tốt nghiệp

Trương Tấn Lộc

Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp 1992 đều dành nhiều chương, điều qui định về bộ
máy nhà nước. Bởi vậy, khi bàn về hoàn thiện pháp luật, về tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước chúng ta không thể không xem xét những qui định trong Hiến pháp
về hoàn thiện và đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong đó đặc biệt
là công tác lập pháp của Quốc hội. Qua nghiên cứu thực tiễn hoạt động lập pháp của
Quốc hội các kghóa vừa qua, các nghị quyết của Đảng được thông qua trong thời gian
gần đây ( Nghị quyết số 08- NQ/ TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 về một số nhiệm vụ
trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 48- NQ/ TW ngày
24 tháng 5 năm 2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010 của Bộ Chính trị- Ban chấp hành trung ương ( BCHTW) Đảng
khóa IX đều thấy có nhiều vấn đề đặt ra trong tổ chức bộ máy nhà nước nhưng chưa
giải quyết do “ đụng trần” Hiến pháp đã qui định. Đơn cử như luật kiểm toán nhà
nước, người đứng dầu cơ quan này là Tổng kiểm toán nhà nước mà điều 17 luật kiểm
toán nhà nước đã qui định do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm. Nếu đối chiếu với
điểm 7 điều 84 Hiến pháp năm 1992 qui định các chức danh do Quốc hội bầu, miễm
nhiệm, bãi nhiệm thì không có chức danh Tổng kiểm toán nhà nước.
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu


Nhìn chung, trong những nhiệm kỳ gần đây của Quốc hội, các luật và pháp

lệnh được thông qua với số lượng ngày càng tăng, chất lượng của các văn bản đã được
quan tâm đúng mức hơn, qui trình soạn thảo và ban hành ngày càng được hoàn thiện.
Nước ta trong quá trình hội nhập quốc tế và khu vực hiện nay, những thách thức trong
hoạt động xây dựng luật, pháp lệnh đòi hỏi cần phát huy hơn nữa thành quả đã đạt
được, đồng thời, ngày càng đặt ra những yêu cầu cao hơn đối với chất lượng của mỗi
đạo luật, pháp lệnh được ban hành. Do vậy, việc đánh giá chất lượng dự án luật, pháp
lệnh hiên nay là một vấn đề cần được quan tâm và thực hiện một cách nghiêm túc để
làm cơ sở cho việc đề xuất phương hướng và giải pháp khả thi nhằm nâng cao chất
lượng dự án luật, pháp lệnh góp phần hoàn thiện qui trình lập pháp ở nước ta hiện nay
cũng như có cái nhìn tổng quan hơn nữa về chức năng, vai trò của Quốc hội đặt ra
trong thời kì hiện nay.

2. Cơ cấu tổ chức của Quốc hội

4


Luận văn tốt nghiệp

Trương Tấn Lộc

Quốc hội là một thiết chế trong tổng thể hệ thống chính trị đất nước và có
mối quan hệ khắng khít hữu cơ với các thiết chế khác trong hệ thống chính trị, trước
hết là với các thiết chế: Đảng, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao…Sẽ không có Quốc hội tốt, một Quốc hội hoạt động có hiệu quả cao nếu
Quốc hội không có cơ cấu tổ chức không tốt thì tất yếu dẫn đến không có hiệu quả và
ngược lại.
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, là cơ quan do cử tri cả

nước bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vong của toàn thể nhân dân, Quốc hội thực
hiện chức năng lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước,
giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của nhà nước. Hoạt động của Quốc hội có hiệu quả
hay không có hiệu quả đều tác động và có ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ hoạt động và
hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước và ảnh hưởng đến tương ứng đến mọi lĩnh
vực của đời sống kinh tế- xã hội. Vì vậy cơ cấu tổ chức của mỗi nhiệm kỳ Quốc hội
không chỉ có ý nghĩa riêng đối với Quốc hội, mà nó còn góp phần quan trọng vào việc
nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước và mọi lĩnh vực hoạt động của xã
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

hội, tổ chức và công dân được thông qua hiệu quả qui trình lập pháp của Quốc hội,

chất lượng của các dự án luật, pháp lệnh.
Ở Việt Nam, quan điểm tổ chức cơ quan đại diện quyền lực nhà nước và
Quốc hội vừa mang những cái chung của mô hình bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa,
vừa có tính đặc thù của cơ quan đại diện của các nước trên thế giới. Sau cách mạng
tháng Tám thắng lợi, nhà nước đã nhanh chóng tiến hành tổng tuyển cử để bầu ra
Quốc hội, lập ra Hiến pháp để từ đó qui định một mô hình chính quyền nhân dân theo
hướng nhân dân sử dụng quyền lực thông qua các cơ quan đại diện là Quốc hội và Hội
đồng nhân dân. Cho đến nay, lịch sử lập hiến Việt Nam đã trải qua bốn bản Hiến pháp.
Hiến pháp 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước ta được Nghị viện nhân dân- cơ quan có
quyền lực cao nhất của nước Việt Nam Dân Chủ cộng Hòa thông qua ngày 09- 111946, có nhiệm vụ củng cố và và bảo vệ nền độc lập mà nhân dân ta mới giành được.
Hiến pháp 1959, Hiến pháp của thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà, được Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 11 thông qua
ngày 31- 12- 1959, Hiến pháp 1959 xác định về vị trí và cơ cấu tổ chức của bộ máy

5



Luận văn tốt nghiệp

Trương Tấn Lộc

nhà nước như Quốc hội, Chủ tịch nước, Hội đồng chính phủ, Hội đồng nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân v.v… Hiến pháp 1980 xác định rõ về vị trí, vai trò, cơ cấu tổ chức
của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, nghi thức nhà nước và sữa đổi Hiến pháp
v.v…Hiến pháp 1992, Hiến pháp được Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam khóa VIII, kỳ họp thứ 11, thông qua ngày 15- 04- 1992 ( được sữa đổi, bổ
sung năm 2001).
Từ Hiến pháp 1946 đến Hiến pháp 1992 hiện nay của nhà nước Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thì cơ cấu tổ chức của Quốc hội đã có bước hoàn thiện
đáng kể. Căn cứ vào chương VI của Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội đã được
nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghãi Việt Nam, khóa X, kỳ họp thứ 10, thông qua ngày
20- 12- 2001 thì cơ cấu tổ chức của Quốc hội bao gồm.
2.1. Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch Quốc hội
Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Ủy ban
thường vụ Quốc hội gồm Chủ tịch Quốc hội, các phó Chủ tịch Quốc hội và các Ủy
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

viên do Chủ tịch Quốc hội làm Chủ tịch, các phó Chủ tịch Quốc hội làm các phó Chủ
tịch.
Số phó Chủ tịch Quốc hội và số Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội do
Quốc hội quyết định.
Thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể đồng thời là thành viên
Chính phủ, làm việc theo chế độ chuyên trách.
Ủy ban thường vụ Quốc hội mỗi khóa thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
mình cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu Ủy ban thường vụ Quốc hội mới ( Điều 90
Hiến pháp 1992, điều 6 luật tổ chức Quốc hội 2001). Nhiệm kỳ của mỗi khóa Quốc

hội là năm năm, hai tháng trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Quốc hội khóa mới phải

được bầu xong. Thể lệ bầu cử và số đại biểu Quốc hội do luật định.
Trong trường hợp đặc biệt, nếu được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu
Quốc hội biểu quyết tán thành, thì Quốc hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm
kỳ của mình (điều 85 Hiến pháp 1992, điều 3 luật tổ chức Quốc hội 2001). Các phó
Chủ tịch Quốc hội giúp Chủ tịch làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chủ tịch, khi

6


Luận văn tốt nghiệp

Trương Tấn Lộc

Chủ tịch Quốc hội vắng mặt thì một phó Chủ tịch được Chủ tịch uỷ nhiệm thay mặt
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Quốc hội (điều 20 luật tổ chức Quốc hội
2001).
2.2. Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội
Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội là những cơ quan của Quốc
hội, làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số, nhiệm kỳ của Hội đồng dân
tộc và các Uỷ ban của Quốc hội theo nhiệm kỳ của Quốc hội (điều 21 luật tổ chức
Quốc hội 2001).
Quốc hội bầu Hội đồng dân tộc gồm Chủ tịch, các phó Chủ tịch và các Uỷ
viên. Chủ tịch Hội đồng dân tộc được tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ bàn việc thực hiện chính
sách dân tộc. Hội đồng dân tộc có một số thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách
(điều 94 Hiến pháp 1992)
Số phó Chủ tịch và số Uỷ viên Hội đồng dân tộc do Quốc hội quyết định.
Thành viên Hội đồng dân tộc do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội. Số

Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
thành viên hoạt động chuyên trách do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định (điều 24

luật tổ chức Quốc hội 2001). Quốc hội bầu các Uỷ ban của Quốc hội, mỗi Uỷ ban có
một số thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách (điều 95 Hiến pháp 1992)
Từ khi được thành lập đến nay, số lượng các Uỷ ban của Quốc hội đã được
tăng lên để đáp ứng với yêu cầu thực tiễn đặt ra trong từng giai đoạn. Nhiệm kỳ Quốc
hội khoá II chỉ có bốn Uỷ ban, nhiềm kỳ Quốc hội khoá III tăng lên thành năm Uỷ
ban, trong các nhiệm kỳ Quốc hội khoá IV, V, VI có sáu Uỷ ban, từ nhiệm kỳ Quốc
hội khoá VII đến nhiệm kỳ Quốc hội khoá XI có bảy Uỷ ban. Bao gồm
Uỷ ban pháp luật
Uỷ ban kinh tế và ngân sách
Uỷ ban quốc phòng và an ninh
Uỷ ban văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng
Uỷ ban về các vấn đề xã hội
Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường
Uỷ ban đối ngoại ( điều 22 luật tổ chức Quốc hội )

7


Luận văn tốt nghiệp

Trương Tấn Lộc

Uỷ ban của Quốc hội gồm có Chủ nhiệm, các phó Chủ nhiệm và các Uỷ
viên. Số phó Chủ nhiệm và số Uỷ viên Uỷ ban do Quốc hội quyết định. Thành viên Uỷ
ban của Quốc hội do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội. Số thành viên hoạt
động chuyên trách do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định ( khoản 1, điều 25 luật tổ

chức Quốc hội 2001).
Khi xét thấy cần thiết, Quốc hội thành lập Uỷ ban lâm thời để nghiên cứu,
thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định (điều 23 luật tổ chức Quốc
hội 2001)
⇒ Trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá XII, vấn đề tiếp tục đổi mới cơ cấu tổ
chức và hoạt động của Quốc hội theo Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X
Đảng cộng sản Việt Nam trong việc bảo đảm tinh hợp hiến, hợp pháp và tính thống
nhất trong hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và trong Quốc hội nói riêng,
cũng như chất lượng các văn bản pháp luật , pháp lệnh là một nguyên tắc, yêu cầu
khách quan, tất yếu của mọi nhà nước, một yêu cầu quan trọng trong qui trình lập
pháp, điều này tiếp tục được khẳng định trong luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
luật tổ chức Quốc hội ( 2007 ). Cụ thể
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Tách Uỷ ban pháp luật thành hai Uỷ ban gồm Uỷ ban pháp luật và Uỷ ban
tư pháp. Qua đó sự quá tải trong công việc của Uỷ ban pháp luật đã được giảm bớt,
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ bảo đảm tính hợp hiến, hợp
pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với các dự án luật, pháp lệnh trước
khi trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua.
Tách Uỷ ban kinh tế và ngân sách thành hai Uỷ ban là Uỷ ban kinh tế và Uỷ
ban Tài chính, ngân sách. Việc chia tách này bắt nguồn từ Uỷ ban phải phụ trách nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực, trong khi đó các Uỷ ban phải thực hiện tốt hơn nhiệm vụ, quyền
hạn của mình thì việc chia tách Uỷ ban là hết sức cần thiết. Nếu không chia tách, một
số Uỷ ban có khối lượng công việc nhiều, quá tải sẽ không hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao. Do đó, việc chia tách và thành lập các Uỷ ban mới để các Uỷ ban hoạt động
có hiệu quả hơn, hiệu lực hơn.
2.3. Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội

8



Luận văn tốt nghiệp

Trương Tấn Lộc

Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân,
không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân
dân cả nước; là người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc
hội; nhiệm kỳ của đại biểu mỗi khoá Quốc hội bắt đầu từ kỳ họp thứ nhất của Quốc
hội khoá đó đến kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá sau; nhiệm kỳ của đại biểu Quốc
hội được bầu bổ sung bắt đầu từ kỳ họp sau cuộc bầu cử bổ sung đến kỳ họp thứ nhất
của Quốc hội khoá sau; trong số các đại biểu Quốc hội, có những đại biểu hoạt động
chuyên trách và có những đại biểu hoạt động không chuyên trách; số lượng đại biểu
Quốc hội hoạt động chuyên trách có ít nhất là hai mươi lăm phần trăm tổng số đại biểu
Quốc hội (điều 43, 44, 45 luật tổ chức Quốc hội 2001).
Đai biểu Quốc hội hoạt động không chuyên trách được dành ít nhất một
phần ba thời gian làm việc để thực hiện nhiệm vụ đại biểu. Cơ quan, tổ chức, đơn vị
nơi đại biểu làm việc có trách nhiệm tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội thực hiện
nhiệm vụ ( điều 47 luật tổ chức Quốc hội )
Các đại biểu Quốc hội được bầu trong một tỉnh hoặc thành phố trực thuộc
trung ương hợp thành Đoàn đại biểu Quốc hội; Đoàn đại biểu Quốc hội có đại biểu
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

hoạt động chuyên trách; Đoàn đại biểu Quốc hội có trụ sở, văn phòng giúp việc và có

kinh phí hoạt động theo qui định của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ( khoản 1, 3 điều 60
luật tổ chức Quốc hội 2001); Đoàn đại biểu Quốc hội có Trưởng đoàn và phó Trưởng
đoàn (điều 61 luật tổ chức Quốc hội 2001).
Đại biểu Quốc hội có thể xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu vì lý do sức khoẻ

hoặc vì lý do sức khoẻ hoặc vì lý do khác. Việc chấp nhận đại biểu Quốc hội xin thôi
làm nhiệm vụ do Quốc hội quyết định; trong thời gian của hai kỳ họp Quốc hội thì do
Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định và báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất
(điều 57 luật tổ chức Quốc hội 2001).
Không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp,
không có sự đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì không được bắt giam, truy tố
đại biểu Quốc hội và không được khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu Quốc
hội. Việc đề nghị bắt giam, truy tố, khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu Quốc
hội thuộc thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Nếu vi phạm
quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ, thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để

9


Luận văn tốt nghiệp

Trương Tấn Lộc

Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội xét và quyết định. Trong trường hợp đại
biểu Quốc hội bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết
định tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội đó. Đại
biểu Quốc hội bị Toà án kết án thì đương nhiên mất quyền đại biểu Quốc hội, kể từ
ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật. Đại biểu Quốc hội không
thể bị cơ quan, đơn vị nơi đại biểu làm việc cách chức, buộc thôi việc nếu không được
Uỷ ban thường vụ Quốc hội đồng ý (điều 58 luật tổ chức Quốc hội 2001).
Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách được bố trí nơi làm việc và các
điều kiện cần thiết cho hoạt động đại biểu của mình. Khi đại biểu Quốc hội hoạt động
chuyên trách thôi làm nhiệm vụ đại biểu thì cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có trách
nhiệm bố trí nơi công tác cho đại biểu Quốc hội. Thời gian đại biểu Quốc hội hoạt
động chuyên trách được tính vào thời gian công tác liên tục. Lương, các chế độ khác

của đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách và các khoản phụ cấp của đại biểu Quốc
hội do Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định (điều 59 luật tổ chức Quốc hội 2001).
3. Nhiệm vụ và quyền hạn cơ bản của Quốc hội
Trung tâm
Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Người Pháp có câu ngạn ngữ “ ai ôm nhiều quá siết không chặt”. Bàn đến
Quốc hội thực quyền, theo chúng tôi, trước tiên cần phải xác định những quyền gì thực
chất là của Quốc hội, còn những quyền gì thực chất không phải là của Quốc hội thì
phân giao cho các cơ quan nhà nước khác. Chỉ khi nào Quốc hội nắm những quyền
thực chất là của mình thì Quốc hội mới hành xử những quyền đó một cách thực chất.
Do đó, nói đến vấn đề Quốc hội thực quyền, không phải bàn làm sao để Quốc hội thực
chất là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất mà là Quốc hội nên có những quyền thực
chất nào và sử dụng quyền lực thực chất ra làm sao.
Hiện nay ở phương Tây, người ta thường phân tích Quốc hội/ Nghị viện có
ba chức năng chính là chức năng lập pháp, chức năng giám sát, và chức năng đại diện.
Còn ở nước ta, theo nguyên lý thống nhất quyền lực, Quốc hội được xác
định là “ cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, thống nhất các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp chứ không chỉ thực hiện một mình quyền lập pháp. Và chức năng của

10


Luận văn tốt nghiệp

Trương Tấn Lộc

Quốc hội được qui định “ Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp;
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh
tế- xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và

hoạt động của bộ máy nhà nước và quan hệ xã hội, hoạt động của công dân; Quốc hội
thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước” (điều 83
Hiến pháp 1992). Trong đó đã chỉ ra ba chức năng cơ bản của Quốc hội là chắc năng
lập hiến và lập pháp, chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và
chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước.
Như vậy, theo điều 83 Hiến pháp 1992, Quốc hội chiếm vị trí cao nhất trong
toàn bộ bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Không một cơ quan
nhà nước nào khác trong bộ máy nhà nước nước ta có được một vị trí như vậy. Sở dĩ
như vậy, là vì Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất ( và duy nhất) của nhân dân, do
nhân dân toàn quốc bầu ra một cách trực tiếp, là hình thức chủ yếu thực hiện quyền
lực nhà nước của nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, nhân
dân thực hiện quyền lực nhà nước của mình bằng cơ quan đại diện do mình bầu ra.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội cụ thể được qui định tại điều 84 Hiến pháp 1992
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
sửa đổi, bổ sung 2001.

Như vậy, nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội được thể hiện qua ba chức
năng cơ bản của Quốc hội là
3.1. Quyền lập hiến và lập pháp của Quốc hội
Theo khoản 1, điều 84 của Hiến pháp thì Quốc hội có quyền làm Hiến pháp
và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; quyết định chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh
3.1.1. Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp
Quốc hội Việt Nam là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến. Hiến pháp là một
bản văn ấn định cách thức tổ chức và điều hành quyền lực nhà nước. Quyền lập hiến
chính là quyền phân định quyền lực nhà nước trong một quốc gia. Ai nắm quyền lập

11



Luận văn tốt nghiệp

Trương Tấn Lộc

hiến, người đó phân định quyền lực nhà nước của một quốc gia. Khi chủ quyền thuộc
về nhân dân, thì chỉ có nhân dân mới đủ tư cách là người phân định quyền lực cho các
thiết chế nhà nước. Quốc hội cũng chỉ là một đối tượng được nhân dân phân giao
quyền lực chứ không thể là chủ thể phân giao quyền lực. Quyền lập hiến phải thuộc về
nhân dân. Đó chính là tư duy lập hiến phổ biến của các quốc gia trên thế giới hiện nay.
Không có một cơ quan nào có thể được coi là đại diện toàn bộ của chủ quyền nhân dân
mà chỉ được nắm giữ những mảng quyền luật do nhân dân giao cho. Dễ hình dung hơn
là, một người không thể đựoc coi là có cả quả cam, nếu chỉ được cho một miếng cam.
Do đó, để Quốc hội trở thành một thiết chế thực quyền, quyền lập hiến cần
phải để cho nhân dân hành xử thông qua hình thức trưng cầu dân ý. Khi đó, Quốc hội
nên được coi là một cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước ( giống như Nghị viện
nhân dân theo Hiến pháp 1946, điều 22 ), chứ không phải là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất.
3.1.2. Quyền làm luật và sửa đổi luật; quyết định chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh.
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Trong ba quyền của quốc gia : lập pháp, hành pháp và tư pháp thì quyền lập
pháp là quyền cao nhất, vì quyền lập pháp ấn định những giới hạn cho quyền hành
pháp và quyền tư pháp. Chính phủ điều hành quốc gia theo luật, Toà án cũng xét xử
theo luật do Quốc hội ban hành.
Tuy nhiên, cần phải xác định tính chất quyền lập pháp của Quốc hội. Quốc
hội lập pháp không đồng nghĩa với Quốc hội làm luật. Nắm bắt được nhu cầu của quốc
gia, phản ánh các chính sách trong các dự án luật là chức năng tự nhiên của các chủ thể
có quyền trình dự án luật, kiến nghị về luật theo luật định, trong đó Chính phủ là chủ

yếu vì là cơ quan điều hành xã hội. Đa số cơ quan lập pháp trên thế giới hành động
trên cơ sở sự trình dự án luật của cơ quan hành pháp. Hành vi lập pháp của Quốc hội
chính là hành vi kiểm tra sự tương hợp giữa các giải pháp lập pháp mà cơ quan hành
pháp trình lên với ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Như vậy, Quốc hội lập pháp có
nghĩa là Quốc hội đại diện cho nhân dân để kiểm tra, giám sát hành pháp – Chính phủ .
Điều này dẫn đến một hệ quả là Quốc hội chỉ lập pháp hiệu quả khi đại diện hiệu quả.

12


Luận văn tốt nghiệp

Trương Tấn Lộc

Một Quốc hội hình thức là một Quốc hội luôn “ gật” trước những giải pháp do Chính
phủ trình lên. Một Quốc hội thực quyền là một Quốc hội biết “ lắc” trước những giải
pháp do Chính phủ trình lên khi phát hiện ra giải pháp đó không phúc đáp được
nguyện ước của quảng đại quần chúng nhân dân.
3.2. Quyền quyết định những vấn đề quan trọng của quốc gia
Điều 83 Hiến pháp của nước ta qui định Quốc hội có quyền quyết định
những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế- xã hội, quốc
phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của nhân dân.
Tuy nhiên điều 84 qui đinh cụ thể hơn điều 83 Hiến pháp nước ta: Quốc hội
quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - ax hội, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia,
chính sách dân tộc, chính sách đối ngoại, quốc phòng, an ninh. Quyết định những vấn
đề này không có tính chất tổ chức tổng quát xã hội- tức lập pháp, mà có tính chất điều
hành xã hội- tức hành pháp. Vấn đề nổi lên trong việc thực hiện các quyền trên của
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

Quốc hội nước ta là còn mang tính hình thức ( xem thêm hộp).

Sự hình thức của Quốc hội trong thực thi thẩm quyền quyết định kế hoạch
phát triển kinh tế- xã hội, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, chính sách dân tộc,
chính sách đối ngoại, quốc phòng, an ninh có nguồn gốc từ chỗ đây là những thẩm
quyền mang tính hành pháp, mà Quốc hội lại không phải là cơ quan trực tiếp điều
hành xã hội. Ví dụ, Quốc hội không thể đưa ra những chỉ tiêu và những giải pháp cụ
thể về kinh tế- xã hội thay vì đó phải là công việc của Bộ kế hoạch và đầu tư. Quốc hội
trở thành hình thức trong việc quyết định những vấn đề nói trên, phần lớn là do chưa
có sự phân biệt rõ vai trò của lập pháp và hành pháp trong việc quyết định những vấn
đề đó.
Cần nhận thức rằng, khi thực hiện những thẩm quyền, mặc dù đó là những
thẩm quyền mang tính hành pháp, nhưng Quốc hội không đóng vai trò là nhà hành
pháp. Chính phủ phải thấy trách nhiệm chính yếu của mình đối với kế hoạch phát triển
đất nước, các chính sách quan trọng của quốc gia. Chính phủ - hành pháp bao giờ cũng
là trọng tâm của chính quyền. Quốc gia thăng hay trầm là do Chính phủ điều hành xã

13


Luận văn tốt nghiệp

Trương Tấn Lộc

hội như thế nào. Do đó, Chính phủ phải giữ vai trò quan trọng trong việc tìm đường đi
cho quốc gia và vạch ra chính sách phát triển đất nước, đồng thời chịu trách nhiệm về
những chính sách đó. Chính vì vậy, trong quá trình quyết định những vấn đề nói trên,
phải phân biệt rõ vai trò của lập pháp và hành pháp.
Hành pháp là người thiết kế. Lập pháp là người duyệt. Quốc hội phải đứng
trên phương diện lợi ích chung của cử tri và trên phương diện ngân sách để quyết định

những kế hoach nhà nước, chính sách quan trọng của quốc gia. Như thế chính là Quốc
hội thẩm định về mặt lợi ích toàn cục của những kế hoạch, chính sách đó. Những thẩm
quyền trên liên quan mật thiết với quyền quyết định về ngân sách của Quốc hội. Năm
túi tiền của quốc gia, Quốc hội quyết định những kế hoạch của nhà nước, những chính
sách quan trọng để kiểm soát việc chi tiêu cho những kế hoạch, chính sách đó. Cho
nên, khi quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình, Quốc hội phải đặc biệt
quan tâm đén khía cạnh tài chính của vấn đề. Xem xét vấn đề từ góc độ ngân sách mới
là nhiệm vụ chính yếu của Quốc hội khi quyết định những kế hoạch nhà nước, những
chính sách quan trọng quốc gia.

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
3.3. Quyền giám sát tối cao của Quốc hội

Theo điều 83 Hiến pháp nước ta “ Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối
cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước”
Về đối tượng giám sát của Quốc hội được mở rộng đối với tất cả các thiết
chế quyền lực nhà nước ở trung ương: Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước,
Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Nghị viện nào trên thế giới cũng có chức năng giám sát quyền lực. Ví dụ
như, nhìn lại lịch sử hình thành Nghị viện ở Anh, Nghị viện ra đời là để giám sát lại
quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, tư duy về chức năng giám sát ở Nghị viện cho thấy,
Nghị viện chủ yếu tập trung vào giám sát hành pháp.
Còn ở nước ta, đối tượng giám sát của Quốc hội quá rộng, dễ dẫn đến sự
hình thức trong hoạt động giám sát của Quốc hội. Để Quốc hội thực quyền, Quốc hội
cần tập trung chính vào việc giám sát Chính phủ. Đặc biệt, cần xem lại vấn đề chức
năng giám sát tư pháp của Quốc hội. trong một chế độ pháp quyền, tư pháp cần phải

14



Luận văn tốt nghiệp

Trương Tấn Lộc

được độc lập, kể cả là độc lập với Quốc hội. Hơn nữa, bản thân hệ thống tư pháp đã có
cơ chế tự giám sát: cơ chế hai cấp xét xử ( sơ thẩm, phúc thẩm ), các trình tự tố tụng
đặc biệt ( giám đốc thẩm, tái thẩm )
Về nội dung giám sát, Quốc hội nước ta giám sát cả văn bản lẫn giám sát
hoạt động. Theo đó, Quốc hội có quyền bãi bỏ những văn bản vi hiến, vi pháp của các
định chế quyền lực ở trung ương : Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ
tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Quyền giám sát văn bản trong học lý về luật Hiến pháp được quan niệm là
thuộc địa hạt của quyền tư pháp. Học lý về Hiến pháp quan niệm “ các Toà án có bổn
phận hiến định ( mission constitutionelle) là giải quyết những vụ tranh chấp giữa mọi
người và trong những vụ tranh tụng đó, các Toà án phải chỉ định các luật nào, hay loại
luật nào, hiến luật hay thường luật, được đem áp dụng. Cái sứ mệnh dĩ nhiên của
Thẩm phán là áp dụng cho hai bên nguyên bị hay qui tắc luật, là quyết định xem qui
tắc nào ở địa vị ưu tiên, được tôn trọng” ( xem : Lê Đình Chân. Luật Hiến pháp và các
định chế chính trị. Cuốn I. Sài Gòn, 1974, tr 300-301)
Trong lịch sử của quyền tư pháp trên thế giới, ngành tư pháp Hoa kỳ lần đầu
Trung tâm Học
liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
tiên tự nhận cho mình quyền giám sát văn bản trong vụ án Mabury chống Madison.
Quyền giám sát văn bản không được Hiến pháp Hoa Kỳ trao cho Toà án nhưng được
Toà án liên bang Hoa Kỳ rút ra từ bản chất của quyền tư pháp. Trong nhiều quốc gia ở
châu Âu, quyền giám sát văn bản cũng được quan niệm là thuộc về Toà án. Việc giám
sát Hiến pháp được thực hiện bởi một Toà án chuyên biệt, độc lập với hệ thống Toà án
thường, thường được gọi là Toà án Hiến pháp. Toà án Hiến pháp có chức năng giám
sát tính hợp hiến các văn bản của chính quyền. Còn việc giám sát những văn bản dưới
luật vi phạm vào luật của ngành lập pháp cũng do Toà án tiến hành bằng con đường

kiểm pháp mà thông thường, Toà hành chính có chức năng này.
Tuy nhiên, ở Việt nam hiện nay, ngành tư pháp không có quyền giám sát
tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật. Các văn bản của các chế
định quyền lực ở trung ương do Quốc hội giám sát. Nhưng vì đây không phải là thiên
chức tự nhiên để phát hiện ra điều đó. Để Quốc hội thực quyền trong việc giám sát,
Quốc hội nên trao quyền giám sát văn bản cho ngành tư pháp ( có thể là một Toà án
Hiến pháp, và chỉ nên tập trung vào giám sát hoạt động của ngành hành pháp.

15


Luận văn tốt nghiệp

Trương Tấn Lộc

II. Chức năng lập pháp của Quốc hội
1.Cơ sở pháp lý
Vào thế kỷ XVIII, trong đời sống chính trị thế giới đã xuất hiện lý thuyết đại
diện gắn liền với tên tuổi của Locke,Rousseau và Montesquieu. Theo lý thuyết đại
diện, quyền lực về nguyên tắc thuộc về nhân dân, nhưng do những lý do thực tế, nhân
dân không thể trực tiếp thực hiện toàn bộ quyền lực của mình, mà phải uỷ thác cho
những người đại diện để thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực của nhân dân.
Rousseau, mặc dù cho rằng dân chủ trực tiếp mới là dân chủ thực sự, nhưng cũng phải
thừa nhận rằng đó là một hình thức lý tưởng; nhân dân phải uỷ quyền cho người đại
diện, mà không thể trực tiếp thực hiện quyền lực của mình. Còn Montesquieu thì rất
tin vào khả năng của nhân dân trong việc uỷ quyền : “ Dân chúng rất giỏi khi họ chọn
người để giao phó một phần quyền lực của mình. Họ chỉ cần xác định những điều mà
họ biết, họ thấy, họ cảm nhận được” ( Montesquieu, Tinh thần pháp luật, Nxb Giáo
dục, H, 1996, tr 49).
Trung

tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

Tính đại diện cao nhất của nhân dân là thuộc tính cơ bản trong tổ chức và

hoạt động của Quốc hội nước ta, Quốc hội có ba chức năng, đồng nghĩa với ba lĩnh
vực hoạt động chủ yếu là: lập hiến và lập pháp; quyết định những vấn đề quan trọng
của đất nước; giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động bộ máy nhà nước ( điều 83
Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001). Lập pháp là chức năng hàng đầu
của Quốc hội. Với vai trò là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân cả
nước, Quốc hội nói chung có trách nhiệm rất nặng nề trong việc thực hiện chức năng
lập pháp, là cơ quan có quyền lập hiến và lập pháp nhưng đồng thời Quốc hội cũng là
cơ quan hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, việc chấp hành nghiêm các qui định
của Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan nhà nước nói chung và của Quốc hội nói
riêng là một trong những yêu cầu quan trọng, cần được nhấn mạnh. Do đó, khi nói đến
chức năng lập pháp của Quốc hội thì chúng ta cần xem xét đến địa vị pháp lý của Quốc
hội, cơ sở pháp lý của qui trình lập pháp của Quốc hội, nước ta là nhà nước pháp

16


Luận văn tốt nghiệp

Trương Tấn Lộc

quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân, sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật.
Nhìn lại lịch sử lập pháp của các khoá Quốc hội, từ khoá I năm 1946 đến hết
khoá VI năm 2007, Quốc hội các khoá đã thông qua bốn bản Hiến pháp, 220 luật, bộ
luật và Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua 199 pháp lệnh. Trong đó, Hiến pháp

năm 1992, 129 luật, bộ luật và 119 pháp lệnh đang có hiệu lực thi hành (tháng 9 năm
2007 ). Công tác xây dựng pháp luật của các khoá Quốc hội đã thể chế hoá được chủ
trương, đường lối của Đảng, ý chí, nguyện vọng của nhân dân, phục vụ đắc lực có hiệu
quả cho nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn. Cùng với sự trưởng thành và phát
triển của Quốc hội, công tác xây dựng pháp luật của Quốc hội ngày càng được đổi
mới, đẩy mạnh về tiến độ và nâng cao về chất lượng. Đóng góp vào thành tựu này có
trí tuệ và công sức to lớn của các đại biểu Quốc hội nói chung và các chủ thể tham gia
nói riêng.
Theo khoản 1, điều 2 luật tổ chức Quốc hội 2001 thì Quốc hội làm Hiến
pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật, quyết định chương trình xây dựng
luật pháp lệnh; Điều 1, Hiến pháp 1992 qui định Quốc hội là cơ quan duy nhất có
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
quyền lập hiến và lập pháp. Hoạt động xây dựng pháp luật của Quốc hội bao gồm việc

xây dựng và ban hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh và nghị
quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Đây là chức năng cơ bản quan trọng của Quốc
hội nước ta. Tuy nhiên, tham gia hoạt động xây dựng pháp luật của Quốc hội không
chỉ có Quốc hội mà còn có rất nhiều chủ thể khác, các chủ thể này tham gia ở các giai
đoạn khác nhau của qui trình xây dựng pháp luật được qui định trong luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật.
2. Chức năng lập pháp của Quốc hội
2.1. Khái quát chung
Quốc hội ( parliament, legislature, lawmakingbody ) là cơ quan làm luật nên
thành viên của Quốc hội là các đại biểu Quốc hội hay Nghị sĩ được gọi là các nhà làm
luật ( lawmaker, lawgiver hoặc legislator ). Nhưng trên thực tế, ở đa số các nước trên
thế giới- dù theo chế độ đa Đảng hay theo chế độ một Đảng ( Trung Quốc, Việt Nam

17



Luận văn tốt nghiệp

Trương Tấn Lộc

)- dù theo trường phái tam quyền phân lập hay tập quyền, dù theo chế độ cộng hoà
Tổng thống hay cộng hoà đại nghị, dù là quân chủ lập hiến hay dân chủ cộng hoà, thì
đại đa số ( trên 90% ) các dự án luật đều do Chính phủ ( cơ quan hành pháp) đệ trình
( T1/ 2008 nghiên cứu lập pháp số 1 ( 115) ). Việt Nam ta cũng không phải là một
ngoại lệ.
Khi có các vấn đề phát sinh trong xã hội, Chính phủ ( cơ quan điều hành xã
hội ) đề xuất các biện pháp ( dự luật ) để điều chỉnh và trình biện pháp đó ra để xin
Quốc hội xem xét, phê chuẩn. Tuy nhiên, Quốc hội không đơn giản chỉ đồng ý, Quốc
hội có thể từ chối phê chuẩn chính sách hoặc biện pháp của Chính phủ. Sự từ chối của
Quốc hội sẽ khiến Chính phủ phải xem xét lại đề xuất của mình và chỉnh sửa nó để
Quốc hội có thể chấp nhận, thông qua. Theo qui trình lập pháp phổ biến gồm hai công
đoạn Chính phủ ( phân tích thực trạng vấn đề phát sinh, phân tích chính sách, soạn
thảo dự luật ) thường chiếm tỷ trọng lớn hơn rất nhiều so với công đoạn của Quốc hội
( thảo luận, thẩm tra tại Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội ).
Xây dựng pháp luật là một hoạt động phức tạp, gồm nhiều giai đoạn, là một
quá trình phức hợp do nhiều chủ thể có vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
nhau tiến hành, nhằm đặt ra các qui tắc pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội. Xét về

bản chất, đây là hoạt động sángtạo, là kết quả của sự phối hợp chặt chẽ giữa các chủ
thể tham gia qui trình lập pháp. Do đó, để có một hệ thống pháp luật tiên tiến, phù hợp
với điều kiện kinh tế- xã hội, hỗ trợ đặc lực cho sự phát triển của đất nước, thì trong
xây dựng pháp luật đòi hỏi phải có sự kết hợp hài hoà giữa lý luận và thực tiễn, phải
thu hút được sự tham gia của các nhà khoa học , các chuyên gia, các nhà quản lý, các

nhà hoạt động thực tiễn…Chính vì vậy, Nghị quyết số 48- NQ/ TW ngày 24- 05- 2005
của Bộ chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2010 đã khẳng định “ tăng cường vai trò, trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức nghiên cứu chuyên ngành trong hoạt động xây dựng
pháp luật. Có cơ chế thu hút…các chuyên gia giỏi tham gia vào việc nghiên cứu, đánh
giá nhu cầu, hoạch định chính sách pháp luật, soạn thảo thẩm định, thẩm tra các dự
thảo văn bản pháp luật. Xác định cơ chế phản biện xã hội và tiếp thu ý kiến của các
tầng lớp nhân dân đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật”.

18


Luận văn tốt nghiệp

Trương Tấn Lộc

Mục đích của hoạt động xây dựng pháp luật là làm ra được những văn bản
quy phạm pháp luật có chất lượng, tạo nên một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất
và ngày càng hoàn thiện. Như trên đã nói, hoạt động xây dựng pháp luật là hoạt động
sángtạo, là sự kết hợp hài hoà giữa các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội…với
các phương pháp và kỹ thuật pháp lý đặc thù, nhằm chuyển hoá các nhu cầu xã hội
thành khuôn mẫu chung cho những hành vi xác định. Vì vậy, bản thân hoạt động xây
dựng pháp luật cũng chính là hoạt động khoa học, đó chính là khoa học về xây dựng
pháp luật.
2.2.Các giai đoạn qui trình lập pháp của Quốc hội
Theo qui định của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, qui
trình lập pháp của nước ta gồm có các giai đoạn sau đây.
( 1) Lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
( 2) Soạn thảo dự án luật, pháp lệnh
( 3) Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội thẩm tra dự án luật, pháp lệnh

Trung tâm Học
liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

( 4) Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến về dự án luật, pháp

lệnh
( 5) Lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, pháp lệnh
( 6) Lấy ý kiến của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội về dự án luật,
pháp lệnh. Xem xét, thông qua luật tại kỳ họp Quốc hội
( 7) Công bố luật, pháp lệnh
Các bước của qui trình lập pháp nói trên có quan hệ mật thiết và tác động
qua lại lẫn nhau. Chất lượng của bước trước qui định, là tiền đề cho chất lượng của
bước sau. Vì thế, các giá trị mà xã hội có, xã hội cần, xã hội ủng hộ thể hiện ý chí và
nguyện vọng của đại đa số nhân dân, từng bước được nhận thức và phản ánh ngày
càng đầy đủ, đúng đắn qua các bước của qui trình lập pháp. Về nguyên tắc, đại biểu
Quốc hội đều có thể thực hiện vai trò đại diện của mình trong hầu hết các công đoạn
của qui trình lập pháp.
( 1) Bước đầu tiên của qui trình lập pháp là lập chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh. Đây là bước đảm bảo cho việc ban hành luật và pháp lệnh theo một chương

19


Luận văn tốt nghiệp

Trương Tấn Lộc

trình xây dựng kế hoạch khoa học, chặt chẽ, đáp ứng các đòi hỏi của thực tiễn, phù
hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân và đảm bảo sự điều chỉnh đồng bộ, thống
nhất của hệ thống pháp luật. Với vai trò là người đại diện cho nhân dân, trong công

đoạn này của qui trình lập pháp cần tập trung sự chú ý vào một số vấn đề sau đây
-

Theo qui định của pháp luật hiện hành, Uỷ ban pháp luật của Quốc hội

chủ trì và phối hợp với Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội khi tiến hành
thẩm tra dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Chính phủ, đề nghị xây
dựng luật, pháp lệnh của các cơ quan, tổ chức khác cần phải xuất phát từ đòi hỏi của
thực tiễn đường lối, quan điểm của Đảng trong từng thời kỳ, tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân về đời sống pháp luật của nước nhà và tư duy pháp lý nói trên để phân tích,
đề xuất ý kiến về sắp xếp lại thứ tự ưu tiên hoặc thêm bớt danh mục các luật và pháp
lệnh trong chương trình dự kiến.. Để làm được điều đó, phải hình dung được các chính
sách cơ bản của từng đạo luật dự kiến đưa vào chương trình. Việc Quốc hội quyết định
đưa vào chương trình một đạo luật nào đó cũng có nghĩa là, Quốc hội đã thông qua các
chính sách cơ bản, trước khi chuyển qua bước soạn thảo. Vì vậy, khi thẩm tra dự kiến
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh phải coi hoạch định chính sách trong các dự án
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
luật dự kiến đưa vào chương trình như một nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi cơ quan, tổ

chức đưa chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm phải làm rõ.
-

Đại biểu Quốc hội với tư cách là chủ thể có quyền đưa sángkiến lập

pháp, xuất phát từ đòi hỏi của cuộc sống, như cầu điều chỉnh pháp luật của nhân dân
cần đề xuất kiến nghị ban hành hoặc sửa đổi một đạo luật nào đó để kịp thời thể chế
hoá các giá trị mà xã hội có và xã hội đang đòi hỏi. Khi cần thiết, đại biểu Quốc hội có
quyền kiến nghị về việc điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh xuất phát từ
đòi hỏi bức xúc của cuộc sống.

( 2) Soạn thảo dự án luật thông thường là bước do Chính phủ đảm đương.
Gần đây, các cơ quan của Quốc hội cũng đã tiến hành soạn thảo một vài dự án luật,
nhưng Chính phủ vẫn là cơ quan chủ yếu đảm đương công việc này. Ở bước này của
hoạt động lập pháp, điều lưu ý đầu tiên là thành lập Ban soạn thảo. Việc thành lập Ban
soạn thảo dự án luật cần phải được xem xét, cân nhắc trong mối quan hệ ai là người
đại diện tốt nhất, am hiểu nhất để tham gia Ban soạn thảo. Khi soạn thảo các dự án
luật, Ban soạn thảo cần chú ý tổng kết, đánh giá việc thi hành các qui định pháp luật

20


Luận văn tốt nghiệp

Trương Tấn Lộc

hiện hành về vấn đề dự án luật cần điều chỉnh. Nếu trên lĩnh vực đó chưa có luật điều
chỉnh thì cần điều tra, đánh giá thực trạng các quan hệ xã hội đang tồn tại. Trong quá
trình soạn thảo, cần phải chú ý phân tích các điều kiện lịch sử, kinh tế- xã hội cụ thể
ảnh hưởng tới việc thực hiện các qui định pháp luật hiện hành, sự phù hợp hay không
phù hợp giữa quy phạm pháp luật đặt ra với điều kiện kinh tế- xã hội cụ thể. Cần khắc
phục tình trạng khép kín trong quá trình soạn thảo. Đó phải là quá trình mở với nhiều
hội nghị , hội thảo, tranh luận, phản biện, góp ý ( chà đi, xát lại ), làm rõ nội hàm của
các tư duy pháp lý mới, thì dự án luật ở bước soạn thảo mới có chất lượng.
( 3) Thẩm tra dự án luật, pháp lệnh. Trong mối quan hệ với nhiệm vụ, quyền
hạn của Quốc hội do Hiến pháp và luật qui định, thì đây là bước quan trọng nhất của
việc thực hiện chức năng lập pháp. Vai trò đại diện của nhân dân trong hoạt động lập
pháp cũng tập trung ở bước này. Vì thế, chỉ có phát huy trí tuệ và am hiểu sâu sắc tâm
tư, nguyện vọng, thực tiễn cuộc sống của nhân dân thì đại biểu Quốc hội mới đại diện
nhân dân để thẩm tra dự án luật có chất lượng. Với vai trò là người đại diện cho nhân
dân thẩm tra dự án luật, đại biểu Quốc hội phải tập trung làm rõ một số vấn đề cơ bản

sau đây
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
-

Sự cần thiết của việc ban hành dự án luật thể hiện ở mục đích và nhiệm

vụ đặt ra cho dự án luật bằng việc phân tích đánh giá sự tác động kinh tế- xã hội của
dự án luật
-

Nội dung của dự án luật bao gồm các chính sách và các phương án điều

chỉnh đã hợp lý chưa? Có phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, thực tiễn cuộc
sống hay không? lợi ích của các nhóm xã hội được điều chỉnh như thế nào trong dự án
luật? có kết hợp hài hoà giữa các nhóm lợi ích hay ẩn chứa những lợi ích cục bộ?
-

Dự án luật đưa vào cuộc sống tiêu tốn bao nhiêu ngân sách? cần tính

toán hiệu quả tài chính theo hướng giảm chi phí, tăng lợi ích của sự điều chỉnh
Trong quá trình thẩm tra, nếu phát hiện có vấn đề cần làm rõ, đại biểu Quốc
hội cần sử dụng quyền yêu cầu cơ quan soạn thảo báo cáo giải trình, cung cấp thông
tin, tài liệu hoặc tự mình tổ chức khảo sát thực tế, mời chuyên gia, các nhà khoa học,
những người quản lý tham gia tranh luận, phản biện, đóng góp ý kiến .
Thẩm tra các dự án luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi đây không phải
là bước bác bỏ một dự án luật như cách làm trong các Nghị viện đa Đảng trên thế giới,

21



Luận văn tốt nghiệp

Trương Tấn Lộc

mà là bước chủ yếu để tiếp tục hoàn thiện dự án luật, nâng cao chất lượng của nó, tạo
cơ sở khoa học và thực tiễn cho Quốc hội xem xét,thông qua ở bước sau. Vì thế, quá
trình thẩm tra và sau thẩm tra vẫn là một quá trình mở để tiếp tục hoàn thiện dự án
luật, vai trò đại diện của đại biểu Quốc hội vẫn tiếp tục phát huy thông qua các bước
tiếp theo của qui trình lập pháp, như giai đoạn Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến.
Đây là giai đoạn Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến về những quan điểm, chính
sách lớn của dự án luật để tiếp tục hoàn thiện trước khi lấy ý kiến nhân dân ( đối với
một số dự án luật ) hoặc trình Quốc hội thảo luận, xem xét và thông qua dự án luật.
( 5) Việc lấy ý kiến của chuyên gia, các nhà khoa học và nhân dân vào qua
trình xây dựng luật là một bước quan trọng trong qui trình lập pháp. Bởi bản chất của
hoạt động lập pháp là đưa ý chí của nhân dân lên thành luật, là hình thức quan trọng để
thực hiện quyền lực của nhân dân. Do đó, có thể nói việc tham gia của nhân dân vào
quá trình lập pháp là một phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp. Chính vì vậy, thu
hút đông đảo các nhà khoa học, các nhà quản lý, các doanh nghiệp, các hiệp hội doanh
nghiệp và đông đảo nhân dân tham gia vào quá trình lập pháp cũng là qui định bắt
buộc phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Theo qui định của tổ chức Thương mại thế
Trung
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

giới ( WTO) thì việc lấy ý kiến của nhân dân cho một dự án luật không được dưới hai

lần và không ít hơn 60 ngày. Về điều này, luật pháp nước ta chưa qui định, nên cần
phải sớm nội luật hoá. Vấn đề quan trọng là, sau khi lấy ý kiến của nhân dân thì việc
xem xét tiếp thu phải như thế nào. Đây không chỉ là nhiệm vụ của Ban soạn thảo mà
còn là nhiệm vụ của các cơ quan chịu trách nhiệm thẩm tra, của các đại biểu Quốc hội

trong quá trình xem xét, thông qua luật. Là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng
của nhân dân trong công tác lập pháp, đại biểu Quốc hội phải lắng nghe, suy nghĩ và
nghiền ngẫm trước các ý kiến đóng góp của nhân dân, phải chắt lọc tìm kiếm những
yếu tố hợp lý trong các ý kiến đó.
( 6) Lấy ý kiến đại biểu Quốc hội ở Đoàn đại biểu Quốc hội, thảo luận dự án
luật ở phiên họp toàn thể hay ở hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách và cuối cùng
là phiên họp toàn thể thông qua dự án luật, là những bước kiểm tra lần cuối, trước khi
bấm nút thông qua dự án luật. Vì thế, ở những bước cuối cùng này, đại biểu Quốc hội
phải sử dụng sự hiểu biết tổng hợp của mình để quyết định chính sách, phương án điều
chỉnh tối ưu, thể hiện đúng đắn nhất ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Rousseau -

22


×