Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

LUẬN văn LUẬT HÀNH CHÍNH PHÁP LUẬT về NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (965.36 KB, 90 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT HÀNH CHÍNH

1.

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2007 - 2011

PHÁP LUẬT VỀ NGƢỜI LAO ĐỘNG CHƢA THÀNH NIÊN
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Giảng viên hướng dẫn:
NGUYỄN ÁNH MINH
Bộ môn: Luật Hành Chính

Sinh viên thực hiện:
VÕ TẤN LỢI
MSSV:5075199
Lớp: Luật tư pháp 2 khóa 33

Cần Thơ, tháng 4/2011


TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT HÀNH CHÍNH

2.

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT


NIÊN KHÓA 2007 - 2011

PHÁP LUẬT VỀ NGƢỜI LAO ĐỘNG CHƢA THÀNH NIÊN
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Giảng viên hướng dẫn:
NGUYỄN ÁNH MINH
Bộ môn: Luật Hành Chính

Sinh viên thực hiện:
VÕ TẤN LỢI
MSSV:5075199
Lớp: Luật tư pháp 2 khóa 33

Cần Thơ, tháng 4/2011


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………...................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN:
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………...................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................


MỤC LỤC:
LỜI NÓI ĐẦU............................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN CHUNG VỀ NGƢỜI LAO ĐỘNG CHƢA THÀNH
NIÊN.......................................................................................................................... 3
1.1 Khái niệm về ngƣời lao động chƣa thành niên ................................................. 3
1.1.1 Khái niệm lao động và quan hệ lao động........................................................ 3
1.1.2 Khái niệm người lao động chưa thành niên ..................................................... 4
1.2 Nguyên nhân dẫn đến việc sử dụng ngƣời lao động chƣa thành niên ............. 6
1.3 Vai trò của ngƣời lao động chƣa thành niên trong sự phát triển kinh tế
đất nƣớc .................................................................................................................... 9
1.4 Vai trò của nhà nƣớc trong việc quản lý và xử lý trong việc sử dụng ngƣời
lao
động chƣa thành niên ............................................................................................. 11
1.4.1 Vai trò của nhà nước trong quản lý lao động ................................................. 11
1.4.2 Vai trò của nhà nước trong xử lý vi phạm pháp luật việc sử dụng người lao
động
chưa thành niên ........................................................................................................ 13
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI NGƢỜI LAO ĐỘNG
CHƢA THÀNH NIÊN ............................................................................................ 17
2.1 Điều chỉnh của pháp luật đối với ngƣời lao động chƣa thành niên .............. 17
2.1.1 Sự cần thiết phải có điều chỉnh của pháp luật đối với người lao động chưa
thành
niên........................................................................................................................... 17
2.1.2 Đặc điểm của pháp luật đối với việc điều chỉnh người lao động chưa thành
niên........................................................................................................................... 20
2.2 Quy định của pháp luật về ngƣời lao động chƣa thành niên ......................... 23
2.2.1 Điều kiện của doanh nghiệp và những công việc không được sử dụng người

lao động chưa thành niên.......................................................................................... 24
2.2.1.1 Điều kiện của doanh nghiệp khi nhận người lao động chưa thành niên và
trẻ em dưới 15 tuổi vào làm việc ............................................................................... 24


2.2.1.2 Những công việc cấm sử dụng người lao động chưa thành niên và những
công việc được nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc ........................................ 26
2.2.2 Những chế độ mà người lao động chưa thành niên được hưởng khi tham gia vào
quan hệ lao động ...................................................................................................... 27
2.2.2.1 Chế độ về tiền lương .................................................................................... 27
2.2.2.2 Chế độ về thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi ..................................... 30
2.2.2.3 Chế độ về bảo hộ lao động ........................................................................... 35
2.2.2.4 Chế độ về bảo hiểm xã hội ........................................................................... 40
2.2.3 Những vấn đề khác trong quan hệ lao động giữa người sử dụng lao động và
người lao động chưa thành niên ............................................................................... 43
2.2.3.1 Về hợp đồng lao động .................................................................................. 43
2.2.3.2 Về vấn đề học nghề ..................................................................................... 48
2.2.3.3 Vấn đề cạnh tranh của doanh nghiệp trong việc sử dụng người lao động
chưa thành viên ......................................................................................................... 51
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGƢỜI LAO ĐỘNG CHƢA THÀNH NIÊN ................. 53
3.1 Thực trạng làm việc của ngƣời lao động chƣa thành niên ở Việt Nam
hiện nay ................................................................................................................... 53
3.1.1 Thực trạng sử dụng người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi ................. 54
3.1.2 Thực trạng sử dụng lao động trẻ em dưới 15 tuổi ............................................ 58
3.2 Giải pháp để hoàn thiện quy định của pháp luật về ngƣời lao động
chƣa thành niên ...................................................................................................... 69
3.3 Những kiến nghị để góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật về ngƣời
lao động chƣa thành niên ....................................................................................... 71
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 77

Danh mục tài liệu tham khảo .................................................................................. 78
Phụ lục 1 ................................................................................................................... 80
Phụ lục 2……………………………………………………………………………...84


Đề tài: Pháp luật về người lao động chưa thành niên – Thực trạng và giải pháp

LỜI NÓI ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình sống, con người luôn có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng tựu
chung lại thì lao động vẫn là hoạt động cơ bản nhất của con người. Khi tham gia lao
động, con người làm phát sinh quan hệ lao động giữa người lao động, người sử dụng
lao động và Nhà nước. Tuy nhiên, không phải bất kì ai cũng tham gia vào quan hệ lao
động mà cần phải thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy định. Do nhu cầu xã hội,
dựa vào tình hình thực tế của đất nước, đặc điểm của người chưa thành niên mà pháp
luật thừa nhận các trường hợp tham gia vào quan hệ lao động của nhóm người này.
Pháp luật quy định rõ trong Bộ luật Lao động là “người lao động chưa thành niên”.
Người lao động chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể lực, trí
lực, dễ bị ảnh hưởng tác động của môi trường lao động xung quanh nên pháp luật có
những quy định nhằm bảo vệ chủ thể đặt biệt này. Nhà nước đã tạo điều kiện pháp lý
cho người lao động chưa thành niên lao động nhằm giúp ích cho họ, vừa có thể đảm
bảo cho bản thân họ phát triển bình thường mà không bị ảnh hưởng của quá trình
tham gia vào quan hệ lao động.
Ở nước ta, người lao động chưa thành niên được Nhà nước tạo điều kiện cho
họ lao động vừa đảm bảo cho họ được học tập, phát triển đầy đủ về mặt thể lực, trí
lực. Hiện nay, vấn đề người lao động chưa thành niên còn khá phức tạp. Nhà nước đã
có những chính sách, pháp luật tạo điều kiện cho người lao động chưa thành niên
tham gia quan hệ lao động trong môi trường lao động an toàn. Mặc dù vậy, vẫn còn số
lượng lớn người lao động chưa thành niên chưa được pháp luật bảo vệ đúng mức,do
xuất pháp từ nhiều nguyên nhân. Nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện

đại hóa đất nước, số lượng doanh nghiệp xuất hiện ngày càng nhiều với nhiều loại
hình hoạt động khác nhau. Ngoài tuyển người lao động thành niên, nhiều doanh
nghiệp còn tuyển người lao động chưa thành niên vào làm việc. Doanh nghiệp khi
tuyển người lao động chưa thành niên vào làm việc thực hiện đầy đủ các quy định của
pháp luật, tạo điều kiện cho họ học tập, đào tạo nghề nhằm giúp cho sự cạnh tranh của
doanh nghiệp sau này. Bên cạnh đó, những doanh nghiệp khi nhận người lao động
chưa thành niên vào làm việc chỉ bóc lột sức lao động của họ, trả tiền công thấp hơn
mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định, thời gian làm việc kéo dài, điều kiện lao
động không được đảm bảo.
Lao động chưa thành niên là một trong những vấn đề đã và đang tạo ra những

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

1

SVTH: Võ Tấn Lợi


Đề tài: Pháp luật về người lao động chưa thành niên – Thực trạng và giải pháp

tác động tiêu cực, tiềm ẩn, lâu dài không chỉ đối với cuộc sống và sự phát triển của họ
nói riêng mà còn đối với cả gia đình, xã hội và sự phát triển bền vững của đất nước
nói chung. Chính vì vậy, người viết đã chọn đề tài “Pháp luật về người lao động lao
động chưa thành niên – thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt
nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu
Thông qua đề tài này, người viết muốn người đọc và nhất là người lao động
chưa thành niên hiểu rõ các quy định của pháp luật lao động dành cho chủ thể đặc biệt
này. Đồng thời, người viết đưa ra giải pháp và kiến nghị góp phần tăng cường và phát
huy hiệu quả áp dụng pháp luật trên thực tế giúp cho công tác bảo vệ người lao động

chưa thành niên được tốt hơn.
Phạm vi nghiên cứu
Do giới hạn về khả năng, điều kiện cũng như thời gian nên người viết tập trung
nghiên cứu các quy định của pháp luật đối với người lao động chưa thành niên, trong
đó có phần nghiên cứu về trẻ em dưới 15 tuổi làm việc trên cơ sở các quy định của
pháp luật hiện hành.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, người viết đã dùng các phương pháp phân tích luật
viết, phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Bên cạnh dó, người viết tham khảo các bộ luật, luật, văn bản dưới luật và các tài liệu
tham khảo khác.
Kết cấu luận văn
Luận văn gồm lời nói đầu, ba chương, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục.
Chương I: Những vấn đề chung về người lao động chưa thành niên
Chương II: Quy định của pháp luật đối với người lao động chưa thành niên
Chương III: Thực trạng và giải pháp để hoàn thiện các quy định của pháp luật về
người lao động chưa thành niên

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

2

SVTH: Võ Tấn Lợi


Đề tài: Pháp luật về người lao động chưa thành niên – Thực trạng và giải pháp

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƢỜI LAO ĐỘNG CHƢA THÀNH NIÊN

1.1 Khái niệm ngƣời lao động chƣa thành niên
1.1.1 Khái niệm lao động và quan hệ lao động
Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm tạo ra các
sản phẩm phục vụ các nhu cầu của đời sống của con người. Lao động là hoạt động cơ
bản của con người, là tiêu thức để phân biệt hoạt động của con người với hoạt động
theo bản năng của con vật. Lao động giữ vai trò quan trọng trong lịch sử loài người,
Ph. Ăngghen đã viết: “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống
con người, đến một mức và trên một ý nghĩa nào đó chúng ta phải nói rằng: Lao động
đã tạo ra chính bản thân con người”.
Lao động không những tạo ra của cải vật chất mà còn cải tạo bản thân con
người, phát triển con người cả về mặt trí lực và thể lực. Con người nhận thức và hành
động theo đúng quy luật khách quan để trở thành con người tự do trong quá trình lao
động. Trình độ sản xuất vật chất càng tiến bộ thì vai trò nhân tố con người trong hoạt
động lao động càng tăng. Cuộc cách mạng và khoa học hiện đại, một mặt tạo điều
kiện tạo điều kiện để cho con người phát triển lên tầm cao mới của lao động sáng tạo,
mặt khác, nó cũng đòi hỏi sự phát triển của con người cả về trí lực và thể lực theo
hướng ngày càng tăng vai trò của lao động trí tuệ, trở thành đặc trưng chủ yếu nói lên
năng lực của con người trong quan hệ với tự nhiên. Lao động tạo ra giá trị vật chất và
tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả là nhân tố quyết
định sự phát triển của đất nước. Lao động của con người bao giờ cũng nằm trong một
hình thái xã hội nhất định, bởi vì trong quá trình lao động con người không chỉ quan
hệ với thiên nhiên mà còn có quan hệ với nhau. Quan hệ giữa con người với con
người trong lao động nhằm tạo ra những giá trị vật chất tinh thần phục vụ chính bản
thân và xã hội gọi là quan hệ lao động.
Quan hệ lao động này là biểu hiện một mặt của quan hệ sản xuất và chịu sự chi
phối của quan hệ sở hữu. Chính vì thế, trong các chế độ xã hội khác nhau tùy thuộc
vào đặc điểm tính chất của quan hệ sở hữu thống trị mà có những phương thức tổ
chức lao động phù hợp. Và ở đâu có tổ chức lao động, có hợp tác và phân công lao
động, ở đó có tồn tại quan hệ lao động.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần


GVHD: Nguyễn Ánh Minh

3

SVTH: Võ Tấn Lợi


Đề tài: Pháp luật về người lao động chưa thành niên – Thực trạng và giải pháp

kinh tế, để đảm bảo sự bình đẳng và tự do cạnh tranh lành mạnh của các chủ thể. Pháp
luật quy định và ghi nhận quyền tự do kinh doanh, tự chủ sản xuất trong đó có tự chủ
trong lĩnh vực sử dụng lao động theo nhu cầu và tự nguyện của mỗi người. Từ đó đã
hình thành các quan hệ lao động mới, các quan hệ lao động này ngày càng trở nên đa
dạng và phức tạp, đan xen lẫn nhau. Nhiệm vụ của nhà nước bằng pháp luật - công cụ
quản lý xã hội của mình điều tiết các mối quan hệ xã hội đảm bảo lợi ích của các bên
và lợi ích chung của xã hội.
Như vậy, có thể hiểu đối với các quan hệ lao động hình thành trên cơ sở hợp
đồng lao động, Nhà nước thông qua các quy định của pháp luật tạo hành lang pháp
lý để các chủ thể tự do thương lượng với nhau trên nguyên tắc cùng có lợi và không
trái với pháp luật.
1.1.2 Khái niệm người lao động chưa thành niên
Đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, phát
triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chính sự đổi mới
đã tạo dựng ra một môi trường xã hội thuận lợi để cho người chưa thành niên lớn lên,
trưởng thành và phát triển. Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về
thể lực và trí lực. Độ tuổi cần phải học tập, cần có sự quan tâm, chăm sóc của gia
đình, nhà trường và xã hội. Tuy nhiên, hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác người chưa
thành niên phải bỏ học bắt đầu đi lao động sớm để phụ giúp gia đình. Người chưa
thành niên trở thành bộ phận của lao động xã hội.

Những nhà lập pháp và quản lý xã hội thường dùng chữ ”Người chưa thành
niên” để nhấn mạnh tới những giới hạn về nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý đối với
đối tượng đặc thù này, phân biệt với những đối tượng khác. Với tính chất như vậy,
người chưa thành niên có thể bao gồm tất cả các nhóm nhân khẩu xã hội có độ tuổi
dưới mười tám tuổi. Nhóm tuổi về cơ bản chưa phải chịu trách nhiệm về mặt pháp
luật đối với hành vi của mình.
Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người
thành niên, người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên. 1” Như vậy, điều
khẳng định chắc chắn rằng người chưa thành niên là người dưới mười tám tuổi. Bộ
luật Dân sự 2005 còn quy định người dưới mười tám tuổi chia thành nhiều cấp độ tuổi
khác nhau:“Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm
phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định
1

Điều 18 Bộ luật Dân sự 2005.

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

4

SVTH: Võ Tấn Lợi


Đề tài: Pháp luật về người lao động chưa thành niên – Thực trạng và giải pháp

khác. Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài
sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự mà không cần có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác.2”

Như vậy, người từ đủ mười lăm tuổi dưới chưa đủ mười tám tuổi nếu họ có tài
sản riêng thì có quyền xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự. Do đó, với một người
đủ tư cách như vậy, họ có quyền tham gia vào quan hệ lao động với đầy đủ các quyền
và nghĩa vụ. Bộ luật Lao động quy định: “Người lao động chưa thành niên là người
lao động dưới mười tám tuổi. Nơi có sử dụng người lao động chưa thành niên phải
lập sổ theo dõi riêng, ghi đầy đủ họ tên, ngày sinh, công việc đang làm, kết quả những
lần kiểm tra sức khỏe định kỳ và xuất trình khi thanh tra viên lao động yêu cầu.
Nghiêm cấm lạm dụng sức lao động của người lao động chưa thành niên.3”
Do đó, có thể đưa ra định nghĩa về người lao động chưa thành niên như sau:
người lao động chưa thành là lao động tạo ra của cải, vật chất, tinh thần cho xã hội
do người có độ tuổi từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi thực hiện.
Khi nhận người lao động chưa thành niên vào làm việc, người sử dụng lao
động phải tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật để đảm bảo sức khỏe và cho
người chưa thành niên có điều kiện học tập. Không phải độ tuổi nào, người sử dụng
lao động cũng được nhận người chưa thành niên vào làm việc. Bộ luật lao động quy
định: “Cấm nhận trẻ em chưa đủ mười lăm tuổi vào làm việc,trừ một số nghề và công
việc do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định. Đối với ngành nghề và công
việc được nhận trẻ em chưa đủ mười lăm tuổi vào làm việc, học nghề, tập nghề thì
việc nhận và sử dụng những trẻ em này phải có sự đồng ý và theo dõi của cha mẹ
hoặc người đỡ đầu4”. Mặc khác, Bộ luật lao động còn quy định: “Người lao động là
người ít nhất đủ mười lăm tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao
động5”. Như vậy có thể khẳng định, người lao động chưa thành niên được quy định
trong Bộ luật lao động là người đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi có khả năng
lao động và giao kết hợp đồng lao động.

2

Điều 20 Bộ luật Dân sự 2005.
Điều 119 Bộ luật Lao động 1994 (sửa đổi, bổ sung: 2002; 2006; 2007).
4

Điều 120 Bộ luật Lao động 1994 (sửa đổi, bổ sung: 2002; 2006; 2007).
5
Điều 6 Bộ luật Lao động 1994 ( sửa đổi, bổ sung: 2002; 2006; 2007).
3

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

5

SVTH: Võ Tấn Lợi


Đề tài: Pháp luật về người lao động chưa thành niên – Thực trạng và giải pháp

1.2 Nguyên nhân dẫn đến việc sử dụng ngƣời lao động chƣa thành niên
Dân số Việt Nam là dân số trẻ, người lao động chưa thành niên chiếm một tỉ lệ
đáng kể. Đây là độ tuổi học tập cần có sự quan tâm, chăm sóc của gia đình, nhà
trường và xã hội. Không phải lúc nào người chưa thành niên cũng được học tập, được
phát triển đầy đủ về mặt về mặt thể lực và trí lực. Những người không có đủ điều kiện
để học tập, họ phải đi lao động để tiếp tục học tập hay họ bỏ học hẳn để đi lao động.
Hiện nay, người lao động chưa thành niên ở nước ta còn tương đối nhiều. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến người chưa thành thành niên phải đi lao động:
Thứ nhất, xuất phát từ hoàn cảnh gia đình. Gia đình là yếu tố quan trọng dẫn
đến người chưa thành niên phải đi lao động. Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi
nương tựa để người chưa thành niên phát triển đầy đủ về nhân cách, thể chất và tinh
thần. Hiện nay, đất nước ta đang trong thời ki hội nhập, phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển không đồng đều giữa các vùng
trong cả nước. Những gia đình ngày càng giàu lên đầy đủ vật chất để nuôi dạy con
cái. Bên cạnh đó, nhiều gia đình rơi vào hoàn cảnh khó khăn, con cái họ không được
học hành đầy đủ, phải đi lao động sớm để phụ giúp gia đình. Ở nông thôn hiện nay,

nhiều gia đình mong muốn con mình đến các thành phố lớn để kiếm sống. Đây là tình
hình thực tế ở nhiều địa phương hiện nay. Ở nông thôn, họ làm những công việc vất
vả mà không đủ sống, họ ý thức rằng có lên những thành phố lớn lao động mới mong
có cuộc sống tốt hơn. Cũng từ đó mà con họ phải đi lao động ở những thành phố lớn.
Mặc khác, những gia đình mà cha mẹ người chưa thành niên li hôn. Cha mẹ là một
phần không thể thiếu trong cuộc sống của người chưa thành niên, là nơi người chưa
thành niên nương tựa. Khi cha mẹ họ ly hôn, người chưa thành niên trở nên hụt hẫng
trong cuộc sống, trong nhiều trường hợp họ phải từ bỏ gia đình để đi lao động
Thứ hai, nguyên nhân xuất phát từ nhà trường. Nhà trường là nơi người chưa
thành niên học tập, là nơi giáo dục nhân cách của các em. Hiện nay, xã hội ngày càng
phát triển, giáo dục ngày càng đổi mới. Vì thế, tốc độ học tập của các em ngày càng
tăng, cường độ học tập ngày càng cao. Những em không đủ năng lực, không theo kịp
tốc độ học tập. Các em mặc cảm, tự tuy và nhiều em phải nghỉ học và dẫn đến trình
trạng các em phải đi lao động sớm. Hiện nay, trong nhà trường phổ thông môn giáo
dục công dân không được chú trọng và giảng dạy tận tâm. Môn này được xem là môn
phụ, giáo viên giảng dạy một cách qua loa, sơ sài. Do đó, các em không nhận thức
đầy đủ về tầm quan trọng của việc học tập, xem nhẹ việc học tập dẫn đến các em bỏ
học nữa chừng và phải đi lao động sớm.
GVHD: Nguyễn Ánh Minh

6

SVTH: Võ Tấn Lợi


Đề tài: Pháp luật về người lao động chưa thành niên – Thực trạng và giải pháp

Thứ ba, nguyên nhân xuất phát từ việc quản lí của nhà nước
Nhà nước ngày càng có những chính sách chăm lo, giáo dục người chưa thành niên,
công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em và người chưa thành niên ngày càng được nâng cao.

Công tác bảo vệ, chăm sóc người chưa thành niên đòi hỏi các cán bộ phải có kĩ năng,
kiến thức và được đào tạo, làm việc theo các quy trình bài bản, chuyên môn để đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội trong thời đại thông tin, toàn cầu hóa và kinh tế
thị trường. Tại cơ sở, những người trực tiếp và đang tham gia vào các hoạt động bảo
vệ, chăm sóc người chưa thành niên. Tuy họ có chức năng rõ ràng nhưng đều thuộc
nhóm cán bộ không chuyên trách, phụ cấp rất thấp. Chế độ đối với cán bộ làm công
tác cấp xã không thu hút, khuyến khích và đảm bảo công việc lâu dài, trong khi đó
công việc lại quá tải. Công tác bảo vệ, chăm sóc người chưa thành niên cho thấy
nhiệm vụ này lâu nay vẫn được coi là một hoạt động xã hội, mang tính chất phong
trào chưa được coi là hoạt động chuyên môn. Công tác với người chưa thành niên ở
cơ sở hiện thường gồm những việc sau: thăm hỏi và tặng quà cho người chưa thành
niên có hoàn cảnh đặc biệt nhân các ngày lễ tết; trợ cấp người chưa thành niên nghèo
và vận động quyên góp, huy động cộng đồng để hỗ trợ nguồn lực quan tâm, chăm sóc
người chưa thành niên mồ côi, khuyết tật; người chưa thành niên lang thang, bị lạm
dụng; người chưa thành niên vi phạm pháp luật.
Mặc khác, hệ thống tổ chức, bảo vệ, chăm sóc người chưa thành niên chậm
được cũng cố, kiện toàn
Về hệ thống tổ chức và cán bộ: trong những năm qua, hệ thống quản lý nhà về
bảo vệ, chăm sóc người chưa thành niên liên tục được điều chỉnh đáp ứng yêu cầu cải
cách hành chính. Trong giai đoạn quá độ, đội ngũ cán bộ bảo vệ, chăm sóc người
chưa thành niên từ Trung ương tới cơ sở, đặc biệt mạng lưới cộng tác viên, tình
nguyện viên tham gia công tác bảo vệ chăm sóc người chưa thành niên ở địa bàn thôn,
bản, khu, ấp chậm được kiện toàn, chưa đủ số lượng và chất lượng để bảo vệ người
chưa thành niên có hiệu quả. Trước năm 2007, cả nước có khoảng 160.000 cộng tác
viên cấp thôn bản, hiện nay, chỉ còn trên 7000 người. Ở cấp xã trước đây nhiệm vụ
chăm sóc, bảo vệ người chưa thành niên do cán bộ dân số gia đình và trẻ em đảm
nhận, hiện nay, do cán bộ Lao động – Thương binh và xã hội kiêm nhiệm, song công
việc vừa mới mẻ vừa quá tải. Cấp huyện trước đó có ủy ban Dân số gia đình và trẻ em
với số lượng từ 7 – 9 cán bộ, trong đó có ít nhất hai cán bộ làm công tác bảo vệ và
chăm sóc người chưa thành niên nhưng khi chuyển về ngành Lao động – Thương binh

và Xã hội thì chưa có đến một cán bộ chuyên trách và thường phải kiêm nhiệm. Cấp
GVHD: Nguyễn Ánh Minh

7

SVTH: Võ Tấn Lợi


Đề tài: Pháp luật về người lao động chưa thành niên – Thực trạng và giải pháp

tỉnh trước 2007 có từ 5 – 7 cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc người chưa thành
niên thì nay chỉ còn 3 – 4 người. Hiện nay, công tác bảo vệ, chăm sóc người chưa
thành niên vẫn đang thiếu đội ngũ cán bộ xã hội có tính chuyên nghiệp có đủ năng lực
thực hiện các hoạt động can thiệp, trợ giúp người chưa thành niên có nguy cơ bị tổn
thương6.
Về cơ chế phối hợp hoạt động: Việc phối hợp hoạt động giữa các cơ quan tổ
chức chưa hiệu quả do có sự chồng chéo về chức năng nhiệm vụ và do năng lực
chuyên môn hạn chế. Việc phân loại quản lý và theo dõi các nhóm đối tượng chưa
thành niên có hoàn cảnh đặc biệt, người chưa thành niên có nguy cơ rơi vào hoàn
cảnh đặc biệt không chặt chẽ. Việc phát hiện sớm can thiệp và trợ giúp các trường
hợp người chưa thành niên bị bạo lực, bị xâm hại tình dục và vi phạm pháp luật chưa
kịp thời, nhiều trường hợp để lại hậu quả nghiêm trọng đối với người chưa thành niên
và gia đình, để lại sự thù hận trong lòng người chưa thành niên.
Ngân sách phân bổ cho hoat động sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc người chưa
thành niên quá thấp: các kết quả nghiên cứu và báo cáo của các địa phương trong một
số năm gần đây cho thấy ngân sách dành cho hoạt động sự nghiệp bảo vệ người chưa
thành niên chưa xứng đáng với tăng trưởng kinh tế và đầu tư cho các lĩnh vực khác ở
Trung ương và địa phương. Theo báo cáo của các địa phương năm 2008, ngân sách
nhà nước dành cho hoạt động bảo vệ người chưa thành niên chỉ đạt mức bình quân là
3.700 đồng một người một năm, nếu tính cả huy động từ cộng đồng và các tổ chức

quốc tế thì đạt mức 8.300 đồng một người một năm7.
Thứ tư, nguyên nhân sâu sa hơn cả, đó là, do một bộ phận không nhỏ các chủ
doanh nghiệp tư nhân vì muốn tiết kiệm chi phí sản xuất đã sử dụng nhiều lao động
chưa thành niên với tiền công rẻ mạt. Để tiết kiệm chi phí để thu được nhiều lợi
nhuận, các doanh nghiệp này thường sử dụng người lao động chưa thành niên làm
việc như người lao động bình thường. Do đó, tiền lương trả cho họ thấp hơn so với sử
dụng những lao động khác.
Nhìn chung, đây là những nguyên nhân dẫn đến việc sử dụng người lao động
chưa thành niên trong xã hội và đòi hỏi công tác chăm sóc và bảo vệ người chưa
thành niên được quan tâm nhiều hơn từ gia đình, nhà trường và xã hội cũng như sự
quan tâm của nhà nước.
6

Tổng kết chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2001 – 2010 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã
hội.
7
Tổng kết chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2001 – 2010 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã
hội.

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

8

SVTH: Võ Tấn Lợi


Đề tài: Pháp luật về người lao động chưa thành niên – Thực trạng và giải pháp

1.3 Vai trò của lao động chƣa thành niên trong sự phát triển của nền kinh tế đất
nƣớc

Trong bất kỳ một đất nước nào, để phát triển, bên cạnh có nền khoa học kỹ
thuật phát triển thì người lao động giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển nền kinh
tế đất nước. Người lao động chưa thành niên được quy định trong Bộ luật Lao động có
độ tuổi từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi. Đây không phải là đội ngũ lao
động chính để phát triển nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, không thể phủ định vai trò
của người lao động chưa thành niên đối với sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Người lao động chưa thành niên tạo ra giá trị vật chất cho xã hội. Lao động là
điều kiện cơ bản nhất của con người. Vì thế, lao động là một phần không thể thiếu
trong cuộc sống của người lao động chưa thành niên. Người lao động chưa thành niên,
đây là lứa tuổi học tập là chính. Vì những lí do khác nhau, họ phải đi lao động để kiếm
sống. Lao động không chỉ giúp cuộc sống của người chưa thành niên được tốt hơn mà
góp phần tạo ra giá trị vật chất cho xã hội. Lao động là hoạt động quan trọng nhất của
con người, tạo ra giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Lao động có năng suất, chất
lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước.
Người lao động chưa thành niên là nguồn lao động thay thế cho người lao động
làm những công việc nặng nhọc, phức tạp. Người lao động chưa thành niên là người
chưa phát triển đầy đủ về thể lực và trí lực. Họ thường làm những công việc giản đơn,
nhẹ nhàng và phù hợp với sức khỏe. Người lao động chưa thành niên làm việc thường
là người chưa qua đào tạo, chưa có kinh nghiệm về việc đang làm. Những người này
học nghề tại các cơ sở, trường dạy nghề. Khi họ làm công việc thành thạo, có kinh
nghiệm và đủ tuổi để làm những công việc phức tạp đòi hỏi tay nghề cao. Do đó,
những người lao động chưa thành niên này là một bộ phận không nhỏ thay thế cho
người lao động lành nghề trước đó.
Người lao động chưa thành là nguồn lao động thay thế cho nguồn lao động đã
chấm dứt quan hệ lao động. Khi quan hệ lao động giữa người lao động và người sử
dụng lao động chấm dứt, người sử dụng lao động lại đi tìm nguồn lao động mới để
thay nguồn lao động đã chấm dứt quan hệ lao động. Người lao động chưa thành niên là
người đang phát triển về thể lực và trí lực. Họ thường làm những công việc đơn giản
để tích lũy kinh nghiệm để làm những công việc phức tạp. Vì vậy, đây là nguồn lao
động được người sử dụng lao động tuyển vào để thay thế cho nguồn lao động trước đó.

Trong những năm gần đầy chương trình quốc gia về phát triển thanh niên Việt
Nam được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Độ tuổi được gọi là thanh niên được
GVHD: Nguyễn Ánh Minh

9

SVTH: Võ Tấn Lợi


Đề tài: Pháp luật về người lao động chưa thành niên – Thực trạng và giải pháp

quy định trong Luật Thanh niên là công dân Việt Nam có độ tuổi từ đủ mười sáu tuổi
đến ba mươi tuổi8. Như vậy, độ tuổi từ đủ mười sáu tuổi đến dưới chưa đủ mười tám
tuổi, độ tuổi được gọi là người lao động chưa thành niên được quy định trong Bộ luật
Lao động, đồng thời cũng là thanh niên.
Bác Hồ chỉ rõ “một dân tộc muốn hồi sinh, trước hết phải hồi sinh thanh niên,
nếu thanh niên không chịu giác ngộ, không đủ nghị lực, không còn sức sống, không
được tổ chức lại, chỉ chìm trong rượu và thuốc phiện thì dân tộc có nguy cơ bị diệt
vong”. Một đất nước muốn phát triển thì phải phát triển về mọi mặt, trong đó, có về
mặt con người. Đặt con người ở vị trí trung tâm cho sự phát triển đó. Ở nước ta, thanh
niên ngày càng có vì thế quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế đất nước. Thanh
niên là rường cột của đất nước, là chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung
kích trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành
bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng và Nhà nước ta luôn đặt thanh niên ở vị trí trung tâm
chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người; coi việc chăm lo phát
triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm sự ổn định và phát triển bền
vững của đất nước. Vì thế, trước nhu cầu phát triển của đất nước hiện nay, Đảng và
Nhà nước chủ trương xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam giàu lòng yêu nước, tự
cường dân tộc, kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có đạo đức

cách mạng, ý thức chấp hành pháp luật, sống có văn hóa vì cộng đồng; có năng lực,
bản lĩnh hội nhập quốc tế, có sức khỏe, tri thức, kỹ năng và tác phong công nghiệp
trong lao động tập thể, trở thành công dân tốt của đất nước. Cổ vũ thanh niên nuôi
dưỡng ước mơ, hoài bảo lớn, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học công nghệ tiên
tiến, vươn lên ngang tầm thời đại. Hình thành một lớp thanh niên ưu tú trên mỗi lĩnh
vực, kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, phấn
đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; góp
phần lớn vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước; xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, sánh vai cùng các nước tiên tiến trên
thế giới. Đảng, Nhà nước và toàn xã hội chăm lo, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi
để thanh niên rèn luyện, cống hiến và trưởng thành; được học tập có việc làm, nâng

8

Điều 1 Luật thanh niên 2005.

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

10

SVTH: Võ Tấn Lợi


Đề tài: Pháp luật về người lao động chưa thành niên – Thực trạng và giải pháp

cao thu nhập, có đời sống văn hóa, tinh thần lành mạnh. Bản thân thanh niên phải nổ
lực học tâp, rèn luyện, phấn đấu không ngừng9.
Nghị quyết Trung ương VII Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định: “Vấn đề
thanh niên phải đặt ở vị trí trung tâm chiến lược phát huy nhân tố và nguồn lực con
người… Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước ta bước vào thế kỉ 21

có vị thế xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không phần lớn tùy thuộc vào lực
lượng thanh niên, về việc bồi dưỡng và rèn luyện thế hệ thanh niên”. Do đó vai trò của
thanh niên trong đó có người lao động chưa thành niên ngày càng có vị thế quan trọng
trong sự phát triển nền kinh tế đất nước, là nhân tố quan trọng đưa đất nước có vị thế
xứng đáng trên trường quốc tế.
1.4 Vai trò của nhà nƣớc trong quản lý và xử lý việc sử dụng lao động chƣa
thành niên
1.4.1 Vai trò của nhà nước trong quản lý lao động
Người lao động là một nguồn tài nguyên quý giá nhất của một quốc gia. Chính
vì vậy, mỗi một quốc gia trong hệ thống các chính sách của mình điều quan tâm đến
lĩnh vực sử dụng lao động. Thông qua những biện pháp khác nhau trực tiếp hoặc gián
tiếp can thiệp vào lĩnh vực này, vai trò của nhà nước có một tầm quan trọng đặc biệt.
Ảnh hưởng của nhà nước và hệ thống các chính sách và pháp luật về lao động đã thực
sự tạo ra sự bình ổn trong quan hệ lao động – xã hội và thúc đẩy quan hệ này phát
triển.
Quản lí lao động là hoạt động bao gồm cả việc thiết kế các cơ chế, các công cụ
quản lí và vận hành cơ chế đó nhằm đạt được mục tiêu phát triển nền kinh tế xã hội.
Khi nói đến quản lí nhà nước về lao động cần phải xét đến cả hai mặt của nó gồm: các
biện pháp quản lí chung và các biện pháp duy trì quản lí của nhà nước. Ở đó các biện
pháp quản lí chung tạo ra môi trường quản lí lao động, còn các biện pháp bảo đảm sẽ
tạo nên hiệu quả của hoạt động quản lí.
Quản lí lao động nếu hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các hoạt động quản lí xã
hội và quản lí nhà nước về lao động. Quản lí nhà nước về lao động khác với quản lí xã
hội về lao động ở chỗ nó không dùng quyền lực nhà nước để điều khiển quá trình lao
động xã hội và thông thường nó áp dụng các biện pháp xã hội trong quản lí. Hoạt động
quản lí xã hội vì vậy có tính chất thuần túy và về một mặt nào đó, ở một thời điểm nào

9

Phát biểu của Nguyên Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam Nông Đức Mạnh tại Đại hội Đại biểu toàn quốc

Hội Liên Hiệp Thanh Niên Việt Nam lần thứ VI.

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

11

SVTH: Võ Tấn Lợi


Đề tài: Pháp luật về người lao động chưa thành niên – Thực trạng và giải pháp

đó người ta hay sử dụng các biện pháp truyền thống, các quy tắc xã hội phục vụ cho
hoạt động quản lí.
Quản lí nhà nước về lao động là hình thức quản lí đặc biệt và có hiệu quả to lớn
trong thực tiễn. Điều này xuất phát từ chức năng của nhà nước cũng như từ sức mạnh
vốn có của bản thân nhà nước. Hoạt động quản lí nhà nước được thực hiện qua các
biện pháp khác nhau, song luôn chứa đựng yếu tố quyền lực. Do tính chất đặc biệt của
những quy tắc mà nó đưa ra, hoạt động quản lí lao động luôn có tính cưỡng chế.
Đặc điểm cơ bản của hoạt động quản lí nhà nước về lao động biểu hiện ở những nét
tiêu biểu về chủ thể và tính chất cũng như mục đích của việc quản lí. Điều này tạo nên
sự khác biệt giữa quản lí nhà nước về lao động và hoạt động quản lí lao động ở các
đơn vị sử dụng lao động, kể cả các đơn vị sử dụng lao động trong khu vực nhà nước.
Về chủ thể: nét đặc trưng của quan hệ quản lí này một bên chủ thể bao giờ cũng
là nhà nước, biểu hiện cụ thể là cơ quan nhà nước.
Về mặt tính chất: quan hệ quản lí lao động do một bên là nhà nước nên luôn
luôn có tính chất bắt buộc. Quản lí nhà nước về lao động là loại quản lí nghiêm khắc
nhất. Và do tính chất ấy nó dễ dàng tạo ra hậu quả bất lợi cho bên bị quản lí nếu không
tuân thủ các mệnh lệnh của nhà nước.
Về mục đích: quản lí nhà nước về lao động không phải là quan hệ lao động mà
là quan hệ hành chính. Mặc dù nó không tạo ra quan hệ lao động nhưng nó tạo ra các

điều kiện xác lập, duy trì và ổn định các quan hệ lao động cụ thể, tức là tạo điều kiện
về môi trường pháp lí cho tương quan lao động. Nói một cách hình tượng, quản lí nhà
nước về lao động tạo ra một hành lang pháp lí cho quan hệ lao động vận hành, trong
đó các hình thức và phương pháp cũng được thiết kế theo những tiêu chuẩn phù hợp
với pháp luật và lợi ích xã hội.
Theo Bộ luật Lao động thì quản lí nhà nước về lao động bao gồm bảy nội dung
lớn có thể liệt kê thành ba nhóm nội dung sao đây:
Nhóm một: bao gồm các nội dung pháp lí chung phục vụ cho nhu cầu phát triển
lực lượng lao động xã hội như: nắm cung cầu và sự biến động cung cầu làm cơ sở
quyết định chính sách quốc gia, quy hoạch, kế hoạch về nguồn nhân lực, phân bố và sử
dụng lao động toàn xã hội; ban hành và hướng dẫn thi hành các văn bản pháp luật lao
động; xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình quốc gia về việc làm, di dân xây
dựng các vùng kinh tế mới, đưa người đi làm việc ở nước ngoài; tổ chức và tiến hành
nghiên cứu khoa học về lao động, thống kê, thông tin về lao động và thị trường lao
động, về mức sống, thu nhập của người lao động; mở rộng quan hệ hợp tác với nước
GVHD: Nguyễn Ánh Minh

12

SVTH: Võ Tấn Lợi


Đề tài: Pháp luật về người lao động chưa thành niên – Thực trạng và giải pháp

ngoài và các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực lao động.
Nhóm hai: bao gồm các nội dung nhằm tạo điều kiện để quan hệ lao động duy
trì và phát triển, ở đó, Chính phủ có quyền quyết định các chính sách về tiền lương,
bảo hiểm xã hội, an toàn lao động, vệ sinh lao động và các chính sách khác về lao
động và xã hội, về xây dụng mối quan hệ trong các doanh nghiệp.
Nhóm ba: là các nội dung đảm bảo cho sự duy trì ổn định và làm lành mạnh

môi trường lao động, quan hệ lao động như: “thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp
luật lao động và xử lí các vi phạm pháp luật lao động, giải quyết các tranh chấp lao
động10”.
Như vậy, quản lí nhà nước có một hệ thống các nội dung lớn và phức tạp. Song
nếu xét trên bình diện chung nhất, hoạt động quản lí lao động chủ yếu tập trung vào
hai nội dung cơ bản đó là:
Xây dựng các chính sách, các văn bản pháp luật và hướng dẫn thi hành các văn
bản pháp luật và xã hội như: chính sách về việc làm và thị trường lao động; chính sách
về thu nhập và tiền lương; chính sách về bảo hộ lao động; chính sách về bảo hiểm xã
hội; chính sách về sử dụng lao động; các quy định về mối quan hệ lao động; chính
sách hợp tác quốc tế về lao động; các chính sách khác về lao động và xã hội.
Thực hiện sự điều hành, thanh tra, kiểm tra việc thi hành các chính sách và
pháp luật lao động, xử lí các vi phạm pháp luật lao động, giải quyết các tranh chấp lao
động và các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực lao động.
Thông qua việc xây dựng và ban hành các chính sách và pháp luật về lao động
cũng như việc kiểm soát việc thực hiện các chính sách và pháp luật. Nhà nước thật sự
đã thâu tóm toàn bộ hoạt động quản lí lao động ở tầm vĩ mô cũng như vi mô. Và để
thực hiện được việc đó Nhà nước phải dựa vào một hệ thống các cơ quan của mình
với các hình thức, phương pháp nhất định trong quá trình quản lí để đạt được mục tiêu
trước mắt cũng như lâu dài.
1.4.2 Vai trò của nhà nước trong xử lý vi phạm pháp luật việc sử dụng người lao
động chưa thành niên
Người chưa thành niên là thế hệ tương lai của đất nước. Do đó, việc quản lí của
nhà nước đối với lao động chưa thành niên là điều rất quan trọng. Bởi vì, khi được nhà
nước quản lí người chưa thành niên được an tâm lao động. Nhà nước trong quan hệ ba
bên không đứng “ bên trong” để can thiệp quá sâu vào quá trính sản xuất – kinh doanh
và quá trình thỏa thuận đi đến tổ chức và sử dụng người chưa thành niên lao động của
10

Điều 180 Bộ luật Lao động 1994 (sửa đổi, bổ sung: 2002; 2006; 2007).


GVHD: Nguyễn Ánh Minh

13

SVTH: Võ Tấn Lợi


Đề tài: Pháp luật về người lao động chưa thành niên – Thực trạng và giải pháp

doanh nghiệp, nhưng nhà nước với tư cách là người đứng “bên trên” có vai trò định
hướng, có trách nhiệm hỗ trợ cho quan hệ hai bên và có nhiệm vụ thanh tra, xử lí các
vi phạm pháp luật lao động.
Bộ luật Lao động quy định “Nhà nước thống nhất quản lí nguồn nhân lực và
quản lí lao động bằng pháp luật và có chính sách để phát triển, phân bố nguồn nhân
lực, phát triển đa dạng các hình thức sử dụng lao động và giới thiệu việc làm.
Nhà nước hướng dẫn người lao động và người sử dụng lao động xây dựng mối quan
hệ lao động hài hòa và ổn định cùng nhau hợp tác vì sự phát triển của doanh
nghiệp11”.
Nhà nước ban hành những chính sách, những văn bản pháp luật dành riêng cho
người lao động chưa thành niên. Nhà nước có những quy định riêng biệt khi doanh
nghiệp sử dụng lao động chưa thành niên. Nhà nước đưa ra những tiêu chí nhằm đảm
bảo tốt nhất người lao động chưa thành niên, để họ không bị người sử dụng lao động
bóc lột. Bộ luật Lao động quy định “ Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người
lao động chưa thành niên vào những công việc phù hợp với sức khỏe để đảm bảo sự
phát triển thể lực, trí lực, nhân cách và có trách nhiệm quan tâm chăm sóc người lao
động chưa thành niên về các mặt lao động, tiền lương, sức khỏe, học tập trong quá
trình lao động. Cấm sử dụng lao động chưa thành niên vào những công việc nặng
nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại hoặc chỗ làm việc, công việc ảnh
hưởng xấu tới nhân cách của họ theo danh mục do Bộ lao động – Thương binh xã hội

và Bộ y tế ban hành12”.
Khi người lao động chưa thành niên làm việc, nhà nước có quy định riêng về
giờ làm việc để phù hợp với độ tuổi của họ, cũng như để họ có thêm thời gian để học
tập. Bộ luật Lao động quy định:“Thời gian làm việc của người lao động chưa thành
niên không được quá bảy giờ một ngày hoặc bốn mươi hai giờ một tuần. Người sử
dụng lao động chỉ được sử dụng người lao động chưa thành niên làm thêm giờ, làm
việc ban đêm trong một số nghề và công việc do Bộ Lao động - Thươg binh và Xã hội
quy định13”. Nhà nước cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc kí kết hợp đồng
lao động và thỏa ước lao động tập thể giữa người sử dụng lao động và người lao dộng
chưa thành niên.
Vai trò của nhà nước còn thể hiện ở chỗ thanh tra nhà nước về lao động và xử lí
các vi phạm pháp luật lao động. Người lao động nói chung và người lao động chưa
11

Điều 10 Bộ luật Lao động 1994 (sửa đổi, bổ sung: 2002; 2006; 2007).
Điều 121 Bộ luật Lao động 1994 (sửa đổi, bổ sung: 2002; 2006; 2007).
13
Điều 122 Bộ luật Lao động 1994 (sửa đổ, bổ sung: 2002; 2006; 2007).
12

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

14

SVTH: Võ Tấn Lợi


Đề tài: Pháp luật về người lao động chưa thành niên – Thực trạng và giải pháp

thành niên nói riêng đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Vì vậy, để bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp cho họ thì việc thanh tra nhà nước về lao động và sử lí các
vi phạm pháp luật lao động là điều cần thiết.
Xét về mặt lí luận, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật lao động là một mặt của
hoạt động quản lí lao động và biểu hiện là một trong những phương pháp quản lí của
Nhà nước. Song xét về tính thực tiễn của nó thanh tra và xử phạt vi phạm pháp luật lao
động có tính đặc thù, đồng thời nó tạo ra những điều kiện giúp cho hoạt động quản lí
lao động có hiệu quả.
Hoạt động thanh tra nhà nước về lao động là lĩnh vực thực hiện việc thanh tra
của một hệ thống các cơ quan thanh tra trong bộ máy nhà nước. Hoạt động thanh tra vì
vậy phải tuân theo các quy định về tổ chức, hoạt động trong Luật Thanh tra.
Phạm vi thanh tra lao động tương đối rộng lớn. Hoạt động thanh tra lao động
được tiến hành ở tất cả các ngành nghề của nền kinh tế quốc dân, thuộc mọi thành
phần kinh tế. Mặt khác về mặt đối tượng, tất cả các đơn vị sử dụng lao động, nhất là
các doanh nghiệp điều là đối tượng của thanh tra lao động.
Nội dung của thanh tra nhà nƣớc về lao động.
Thanh tra lao động tại các cơ sở, các đơn vị sử dụng lao động hoạt động này
nhằm duy trì việc thực hiện các quy định của pháp luật lao động như việc ký kết và
thực hiện các thỏa ước lao động tập thể, giao kết và thực hiện các hợp đồng lao động,
việc trả lương, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội. Như vậy, mục đích của việc thanh tra
lao động là nhằm thực hiện đúng đắn các quy định của pháp luật trong lĩnh vực lao
động, tiền lương, bảo đảm lợi ích của nhà nước và các bên quan hệ lao động.
Thanh tra an toàn lao động là một trong những hoạt động chuyên ngành của
thanh tra Nhà nước về lao động. Lĩnh vực lao động của thanh tra an toàn lao động là
sự an toàn trong lao động. Về phương diện khoa học - kỹ thuật trong các đơn vị sử
dụng lao động, việc thanh tra về an toàn lao động nhằm cam kết, đánh giá mức độ an
toàn trong các dây chuyền sản xuất, các phương tiện lao động, hệ thống máy móc nhà
xưởng và các điều kiện kỹ thuật chi phối liên quan tới quá trình lao động. Hoạt động
thanh tra do vậy sẽ khắc phục tình trạng mất an toàn để hạn chế việc xảy ra các tai nạn
lao động. Mặt khác, thanh tra an toàn lao động còn có trách nhiệm điều tra các tai nạn
lao động, các sự cố kỹ thuật trong lao động để đảm bảo tính đúng đắn khi quy định các

trách nhiệm pháp lí, góp phần bảo đảm sự nghiêm minh trong quá trình áp dụng pháp
luật.
Thanh tra vệ sinh lao động: an toàn và vệ sinh lao động là hai yếu cực kỳ quan
GVHD: Nguyễn Ánh Minh

15

SVTH: Võ Tấn Lợi


Đề tài: Pháp luật về người lao động chưa thành niên – Thực trạng và giải pháp

trọng bởi chúng có ảnh hưởng tới năng suất, chất lượng và hiệu quả của quá trình lao
động. Tình trạng mất an toàn lao động và vệ sinh lao động nếu tồn tại lâu dài sẽ ảnh
hưởng đến việc duy trì tâm – sinh lý bình thường của người lao động, do vậy làm giảm
xúc khả năng sản xuất và vì thế làm giảm xúc hiệu quả lao động.
Ngoài chức năng quản lí Nhà nước về lao động. Nhà nước có vai trò quan trọng
trong việc xử phạt quy phạm pháp luật lao động. Vi phạm pháp luật lao động là một
hiện tượng xã hội trong quá trình lao động và được hiểu là những vi phạm các quy
định của pháp luật trong quá trình lao động. Sự vi phạm này có thể là do không thực
hiện, thực hiện không đúng những quy định của Bộ lao động và các văn bản pháp luật
do nhà nước ban hành trong lĩnh vực lao động xã hội. Biểu hiện của những vi phạm
pháp luật lao động có nhiều loại khác nhau song chung quy lại chủ yếu là sự vi phạm
các quy định về quan hệ lao động, về an toàn lao động và những quy định trong lĩnh
vực quản lí lao động.
Vi phạm pháp luật lao động là một vi phạm đặc biệt, nó không hoàn toàn là
những vi phạm về mặt quản lí mà bản chất là vi phạm những điều kiện đảm bảo cho
quá trình lao động và xâm phạm đến những quyền và lợi ích của người lao động mà
pháp luật đã quy định như một chuẩn mực. Vi phạm pháp luật trong lao động không
chỉ bị truy cứu trách nhiệm hành chính, kỉ luật mà còn có thể bị truy cứu trách nhiệm

dân sự và cao hơn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Đối với người lao động chưa thành niên, Nhà nước quy định về mức xử phạt
hành chính khi người sử dụng lao động sử dụng người lao động chưa thành niên làm
việc không đúng các quy định pháp luật khi: không lập sổ theo dõi, kiểm tra sức khỏe
định kỳ, lạm dụng sức lao động chưa thành niên; sử dụng lao động chưa thành niên
quá bảy giờ một ngày hoặc quá bốn mươi hai giờ một tuần14.
Ngoài ra, pháp luật còn quy định mức phạt khi người sử dụng lao động sử dụng
người lao động chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp
xúc với các chất độc hại hoặc chỗ làm việc công việc ảnh hưởng xấu tới nhân cách của
người lao động chưa thành niên theo danh mục do Bộ lao động – Thương binh và Xã
hội và Bộ Y tế ban hành15.

14

Theo Nghị định 47/2010/NĐ – CP của Chính phủ ngày 6 tháng 5 năm 2010 quy định mức xử phạt từ 300 ngàn
đồng đến 3 triệu đồng.
15
Theo Nghị định 47/2010/NĐ – CP của Chính phủ ngày 6 tháng 5 năm 2010 quy định mức xử phạt từ 5 triệu
đồng đến 10 triệu đồng.

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

16

SVTH: Võ Tấn Lợi


Đề tài: Pháp luật về người lao động chưa thành niên – Thực trạng và giải pháp

CHƢƠNG 2

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI NGƢỜI LAO ĐỘNG CHƢA THÀNH NIÊN
2.1 Điều chỉnh của pháp luật đối với ngƣời lao động chƣa thành niên
Trong đời sống xã hội, pháp luật giữ vai trò quan trọng nhất. Xét trên bình diện
chung nhất, pháp luật là phương tiện để thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng,
bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội;
phương tiện để Nhà nước quản lí mọi mặt đời sống xã hội; phương tiện để nhân dân
phát huy quyền làm chủ, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Pháp luật với tư cách
là nhân tố điều chỉnh của quan hệ xã hội, nó luôn tác động và ảnh hưởng rất mạnh mẽ
tới các quan hệ xã hội nói chung, cũng như tới tất cả các yếu tố của thượng tầng chính
trị – pháp lý nói riêng. Sự tác động và ảnh hưởng của pháp luật thể hiện ở nhiều mức
độ khác nhau tùy thuộc vào từng đối tượng và từng loại quan hệ cụ thể cần có sự điều
chỉnh của pháp luật. Sự biểu hiện cụ thể của sự tác động đó bao giờ cũng phản ánh
trong khuôn mẫu của các hành vi xử sự được xác định mà các chủ thể pháp luật phải
tuân thủ, chấp hành hoặc lấy làm cơ sở để sử dụng và áp dụng chúng phù hợp với
những điều kiện tương ứng trong hoạt động thực tiễn thường nhật.
Sự khác nhau về mức độ điều chỉnh nói lên vai trò của pháp luật được thể hiện
ở các hình thức chính để tổ chức thực hiện các chức năng của Nhà nước là xây dựng
pháp luật và bảo vệ pháp luật. Để giải quyết nhiệm vụ hết sức phức tạp đòi hỏi nhà
nước phải dựa trên cơ sở pháp lý vững chắc, vì vậy, phải chú trọng công tác xây dựng
pháp luật. Quá trình xây dựng pháp luật luôn gắn liền với tổ chức thực hiện pháp luật.
Đồng thời, phải chú trọng tới việc bảo vệ pháp luật, bảo đảm pháp luật phát huy được
vai trò trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội, bảo đảm cho nó không bị xâm
hại, không bị coi thường.
2.1.1 Sự cần thiết phải có điều chỉnh của pháp luật đối với người lao động chưa
thành niên
Trên thực tế cho thấy, trong bất cứ chế độ kinh tế nào cũng có sự điều tiết của
Nhà nước bằng pháp luật để giải quyết những vấn đề mà tự thân cơ chế kinh tế đó
không thể giải quyết được. Do đó, điều chỉnh pháp luật đối với người lao động chưa
thành niên là yêu cầu mang tính khách quan. Khi điều chỉnh vấn đề người lao động

chưa thành niên, pháp luật bảo vệ và định hướng cho sự phát triển của các quan hệ này
thông qua ý chí chủ quan của Nhà nước, tạo khung pháp lý để hạn chế những ảnh
GVHD: Nguyễn Ánh Minh

17

SVTH: Võ Tấn Lợi


Đề tài: Pháp luật về người lao động chưa thành niên – Thực trạng và giải pháp

hưởng tiêu cực đối với người lao động chưa thành niên.
Điều chỉnh pháp luật đối với người lao động chưa thành niên còn đảm bảo
quyền lao động của người chưa thành niên không đi ngược lại lợi ích chung của xã hội
và không trái với xu thế phát triển của các quan hệ lao động. Mặt khác, quyền lao động
của người lao động chưa thành niên chỉ trở thành hiện thực nếu được Nhà nước đảm
bảo về mặt pháp lý trong việc thực hiện. Sự can thiệp của Nhà nước thông qua các quy
phạm pháp luật sẽ góp phần bảo vệ quyền lao động của người lao động chưa thành
niên. Bởi vì, đảm bảo bằng pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để
các quyền con người, quyền công dân được thực hiện. Pháp luật về người lao động
chưa thành niên đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
người lao động chưa thành niên. Trong điều hiện cung cầu lao động mất cân đối,
người lao động chưa thành niên bị đẩy vào thế yếu, việc đảm bảo quyền lao động của
người lao động chưa thành niên thông qua các quy định cụ thể của pháp luật rất có ý
nghĩa trong việc bảo vệ người lao động chưa thành niên.
Pháp luật về người lao động chưa thành niên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người lao động chưa thành niên. Người lao động chưa thành niên là người chưa
phát triển đầy đủ về thể lực, trí lực, lực lượng lao động này cần có sự quan tâm nhiều
của Nhà nước và xã hội. Pháp luật có những quy định cụ thể đối với người lao động
chưa thành niên như: Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người lao động chưa

thành niên vào những công việc phù hợp với sức khỏe để đảm bảo sự phát triển thể
lực, trí lực cũng như nhân cách; người lao động chưa thành niên được nhận tiền lương
đầy đủ, đảm bảo sức khỏe, đảm bảo học tập trong quá trình lao động; cấm sử dụng
người lao động chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp
xúc với các chất độc hại hoặc chỗ làm việc, công việc ảnh hưởng xấu tới nhân cách
của họ; thời giờ làm việc của người lao động chưa thành niên cũng ít hơn so với người
lao động đã trưởng thành – làm việc không quá bảy giờ một ngày hoặc bốn mươi hai
giờ một tuần. Những quy định này phù hợp với sức khỏe, tâm sinh lý của người lao
động chưa thành niên, phù hợp với bản chất của quan hệ lao động giữa người sử dụng
lao động và người lao động chưa thành niên.
Pháp luật về người lao động chưa thành niên còn góp phần bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người sử dụng lao động. Khi người sử dụng lao động nhận người lao
động chưa thành niên vào làm việc, pháp luật quy định cụ thể những công việc mà
người lao động chưa thành niên được làm và những công việc người lao động chưa
thành niên không được làm. Người sử dụng lao động thường sử dụng người lao động
GVHD: Nguyễn Ánh Minh

18

SVTH: Võ Tấn Lợi


Đề tài: Pháp luật về người lao động chưa thành niên – Thực trạng và giải pháp

chưa thành niên làm những công việc nhẹ, đơn giản và chủ yếu là dạy nghề cho họ.
Khi người chưa thành niên đã lành nghề và đúng độ tuổi do pháp luật quy định để làm
những công việc nguy hiểm, nặng nhọc, đòi hỏi phải có sức khỏe tốt. Do đó, đây là
nguồn lao động được người sử dụng lao động nhận vào làm việc và bổ sung cho những
lao động đã chấm dứt quan hệ lao động. Khi người sử dụng lao động đã đào tạo và dạy
nghề cho người lao động chưa thành niên, thì họ được ưu tiên được nhận những người

này vào làm việc trước so với những người sử dụng lao động khác. Đây là quyền và
lợi ích của người sử dụng lao động được pháp luật quy định.
Pháp luật về người lao động chưa thành niên bảo đảm sự ổn định tương đối của
quan hệ lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động chưa thành niên.
Quan hệ lao động là quan hệ giữa con người với con người trong lao động nhằm tạo ra
những giá trị vật chất, tinh thần phục vụ bản thân con người và cho xã hội. Người lao
động chưa thành niên là những người làm công ăn lương, họ do người sử dụng lao
động sử dụng để làm việc. Trong đó, quyền lợi của các bên được ấn định ở mức tối
thiểu và nghĩa vụ được ấn định ở mức tối đa. Vì vậy, Nhà nước bằng những quy định
của pháp luật đảm bảo mối quan hệ lao động hoài hòa giữa các bên, để các chủ thể khi
tham gia hoàn toàn được tự do, bình đẳng, tự nguyện, tự thỏa thuận các vấn đề liên
quan đến quá trình lao động phù hợp với pháp luật và hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
Pháp luật về người lao động chưa thành niên còn ”góp phần quan trọng trong
việc giải quyết đúng đắng mối quan hệ giữa lợi ích của toàn xã hội, lợi ích tập thể và
lợi ích cá nhân”. Với các quy định nhằm hạn chế và ngăn chặn các hành vi có thể gây
ảnh hưởng tới lới ích chung của xã hội. Pháp luật về người lao động chưa thành niên
đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích chung của tập thể lao động là người
chưa thành niên, bên cạnh việc bảo vệ các lợi ích cá nhân có liên quan. Pháp luật về
người lao động chưa thành niên định hướng các hành vi của các bên trong quá trình
lao động và quá trình sử dụng lao động phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Những
quyền và lợi ích của người lao động chưa thành niên và người sử dụng lao động trong
quan hệ lao động luôn có mối quan hệ và nằm trong tổng thể các quyền và lợi ích của
Nhà nước và xã hội. Do đó, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động chưa
thành niên góp phần đảm bảo sự phát triển của thế hệ lao động lành nghề tương lai và
góp phần phát triển đất nước.

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

19


SVTH: Võ Tấn Lợi


×