Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

LUẬN văn LUẬT HÀNH CHÍNH CHỨNG cứ và CHỨNG MINH TRONG tố TỤNG dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (742.03 KB, 82 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT HÀNH CHÍNH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2009 – 2013
Đề tài:

CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

HUỲNH THỊ SINH HIỀN

LƯ THÁI DUY
MSSV: 5095598
Lớp: Hành chính_K35

Cần Thơ, 11/2012


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU
Chương 1 ..................................................................... Error! Bookmark not defined.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ .......................................................... Error! Bookmark not defined.


1.1. KHÁI NIỆM VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ ...... Error! Bookmark not defined.
1.2. KHÁI NIỆM CHỨNG CỨ ........................ Error! Bookmark not defined.
1.2.1. Định nghĩa về chứng cứ ...................... Error! Bookmark not defined.
1.2.2. Đặc điểm của chứng cứ ....................... Error! Bookmark not defined.
1.2.3. Phân loại chứng cứ .............................. Error! Bookmark not defined.
1.2.4. Nguồn của chứng cứ ............................ Error! Bookmark not defined.
1.3. KHÁI NIỆM VỀ CHỨNG MINH ............. Error! Bookmark not defined.
1.3.1. Thế nào là hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự Error! Bookmark not def
1.3.2. Chủ thể của hoạt động chứng minh ... Error! Bookmark not defined.
1.3.3. Quá trình chứng minh ........................ Error! Bookmark not defined.
1.3.4. Đối tượng chứng minh trong tố tụng dân sự Error! Bookmark not defined.
1.3.5. Các phương tiện chứng minh trong tố tụng dân sự Error! Bookmark not defined
1.4. MỘT SỐ NÉT VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CÁC QUY ĐỊNH VÀ
CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM Error! Bookmark not defined
1.4.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1989 ................ Error! Bookmark not defined.
1.4.2 Giai đoạn từ 1990 đến 2004 ................. Error! Bookmark not defined.
1.4.3. Giai đoạn từ 2005 đến nay .................. Error! Bookmark not defined.
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ CHỨNG
CỨ VÀ CHỨNG MINH ............................................ Error! Bookmark not defined.
2.1. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG VIỆC CUNG
CẤP CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH .......... Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Thu thập, giao nộp và bảo vệ chứng cứ Error! Bookmark not defined.
2.2. TRÁCH NHIỆM CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Xác định chứng cứ ............................... Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Thu thập chứng cứ .............................. Error! Bookmark not defined.
2.2.3. Bảo quản chứng cứ .............................. Error! Bookmark not defined.
2.2.4. Đánh giá chứng cứ ............................... Error! Bookmark not defined.
2.2.5. Bảo vệ chứng cứ ................................... Error! Bookmark not defined.
2.3. TRÁCH NHIỆM CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC TRONG

VIỆC CUNG CẤP CHỨNG CỨ ...................... Error! Bookmark not defined.
2.4. NHỮNG NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG KHÁC Error! Bookmark not defined.
Chương 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN
THIỆN CHẾ ĐỊNH CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG BỘ
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ ....................................... Error! Bookmark not defined.
3.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ........................... Error! Bookmark not defined.
3.1.1. Điểm mới .............................................. Error! Bookmark not defined.


3.1.2. Một số bất cập, hạn chế ....................... Error! Bookmark not defined.
3.2. THỰC TIỄN XÉT XỬ ............................... Error! Bookmark not defined.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ..... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Năm 1989 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự; tiếp đến năm 1994 ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án kinh tế; năm 1996 ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao
động. Ba Pháp lệnh trên đã phần nào đáp ứng đòi hỏi bức thiết trong tố tụng phi
hình sự và là cơ sở cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy vậy, các quy
phạm pháp luật của ba pháp lệnh trên dần đã lộ rõ hạn chế, mâu thuẫn. Đặc biệt,
trong vấn đề chứng cứ và chứng minh không có quy phạm nào chuẩn hóa khái niệm

chứng cứ và chứng minh, và không quy định đầy đủ về chế định này, điều đó gây
khó khăn trong sử dụng, đánh giá chứng cứ làm ảnh hưởng không nhỏ trong việc
giải quyết vụ án.
Thực tiễn đặt ra cần phải có một Bộ luật Tố tụng dân sự hoàn thiện hơn,
ngày 15 tháng 6 năm 2004 Quốc hội đã ban hành Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam .
Bộ luật có phạm vi điều chỉnh rất rộng, bao gồm nhiều quan hệ pháp luật tố tụng
thuộc nhiều lĩnh vực nh- dân sự, hôn nhân, kinh tế, lao động và thi hành án.
Từ khi Bộ luật Tố tụng dân sự bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm
2005 đến nay vấn đề chứng cứ và chứng minh trong tố tông dân sự vẫn còn nhiều
quan điểm khác nhau cần phải sáng tỏ nh- :
Về lý luận: Đã có nhiều cách hiểu khác nhau thậm chí trái ngược nhau về
chứng cứ và chứng minh. Bộ luật Tố tụng dân sự đã quy định tới 20 điều luật, từ
Điều 79 đến Điều 98.
Về thực tiễn: Trong công tác xét xử ở mỗi Tòa án, Viện kiểm sát, luật
sư... có cách vận dụng khác nhau, đánh giá về nguồn và xác định chứng cứ và vấn
đề chứng minh còn khác nhau. Điều đó đã dẫn đến cùng một vụ án, cùng một


2

loại chứng cứ, có chung cơ sở chứng minh mà mỗi Tòa án lại xử một kiểu, mỗi
Viện kiểm sát, Luật sư có quan điểm, nhìn nhận trái ngược nhau.
Từ thực trạng trên, với mong muốn nghiên cứu để làm sáng tỏ một cách đầy
đủ cả về lý luận và thực tiễn về chứng minh và chứng cứ trong các vụ việc dân sự,
người viết chọn đề tài: "Chứng cứ và chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự"
làm khóa luận tốt nghiệp của mình
2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Với phạm vi của một khóa luận cử nhân luật học tác giả chưa có đủ điều
kiện nghiên cứu hết các vấn đề chứng cứ và chứng minh trong tất cả các vụ việc dân
sự theo phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Tố tụng dân sự, vì vậy tác giả chỉ nghiên

cứu chuyên sâu về chứng cứ và chứng minh trong phạm vi các vụ án dân sự truyền
thống (dân sự và hôn nhân gia đình), còn trong các lĩnh vực khác tác giả hy vọng sẽ
có cơ hội thực hiện đầy đủ nội dung của chế định này trong các công trình nghiên
cứu sau này.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Khóa luận được nghiên cứu theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin và một số phương pháp cụ thể như: Lịch sử phân tích, so sánh, chứng minh,
tổng hợp và phương pháp xã hội, phương pháp khảo sát thăm dò v.v...
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu một cách có hệ thống toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn
của chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự. Từ mục đích này, nhiệm vụ của
luận văn là:
- Nghiên cứu đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản nhất, giúp cho việc nhận
thức một cách rõ nét về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự.
- Từ việc nghiên cứu những hạn chế, bất cập, vướng mắc trong thực tiễn đề
xuất những kiến nghị trong việc hoàn thiện các quy định về chứng cứ.


3

5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương, trong đó:
Chương 1 Lý luận chung về chứng minh và chứng cứ trong Tố tụng Dân sự
Chương 2 Quy định của Bộ luậ Tố tung dân sự về chứng cứ và chứng minh
Chương 3 Thực tiễn áp dụng và phương pháp hoàn thiện chế định chứng cứ
và chứng minh trong Tố tụng Dân sự


4


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ

1.1. KHÁI NIỆM VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
Trình tự hoạt động do pháp luật quy định cho việc xem xét giải quyết vụ án
(1)

và thi hành án được giải thích là “tố tụng dân sự” . Tuy nhiên, cần xem xét một
cách chính xác hơn về cụm từ được sử dụng lâu đời và có nhiều tranh luận này mới
có thể đặt nền tảng nghiên cứu các vấn đề liên quan trong đó. Được ghép từ danh
từ “tố tụng” là kiện thưa tại tòa án nói chung

(2)

có gốc từ tiếng la tinh procedere có

nghĩa là tiến bước, gợi nên một cách thức cần thiết phải thực hiện để đạt được mục
đích, “tố tụng” thường được sử dụng một cách lẫn lộn với danh từ “thủ tục” bởi
tính chất định trước buộc phải tuân theo trong một việc nhất định. Mặc dù cũng
dùng để chỉ định một cách thức tiến hành bắt buộc nhưng danh từ “thủ tục” bao
hàm trong đó nghĩa rộng hơn trên nhiều mặt vượt ra ngoài nghĩa của trình tự giải
quyết vụ việc tại tòa án (như thủ tục nhập học, thủ tục đi xuất khẩu lao động…). Tố
tụng khác biệt với thủ tục ở chỗ nó được dùng một cách triệt để và chỉ xuất hiện ở
trong các trình tự tại cơ quan tư pháp đồng thời gợi ra một cách nhìn nhận trong đó
có sự tranh tụng – mâu thẫn yêu cầu tài phán. Trong một thời gian dài của quá trình
phát triển, danh từ thủ tục đã được sử dụng thay cho danh từ tố tụng như: Thủ tục
giải quyết vụ án dân sự, Thủ tục giải quyết vụ án kinh tế hay Thủ tục giải quyết các
tranh chấp lao động… đã không thể hiện rõ được bản chất của hoạt động tư pháp.
Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã sử dụng triệt để danh từ tố tụng và thống nhất các

thủ tục giải quyết thành một trình tự tố tụng chung.

(1)

Từ điển luật học – NXB Tư Pháp, tr. 785

(2)

Đại từ điển tiếng Việt – NXB Văn Hoá Thông Tin, Nguyễn Như ý chủ biên tr. 1606


5

Danh từ “dân sự” – civil đôi khi được dùng tương đồng với danh từ prive –
lĩnh vực luật tư, bởi bản chất thỏa thuận, bình đẳng của các bên trong việc xác lập,
thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ. Theo quy định của Bộ luật TTDS về
phạm vi giải quyết các tranh chấp tại Điều 1 thì các ngành luật nội dung có tranh
chấp được giải quyết theo trình tự này bao gồm Luật dân sự, Luật hôn nhân và gia
đình, Luật thương mại, Luật lao động thì danh từ “dân sự” trong “tố tụng dân
sự” đang được dùng như một bộ phận của lĩnh vực tư luật (bởi luật tư bao gồm
nhiều ngành luật khác như luật bảo hiểm xã hội…).
Chính bởi sự phức tạp trong cách định nghĩa và xác định chính xác thuật
ngữ tố tụng dân sự mà đã có nhiều học giả đề nghị thay thế cụm từ này bằng một số
cụm từ khác như: Luật tư pháp – vì liên quan đến lĩnh vực tư pháp, Tư luật – luật
điều chỉnh việc giải quyết việc “riêng tư” giữa các bên, Luật tư pháp dân sự – nhằm
phân biệt phạm vi của ngành luật này với tố tụng hành chính và tố tụng hình sự,
Luật tư pháp tư hay Dân sự – tố tụng… đồng thời đưa ra một số các định nghĩa khác
(3)

nhau về tố tụng dân sự . Các cách định danh này đều có cơ sở nhất định nhưng

chưa giải quyết được triệt để vấn đề, gây khó khăn cho cách tiếp cận của những nhà
nghiên cứu pháp luật cũng như không rõ nghĩa.
Việc sử dụng cụm từ tố tụng dân sự khi xây dựng Bộ luật Tố tụng dân sự
còn mang đến một thắc mắc từ phía các Đại biểu quốc hội bởi sự hoài nghi luật “ba
trong một” liệu có đáp ứng được yêu cầu hay không khi đối tượng điều chỉnh rộng
trong hoàn cảnh các tòa án vẫn được chia thành tòa dân sự, tòa kinh tế, tòa lao động
sẽ dễ gây nhầm lẫn khi các tòa kinh tế, lao động lại áp dụng theo thủ tục tố tụng dân

(3)

Theo Pothier thì “Tố tụng là hình thức phải theo để đệ đơn kiện, kháng biện, can thiệp, cứu xét, phán xử
thượng khống và thi hành án văn” hay như G.S. Solus thì “Dân Sự Tố Tụng bao gồm những định lệ chi phối
việc tổ chức và điều hành công lý, đặt ra để đảm bảo cho tư nhân các sự chế tài và tôn trọng quyền lợi trong
tư luật” – xem Nguyễn Huy Đẩu – Luật dân sự tố tụng Việt Nam (1962), NXB Khai Trí xuất bản dưới sự
bảo trợ của Bộ Tư Pháp. tr5 – 6


6

(4)

sự? . Tuy nhiên, có thể thấy việc sử dụng cụm từ tố tụng dân sự là sát nghĩa và có
tính chất triệt để hơn cả trong giai đoạn hiện nay. Bởi 3 nguyên nhân:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật Việt Nam không phân chia thành công pháp –
tư pháp như một số nước trên thế giới mà đây chỉ là vấn đề lý luận của những nhà
nghiên cứu pháp luật. Định nghĩa dựa trên sự thừa nhận không chính thức sẽ gây
khó khăn cho việc tiếp cận một ngành luật thực định của đông đảo quần chúng. Vì
vậy, cần thiết phải định nghĩa rõ ràng dựa trên sự thừa nhận chính thức về vị trí và
vai trò của ngành luật trong hệ thống pháp luật.
Thứ hai, việc định nghĩa với cụm từ “tố tụng dân sự” một mặt phản ánh

được tính chất“nệ thức” – phụ thuộc yếu tố hình thức, thủ tục trong hoạt động giải
quyết vụ việc dân sự bảo đảm hạn chế tính độc đoán của các thẩm phán cũng như
giúp các chủ thể tham gia có thể bảo vệ được mình thông qua những quy định mang
tính chất thủ tục. Mặt khác phản ánh được đối tượng điều chỉnh về mặt nội dung
của ngành luật hình thức tổng hợp này là các ngành luật mang yếu tố “riêng tư”
giữa các bên không có sự tham gia của nhà nước ở một bên chủ thể tranh chấp và
gợi được tính tranh tụng, đối lập một cách bình đẳng giữa các bên đương sự.
Thứ ba, hiệu quả mang lại từ tố tụng không phải là ở việc tạo ra nhiều thủ
tục khác nhau mà nằm ở việc giải quyết nhanh chóng, chính xác, khách quan vụ
việc, giảm thiểu được gánh nặng về cơ cấu, tổ chức cũng như trong cách thức áp
dụng pháp luật. Khi các đối tượng điều chỉnh là thống nhất về mặt bản chất thì có
thể quy nạp chúng về một thủ tục chung để giải quyết không cần thiết phải có nhiều
thủ tục khác nhau. Hiệu quả của tố tụng dân sự trong những năm qua đã minh
chứng cụ thể cho điều đó.
Như vây, tố tụng dân sự có thể được hiểu dưới góc độ pháp lý là một ngành
luật tố tụng cụ thể còn dưới góc độ thực tiễn là những hình thức thực tiễn do các
chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng tiến hành.
Dưới góc độ pháp lý:
(4)

Đại biểu Lê Văn Tâm, Lê Xuân Thân, Lê Thị Nga, Nguyễn Đình Lộc… trong buổi làm việc tại hội trường
của Quốc Hội khóa XI ngày 19/ 11/ 2003


7

Tố tụng dân sự là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban
hành điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết vụ việc về
dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động tại tòa án đảm bảo
sự nhanh chóng, chính xác trong quá trình giải quyết và thi hành án, đặt ra các

chế tài bảo vệ quyền lợi của nhà nước, của công dân.
Dưới góc độ thực tiễn:
Tố tụng dân sự là một quy trình, thủ tục do pháp luật quy định buộc mọi
chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng phải tuân theo nhằm giải quyết nhanh
chóng, chính xác vụ án dân sự và thi hành án, bảo vệ quyền lợi của nhà nước và
của công dân.
Nhiều học giả trên thế giới đã nhìn nhận tố tụng dân sự như là “nô tì”, là
“khúc ruột thừa”, là luật “yểm trợ” cho luật hình thức… các cách nhìn nhận này là
sai lầm và không đánh giá được vai trò quan trọng của luật tố tụng. Bởi lẽ, pháp luật
được đặt ra không phải chỉ để cho các bên xác lập các quyền và nghĩa vụ một cách
chung chung mà còn đặt ra những chế định nhằm đảm bảo cho các quyền đó thành
thực tế. Khi lợi ích của một bên bị tổn thương cũng là lúc họ cầu cứu đến vai trò của
nhà nước. Nhà nước với vị trí trung lập, thông qua thủ tục tố tụng xác định một cách
rõ ràng quyền lợi, nghĩa vụ của các bên và đảm bảo thực hiện trên thực tế. Hay nói
cách khác, luật tố tụng đảm bảo quyền lợi của các bên ở thế “động” – có phát sinh
tranh chấp (khác với quyền lợi ở thể“tĩnh” – được các bên xác lập tôn trọng thực
hiện). Nói chung, luật nội dung và luật tố tụng là hai mặt không thể tách rời để chủ
thể đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của mình.
1.2. KHÁI NIỆM CHỨNG CỨ
1.2.1. Định nghĩa về chứng cứ
Chứng cứ là vấn đề trung tâm và quan trọng của tố tụng dân sự. Có thể nói,
mọi hoạt động trong quá trình chứng minh chủ yếu xoay quanh vấn đề chứng cứ,
mọi giai đoạn của tố tụng dân sự mở ra, kết thúc và kết quả đều phụ thuộc phần lớn
vào chứng cứ. Có thể nói, chứng cứ là phần quan trọng, lớn nhất để chứng minh vụ


8

việc dân sự. Dựa vào chứng cứ mà các đương sự có cơ sở xác đáng chứng minh bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của mình; các cơ quan tiến hành tố tụng có đủ hay không đủ

điều kiện để xác định tình tiết của vụ việc dân sự đúng, đủ, chính xác để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho công dân và bảo vệ pháp luật. Vì vậy, việc nhận định
chứng cứ có vai trò quan trọng nhất trong hoạt động chứng minh của tố tụng dân sự,
từ đó giúp việc nhận thức đúng đắn về hoạt động thực tiễn.
Cơ sở về lý luận: Quan điểm vật chất sinh ra không bao giờ mất đi, mà nó
chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác và mọi sự vật, hiện tượng có mối liên
hệ phổ biến. Từ đó, các tài liệu, sự kiện, hiện vật được coi là chứng cứ cũng là một
dạng vật chất, nó phản ánh vào đầu óc con người và lưu lại trong đầu óc, trí nhớ.
Do vậy, nếu đương sự muốn chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của
mình bị xâm hại, phải cung cấp cho Tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng có
thẩm quyền những chứng cứ mà Bộ luật Tố tụng dân sự coi đó là một trong các
nguồn của chứng cứ. Để làm rõ sự thật khách quan khi thô lý vụ việc dân sự, Tòa án
phải làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến vụ kiện như: Việc xác lập quyền,
nghĩa vụ dân sự trên cơ sở nào? Các đương sự đã cung cấp được các chứng cứ gì?
Và có khả năng thu thập thêm được một số chứng cứ gì khác? Từ đó, Tòa án sẽ tiếp
nhận vụ việc và thực hiện tất cả các biện pháp để nhằm thu thập đầy đủ, toàn diện,
chính xác, đúng đắn các loại nguồn của chứng cứ mà pháp luật có quy định để có cơ
sở giải quyết khách quan, đúng đắn vụ việc dân sự.
Có nhiều định nghĩa về chứng cứ của một số nước trên thế giới: Trong Bộ
luật Tố tụng dân sự của Liên bang Nga có quy định: "Chứng cứ trong tố tụng dân sự
là những sự thật khách quan và theo đó mà Tòa án có cơ sở để Tòa án giải quyết vô
án dân sự"; hay Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản định nghĩa: "Chứng cứ là một tư
liệu thông qua đó một tình tiết được Tòa án công nhận và là một tư liệu, cơ sở thông
qua đó Tòa án được thuyết phục là một tình tiết nhất định tồn tại hay không".


9

Về nội hàm của khái niệm một số nước trên tựu chung là khẳng định:
Chứng cứ là sự thật khách quan.

Ở Việt Nam, khái niệm chứng cứ được xây dựng dùa trên cơ sở tiếp thu có
chọn lọc những quan điểm khoa học về chứng cứ trong pháp luật tố tụng dân sự ở
các nước, đó là xuất phát từ thực tế khách quan của bản thân chứng cứ không lệ
thuộc vào ý thức con người; đánh giá chứng cứ trong mối liên hệ biện chứng, mỗi
chứng cứ đều có nguồn gốc dẫn đến sự hình thành nên nó, sự tồn tại của chứng cứ
luôn ở dạng động, liên quan đến nhau. Từ đó Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam định
nghĩa về chứng cứ như sau:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương
sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa
án thu thập được theo trình tự thục tục do Bộ luật này quy định mà Tòa
án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là
có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết
cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự (Điều 81 Bộ luật Tố tụng
dân sự).
Có thể hiểu chung: chứng cứ là những gì có thật được thu thập theo đúng
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự dùng để làm căn cứ giải quyết đúng đắn vụ án.
Định nghĩa chứng cứ (tại Điều 81) Bộ luật Tố tụng dân sự nhìn nhận dưới
góc độ khoa học pháp lý thì khái niệm này cần được xem xét kỹ hơn. Qua thực tiễn
xét xử và các loại chứng cứ được quy định tại Điều 82 Bộ luật Tố tụng dân sự, theo
tác giả có một số quan điểm sau:
Cụm từ "những gì có thật" chưa thực sự chính xác, đầy đủ và khoa học.
Cụm từ này trừu tượng khó hiểu, nghĩa dân dã trong câu từ; thuật ngữ pháp lý đòi
hỏi trong sáng, minh bạch, chuẩn xác và hàn lâm. Trước đó, đã có quan điểm góp
ý dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự cho rằng nên dùng cụm từ "những tin tức có
thật". Có thể cụm từ này sẽ làm cho định nghĩa về chứng cứ cụ thể hơn, sát với


10

thực tế cuộc sống hơn. Nó giúp cho các chủ thể nhận thức về chứng cứ dễ dàng

hơn vì chứng cứ là những cái có thể xác định được, nghe được, nhìn được, thậm
chí chiếm giữ được trên thực tế. Tóm lại, dù tồn tại dưới dạng vật hay vật có giá
trị mang tin thì nó đều tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể, tựu chung nó mang một
thông tin, một số thông tin khách quan có thật.
Việc quy định "... do Tòa án thu thập được theo trình tự thủ tục do Bộ luật
này quy dịnh mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay phản đối của
đương sự...", quy định này còn bỏ sót chủ thể.
Việc quy định phần sau "... cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc
giải quyết đúng đắn sự vụ việc dân sự". Quy định này tạo nên sự rời rạc của định
nghĩa. Khái niệm hoàn chỉnh phải tuân thủ đủ ba đặc điểm cơ bản: phản ánh toàn
diện về đối tượng; phản ánh tương đối chính xác về đối tượng; là sự hiểu biết tương
đối có hệ thống về đối tượng.
Trên lập trường, quan điểm thế giới quan duy vật, xem xét chứng cứ xuất
phát từ thực tế khách quan của chính bản thân nó chứ không lệ thuộc vào ý thức của
con người.
Trong mối liên hệ biện chứng, nhìn nhận và xem xét chứng cứ trong sự vận
động, phát triển và toàn diện. Trong thế giới khách quan, mỗi chứng cứ đều có nguồn
gốc, có nguyên nhân dẫn đến hình thành ra nó. Sự tồn tại của chứng cứ không ở dạng
tĩnh lặng, bất động, riêng lẻ mà chúng có sự liên quan lẫn nhau.
Từ những ý kiến bình luận trên, tác giả xin đưa ra định nghĩa như sau:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những sự kiện, tình tiết, tin tức phản
ánh sự thật khách quan do đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, cá
nhân, cơ quan, tổ chức, người tham gia tố tụng giao nép hoặc Tòa án thu thập
theo trình tự, thủ tục Bộ luật này quy định mà Tòa án dùa vào đó để giải quyết
đúng đắn vụ việc dân sự.
1.2.2. Đặc điểm của chứng cứ


11


1.2.2.1. Tính khách quan của chứng cứ
Chứng cứ trước hết là những gì có thật tồn tại khách quan không phụ
thuộc vào ý thức chủ quan của con người. Đương sù và các cơ quan tiến hành tố
tụng không được tạo ra chứng cứ, nếu vậy tính khách quan sẽ không còn; do đó
không thể coi là chứng cứ. Con người phát hiện tìm kiếm và thu thập chứng cứ, con
người nghiên cứu và đánh giá để sử dụng nó.
1.2.2.2. Tính liên quan của chứng cứ
Tính liên quan: Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998:
"Tính liên quan là sự liên hệ, dính dáng nhau ở một hay một số tính chất"(4)
Tính liên quan trong vụ việc dân sự được hiểu là các tình tiết, sự kiện có
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vụ việc dân sự mà Tòa án đâng giải quyết.
Chứng cứ là những sự kiện, tình tiết, tài liệu tồn tại khách quan và có liên
quan đến vụ việc mà Tòa án cần giải quyết. Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam quy
định cụ thể các loại nguồn của chứng cứ, tuy nhiên Tòa án phải chọn lọc và đánh
giá những gì có thật liên quan đến vụ việc mà thôi. Tính liên quan của chứng cứ có
thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Mối quan hệ trực tiếp là mối quan hệ dựa vào đó có
thể xác định được ngay những tình tiết, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
xem đây là tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh. Mối liên hệ gián tiếp là
qua khâu trung gian mới tìm được tình tiết, sự kiện. Tuy nhiên, cho dù là trực tiếp
hay gián tiếp thì cũng phải có mối quan hệ nội tại, có mối quan hệ nhân quả. Từ
việc đánh giá rõ tình tiết liên quan, Tòa án có thể xác định đúng chứng cứ cần sử
dụng để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự mà không để xảy ra trường hợp thừa,
hoặc không đầy đủ chứng cứ.
1.2.2.3. Tính hợp pháp của chứng cứ
Các tình tiết, sự kiện phải được thu thập, bảo quản, xem xét, đánh giá,
nghiên cứu theo thủ tục luật định, có như vậy mới bảo đảm giá trị của chứng cứ.


12


Trước hết, chứng cứ phải được pháp luật thừa nhận, các tình tiết, sù kiện chỉ được
coi là chứng cứ khi mà pháp luật dân sự quy định nó là một trong các loại nguồn
của chứng cứ. Vật chứng phải luôn là vật gốc có tính đặc định, liên quan đến vụ
việc dân sự thì mới có giá trị pháp lý, nếu sao chép, tái hiện lại vật chứng thì không
được coi là vật chứng. Vì vậy, Tòa án không chỉ thu thập đúng trình tự mà phải bảo
quản, giữ gìn, đánh giá chứng cứ một cách đầy đủ, toàn diện để đảm bảo đúng đắn
tính hợp pháp của chứng cứ.
Tính hợp pháp của chứng cứ được xác định cụ thể:
- Phải là một trong các nguồn hợp pháp mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy
định.
- Phải từ phương tiện chứng minh hợp pháp mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy
định.
- Phải được giao nộp trong một thời hạn hợp pháp (Bộ luật Tố tụng dân sự
đang để trống quy định này).
- Phải được công bố công khai theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Phải được thu thập, cung cấp đúng pháp luật tố tụng dân sự.
1.2.3. Phân loại chứng cứ
Trên thực tế, chứng cứ thường được phân thành các loại khác nhau. Những
tình tiết, sự kiện tồn tại trong thế giới vật chất chung quy lại tồn tại dưới hai dạng
sau:
- Các dấu vết phi vật chất liên quan đến các tình tiết, sự kiện của vụ việc
dân sự được phản ánh vào đầu óc con người, từ đó con người ghi lại, chụp lại và
phản ánh có ý thức lại chính nó.
- Các dấu vết, vật chứng là vật chất.


13

Dựa vào hai dạng cơ bản trên mà có các cách gọi khác nhau như: chứng cứ
gián tiếp, chứng cứ thuật lại, chứng cứ gốc, chứng cứ miệng, chứng cứ phủ định, chứng

cứ khẳng định, chứng cứ viết...; nhưng dù có gọi như thế nào thì cũng không làm thay
đổi giá trị của nó. Việc phân loại có giá trị trong việc nghiên cứu và ban hành các quy
định về chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự có hệ thống và minh bạch.
- Chứng cứ theo người: Là chứng cứ được rót ra từ lời khai của đương sự,
người làm chứng.
- Chứng cứ theo vật: Là chứng cứ được rót ra từ những vật như vật chứng, tài
liệu, giấy tờ.
1.2.4. Nguồn của chứng cứ
Nguồn chứng cứ ở trong tố tụng dân sự là nguồn được thu thập, cung cấp
theo trình tự Bộ luật Tố tụng dân sự và được liệt kê tại Điều 82 Bộ luật Tố tụng dân
sự thì được coi là nguồn. Bởi vậy, nếu không có nguồn chứng cứ sẽ không chứng
minh làm sáng tỏ để giải quyết vụ việc dân sự.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì nguồn của chứng cứ bao gồm:
"Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; các vật chứng; lời khai của đương sự, lời
khai của người làm chứng; kết luận giám định; biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ;
tập quán; kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản; các nguồn khác mà pháp luật
có quy định" (Điều 82 Bộ luật Tố tụng dân sự). Có thể hiểu nguồn của chứng cứ là nơi
chứa đựng chứng cứ. Nó tồn tại hai loại nguồn chủ yếu là nguồn vật và tài liệu. Nguồn
chứng cứ và phương tiện chứng minh là hai khái niệm khác nhau; nhưng thực tế là
thường được hiểu chung. Vì một số trường hợp các phương tiện chứng minh cũng
chính là cái có thể rót ra các tin tức và vụ việc dân sự như vật chứng, tài liệu chứa
đựng chứng cứ... tức cũng là nguồn của chứng cứ.
Tòa án chỉ có thể thu thập các nguồn chứng cứ, từ đó rót ra các chứng cứ.
Bất kỳ loại chứng cứ nào cũng phải nằm trong một loại nguồn chứng cứ nhất định;
nhưng không có nghĩa là khi thu thập một nguồn chứng cứ nào đó thì nhất định


14

trong đó sẽ chứa đựng chứng cứ, vì vậy sẽ phạm sai lầm trong đánh giá, sử dụng. Ví

dụ, vật chứng đương sự cung cấp cho Tòa án là nguồn nhưng là vật chứng được
đương sự làm giả, gian dối thì không thể coi vật chứng này là nguồn được; hay kết
luận giám định là nguồn chứng cứ nhưng kết luận giám định sai thì không thể coi là
nguồn của chứng cứ được.
Theo pháp luật Việt Nam ban hành, có các loại nguồn cụ thể:
- Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được
Các tài liệu đó phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực
hợp pháp hoặc do tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Bản chính có thể là
bản gốc hoặc bản được dùng làm cơ sở lập ra các bản sao. Các tài liệu nghe được,
nhìn được phải xuất trình kèm theo văn bản xác định xuất xứ của tài liệu đó hoặc
văn bản và sự liên quan tới cuộc thu âm, thu hình đó. Các tài liệu này có thể là băng
ghi âm, đĩa ghi hình, phim ảnh... Nếu đương sự không xuất trình được các văn bản
nêu trên thì tài liệu nghe, đọc, nhìn được mà đương sự giao nép không thể được coi
là chứng cứ.
- Các vật chứng
Vật chứng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự, nếu không
phải là hiện vật gốc nhưng phải là chứng cứ trong vụ việc dân sự đó. Do vậy, vật
chứng phải luôn có tính đặc định liên quan đến vụ việc dân sự thì mới có giá trị
pháp lý. Vì vậy, Tòa án không chỉ thu thập vật chứng theo trình tự luật định mà phải
bảo quản, giữ gìn để bảo đảm giá trị đặc tính của vật chứng. Nếu đương sự cung cấp
vật chứng, Thẩm phán phải lập biên bản miêu tả chi tiết hình thức cũng như đặc tính
lý hóa của sự vật, đặc biệt dấu vết thể hiện trên vật chứng đó. Đối với vật không thể
di chuyển được thì phải xem xét tại chỗ; vật mẫu hàng phải xem xét kịp thời và
phản ánh đầy đủ trong quá trình xem xét như ghi biên bản, chụp hình, ghi hình để
lưu.
- Lời khai của đương sự


15


Đương sự là người có quyền và lợi ích gắn liền với vụ việc dân sự, họ tham gia
trực tiếp vào quan hệ pháp luật đang có tranh chấp hay giải quyết của mình tại Tòa án.
Lời khai của đương sự dựa trên trí nhớ và sự kiện, tình tiết nên thường mang tính chủ
quan. Tâm lý trong lời khai của đương sự thường thiên về bảo vệ cái quyền lợi cá nhân,
nên xem xét yếu tố này để Tòa án thận trọng khi đánh giá.
Lời khai của đương sự có thể bằng văn bản hay ghi âm, ghi hình theo đúng
trình tự và ký tên của mình. Lưu ý tuổi của đương sự khi lấy lời khai.
- Lời khai của người làm chứng
Người làm chứng là người biết rõ những thông tin liên quan đến vụ kiện
nhưng lại không có quyền lợi trong việc việc đó, vì vậy lời khai của người làm
chứng thường thể hiện yếu tố khách quan hơn. Có thể do một số yếu tố nào đó như
bị dụ dỗ, bị mua chuộc, bị đe dọa, hành hung mà đưa ra những lời khai sai lệch,
thiếu chính xác. Lời khai của người làm chứng theo quy định phải được ghi bằng
văn bản hoặc ghi âm, ghi hình, nhưng phải ký tên xác nhận. Người làm chứng phải
đủ 18 tuổi, có đủ năng lực hành vi dân sự; nếu bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi
dân sự phải có người đại diện.
- Kết luật giám định
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, nếu cần sự kết luận của cơ quan
chuyên môn để làm sáng tỏ một tình tiết, sự kiện nào đó. Theo yêu cầu của một bên
đương sự hoặc theo thỏa thuận của các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết định
trưng cầu giám định. Kết luận giám định chính xác có tầm quan trọng rất lớn, thậm
chí có nhiều vụ kiện có thể quyết định toàn bộ vụ án. Ví dụ, vụ kiện tranh chấp về
thừa kế. Bản di chúc bị tố cáo là giả mạo, nếu xác định của cơ quan giám định tư
pháp là giả hay không, nó quyết định toàn bộ vụ án. Bởi vậy, các kết luận giám định
có thể được giám định lại, giám định bổ sung ở các cơ quan có chức năng giám định
khác.
- Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ


16


Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, nếu việc thẩm định được tiến hành theo
đúng thủ tục do pháp luật quy định và phải có chữ ký của các thành viên tham gia
thẩm định. Cụ thể, Tòa án đến tận nơi có sự việc để làm việc cùng có đại diện của
cơ quan sở tại có thẩm quyền. Tòa án phải báo cho đương sự biết trước để họ chứng
kiến việc xem xét, thẩm định.
- Tập quán là nguồn của chứng cứ
Tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và
được công chúng thừa nhận. Đối với một tập quán được coi là chứng cứ trong một
vụ án cụ thể thì Thẩm phán phải yêu cầu đương sự trình bày rõ nguồn gốc của tập
quán đó và chứng minh tập quán đó bằng cách ghi nhận nó bằng văn bản thể hiện
việc cả cộng đồng dân cư nơi có tập quán đó thừa nhận, như xác nhận vào văn bản
cả cộng đồng dân cư và được chứng thực cũng như xác nhận của Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi có tập quán đó được thừa nhận.
Thực chất, phong tục, tập quán chỉ là cơ sở để đánh giá chứng cứ. Bởi lẽ, nó
không có giới hạn cụ thể, rạch ròi, ở một mức độ nào đó nó có tính ước lệ và suy đoán.
Ví dụ, ở một cộng đồng dân cư, tính cục bộ tại địa phương đó dẫn đến vì giúp cho một
cá nhân nào đó mà cộng đồng dân cư có thể ký và xác thực vào văn bản mà việc này
vẫn không trái với đạo đức xã hội. Tóm lại, về cơ bản, tập quán không được trái với
các nguyên tắc của pháp luật và đạo đức xã hội và đương nhiên tập quán đó chưa
được khái quát để cụ thể hóa trong luật.
- Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản
Định giá và thẩm định giá có vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ án.
Định giá và thẩm định có thể do đương sự yêu cầu, hay tự Tòa án nhận thấy cần
thiết.
Kết quả định giá và thẩm định là nguồn của chứng cứ nên việc định giá do
Hội đồng định giá được lập thành văn bản và thực hiện theo đúng quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự.



17

Khi định giá và thẩm định tài sản, Hội đồng định giá và thẩm định tiến hành
riêng trên từng tài sản. Để xác định đúng giá trị tài sản của vụ việc dân sự phải căn
cứ vào mức phố biến giá cả thị trường địa phương tại thời điểm định giá mà có vật,
tài sản cần định giá.
1.3. KHÁI NIỆM VỀ CHỨNG MINH
1.3.1. Thế nào là hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự
Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998, trang 178: "Chứng
minh là dùng lý lẽ, suy luận, bằng cứ để chỉ rõ điều gì đó đúng hay không đúng".(5)
Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2003, tr. 192 ghi: "Chứng minh
là làm cho thấy rõ là có thật, là đúng bằng sự việc hoặc bằng lý lẽ".(6)
Mỗi vụ việc dân sự phát sinh tại Tòa án thường chứa đựng những mâu
thuẫn nhất định giữa các bên đương sự nên rất phực tạp. Để giải quyết được vụ việc
dân sự thì mọi vấn đề của vụ việc dân sự dù ai nêu ra cũng phải được làm rõ trước
khi Tòa án quyết định giải quyết vụ việc dân sự. Vú dụ, trong vụ án thừa kế yêu cầu
chia di sản theo di chúc thì làm rõ có di chúc không? Người viết di chúc đã chết
chưa? Di chúc có hợp pháp hay không?
Chứng minh là hoạt động chi phối kết quả giải quyết vụ việc dân sự của
Tòa án nên có nội hàm rất rộng. Bản chất của hoạt động chứng minh của các chủ
thể tố tụng không chỉ thể hiện ở chỗ xác định các tình tiết, sự kiện của vô việc dân
sự mà còn thể hiện ở chỗ phải làm cho mọi người thấy rõ là có thật, là đúng với
thực tế. Do đó, các phương thức được các chủ thể chứng minh sử dụng để chứng
minh rất đa dạng. Nhưng để thực hiện được mục đích, nhiệm vụ của chứng minh,
các chủ thể chứng minh bao giờ cũng phải chỉ ra được tất cả các căn cứ pháp lý và
thực tiễn liên quan đến vụ việc dân sự.

Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998, trang 178
Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2003, tr. 192



18

Quá trình chứng minh được diễn ra suốt trong quá trình giải quyết vụ việc
dân sự. Hoạt động chứng minh trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự bao
gồm nhiều hoạt động khác nhau của các chủ thể tố tụng. Trong đó, hoạt động cung
cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ tại phiên tòa của các chủ thể là chủ
yếu và mang tính quyết định:
- Cung cấp chúng cứ: Là nghĩa vụ chủ yếu là do đương sự giao nộp cho Tòa
án, đương sự muốn làm rõ được yêu cầu hay phản đối yêu cầu của họ là có căn cứ
hợp pháp thì trách nhiệm của họ là phải cung cấp, giao nộp chứng cứ cho Tòa án để
chứng minh.
Việc cung cấp chứng cứ còn có thể do cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp.
- Thu thập chứng cứ là trách nhiệm của các đương sự, hoặc một số trường hợp
Tòa án thu thập. Việc thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ để chứng minh trong
giải quyết vụ việc dân sự phải đúng hạn, nhanh chóng và kịp thời.
- Nghiên cứu và đánh giá là giai đoạn cuối cùng của hoạt động chứng minh.
Nó là một quá trình lôgíc nhằm xác định giá trị chứng minh và sự phù hợp của các
chứng cứ - sự phù hợp của chứng cứ ở đây là sự phù hợp giữa những tình tiết, sự
kiện đã thu thập được với thực tế khách quan. Thông qua nghiên cứu và đánh giá
chứng cứ, Tòa án hình thành các đối tượng chứng minh và sắp xếp các sự kiện theo
một trình tự nhất định. Việc suy đoán chứng cứ có thể được sử dụng trong quá trình
đánh giá chứng cứ, nhưng việc suy đoán này phải dựa trên các chứng cứ khác hoặc
trên tổng thể các chứng cứ có trong hồ sơ chứ không được theo nhận thức chủ quan
của người đánh giá.
Chứng minh trong tố tụng dân sự có ý nghĩa làm rõ, xác định các sự kiện,
tình tiết của vụ việc dân sự, đảm bảo việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.
Chứng minh là biện pháp duy nhất để xác định các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân
sự.



19

Thông qua hoạt động chứng minh, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và các
chủ thể khác thấy rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự được giải quyết. Đối
với các đương sự, chứng minh là vấn đề rất quan trọng để các đương sự làm rõ
quyền, lợi ích hợp pháp của họ, trên cơ sở đó thuyết phục Tòa bảo vệ. Trước Tòa
án, nếu đương sự không chứng minh được sự tồn tại quyền, lợi ích hợp pháp của họ
thì quyền và lợi ích hợp pháp của họ có thể sẽ không được Tòa án bảo vệ. Trên thực
tế, Tòa án có thể sai lầm trong việc xác định, đánh giá chứng cứ, không làm sáng tỏ
được các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự. Điều đó dẫn đếu việc giải quyết vụ
việc dân sự không đúng với sự thật và làm cho đương sự không được bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của họ. Chứng minh không chỉ có ý nghĩa đối với việc giải quyết
đúng đắn vụ việc dân sự của Tòa án, mà còn có ý nghĩa bảo đảm cho đương sự bảo
vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Để giải quyết bất kỳ một vụ việc dân sự thì đều được phải làm rõ những sự
việc, tình tiết về cơ bản trước khi Tòa án tiến hành giải quyết. Mà thực chất của hoạt
động chứng minh phần lớn bao gồm việc cung cấp chứng cứ của đương sự và việc
Tòa án xem xét toàn bộ hệ thống văn bản, tài liệu liên quan được áp dụng nhằm có
cơ sở giải quyết vụ việc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho công dân và của Nhà
nước.
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động tố tụng của các
chủ thể theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự mà theo đó việc làm rõ các sự
kiện, tình tiết của vụ việc là cần thiết; trong đó còn bao gồm cả hoạt động áp
dụng luật của Tòa án đối với vụ việc dân sự cô thể cần giải quyết.
1.3.2. Chủ thể của hoạt động chứng minh
Chứng minh làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự để giải quyết
đúng đắn vụ việc dân sự. Nhưng ở đây phải xác định ai thực hiện việc chứng minh?
Nói rõ hơn, ai là người đứng ra để nghiên cứu, thu thập, giao nộp, đánh giá chứng
cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự?



20

Trong tố tụng dân sự, đương sự tham gia tố tụng là chủ thể trung tâm. Tuy
vậy, chứng minh không chỉ giới hạn ở việc xác định chứng cứ, chứng minh cho yêu
cầu hay phản đối yêu cầu của đương sự mà còn phải làm rõ được tất cả các vấn đề
liên quan đến vụ việc dân sự Tòa án có nhiệm vụ giải quyết. Khi đưa ra yêu cầu,
đương sự không chỉ phải đưa ra những tình tiết, sự kiện dựa vào đó mà họ yêu cầu,
mà còn đưa ra cả những căn cứ pháp lý của các yêu cầu. Khi quyết định giải quyết
vụ việc dân sự, trong bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự của mình Tòa án
cũng phải chỉ rõ quyết định được dựa trên những căn cứ thực tế và căn cứ pháp lý
nào.
Vấn đề xác định rõ chủ thể chứng minh, quyền và nghĩa vụ của họ như thế
nào? Vì mỗi chủ thể tham gia tố tụng dân sự đều xuất phát từ những mục đích,
nhiệm vụ khác nhau nên quyền và nghĩa vụ của họ cũng khác nhau. Trong đó, xác
định nghĩa vụ chứng minh của đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và Tòa án trong việc làm rõ các tình tiết,
sự kiện của vụ án dân sự.
Chủ thể chứng minh trong tố tụng dân sự gồm đương sự, ngưòi đại diện
cho đương sự, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự, cá nhân, cơ
quan, tổ chức khác và Tòa án. Trong đó, đương sự có vai trò chủ yếu để chứng
minh cho yêu cầu hay phản đối yêu cầu của mình theo trình tự thủ tục quy định
trong Bộ luật Tố tụng dân sự.
Theo quy định tại các điều 06, 58, 63 64, 74, 79, 117, 118, 165, 230 của Bộ
luật Tố tụng dân sự, chủ thể của hoạt động chứng minh bao gồm đương sự và Tòa
án cũng như cá nhân, cơ quan, tổ chức, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, người
đại diện hợp pháp của đương sự.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, việc cung cấp chứng cứ và
chứng minh cho yêu cầu của mình thuộc về đương sự. Đây là một trong những

nguyên tắc xuất phát từ quyền tự định đoạt của đương sự đối với việc khởi kiện.


21

Đương sự có yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp phải có nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ để chứng minh yêu cầu đó là hợp pháp. Ngược lại, nếu đương sự phản đối
yêu cầu của người khác thì phải đưa ra chứng cứ để phản đối. Theo quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh đặt ra cho cả hai bên đương sự, bên khởi
kiện, bị kiện và người có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Bộ luật Tố tụng dân sự đề cao vai trò, trách nhiệm chứng minh của đương
sự. Mỗi bên đương sự tham gia tố tụng đều phải chứng minh tất cả các tình tiết, sự
kiện của vụ việc dân sự mà trên cơ sở đó họ đưa ra yêu cầu hay phản đối yêu cầu
cầu của người khác. Trước hết, nguyên đơn phải chứng minh trước, nghĩa là bên có
yêu cầu phải đưa ra các chứng cứ để được Tòa án xem xét chấp thuận thụ lý vụ việc
dân sự. Sau đó bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mới phải chứng minh
bằng việc đưa ra chứng cứ phải đối lại yêu cầu của nguyên đơn (khoản 1, 2 Điều 79
Bộ luật Tố tụng dân sự).
Ngoài các đương sù, Bộ luật Tố tụng dân sự quy định các cá nhân, cơ quan,
tổ chức khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác
cũng phải chứng minh (khoản 3 Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự). Tuy không có
quyền và lợi ích gắn liền với vụ việc dân sự như đương sự, nhưng các cá nhân, cơ
quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước
hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của người khác nếu không thực hiện nghĩa vụ
chứng minh thì sẽ dẫn đến sự bất lợi cho các đương sự.
Đối với người đại diện hợp pháp của đương sự, trong Bộ luật Tố tụng dân
sự không có quy định trực tiếp quyền và nghĩa vụ chứng minh của họ. Nhưng tại
Điều 74 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định người đại diện của đương sự thay mặt tố
tụng của đương sự nên quyền và nghĩa vụ của họ được hình thành trên cơ sở và
nghĩa vụ của đương sự. Bởi vậy, nên người đại diện cho đương sự nào thì họ có

nghĩa vụ chứng minh của đương sự đó. Người đại diện theo pháp luật, người đại
diện do Tòa án chỉ định có quyền và nghĩa vụ thực hiện tốt các nghĩa vụ chứng


22

minh đương sự họ đại diện. Người đại diện theo ủy quyền của đương sự thực hiện
quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong phạm vi ủy quyền.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng với
mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cũng có quyền và nghĩa
vụ chứng minh (khoản 2 Điều 64 Bộ luật Tố tụng dân sự). Ngoài việc giúp đương
sự về mặt pháp lý để đương sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ thì người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chứng minh bằng việc đưa ra các chứng
cứ, lý lẽ để chứng minh cho các yêu cầu hoặc phản đối các yêu cầu là có cơ sở.
Tòa án là chủ thể có nhiệm vụ giải quyết vụ việc dân sự không có nghĩa vụ
chứng minh. Tuy vậy, để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự, trong một số trường
hợp, Tòa án vẫn phải chứng minh để làm rõ. Ví dụ, đối với trường hợp do Bộ luật
Tố tụng dân sự quy định, Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp để
thu thập tài liêu, chứng cứ (khoản 2 Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự). Tòa án thực
hiện việc đánh giá, công bố công khai chứng cứ trước khi sử dụng (Điều 96, Điều
97 Bộ luật Tố tụng dân sự). Mặt khác, Tòa án phải chỉ rõ cơ sở của quyết định giải
quyết vụ việc dân sự. Như vậy, việc chứng minh của Tòa án mang tính hỗ trợ cho
việc chứng minh của đương sự và phục vụ cho việc giải quyết vụ việc đúng đắn của
Tòa án.
Việc thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ chứng minh của một chủ
thể có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Do vậy, Bộ luật Tố
tụng dân sự quy định các chủ thể chứng minh phải chịu trách nhiệm về việc thực
hiện nghĩa vụ chứng minh của họ.
1.3.3. Quá trình chứng minh
Chứng minh được diễn ra suốt trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.

Như hoạt động cung cấp, thu thập, xác định, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ tại
Tòa án. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các chủ thể phải thực hiện đúng
quyền và nghĩa vụ của mình mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định trong quá trình tố


×