Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

LUẬN văn LUẬT HÀNH CHÍNH ĐỊNH tội TRONG PHÁP LUẬT HÌNH sự VIỆT NAM – lý LUẬN và THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 45 trang )

Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 35 (2009-2013)

Đề tài:

ĐỊNH TỘI TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Giảng viên hướng dẫn:
TS. PHẠM VĂN BEO
Bộ môn Tư Pháp

Sinh viên thực hiện:
TRẦN BÙI QUỐC LỢI
MSSV: 5095530
Lớp: Luật Hành chính K35

CẦN THƠ, 04/2013

_________________________________________________________________
1
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi



Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây tình hình tội phạm nước ta đang có chiều hướng
gia tăng và có nhiều diễn biến phức tạp. Phổ biến hiện nay là những vụ án
nghiêm trọng có nhiều bị cáo tham gia, nhất là trong các vụ án tham nhũng xẩy ra
gần đây đang được dư luận xã hội quan tâm theo dõi, lên án. Trong đồng phạm,
mỗi bị cáo khi thực hiện tội phạm có thể có vai trò khác nhau. Sự liên kết, hỗ trợ
lẫn nhau giữa những người phạm tội càng củng cố quyết tâm phạm tội của cả họ.
Điều đó giúp chúng ta nhận ra sự nguy hiểm của loại tội phạm được thực hiện,
đặc biệt là phạm tội có tổ chức. Chính vì vậy, việc xác định tội danh là hết sức
quan trọng trong việc giải quyết các vụ án hình sự, và đó cũng là cơ sở ban đầu
cho việc kết luận tội phạm trong hoạt đọng tố tụng.
Hiện nay trong Bộ Luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung 2009 vấn đề về
một số tội phạm chỉ được đề cập chung chung chưa cụ thể chưa có sự thống nhất
làm cho việc xác định tội danh còn nhầm lẫn (Ví dụ Tội cố ý gây thương tích và
tội vô ý làm chết người).
Việc giải quyết vấn đề này là cơ sở để giải quyết những vướng mắc trong
thực tiễn xét xử hiện nay. Bộ luật hình sự hiện hành hiện vẫn chưa quy định cụ
thể các vấn đề như: phạm tội có tổ chức, các giai đoạn thực hiện tội phạm, về
hành vi chuẩn bị và chưa đạt đối với từng loại hành vi đồng phạm. Đó là những
cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự
cho những người đồng phạm. Để giải quyết những vấn đề còn vướng mắc trong
lý luận cũng như trong thực tiễn xét xử liên quan tội phạm và trách nhiệm hình sự
của những người thực hiện việc phạm tội cần phải có sự nghiên cứu nghiêm túc
về vấn đề này. Đó là lý do tác giả khoá luận chọn và nghiên cứu đề tài: “ Định
tội danh trong pháp luật hình sự Việt Nam- Lý luân và thực tiễn”

2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài

_________________________________________________________________
2
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi


Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự về xác định
tội danh: bản chất, tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm; tính chất và
hành vi của từng loại tội phạm; các nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự
(TNHS) cụ thể cho từng người đồng phạm và thực tiễn xử lý các vụ án hình sự.
Từ đó đánh giá tình hình tội phạm nói chung, xác định tội phạm nói riêng trong
giai đoạn hiện nay, đưa ra kiến nghị, đề xuất góp phần hoàn thiện pháp luật về
định tội danh Bộ luật hình sự trong tương lai.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề pháp lý, lý luận và thực tiễn liên
quan đến việc xác định tội danh trong BLHS.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận là quan điểm của Chủ nghĩa Mác
- Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm, đường
lối và chính sách của Đảng Và Nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm.
Bên cạnh sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật, đề tài còn sử dụng
các phương pháp so sánh, lôgic, phân tích, chứng minh và tổng hợp.
5. Ý nghĩa của đề tài
Việc nghiên cứu vấn đề xác định tội danh có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
cơ bản sau đây:

- Về lý luận, nghiên cứu định tội danh giúp chúng ta xác định chính xác cơ
sở pháp lý của việc định tội, tạo điều kiện thuận lợi cho việc truy cứu TNHS của
người thực hiện tội phạm.
- Nghiên cứu vấn đề hình sự có ý nghĩa đặc biệt lớn trong công tác đấu
tranh, phòng ngừa tội phạm, giúp Toà án xét xử đúng người, đúng tội và đúng
pháp luật, không bỏ lọt tội phạm. Việc xác định TNHS cho từng người đồng
phạm còn giúp cơ quan tư pháp xác định đúng tội danh và hình phạt tương ứng
trong vụ án hình sự.
6. Kết cấu luận văn
_________________________________________________________________
3
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi


Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

Ngoài lời nói đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo khoá luận
bao gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về tội phạm và việc định tội danh trong pháp luật
hình sự Việt Nam

Chương 2: Pháp lý điều chỉnh việc định tội trong luật hình sự Việt Nam
Chương 3: định tội danh trong một số trường hợp cụ thể, những bất cập và
hướng hoàn thiện

_________________________________________________________________
4
CBHD: TS.Phạm Văn Beo


SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi


Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỘI PHẠM VÀ VIỆC ĐỊNH TỘI DANH
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm liên quan đến tội phạm và việc định tội
1.1.1.Khái niệm tội phạm
Tội phạm là hành vi của cá nhân xâm phạm đến quyền lợi ích, nhân phẩm, sức
khỏe…của người khác được Bộ luật hình sự quy định. Nói về khái niệm của tội phạm
có nhiều cách hiểu khác nhau, song trong Bộ luật hình sự hiện hành khái niệm về tội
phạm như sau:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những
lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa1.
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy
định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.2
Theo đó, tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã
hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất là của khung
hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây
nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến

mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn

1
2

Khoản 1 điều 8 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009.
Khoản 2 điều 8 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009

_________________________________________________________________
5
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi


Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm
tù, tù chung thân hoặc tử hình3.
1.1.2.Khái niệm về xác định tội danh
Trong lý luận khoa học luật hình sựï, quá trình xââ y dựïng cáùc quy phạïm
pháùp luậät hình sự là một quá trình rấát phức tạïp và đaïng, được tiến hàønh qua nhiềàu
giai đoạïn kháùc nhau. Trong đóù xác định tội danh là giai đọaïn cơ bản, đầu tiên trong
quá trình tiến hành tố tụng, là một trong những biện pháp đưa quy phạm pháp luật
hình sự vào thực tiễn, đồng thời góp phần vào việc thực hiện đường lối và chính
sách của nhà nước ta.
Định tội danh là việc xác nhận về mặt pháp lý sẽï phù hợp (đồng nhất) giữa
các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hay nói cách khác định tội danh
là kết luậnà cho phù hợp giữa hành vi phạm tội cụ thể với những quy định trong
pháp luật hình sự 4.

Định tội là việc xác định một hành vi cụ thể đã thực hiện thoả mãn đầy đủ các
dấu hiệu của một tội phạm nào đó trong số các tội phạm được quy định trong Bộ luật
Hình sự (BLHS)5.
Định tội danh là một trong những biện pháp đưa những quy định của Bộ luật
hình sự (BLHS) vào đời sống xã hội, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng ngừa và chống mọi loại tội phạm, qua đó góp phần thực hiện đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước ta về phòng chống tội phạm. Định tội danh là sự xác nhận
về mặt pháp lý sự phù hợp (sự đồng nhất) giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực
hiện trong thực tế khách quan với các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm (CTTP)
tương ứng được quy định trong BLHS. Hay nói cách khác, Định tội danh là việc xác
định một hành vi cụ thể đã thực hiện thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của CTTP của tội
nào trong số các tội phạm đã được quy định trong BLHS.
1.2. Phân Loại định tội danh
Căn cứ vào chủ thể thực hiện việc định tội danh, khoa học luật hình sự chia định
tội danh thành 2 nhóm:

3

Khoản 3 điều 8 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009
Nguyễn thị kiều Oanh - Khóa luận tốt nghiệp - năm 2007, tr 10.
5
Phạm Văn Beo – Giáo trình luật Hình sự phần các tội phạm Khoa luật Đại học cần thơ tr 14.
4

_________________________________________________________________
6
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi



Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

1.2.1. Định tội danh chính thức
Định tội danh chính thức là sự đánh giá về mặt nhà nước tính chất pháp lý hình
sự của một hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể được Nhà nước uỷ quyền thực hiện.
Định tội danh chính thức có các đặc điểm sau:
Về chủ thể của định tội danh chính thức: Chỉ có thể là người tiến hành tố tụng.
Bao gồm: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.
Về hậu quả pháp lý của định tội danh chính thức: Những đánh giá, những kết
luận của chủ thể của định tội danh chính thức là cơ sở pháp lý để khởi tố vụ án, để áp
dụng các biện pháp ngăn chặn. Là cơ sở để ra bản kết luận điều tra, bản cáo trạng và ra
bản án.
1.2.2. Định tội danh không chính thức
Định tội danh không chính thức là sự đánh giá không phải về mặt Nhà nước tính
chất pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể. Định tội danh không chính thức
có các đặc điểm sau:
Thứ nhất: về chủ thể của định tội danh không chính thức: Là ngoài nhóm chủ thể
của định tội danh chính thức. Thông thường chủ thể của định tội danh không chính thức
là những người làm công tác nghiên cứu thể hiện trong các công trình nghiên cứu khoa
học, giáo trình, sách giáo khoa, bài báo. Hoặc là luật gia, luật sư hay bất kỳ người nào
quan tâm đến việc nghiên cứu một vụ án hình sự cụ thể đưa ra những bình luận về vụ
án đó về phương diện định tội danh.
Thứ hai về hậu quả pháp lý của định tội danh không chính thức: Định tội danh
không chính thức không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên có liên
quan trong vụ án mà chỉ là sự thể hiện ý kiến, quan điểm riêng của các chủ thể này như
là sự thể hiện phương pháp nhận thức PLHS.
1.2. Đặc điểm và ý nghĩa của việc xác định tội danh
1.2.1. Đặc điểm của việc xác định tội danh
Quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự (QPPLHS) diễn ra phức tạp

và đa dạng, được thể hiện ở 3 giai đoạn: Định tội danh, định khung hình phạt, và quyết
định hình phạt. Trong đó, định tội danh là một giai đoạn quan trọng nhất trong ba giai
đoạn trên của toàn bộ quá trình áp dụng PLHS. Bởi vì, định tội danh được tiến hành
thực hiện ở tất cả các giai đoạn của cả quá trình tố tụng hình sự từ giai đoạn khởi tố đến
_________________________________________________________________
7
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi


Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

giai đoạn thi hành án. Trong khi đó bước quyết định hìnhphạt chỉ được tiến hành thực
hiện ở giai đoạn xét xử.
Về phương pháp định tội danh: Chủ yếu sử dụng phương pháp tổng hợp, phân
tích, quy nạp, diễn dịch và quan trọng hơn cả là phương pháp loại trừ.
Từ các vấn đề nêu trên cho thấy định tội danh có 4 đặc điểm như sau:
Thứ nhất: Định tội danh là một quá trình nhận thức có tính logic giữa lý luận và
thực tiễn. Thể hiện dưới 2 khía cạnh: xác định xem hành vi nguy hiểm cho xã hội đã
thực hiện có phù hợp với các dấu hiệu của CTTP cụ thể trong BLHS và đưa ra sự đánh
giá nhất định về mặt pháp lý hình sự đối với hành vi đã thực hiện trong thực tế.
Thứ hai: Quá trình hoạt động định tội danh phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy
phạm pháp luật của luật nội dung là BLHS cũng như các quy phạm pháp luật của luật
hình thức là Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS).
Thứ ba: Định tội danh là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan
tiến hành tố tụng (cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Toà án) để cụ thể hoá các
QPPLHS trìu tượng vào đời sống thực tế. Trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các
tình tiết của hành vi phạm tội đã thực hiện và sự nhận thức đầy đủ, đúng đắn nội dung
của các QPPLHS.

Thứ tư: Định tội danh với tính chất là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự được tiến hành theo 04 bước sau:
Bước1: Thiết lập, xem xét, đánh giá đúng các tình tiết của vụ án đã xảy ra trên thực tế
khách quan. Đối với bước này, đòi hỏi người định tội danh phải đánh giá các tình tiết
của vụ án một cách khách quan, toàn diện, vô tư, không định kiến, không suy diễn. Phải
dựa vào các chứng cứ đã thu thập được và đánh giá theo quy định của BLTTHS.
Mỗi một tình tiết trong vụ án bước đầu đánh giá chúng một cách độc lập để thấy
được sự thể hiện tính chất của nó là loại hành vi nào. Sau đó, chính tình tiết đó lại tiếp
tục đặt trong mối quan hệ với các tình tiết khác trong vụ án, thì kết luận về tính chất của
tình tiiết này mới là sự thể hiện về bản chất của nó trong cả quá trình của vụ án.
Khi đánh giá mỗi tình tiết của vụ án, phải đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể, trong
tổng thể, biện chứng của cả quá trình phản ánh đúng diễn biến của vụ án đã xẩy ra. Bởi
vì, cùng một tình tiết, nhưng đặt trong mỗi hoàn cảnh khác nhau thì chúng khác nhau về

_________________________________________________________________
8
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi


Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

bản chất. Kết luận về từng tình tiết độc lập, không thể phản ánh đúng về bản chất của
tình tiết đó trong toàn bộ diễn biến của vụ án.
Bước 2: Nhận thức một cách thống nhất và chính xác nội dung các quy phạm pháp luật
hình sự phản ánh các dấu hiệu của CTTP về tội danh có hướng lựa chọn.
Thong thường các dấu hiệu trong CTTP được quy định trong BLHS mang tính trừu
tượng chỉ nêu một cách khái quát những nét đặc trưng mang tính phổ biến để điều
chỉnh hiện tượng thực tế muôn hình muôn vẻ. cho nên việc xác định tội đòi hỏi phải có

quá trình tư duy để nhận thức sâu rộng, đúng đắn về nội dung của các dấu hiệu trong
CTTP. Rất nhiều các QPPLHS chưa xác định rõ ràng ranh giới giữa chúng với nhau.
Ví dụ: Điều 93 với Điều 95 với Điều 96 và với Điều 97 BLHS. Hoặc là hành vi
khác trong tội cướp với hành vi khác trong tội cưỡng đoạt tài sản. Hoặc việc quyết định
hình phạt trong trường hợp bị cáo có nhiều tình tiết tăng nặng đồng thời có nhiều tình
tiết giảm nhẹ. Hoặc như thế nào là nguy hiểm đáng kể và nguy hiểm chưa đáng kể.
Hoặc ranh giới giữa Phòng vệ chính đáng với vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Chưa kể còn một số quy định trong BLHS thể hiện rõ sự bất cập của nó như: chính sách
hình sự đối với người phạm tội chưa đủ 16 tuổi. Tình tiết phạm tội nhiều lần của tội cố
ý gây thương tích. Hoặc trộm cắp tài sản nhiều lần, mỗi lần giá trị tài sản dưới 2 triệu
đồng.
Trong các trường hợp này đòi hỏi người định tội danh phải tự đánh giá trên căn
cứ khoa học và căn cứ thực tế sao cho có sức thuyết phục. Hay nói cách khác, đòi hỏi
người định tội danh phải có trình độ pháp lý hình sự.
Bước 3: So sánh đối chiếu hai quá trình trên.
Bước 4: Ra văn bản áp dụng pháp luật chính là bản án và các quyết định có căn cứ và
đảm bảo sức thuyết phục về 3 bước trên để xác định tội danh cần áp dụng đối với
trường hợp phạm tội của người đó.
Qua các đặc điểm của định tội danh đã phân tích ở trên có thể đưa ra khái niệm
định tội danh như sau: Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính lô gích,
đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS, PLTTHS.
Trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được phản ánh các tình tiết thực tế của vụ án
đã xảy ra để đối chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù
hợp của chúng với các dấu hiệu của CTTP cụ thể tương ứng do BLHS quy định.
_________________________________________________________________
9
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi



Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

Có thể thấy được đặc điểm và các yêu cầu của hoạt động định tôi danh thông qua
việc đánh giá một tình huống cụ thể sau:
Tình huống: Do mâu thuẫn trong viẹc tranh chấp đất đai nên ĐỗVăn Tuyên, Đỗ
Văn Cần nhiều lần rượt, đuổi đánh chém Nguyễn Văn Hùng. Thấy cha, chú có hành vi
như thế nên Đõ Trương Tín là con cũng trực tiếp đánh chém Nguyễn Văn Hùng. Biết
Hùng làm nghề hớt tóc ở thôn 2, xã Nghĩa Dũng, Thị xã Quảng Ngãi, nên Tín (sinh
năm 1989) đón đường để đánh. Sáng 28/05/2002, Hùng đi làm bằng xe máy, khi đến
gần ngã ba giáp ranh thôn 3 và thôn 4 thuộc xã Nghĩa Dũng thì Tín cầm một con dao
dài khoảng 30 cm và đá đứng chặn đường để đánh Hùng, Hùng sợ nên quay xe về nhà
để lánh mặt. Khoảng 10 phút sau, Hùng tiếp tục điều khiển xe máy nêu trên đến tiệm
hớt tóc, khi đến đoạn đường trên, Tín vẫn cầm dao và đá đứng chặn đường. Nhìn thấy
Hùng, ngay lập tức đuổi theo để đánh, Hùng bỏ chạy vào nhà một người dân trước chợ
Nghĩa Dũng, Tín tiếp tục đuổi theo và dùng đá chọi Hùng và Hùng cũng nhặt đá chọi
lại Tín, sau đó được mọi người can ngăn nên Tín đi về phía Tây, còn Hùng điều khiển
xe máy về nhà ở thôn 5, xã Nghĩa Dũng, thị xã Quảng Ngãi.Về đến nhà Hùng nhìn thấy
cây rựa dài 77cm để ở sân nên cầm lấy mang theo và tiếp tục điều khiển xe máy đi làm.
Khi đến đoạn gần ngã ba nêu trên Tín vẫn cầm dao và đá đứng chặn đường, nhìn thấy
Hùng, Tín dùng đá ném Hùng và Hùng dùng đá chọi lại Tín. Sau đó Tín cầm dao xông
đến chém Hùng và Hùng cầm rựa xông vào Tín, khi đến gần nhau Tín đưa dao lên
chém ngang cổ Hùng và Hùng cầm rựa chém lại trúng vào tay cầm dao của Tín gây
thương tích 33%.
1.3.2. Ý Nghĩa của việc xác định tội danh
Xác định tội danh (sau đây gọi tắt là định tội) là một vấn đề hết sức quan trọng, là
giai đoạn cơ bản trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Tất cả những việc làm trước
đó (từ khởi tố, điều tra, truy tố) suy cho cùng là nhằm phục vụ cho việc định tội được
chính xác.
Hoạt động định tội danh của các chủ thể có thể theo 2 xu hướng: Định tội danh

đúng hoặc định tội danh sai.
- Đối với hoạt động định tội danh đúng
Định tội danh đúng là tiền đề cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá thể
hoá hình phạt một cách công minh có căn cứ pháp luật. Định tội danh đúng sẽ hỗ trợ
_________________________________________________________________
10
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi


Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

cho việc thực hiện một loạt các nguyên tắc tiến bộ được thừa nhận trong Nhà nước
pháp quyền như: nguyên tắc pháp chế, trách nhiệm do lỗi, trách nhiệm cá nhân, bình
đẳng trước pháp luật hình sự, nguyên tắc công minh nhân đạo và nguyên tắc không
tránh khỏi trách nhiệm.
Định tội danh đúng là một trong những cơ sở để áp dụng chính xác các quy
phạm pháp luật tố tụng hình sự về tạm giam, về thẩm quyền điều tra, xét xử qua đó góp
phần hữu hiệu cho việc bảo vệ các quyền và tự do dân chủ của công dân trong lĩnh vực
tư pháp hình sự và còn là cơ sở cho việc xét xử đúng người, đúng tội, tạo sự răng đe
giáo dục người phạm tội theo hướng tích cực là trở thành người có ích cho xã hội.
- Đối với hoạt động định tội danh sai
Định tội danh sai sẽ dẫn đến một loạt các hậu quả tiêu cực như: không đảm bảo
được tính công minh có căn cứ đúng pháp luật, truy cứu trách nhiệm hình sự người vô
tội, bỏ lọt người phạm tội, xâm phạm thô bạo danh dự nhân phẩm các quyền tự do dân
chủ của công dân là giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận trong Nhà nước. Định
tội danh sai làm giảm uy tín của cơ quan tư pháp, vi phạm pháp chế XHCN, ảnh hưởng
không nhỏ đến hiệu quả của việc đấu tranh phòng chống tội phạmhiện nay6. Theo Nghị
quyết 388/ UBTVQH ban hành ngày 17/03/2003 về bồi thường oan trong tố tụng hình

sự. Những vụ việc oan sai chủ yếu bắt nguồn từ việc đánh giá chứng cứ phiến diện,
thiếu thận trọng, nôn nóng khởi tố, bắt tạm giam, suy diễn chủ quan.

6

Phạm Văn Beo giáo trình luật hình sự - NXB chính trị năm 2008 tr13

_________________________________________________________________
11
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi


Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

Chương 2
PHÁP LÝ ĐIỀU CHỈNH VIỆC ĐỊNH TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VÀ ĐỊNH TỘI DANH TRONG MỘT SỐ TRƯỜNG HỢ CỤ THỂ
2.1. Căn cứ pháp lý của việc xác định tội danh
2.1.1. Vai trò của Bộ luật hình sự trong việc định tội
Các văn bản pháp luật - là cơ sở pháp lý - được sử dụng trong hoạt động định tội
danh đó là: BLHS, BLTTHS. Văn bản pháp luật chuyên ngành như Luật giao thông
đường bộ, luật phòng chống ma tuý, Nghị định 11/CP ngày 03/03/99 quy định danh
mục các mặt hàng cấm. Nghị quyết của Quốc Hội, Nghị quyết của UBTVQH, Nghị
quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Thông tư liên ngành của
TANDTC, VKSNDTC, Bộ Công an, Bộ Tư pháp. Công văn của ngành của 3 cơ quan
tiến hành tố tụng. Trong số các văn bản pháp luật trên thì BLHS hiện hành chính là cơ
sở pháp lý trực tiếp cho toàn bộ quá trình định tội danh. Các văn bản pháp luật còn lại
chỉ với tính chất là cơ sở pháp lý bổ trợ (gián tiếp) cho quá trình này. Bởi vì:

Thứ nhất: Nhà làm luật khi xây dựng các quy phạm pháp luật hình sự (nghĩa là
thực hiện chức năng tội phạm hoá) đã tìm xem các dấu hiệu nào là đặc trưng cơ bản
nhất, phổ biến nhất và hay được lặp lại nhiều nhất trong những hành vi ấy, sau đó điển
hình hoá và quy định chúng trong BLHS với tính chất là các dấu hiệu trong CTTP.
Thứ hai: Điều luật về từng tội phạm cụ thể trong BLHS đã chứa đựng đầy đủ
các dấu hiệu đặc trưng, điển hình bắt buộc không thể thiếu được của một loại CTTP.
Tất cả các dấu hiệu đó tập hợp thành một hệ thống liên quan chặt chẽ với nhau trở
thành khuôn mẫu pháp lý (mô hình tội phạm), làm cơ sở cho người định tội danh so
sánh, đối chiếu với hành vi phạm tội đã xảy ra.
Thứ ba: BLHS liệt kê tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm. Sự
liệt kê đầy đủ này thể hiện một nguyên tắc đã được quy định tại Điều 2 BLHS: "Chỉ
người nào phạm một tội đã được quy định trong BLHS mới phải chịu TNHS". Quy
định này loại trừ khả năng cho phép bất kỳ một cơ quan, một tổ chức, một cá nhân nào
_________________________________________________________________
12
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi


Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

có sự thay đổi theo hướng mở rộng hay thu hẹp mô hình CTTP đã được quy định trong
BLHS. Mà thẩm quyền này chỉ do một cơ quan duy nhất là Quốc Hội thể hiện trong
BLHS.
Thứ tư: Các văn bản pháp luật khác chứa đựng các quy phạm pháp luật về nội
dung chỉ là sự tiếp tục, cụ thể hoá các quy phạm đã được quy định trong BLHS là mô
hình CTTP.
2.1.2. Quy định của pháp luật hình sự
Để áp dụng được các quy phạm pháp luật phần riêng phải dựa vào các quy phạm

pháp luật phần chung và ngược lại các quy phạm pháp luật phần chung nếu không có
các quy phạm pháp luật phần riêng thì chúng hoàn toàn không có ý nghĩa. Chính vì vậy
mà các dấu hiệu trong mỗi CTTP được quy định trong cả phần chung và phần riêng.
Đối với các quy phạm pháp luật phần chung được chia thành các nhóm như sau:
- Những quy phạm quy định về chế định: như chế định đồng phạm, chế định phòng vệ
chính đáng, chế định về các giai đoạn thực hiện tội phạm, chế định lỗi vv...
- Những quy phạm quy định khái niệm: như khái niệm tội phạm7, khái niệm hình phạt
8

.

- Những quy phạm quy định về nguyên tắc: như Điều 3 quy định về nguyên tắc xử lý.
- Những quy phạm quy định về điều kiện:như điều kiện áp dụng các loại hình phạt.
Đối với các quy phạm phần các tội phạm cụ thể được chia thành 2 nhóm:
- Những quy phạm quy định về từng tội phạm cụ thể và hình phạt áp dụng đối với từng
tội phạm đó.
- Những quy phạm quy định về khái niệm: như khái niệm tội phạm chức vụ, khái niệm
các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.
2.1.3. Cơ cấu của quy phạm pháp luật trong hoạt động định tội danh
Cấu trúc của một quy phạm pháp luật thông thường có 3 bộ phận. Đó là: Bộ
phận giả định, quy định và bộ phận chế tài. Đối với các QPPLHS thì bộ phận giả định
được đề cập ở phần chung của BLHS chỉ dấu hiệu lỗi, chủ thể, không gian, thời gian
vv...Còn bộ quy định và chế tài được đề cập trong phần riêng của BLHS. Phần quy định
của QPPLHS có đặc tính chung là mang tính cấm chỉ, bao gồm 4 loại:
7
8

Quy định tại điều 8 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009.
Xem điều 26 Bộ luật hình sự hiện hành.


_________________________________________________________________
13
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi


Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

Một là: Quy định đơn giản: Là loại quy định chỉ nêu tên gọi của tội phạm
như9: Điều 13610, Điều 137, Điều 138, Điều 143, Điều 145 vv... . Quy định mô tả: Là
loại quy định xác định một cách cụ thể các dấu hiệu đặc trưng cơ bản của tội phạm ấy
ngay trong phần quy định của điều luật.
hai là: Quy định viện dẫn: Là loại quy định muốn xác định nội dung phần quy định của
QPPL đó phải thông qua một điều lật khác trong BLHS như11: Điều 153, Điều 155,
Điều 159…
Ba là: Quy định mẫu: Là loại quy định muốn xác định nội dung của nó phải thông qua
sự xác định các QPPL của các ngành luật khác như12: Điều 201, các tội phạm ma tuý.
Về cấu trúc thì thông thường một điều luật phần các tội phạm cụ thể đề cập đến một mô
hình tội phạm, nhưng có một số điều luật đề cập đến nhiều mô hình tội phạm với một
chế tài chung. Ví dụ Điều 120, Điều 194...
2.1.4. Cấu thành tội phạm là căn cứ pháp lý trong việc định tội danh
Về nội dung của CTTP là các yếu tố cần và đủ cho việc định tội, nó là các dấu
hiệu điển hình nhất, đặc trưng nhất có tính chất lặp lặp lại trong các hành vi phạm tội
cùng loại nói lên bản chất của tội phạm ấy và được nhà làm luật pháp điển hoá trong
BLHS Tính chất của CTTP là khuôn mẫu pháp lý của tội phạm và là cơ sở pháp lý duy
nhất cho việc ĐTD. Chỉ có trên cơ sở xác nhận sự phù hợp đầy đủ các dấu hiệu của
CTTP, thì mới có căn cứ để khẳng định hành vi của một người bị luật hình sự cấm và bị
trở thành người phạm tội.
Về vị trí pháp lý các dấu hiệu của CTTP được quy định ở phần chung và phần

các tội phạm cụ thể trong bộ luật hình sự nên trong khi định tội chủ thể định tội danh
phải có sự đánh giá một cách toàn diện các QPPL phần riêng và các quy phạm pháp
luật phần chung trong Luật hình sự. Cấu trúc của CTTP: Có 04 yếu tố là khách thể, mặt
khách quan, mặt chủ quan và chủ thể. Đặc điểm của CTTP thể hiện như sau:

9

Điều 136: tội cướp giật tài sản, điều 137: tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, điều 138: Tội trộm cắp tài sản, điều
143: Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, điều 145: Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản.
11

Điều 153: Tội buôn lậu, điều 155: Tội sản xuất, tàn trữ, vận chuyển buôn bán hang cấm, điều 159: Tội kinh
doanh trái phép.
12
Điều 201: Tội vi phạm quy định về quản lý sử dụng thuốc nghiện hoặc các chất ma túy khác, điều 120: tội mua
bán hoặc đánh tráo chiếm đoạt trẻ em, điều 194: Tội tàn trử, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất
ma túy.

_________________________________________________________________
14
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi


Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

- CTTP là một hệ thống các dấu hiệu pháp lý khách quan và chủ quan có tính chất bắt
buộc.
- Các dấu hiệu của CTTP nhất thiết phải được và chỉ được quy định một cách đầy đủ

trong BLHS.
- CTTP là một khái niệm khoa học pháp lý có tính trìu tượng
- CTTP là mô hình pháp lý của tội phạm. Việc làm rõ các dấu hiệu của CTTP là một
đảm bảo quan trọng đối với việc định tội danh, đòi hỏi người định tội danh phải có trình
độ lý luận về pháp luật hình sự, có kiến thức chuyên môn, có kinh nghiệm thực tiễn.
Bên cạnh đó, đòi hỏi phải có các văn bản giải thích hướng dẫn chi tiết nội dung
của BLHS để đảm bảo việc áp dụng pháp luật thống nhất. Ví dụ: cần phải ban hành văn
bản để giải thích tình tiết người già, về mức bồi thường thiệt hại là tình tiết giảm nhẹ.
Chức năng của CTTP trong việc xác định tội danh:
Chức năng nền tảng: Sở dĩ CTTP có chức năng này là vì, để xác định hành vi
của một người có bị coi là tội phạm hay không và để xác định nó là tội nào chỉ có thể
dựa vào CTTP.
Chức năng phân biệt: Trong phần quy định của quy phạm pháp luật hình sự mô
tả đầy đủ chính xác các dấu hiệu của tội phạm dựa vào đó nó cho phép người định tội
danh phân biệt tội này với tội khác, khung hình phạt này với khung hình phạt khác. Từ
đó có cơ sở để lựa chọn loại tội và khung hình phạt thích hợp.
Chức năng đảm bảo: Thể hiện ở nguyên tắc một người chỉ bị truy cứu trách
nhiệm hình sự khi hành vi của họ thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu trong CTTP và ngược
lại.
2.2. Các giai đoạn xác định tội danh
Việc xác định TNHS của người phạm tội bao gồm việc định tội danh, định
khung hình phạt và quyết định hình phạt. Trong đó, định tội danh là cơ sở tiền đề cho
việc định khung hình phạt và quyết định hình phạt. Để thực hiện việc định tội danh
được đúng đắn qua đó phát huy được mặt tích cực trong công tác đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm, đòi hỏi người định tội danh phải xác định đầy đủ các tình tiết của vụ
án đã xẩy ra trong thực tế. Phải có sự hiểu biết chính xác, sâu sắc PLHS. Qua đó xác
định cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế của vụ án là nội dung cơ bản của quá trình định tội
danh. Từ đó, đảm bảo việc giải quyết vụ án hình sự được chính xác, đúng người, đúng
_________________________________________________________________
15

CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi


Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

tội, đúng pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án hình sự về phương diện định tội danh là
một quá trình hoạt động tư duy, phức tạp diễn ra theo 3 giai đoạn có tính lô gích như
sau:
2.2.1. Giai đoạn xác định quan hệ pháp luật
Giai đoạn này thể hiện bằng việc phân tích các dấu hiệu cơ bản nhất của hành vi
nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện xem có dấu hiệu vi phạm pháp luật hay không. Nếu
có dấu hiệu vi phạm pháp luật phải xác định có dấu hiệu tội phạm hay chỉ là vi phạm
pháp luật khác. Cơ sở pháp lý để xác định hành vi của một người có dấu hiệu tội phạm
hay không là căn cứ vào Điều 8 BLHS.
Hay nói cách khác ở giai đoạn này người tiến hành tố tụng phải kiểm tra xem ở
đây có quan hệ pháp luật hình sự phát sinh hay không (có tội phạm xảy ra hay không) ,
nếu như có thì người tiến hành tố tụng mới tiến hành xác định khách thể loai của tội
phạm13.
Như vậy nếu như nói về hậu quả pháp lý của giai đoạn này về mặt tố tụng
thường hay xảy ra 03 khả năng:
Khả năng thứ nhất: là không được khởi tố vụ án khi có 1 trong 7 căn cứ được
quy định trong Điều 107 của BLTTHS năm 2003. Các căn cứ đó là: không có sự việc
phạm tội; hành vi không cấu thành tội phạm; người thực hiện hành vi chưa đủ tuổi chịu
TNHS; hết thời hiệu truy cứu TNHS; người phạm tội được đại xá; người phạm tội đã
chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác; có quyết định đình chỉ vụ án.
Khả năng thứ hai: là nếu như hành vi vi phạm pháp luật khác thì tuỳ theo từng
giai đoạn TTHS mà các cơ quan tiến hành tố tụng báo cho các cơ quan hữu quan có
thẩm quyền giải quyết.

Khả năng thứ ba: là nếu có dấu hiệu tội phạm, thì có nghĩa là đã phát sinh quan
hệ pháp luật hình sự, và như vậy chuyển sang giai đoạn 2. Có dấu hiệu tội phạm tức là
có 01 trong 5 căn cứ được quy định tại Điều 100 BLTTHS năm 2003. Cụ thể: Tố giác
của công dân; tin báo của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội; tin báo trên các phương
tiện thông tin đại chúng; người phạm tội tự thú; cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Toà
án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm trực tiếp phát hiện tội phạm.
2.2.2. Giai đoạn xác định nhóm quy phạm pháp luật hình sự
13

Phạm văn Beo – giáo trình luật hình sự phần các tội phạm, NXB chính trị năm 2008 tr 19.

_________________________________________________________________
16
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi


Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

Sau khi đã xác định được có quan hệ pháp luật hình sự phát sinh, bước tiếp theo
là phải tìm ra nhóm quy phạm pháp luật hình sự áp dụng. Tức là xác định xem tội phạm
mà chủ thể thực hiện thuộc chương nào tương ứng phần các tội phạm cụ thể của BLHS.
Để giải quyết bước này người định tội danh cần phải xác định một trong hai nội dung.
Nôi dung thứ nhất: Xác định chủ thể của tội phạm có các dấu hiệu của chủ thể
đặc biệt hay không.
Nội dung thứ hai: Xác định loại quan hệ xã hội bị tội phạm đó xâm hại. Sở dĩ
phải xác định 2 nội dung trên là cơ sở để xác định nhóm QPPLHS cần áp dụng, bởi vì
các tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS được sắp xếp thành từng nhóm, từng
chương căn cứ vào khách thể loại của tội phạm và một số chương được sắp xếp căn cứ

vào đặc điểm chủ thể.
2.2.3. Giai đoạn xác định quy phạm pháp luật cụ thể
Ở giai đoạn 2, khi đã xác định được hành vi phạm tội thuộc vào chương nào
trong BLHS thì bước tiếp theo là phải so sánh, đối chiếu và kiểm tra xem tội phạm đã
thực hiện thuộc loại tội phạm nào14 (Điều luật nào, QPPL nào). Đồng thời phải xác định
xem chúng thuộc loại CTTP nào tương ứng (CTTP tăng nặng hay CTTP giảm nhẹ).
Tức là xác định được chúng thuộc khoản nào trong điều luật cụ thể đã tìm được. Quá
trình kiểm tra, đối chiếu, so sánh các tình tiết của vụ án với các dấu hiệu trong cấu
thành tội phạm đã lựa chọn phải được tiến hành với từng hành vi mà chủ thể đã thực
hiện. Hành vi nào nguy hiểm nhất cho xã hội phải được kiểm tra đầu tiên. Nếu có nhiều
hành vi thì phải sắp xếp chúng theo trình tự thời gian phản ánh đúng diễn biến của
sựviệc. Đồng thời phải đặt các hành vi đó trong mối quan hệ với nhau. Trong vụ án
đồng phạm thì phải bắt đầu kiểm tra hành vi của ngườì thực hành, vì bản chất của tội
phạm được thể hiện tập trung nhất trong những hành vi của người thực hành. Quá trình
kiểm tra phải tiến hành với từng người một. Việc kiểm tra quy phạm pháp luật hình sự
cần áp dụng phải dựa vào các yếu tố của CTTP và quá trình này lần lượt bắt đầu từ
khách thể, mặt khách quan, chủ thể, và cuối cùng là mặt chủ quan.
Quá trình kiểm tra, so sánh,đối chiếu được tiến hành với từng hành vi mà chủ
thể đã thực hiện. Hành vi nào nguy hiểm nhất được kiểm tra trước. Lưu ý, cần xem xét

14

Cần xem rõ để xác định tội phạm đó thuộc điều luật nào trong pháp luật hình sự quy định để có hướng xác định
cho đúng tội danh, người viết thấy điều này là rất cần thiết trong công tác trong lĩnh vực hình sự.

_________________________________________________________________
17
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi



Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

hành vi trong thực tế có chứa đựng đầy đủ các yếu tố của CTTP tươ ngứng không. Chỉ
khi có sự đồng nhất giữa chúng thì trách nhiệm hình sựcủa chủ thể thực hiện hành vi đó
mới được đặ tra. Sự đồng nhất này là khách quan, dứ khoát chứ không phải là sự suy
đoán, biểu lộ ý chí chủ quan của cá nhân, theo một số quan điểm , giả định rằng:15
- Nếu vụán có nhiều ngườ i tham gia (đồng phạm), kiểm tra hành vi của người
thựchành. Sauđó, kiểm tra hành vi những người còn lại.- Kiểm tra, đối chiếu từng
CTTP. Kiểm tra CTTP cơ bản trước, sau đó mới đến CTTP tăng nặng hoặc giảm nhẹ.
- Đối vớ i mỗi CTTP cần lần lượt kiểm tra từng dấu hiệu mô tả trong CTTP
đó. Nếu có nhiều dạng hành vi thì kiểm tra dạng hành vi được mô tả trong CTTP
gần với hành vi được thực hiện trong vụ án. Nếu các dạng hành vi khác nhau trong
CTTP không có mối liên hệ với hành vi xảy ra trong vụ án thì không cần kiểm tra.
2.3. Đánh giá về mặt pháp lý hình sự các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm
Bất kỳ một hành vi phạm tội nào cũng đều xâm hại đến khách thể trực tiếp và
cũng có nghĩa là chúng xâm hại đến khách thể loại và khách thể chung. Việc xác định
đúng 3 loại khách thể này sẽ khảng định được hành vi đó có phải là tội phạm hay
không, thuộc nhóm tội nào và thuộc loại tội phạm cụ thể nào để tìm điều luật tương ứng
trong phần các tội phạm cụ thể để áp dụng đối với người phạm tội. Trong 3 loại khách
thể của tội phạm nêu trên thì khách thể trực tiếp là dạng khách thể cho phép người định
tội danh khẳng định được rõ hơn cả bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã
thực hiện, từ đó là cơ sở cho việc định tội danh được chính xác.
2.3.1. Phân loại khách thể trực tiếp của tội phạm
Thông thường một tội phạm cụ thể có một khách thể trực tiếp, có một số tội
phạm xâm hại trực tiếp tới hai hay nhiều quan hệ xã hội. Trong trường hợp tội phạm có
nhiều khách thể trực tiếp, Đối với những tội có nhiều khách thể trực tiếp đòi hỏi phải có
sự phân định chúng ở các mức độ khác nhau, đó là khách thể trực tiếp cơ bản và khách
thể trực tiếp phụ.

Khách thể trực tiếp cơ bản: Là những quan hệ xã hội bị tội phạm đó xâm hại.
Khách thể trực tiếp là những gì người phạm tội hướng tối đầu tiên và thực hiện nhằm
đạt được mục đích mà người phạm tội hướng đến đầu tiên đó. Đồng thời, khách thể

15

Phạm Văn Beo- Giáo trình luật hình sự phần các tội phạm NXBCT năm 2008 tr 19.

_________________________________________________________________
18
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi


Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

trực tiếp cơ bản cũng là những quan hệ xã hội phản ánh rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất
chính trị xã hội và bản chất pháp lý của loại tội phạm đó.
Khách thể trực tiếp phụ: Là quan hệ xã hội mà người phạm tội lúc ban đầu
không hướng đến, nhưng khi tội phạm xảy ra nó có thể bị gây thiệt hại có thể không bị
gây thiệt hại. Việc phân định này giúp cho người định tội danh xác định được tội phạm
thuộc nhóm tội nào.
Ví dụ: Tội bắt cóc con tin, thì khách thể trực tiếp cơ bản phải là quan hệ tài sản,
còn khách thể trực tiếp phụ là quan hệ tính mạng, sức khoẻ của con tin. Vì vậy, tội này
phải thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu mà không phải thuộc nhóm tội xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, tự do thân thể của con người. Hoặc đối với tội tham ô tài sản thì khách
thể trực tiếp cơ bản là sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan Nhà nước, Tổ chức xã
hội. Còn khách thể trực tiếp phụ là quan hệ tài sản, nên tội tham ô tài sản được quy định
trong nhóm tội phạm chức vụ mà không phải nằm trong nhóm tội xâm phạm sở hữu.

Đối với những tội phạm có một khách thể trực tiếp thì đòi hỏi người định tội
danh phải đánh giá được trong số các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại, thì quan hệ
xã hội nào phản ánh đầy đủ nhất bản chất chính trị xã hội và bản chất pháp lý của hành
vi phạm tội đã thực hiện, để làm cơ sở cho việc định tội danh và quyết định hình phạt.
2.3.2. Căn cứ xác định khách thể trực tiếp của tội phạm
Về mặt thực tế, để xác định khách thể trực tiếp của tội phạm phải thông qua việc
xem xét phân tích các thành phần khác của tội phạm, cụ thể:
Thứ nhất:Thông qua việc xác định đặc điểm chủ thể tội phạm đối với các tội có
chủ thể đặc biệt.
Thứ hai: Thông qua việc xác định hậu quả của tội phạm chính là cơ sở để xác
định khách thể của tội phạm bị xâm hại. Sở dĩ, để xác định khách thể của tội phạm phải
thông qua việc xác định các thành phần của tội phạm là hậu quả và chủ thể của tội
phạm, bởi các dấu hiệu này là căn cứ để nhà làm luật sắp xếp các tội phạm cụ thể thành
từng chương trong BLHS, mặt khác các dấu hiệu này tồn tại trong mặt khách quan dê
nhận biết được.
Ví dụ: A dùng dao đâm B, B bị thương với tỷ lệ thương tật là 40%. Trường hợp
này thông qua biểu hiện về hậu quả của tội phạm là thương tật của B 40% chúng ta xác
định được tội phạm xâm hại đến quan hệ sức khoẻ của con người là khách thể của tội
_________________________________________________________________
19
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi


Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

phạm. Hoặc ví dụ khác: A là thủ kho của công ty dệt (doanh nghiệp Nhà nước), đã lấy
một lô hàng trong kho của doanh nghiệp trị giá 30 triệu đồng bán lấy tiền tiêu xài.
Trường hợp này thông qua đặc điểm của chủ thể chúng ta xác định được quan hệ xã hội

bị xâm hại là sự hoạt động đúng đắn của doanh nghiệp Nhà nước là khách thể của tội
phạm.
2.4. Đánh giá về mặt pháp lý hình sự các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội
phạm
Mặt khách quan của tội phạm có tầm quan trọng rất lớn trong việc xây dựng
CTTP và định tội danh. Hoạt động định tội danh thường bắt đầu từ việc đánh giá, xác
định các dấu hiệu trong mặt khách quan.
2.4.1. Phương pháp đánh giá hành vi khách quan của tội phạm
Các dấu hiệu trong mặt khách quan là những dấu hiệu thể hiện ra bên ngoài thế
giới khách quan mà người định tội danh dễ nhận biết được. Các dấu hiệu trong mặt
khách quan thường được mô tả tỷ mỷ trong CTTP, vì giữa các tội phạm khác nhau chủ
yếu khác nhau ở mặt khách quan thông qua việc xác định các dấu hiệu trong mặt khách
quan, người định tội danh mới xác định được các dấu hiệu khác trong mặt chủ quan của
tội phạm là lỗi, động cơ, mục đích phạm tội. Trong mỗi CTTP khác nhau, mỗi dấu hiệu
trong mặt khách quan của tội phạm có ý nghĩa khác nhau đối với định tội danh. Nhưng
việc đánh giá, xác định hành vi khách quan của tội phạm có ý nghĩa quan trọng nhất.
-

Khái niệm hành vi khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội phạm được hiểu theo 02 nghĩa: Về mặt nghĩa rộng

thì hành vi khách quan của tội phạm là xử sự có ý thức của con người bao gồm cả yếu
tố khách quan và chủ quan. Còn về nghĩa hẹpthì hành vi khách quan chính là xử sự của
con người thể hiện ra bên ngoài thế giới khách quan.
- Hình thức của hành vi khách quan
Hành động phạm tội được hiểu là người phạm tội đã làm những động tác cơ học
bị luật hình sự cấm. tuy nhiên để xác định đối với hành động phạm tội phải thoả mãn
hai dấu hiệu đó là: Là xử sự có ý thức và có ý chí đối với hành vi và phải là xử sự có ý
thức và có ý chí đối với hậu quả.
Không hành động phạm tội tức là không làm những động tác cơ học mà chủ thể

theo pháp luật có nghĩa vụ phải làm và trong hoàn cảnh cụ thể đó có thể thực hiện được
_________________________________________________________________
20
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi


Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

nghĩa vụ này. Trong quá trình định tội danh, việc xác định tính chất của không hành
động phạm tội phức tạp hơn so với việc xác định tính chất của hành động phạm tội. Bởi
vì: Hành động phạm tội thể hiện và tồn tại bên ngoài thế giới khách quan dễ nhận biết.
Còn không hành động phạm tội thì sự thể hiện về nội dung trong nội tại của hành vi đó
không tồn tại trực diện ngay trong hành vi khách quan, mà phải xác định trên cơ sở của
sự tư duy biện chứng.
Và đối với hành động phạm tội chỉ cần xác định sự thoả mãn của hai dấu hiệu
bắt buộc đó là sử sự có ý thức và có ý chí đối với hành vi và đối với hậu quả. Nhưng
đối với không hành động phạm tội, ngoài hai điều kiện trên còn phải thoả mãn thêm hai
điều kiện nữa, đó là: Chủ thể phải có nghĩa vụ pháp lý hành động và trong hoàn cảnh cụ
thể chủ thể có đủ khả năng ngăn ngừa được hậu quả đó.
- Nguyên tắc đánh giá tính chất của hành vi khách quan của tội phạm
Việc đánh giá hành vi khách quan của tội phạm về phương diện định tội danh là
phải đặt mỗi hành vi đó trong mối quan hệ biện chứng, trong tổng thể các dấu hiệu khác
của CTTP. Thậm chí phải đặt mỗi hành vi khách quan đó trong mối quan hệ biện chứng
đối với hành vi khách quan khác nếu trong CTTP đó có nhiều hành vi khách quan để
đánh giá chúng. Ví dụ: Hành vi lén lút và hành vi chiếm đoạt tài sản của tội trộm cắp tài
sản. Hành vi gian dối với hành vi chiếm đoạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nếu
tách độc lập các hành vi này trong mỗi CTTP thì không thể nói lên sự thể hiện về bản
chất của loại tội phạm đó. Chỉ có thể đặt hành vi khách quan của tội phạm trong mối

quan hệbiện chứng với tổng thể các dấu hiệu khác, từ đó mới rút ra sự thể hiện đặc
điểm đặc trưng của hành vi đó trong một vụ án cụ thể. Tuyệt đối không được xác định
tính chất của hành vi khách quan trong sự độc lập, đơn lẻ với các dấu hiệu khác trong
CTTP.
-Phương pháp đánh giá tính chất của hành vi khách quan trong trường hợp
cụ thể
Trường hợp trong một vụ án bị cáo thực hiện nhiều loại hành vi tương ứng phù
hợp với nhiều CTTP.
Trường hợp trong một vụ án bị cáo thực hiện nhiều loại hành vi tương ứng phù
hợp với nhiều CTTPchỉ xử lý một tội danh nếu:

_________________________________________________________________
21
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi


Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

Chỉ một trong số các hành vi đó đã thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm, còn các hành vi khác chỉ mang tính chất hỗ trợ cho hành vi khách
quan đã lựa chọn (thông thường các hành vi bổ trợ này đặt trong mối quan hệ biện
chứng với hành vi khách quan thì nó là hành vi chuẩn bị phạm tội).
Và các hành vi này chỉ nhằm hướng tới đạt một mục đích. Có thể xác định việc
áp dụng nguyên tắc này thông qua các vụ án sau:
Vụ án thứ nhất: Vào khoảng 8 giờ ngày 30 tháng 06 năm 2009, H và T lên tàu
khách V1 tuyến Hà Nội đi Vinh để trộm cắp tài sản của hành khách đi trên tàu. H dùng
lưỡi dao lam rạch túi xách của chị Võ Thị M thì thấy một gói đựng chất dẻo màu nâu. H
biết là thuốc phiện nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt. H rút trong người ra một thẻ

đoàn viên để hở 1/3 rồi đưa nhanh qua mặt M nói: “Chúng tôi là công an, yêu cầu chị
cho kiểm tra hành lý”. Cùng lúc đó, Q trưởng tàu đi tới. Q biết H và T không phải là
công an nhưng vì vụ lợi Q đã nói nhỏ với H và T: “Hai anh muốn khám xét hành lý của
hành khách trên tàu thì phải đưa tôi 5 triệu đồng”. Sợ hỏng việc, H tháo chiếc đồng hồ
trị giá 2000.000 đồng đưa cho Q. Sau khi nhận đồng hồ, Q không những để mặc cho H,
T hành động mà còn cho tàu dừng lại theo yêu cầu của H và T. Khi tàu dừng, H và T đã
kéo M xuống đường ray rồi nói với M: “Chị muốn được trả tự do thì đưa hết đồ trang
sức và tiền cho chúng tôi”. Vì lo sợ bị bắt, M đã buộc phải làm theo sự khống chế của
H và T. Hai tên đã chiếm đoạt được 10 triệu đồng và 3 kg thuốc phiện.
Vụ án thứ hai: Chiều 09/6/2009, ông Ngô Hà (trú tại thị trấn Tứ Hạ, huyện
Hương Trà) mua 02 vé xổ số kiến thiết loại vé 10.000đ. Khoảng 10 giờ sáng hôm sau,
anh Nguyễn Lam hàng xóm sang chơi, do không biết chữ nên Hà đã đưa cho Lam 02 vé
số nhờ dò hộ. Khi dò vé số thấy 02 vé số trúng giải đặc biệt với số tiền 1.5000 triệu
đồng. Vì lòng tham muốn chiếm đoạt 02 vé số đó nên Lam nói là vé không trúng
thưởng rồi vứt 02 vé số vào sọt rác trong góc nhà ông Hà. Sau 15 phút, Lam về nói với
vợ là bà Nga: "Trong sọt rác nhà ông Hà có 02 vé số trúng giải đặc biệt cô qua đó giả
vờ xin tấm bìa rồi lấy về". Nga thực hiện theo sự sắp đặt của Lam lấy được 02 vé số về
rồi 02 vợ chồng đi nhận thưởng.
Vụ án thứ ba: Trần Hoàn trú tại Thăng Bình (tỉnh Quảng Nam), làm thuê cho cửa hàng
điện tử số 37 Hùng Vương, thành phố Đà Nẵng. Hoàng thường xuyên nhận nhiệm vụ
giao hàng điện tử cho Hoàn Mỹ trú tại Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Do có quan hệ quen
_________________________________________________________________
22
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi


Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn


biết với Mỹ nên Hoàn nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản trong nhà Mỹ. Hoàn đã bàn
bạc với Chuyên và Huy, được hai tên đồng ý. Vào lúc 16 giờ ngày 20/10/2012, theo kế
hoạch Huy chui vào thùng đựng tủ lạnh. Hoàn và Chuyên đã mang thùng hàng này tới
nhà Mỹ và nói với Mỹ cho gửi lại sáng mai tới lấy để đưa vào giao cho người khác ở
Tam Kỳ. Khoảng 23 giờ khi mọi người trong nhà ngủ im ắng, Huy chui ra khỏi thùng
hàng mở chốt cửa phía trong nhà Mỹ cho Hoàn và Chuyên đợi sẵn ngoài cổng vào
trong nhà, 03 tên lấy được 3 linh kiện hàng trị giá 50 triệu đồng bán tiêu xài.
Mỗi một hành vi trong số các vi đã thực hiện đã thể hiện đầy đủ bản chất nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm (về bản chất các hành vi đó đủ yếu tố CTTP của nhiều
tội) nhưng chúng đảm bảo sự phù hợp của các nguyên tắc chuyển hoá tội phạm. Sự
chuyển hoá tội phạm phải đảm bảo thỏa mãn 4 điều kiện sau:
Bị cáo thực hiện ít nhất 2 loại hành vi cấu thành ít nhất 02 tội. Ý thức chủ quan
của người phạm tội chỉ thực hiện tội thứ nhất, nhưng do nguyên nhân khách quan mà bị
cáo thực hiện tội thứ 2. Các tội này đều hướng đến đạt một mục đích. Chỉ được phép
lựa chọn tội sau cùng để áp dụng đối với người phạm tội. Nguyên tắc này được thể hiện
trong vụ án sau:
Khoảng 16 giờ ngày 30 tháng 09 năm 2010, Đoàn Minh Đĩnh trú ở quận 12,
thành phố Hồ Chí Minh cao hứng chở vợ là Mạc Thị Ngân đến thăm nhà người bạn là
Huệ ở cách nhà Đĩnh khoảng 2 km. Tại nhà Huệ, uống xong 1 tuần trà, Đĩnh bảo vợ:
“Em ở lại chơi với Huệ, anh về cho heo ăn”, rồi Đĩnh lấy xe đi về nhà. Ngân vừa nói
chuyện với Huệ vừa hồ nghi trong bụng, bởi chính Ngân vừa cho heo ăn xong. Hơn
nữa, từ trước tới nay Đĩnh đâu có để ý tới chuyện nuôi heo, cớ gì hôm nay lại quan tâm
như vậy. Ngân nói với Huệ cho qua chuyện rồi ra thuê xe ôm về nhà quyết tìm cho ra
sự thật. Tới nhà, cửa nhà mở, trong nhà im ắng, Ngân lại nghe có tiếng nói nho nhỏ,
tiếng thở khe khẽ. Ngân cầm cái kéo may, đạp mạnh cửa buồng xông vào và sững sờ
nhìn thấy chồng mình đang cùng chị Yến Vy (người hàng xóm đã có chồng) đang làm
chuyện mây mưa trên giường. Ngân quơ hết mớ quần áo của 02 người vứt ra khỏi
buồng. Tiếp đến, Ngân nhảy vào tát vào mặt Vy 02 cái và đạp 03 đạp. Vy ngồi im
không dám la. Đĩnh cũng ngồi im ôm gối sợ vợ làm to chuyện. Ngân đánh đấm Vy một
hồi mỏi tay chân, Ngân quay ra dùng kéo cắt tóc Vy. Ngân vừa cắt tóc Vy, vừa doạ:

“Mày khôn hồn thì ngồi im, nếu chống cự thì tao la làng ngay cho mọi người đến coi
_________________________________________________________________
23
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi


Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

thử xem ai xấu hổ”.Vy phải cúi lạy Ngân, xin Ngân tha thứ. Ngân nói: “Mày phải mua
danh dự”. Vy năn nỉ Ngân cho đền 2 con bò có sẵn bên nhà nhưng Ngân không đồng ý.
Sau đó, Ngân thấy sợi dây chuyền 3 chỉ lấp lánh trên ngực Vy, Ngân cởi ra lấy luôn rồi
cho Vy và Đĩnh mặc quần áo ra về. Trường hợp trong một vụ án bị cáo thực hiện nhiều
loại hành vi tương ứng phù hợp với nhiều CTTP sẽ bị xử lý nhiều tội danh khác nhau
nếu các hành vi đã thực hiện phù hợp với nhiều loại hành vi khách quan tương ứng với
nhiều CTTP mà các loại hành vi này có sự liên tục về mặt thời gian, có mối quan hệ với
nhau và nhằm đạt các mục đích khác nhau.
Ví dụ: Vụ án giết người và cướp tài sản xẩy ra ở thành phố Huế ngày
25/04/2011.Trường hợp trong một vụ án bị cáo thực hiện 1 loại hành vi: Chỉ xử lý một
tội nếu bản chất của hành vi đã thực hiện chỉ là sự thể hiện của một loại hành khách
quan trong một cấu thành tội phạm cụ thể. Sẽ xử lý về nhiều tội nếu:
+ Chỉ có một hậu quả xẩy ra hoặc có thể xẩy ra, mà một loại hành vi đó lại là sự thể
hiện của hai hay nhiều loại hành vi khách quan của các CTTP tương ứng mà các CTTP
này được biểu hiện dưới hình thức lỗi cố ý.
Ví dụ: Giết người bằng súng. Trường hợp này một hành vi giơ súng lên bắn bị
xử lý 2 tội, tội giết người và tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng).
Bởi vì nếu một loại hành vi đã thực hiện phù hợp với một loại hành vi khách
quan của nhiều CTTP, mà các hậu quả này đều thực hiện với hình thức lỗi cố ý thì xử
lý về nhiều tội.

Ví dụ: Cướp gây chết người mà hậu quả chết người là lỗi cố ý thì bị cáo bị xử
thành 2 tội: Tội giết người và tội cướp tài sản. Nếu một loại hành vi đã thực hiện phù
hợp với một loại hành vi khách quan của nhiều CTTP, mà có hậu quả thực hiện với
hình thức lỗi cố ý, có hậu quả thực hiện với hình thức lỗi vô ý, thì CTTP thực hiện với
lỗi vố ý sẽ được thu hút vào tội danh của CTTP với lỗi cố ý và CTTP của lỗi vô ý trở
thành tình tiết định khung tăng nặng.
Ví dụ: Hiếp dâm gây hậu quả nạn nhân chết. Nếu hậu quả nạn nhân chết là lỗi vô
ý, thì chỉ xử lý một tội hiếp dâm với tình tiết định khung tăng nặng gây chết người.
2.4.2 Phương pháp xác định hậu quả của tội phạm
Đối với các tội thực hiện với hình thức lỗi cố ý và là tội có cấu thành vật chất
(tức là trong CTTP luôn phải có dấu hiệu hậu quả) thì việc xác định hậu quả về mặt
_________________________________________________________________
24
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi


Định tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

thực tế có ý nghĩa trong việc xác định tội phạm được thực hiện ở giai đoạn nào, làm cơ
sở cho việc xác định TNHS đối với người phạm tội Đối với các tội thực hiện với hình
thức lỗi vô ý, hậu quả cũng luôn được phản ánh trong CTTP, thì việc đánh giá hành vi
phạm tội chỉ có ý nghĩa khi xác định được hậu quả của tội phạm.
Hay nói cách khác, chỉ khi xác định được hậu quả thì mới xác định được là có
tội hay không có tội và mức độ TNHS đặt ra như thế nào, Cơ sở để xác định hậu quả
của tội phạm là xuất phát từ việc xác định mức độ làm biến đổi tình trạng bình thường
của đối tượng tác động của tội phạm ở thời điểm trước và sau khi tội phạm xảy ra. Hậu
quả của tội phạm là một dấu hiệu trong mặt khách quan, tồn tại trong thế giới khách
quan khi tội phạm xẩy ra, và rất dễ nhận biết được và trong rất nhiều trường hợp nó còn

xác định được một cách cụ thể, chính xác,rõ ràng.
Chính vì vậy, hậu quả của tội phạm được phản ánh trong rất nhiều CTTP với
nội dung là tình tiết định tội và tình tiết định khung. Nhiều tình tiết tăng nặng và giảm
nhẹ TNHS cũng được phản ánh là hậu quả của tội phạm,nên việc xác định hậu quả của
tội phạm có ý nghĩa cả về phương diện định tội, định khung hình phạt và quyết định
hình phạt. Quá trình định tội danh khi xác định hậu quả của tội phạm phải đánh giá
được một cách toàn diện các hậu quả đã được quy định trong BLHS (như số người chết,
giá trị tài sản bị chiếm đoạt, và các hậu quả không được quy định trong BLHS, nhưng
nó trực tiếp phát sinh từ những hậu quả đã được quy định trong BLHS.
2.4.3. Sự đánh giá về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội
phạm
Việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm là
điều kiện đảm cho cho việc định tội danh được chính xác. Vì mối quan hệ nhân quả
không bao giờ tồn tại riêng lẻ, nếu như không có sự tồn tại của 2 hiện tượng khách quan
là hành vi phạm tội và hậu quả của tội phạm. Nội dung của mối quan hệ nhân quả là
hiện tượng khách quan không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người phạm tội. Một
hậu quả của tội phạm có thể do nhiều nguyên nhân gây ra.
Trong những nguyên nhân đó, có thể có những nguyên nhân trực tiếp làm phát
sịnh hậu quả, có những nguyên nhân chỉ góp phần hỗ trợ cho nguyên nhân trực tiếp hay
còn gọi là nguyên nhân gián tiếp. Chỉ những nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu

_________________________________________________________________
25
CBHD: TS.Phạm Văn Beo

SVTH: Trần Bùi Quốc Lợi


×