Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Pháp luật vê hoạt động bao thanh toán thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.21 KB, 73 trang )

LỜI CẢM TẠ

Tôi đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp không chỉ với những cố gắng và nỗ lực
của riêng tôi mà còn nhận được rất nhiều sự giúp đỡ.

Trước hết, tôi xin cảm om Ban lãnh đạo Khoa Luật, trường Đại học cần Thơ đã
tạo điều kiện cho tôi học tập, nghiên cứu và nâng cao trình độ trong những năm qua.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô Lê Huỳnh Phương Chinh đã tận tình
VĂN
TỐT
hướng dẫn, giúp đỡ vàLUẬN
truyền đạt
những
kinhNGHIỆP
nghiệm quý báu, và tạo mọi điều kiện
NIÊN
thuận lợi để tôi hoàn thành
tốt đềKHÓA
tài luận 2007
văn của2011
mình.

Tôi
Đềxin
tài:chân thành cảm ơn cô Trần Thụy Quốc Thái - cố vấn học tập cùng tất
cả quý thầy, cô trong Khoa Luật đã dạy bảo và cung cấp kiến thức cho tôi trong suốt
quá trình học tập và nghiên cứu.

PHÁP LUẬT VÈ HOẠT ĐỘNG


Cảm ơn các bạnBAO
đã giúpTHANH
đỡ tôi trong TỎÁN
quá trình học
- tập, đã động viên và hỗ trợ
tôi trong suốt quá trình nghiên cứu luận văn.

CHẦN THÀNH CẢM ƠN
càn Thơ, 04/2011

Gỉảnữ viên hưởnữ đẫn:
Ths. Lê Huỳnh Phương Chỉnh

Sinh viên thưc hiên:
Đỗ Ngọc Lan Phương
MSSV: 5075215


NHẬN XÉT CỦA QUÝ THẦY, CỒ
C8Ũ3IBO



MỤC LỤC
-0O0-'
LỜI NÓI ĐẰU.................................................................................................................1

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VÈ HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN...................4
1.1..............................................................................................................................Lị
ch sử hình thành và phát triển của hoạt động bao thanh toán............................. 4

1.1.1. Trên thế giới.................................................................................................4
1.1.2. Tại Việt Nam................................................................................................6
1.2.............................................................................................................................. K
hái niệm bao thanh toán...................................................................................... 7
1.3.
Đặc điểm của hoạt động bao thanh toán theo quy định của pháp luật Việt
Nam. 10
1.4.............................................................................................................................. V
ai trò của hoạt động bao thanh toán.................................................................... 11
1.4.1. Đối với bên bán hàng, cung ứng dịch vụ ..................................................11
1.4.2. Đối với bên mua hàng, sử dụng dịch vụ....................................................12
1.4.3. Đối với đom vị bao thanh toán..................................................................12
1.5..........................................................................................Phân loại bao thanh toán
.............................................................................................................................13
1.5.1. Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ.....................................................................13
1.5.2. Căn cứ vào trách nhiệm đối với rủi ro.......................................................13
1.5.3. Căn cứ vào phưomg thức bao thanh toán..................................................14
1.6.............................................................................................................................. P
hân biệt bao thanh toán và một số hình thức cấp tín dụng khác......................... 14
1.6.1. Phân biệt bao thanh toán và bảo lãnh ngân hàng.......................................14
1.6.2. Phân biệt bao thanh toán và chiết khấu giấy tờ có giá...............................18

CHƯƠNG 2. PHÁP LUẬT VÈ HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN CỦA

CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM..........................................................23
2.1.

Quy định của pháp luật về điều kiện hoạt động bao thanh toán của các
tổ chức tín dụng............................................................................................23
2.1.1. Quy định của pháp luật về điều kiện để được thực hiện hoạt động

bao thanh toán........................................................................................................23
2.1.2. Quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục để được chấp thuận hoạt động
bao thanh toán của các tổ chức tín dụng................................................................28


2.1.2.1 Chuẩn bị hồ sơ...................................................................................28
2.1.2.2. Xem xét về việc chấp thuận hoạt động bao thanh toán của các
tổ chức tín dụng...............................................................................................29
2.2.
Quy định của pháp luật về hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín
dụng ..32
2.2.1. Giới thiệu chung về quy trình hoạt động bao thanh toán..........................32
2.2.2. Quy trình hoạt động bao thanh toán trong nuớc và quốc tế.......................33
2.2.2.1. Quy trình hoạt động bao thanh toán trong nước................................33
2.2.2.2. Quy trình hoạt động bao thanh toán quốc tế.....................................37
2.3.......................................................................................................................Qu
y định của pháp luật về họp đồng bao thanh toán........................................ 39
2.3.1. Khái niệm về họp đồng bao thanh toán.....................................................39
2.3.2. Chủ thể của họp đồng bao thanh toán....................................................... 40
2.3.2.1............................................................................................................... C
hủ thể bao thanh toán - Tổ chức tín dụng........................................................41
2.3.2.2............................................................................................................... Bê
n được bao thanh toán - Khách hàng của tổ chức tín dụng..............................42
2.3.3. Đối tượng của họp đồng bao thanh toán...................................................45
2.3.3.1. Các khoản phải thu...........................................................................45
2.3.3.2. Các khoản phải trả............................................................................46
2.3.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong họp đồng bao thanh toán...............49
2.3.4.1. Quyền và nghĩa vụ của bên bao thanh toán.......................................49
2.3.4.2. Quyền và nghĩa vụ của bên được bao thanh toán..............................50
2.3.4.3. Quyền và nghĩa vụ của chủ thể thứ ba..............................................52


CHƯƠNG 3. THựC TRẠNG VÈ HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁNNGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ
PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN TẠI VIỆT NAM. .53
3.1.............................................................................................................................Th
ực tiễn hoạt động bao thanh toán ừên thế giới....................................................53
3.2.
Thực trạng hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng tại Việt
Nam,Nguyên nhân và một số giải pháp ...............................................................58


3.2.1. Tồn tại về phía các đơn vị bao thanh toán - Nguyên nhân và giải pháp.... 61

3.2.2....................................................................................................................... T
ồn tại về phía khách hàng - Nguyên nhân và giải pháp.........................................64
3.2.3....................................................................................................................... T
ồn tại về hành lang pháp lý - Nguyên nhân và giải pháp.......................................66
KẾT LUẬN..................................................................................................72


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật vê hoạt động bao thanh toán- Thực trạng và giải pháp

LỜI MỞ ĐẰU
--0O0-1. Lý do chọn đề tài

Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ và giữ được vị trí cạnh tranh hiện tại đang
là vấn đề sống còn đối với các tổ chức tín dụng. Để đạt được mục tiêu này, các
định chế tài chính Việt Nam đã đưa ra các công cụ tài chính mới trên thế giới vào
triển khai áp dụng ở thị trường tài chính Việt Nam, trong đó có bao thanh toán

(Factoring).

Trong hoạt động mua bán hàng hóa, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu,
phưomg thức mua hàng trả chậm vẫn còn là thói quen thưomg mại. Tuy nhiên, các
doanh nghiệp thường muốn thu được tiền ngay sau khi bán hàng để quay vòng vốn
nhanh nhằm tăng hiệu quả kinh doanh và phòng tránh rủi ro mất khả năng thanh
toán của bên mua hàng, trong khi lại phải cạnh tranh gay gắt để thu hút khách hàng
bằng phương thức thanh toán trả chậm. Bao thanh toán ra đời đã giải quyết được
mâu thuẫn trên.

Theo đó, bao thanh toán là nghiệp vụ có nhiều cơ hội phát triển tại Việt Nam.
Đáp ứng những đòi hỏi từ nền kinh tế thị trường, bao thanh toán được bổ sung vào
hệ thống những công cụ tài chính tại Việt Nam. Ke từ khi Quyết định số
1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/9/2004 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về
Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng có hiệu lực đến nay
cũng đã có nhiều đơn vị đưa nghiệp vụ trên vào hoạt động. Tuy nhiên, thực tế là
việc triển khai hoạt động bao thanh toán gặp nhiều vướng mắc và chưa mang lại
hiệu quả như mong đợi. Các văn bản pháp lý liên quan đến nghiệp vụ bao thanh
toán vẫn còn tồn tại nhiều bất cập cằn phải hoàn thiện. Các tổ chức tín dụng gặp
nhiều lúng túng trong việc đem nghiệp vụ này vào triển khai hoạt động. Các doanh
nghiệp vẫn còn khá xa lạ với khái niệm “hao thanh toán” và tỏ ra dè dặt với nghiệp
vụ này.

Vì vậy, việc nghiên cứu hoạt động bao thanh toán để tìm ra giải pháp cho sự
phát triển của nghiệp vụ này trong bối cảnh hiện nay là điều càn thiết. Xác định
GVHD: Ths. Lê Huỳnh Phương Chinh

1

SVTH: Đỗ Ngọc Lan Phương



Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật vê hoạt động bao thanh toán- Thực trạng và giải pháp

đóng góp một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật trong việc
mở rộng và phát triển hoạt động này tại Việt Nam.
1. Phạm vi nghiên cứu

về đối tượng nghiên cứu: ừong luận văn này, người viết tập trung nghiên cứu
trên cơ sở các vãn bản pháp luật quy định trực tiếp về hoạt động bao thanh toán;
các văn bản pháp lý có liên quan trong việc phân tích, làm rõ các khái niệm, đặc
trưng. Qua đó đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt động trên đồng thời đưa
ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý.
2. Phương pháp nghiên cứu

Người viết đã vận dụng một vài phương pháp nghiên cứu để làm công cụ
phục vụ cho việc nghiên cứu của mình như: phương pháp tổng hợp, phân tích luật
viết, phương pháp đối chiếu, so sánh những quy định của pháp luật về cùng một
vấn đề, so sánh giữa lý luận và thực tiễn để thực hiện các mục tiêu đề ra khi thực
hiện đề tài. Cụ thể:

-

Phương pháp duy vật biện chửng: nhìn nhận các hiện tượng và quá trình
hoạt động của nên kinh tế trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau; dựa vào
các giai đoạn khác nhau của nền kinh tế mà đánh giá và nhận xét quá trình
hình thành và phát triển của bao thanh toán.


-

Phương pháp logic: thực tế vận động phát triển của nền kinh tế nước ta khi
chuyển sang nền kinh tế thị trường diễn ra khá đa dạng, phức tạp, tác động
đến nhiều khía cạnh của thị trường tài chính trong nước. Do đó, qua quá
trình phân tích, đánh giá sự phát triển này, người viết rút ra đặc điểm, bản
chất của sự vật, hiện tượng.

-

Phương pháp phân tích luật viết: vận dụng những kiến thức đã học, đứng
trên góc độ pháp luật để nhìn nhận và đánh giá vấn đề.

-

Phương pháp phân tích số liệu: thống kê và xử lý số liệu để xem xét, đánh

GVHD: Ths. Lê Huỳnh Phương Chinh

2

SVTH: Đỗ Ngọc Lan Phương


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật vê hoạt động bao thanh toán- Thực trạng và giải pháp

những lợi ích mà bao thanh toán mang lại cho các chủ thể tham gia vào hoạt động
trên. Bên cạnh đó, người viết cũng đưa ra những đặc điểm phân biệt bao thanh toán

và các hĩnh thức cấp tín dụng khác.
Chương II Pháp luật về hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín
dụng tại Việt Nam

Trong Chưomg II, người viết phân tích chủ yếu về điều kiện để tổ chức tín
dụng được hoạt động bao thanh toán; trình tự thủ tục để được Ngân hàng Nhà nước
chấp thuận hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng, quy trình hoạt động bao
thanh toán và các vấn đề liên quan đến họp đồng bao thanh toán.
Chương III Thực trạng về hoạt động bao thanh toán - Nguyên nhân và
một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động bao thanh toán tại
Việt Nam

Qua việc phân tích thực trạng về hoạt động bao thanh toán, người viết chỉ ra

GVHD: Ths. Lê Huỳnh Phương Chinh

3

SVTH: Đỗ Ngọc Lan Phương


1

Tổng hợp từ các nguồn:

Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật vê hoạt động bao thanh toán- Thực trạng và giải pháp

Chương I TỔNG QUAN VÈ HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN

1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động bao thanh toán
1.1.1 Trên thế giới1

Bao thanh toán (BTT) còn gọi là factoring, là một nghiệp vụ không mấy xa lạ
đối với rất nhiều quốc gia trên thế giới bởi những lợi ích thiết thực mà nó mang đến,
không chỉ cho bên khách hàng mà còn cho các đom vị cung ứng nghiệp vụ trên. Cùng
với một số các hình thức cấp tín dụng khác, BTT đã tồn tại từ rất lâu trong lịch sử như
là một sản phẩm tất yếu hình thành do nhu cầu của hoạt động giao thưomg.

Hình thức sơ khai của hoạt động BTT được tìm thấy đầu tiên trong bộ luật
Hammurabi, một công trình lưu dấu nền văn minh Lưỡng Hà - cái nôi của nền văn
minh thế giới. BTT không lụi tàn như xã hội đã tạo ra nó, mà vẫn tiếp tục nẩy mầm
trong lịch sử của nền sản xuất hàng hóa.

Một số tài liệu cho rằng BTT khởi nguồn từ hoạt động đại lý thương mại từ
khoảng hai nghìn năm trước dưới thời đế chế La Mã. Thời ấy, hệ thống thông tin còn
sơ khai, đại lý hưởng hoa hồng thực hiện chức năng trung gian trong giao dịch thương
mại giữa nhà sản xuất nước ngoài và người mua trong nước. Họ nắm giữ quyền sở hữu
tài sản do sự ủy nhiệm của các nhà sản xuất nước ngoài, rồi giao lại hàng hóa cho
người mua, thu nợ khi đến hạn, chuyển dư nợ cho bên giao đại lý sau khi trừ phần hoa
hồng của mình, về sau, các đại lý dần tin vào khả năng thanh toán của bên mua trong
giao dịch. Họ bắt đầu trả trước cho bên giao đại lý (các nhà sản xuất) để có thể hưởng
hoa hồng nhiều hơn. Các thương nhân La Mã cũng là những người đầu tiên thực hiện
việc trao đổi các giấy nợ với mức giá thấp hơn giá trị bề mặt của nó.

Theo đó, phương thức này đã phổ biến trước công cuộc khai thác châu Mỹ vào
khoảng đầu thế kỉ 15 sau thời điểm Christop Columbus phát hiện ra châu Mỹ năm

/>Đặng Thị Nhàn, Câm nang vê nghiệp vụ BTTỊactoring và foĩfaiting trong tài trợ thương mại quôc tê,
NXB

Thống
kê,
năm
2007,
trang
16-17.
http://www. factors-chain. com/
Võ Đình Toàn, Giáo trình Luật Ngân hàng, Trường Đại học luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hả
Nội 2005.

GVHD: Ths. Lê Huỳnh Phương Chinh

4

SVTH: Đỗ Ngọc Lan Phương


2

http ://fredcoutts. ccm/factoring_histary.htrn

Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật vê hoạt động bao thanh toán- Thực trạng và giải pháp

Thế kỉ 16 chứng kiến sự bành trướng của chế độ thực dân Mỹ, cùng với nó BTT
cũng như nhiều công cụ tài chính khác có thêm cơ hội mới để mở rộng và phát triển.
Khoảng cách giữa Châu Ầu và thị trường thực dân vốn đã rất lớn, đặc biệt là khi Mỹ
mở rộng biên giới về phía Tây; các phương tiện lưu thông và thông tin thời bấy giờ
còn hạn chế, do đó vòng tuần hoàn vốn từ lúc sản xuất đến lúc được thanh toán hoàn

toàn bị kéo dài ra. Chính điều này đã làm các nhà sản xuất Châu Ầu khó khăn với việc
thâm nhập thị trường Mỹ. Khắc phục tình trạng trên, một số công ty tại Mỹ bước đầu
thực hiện BTT như một công cụ tài chính mang lại hiệu quả kinh doanh tối ưu.

Với sự ra đời của cuộc Cách mạng công nghiệp, BTT trở thành tiêu điểm cho
các vấn đề về tín dụng, mặc dù các tiền đề cơ bản đã được hình thành trước đây vẫn
được giữ nguyên. Trước năm 1930, tại Mỹ hoạt động BTT diễn ra khá sôi động chủ
yếu trong nền công nghiệp dệt may. Các tổ chức BTT phát triển theo hướng tập trung
vào tín dụng, thu nợ, kế toán, và các chức năng tài chính khác. Việc cho phép các tổ
chức BTT thực hiện các chức năng này cho phép các nhà sản xuất (đặc biệt là trong
ngành dệt) tập trung sản xuất và phát triển kinh doanh. Sau những năm chiến tranh,
tiềm năng của phương thức tài trợ thương mại thông qua việc ứng trước cho các khoản
phải thu chưa đến hạn thanh toán này lại được ghi nhận một cách nghiêm túc hơn.
BTT phát triển sang các ngành nghê khác.

Tuy nhiên, hoạt động BTT chỉ ừở thành một loại hình dịch vụ phổ biến ở nhiều
quốc gia kể từ những năm 1960 và cũng ừong thời gian này Hiệp hội bao thanh toán
quốc tế (Factors Chain Intemational_FCI) đã được thành lập (1968) như là một tổ
chức bảo trợ cho các đơn vị BTT độc lập ừên thế giới. BTT lại càng có thêm nền tảng
vững chắc để phát triển mạnh mẽ hơn 2. Nhận thấy được những ưu điểm mà BTT mang
lại, nhiều đơn vị kinh tế đã mạnh dạn bước chân vào lĩnh vực này. Cùng với quá trình
chuyển mình của hoạt động BTT, nhiều nỗ lực nhằm tập họp và thống nhất các nguyên
tắc, tập quán, luật lệ chung cho hoạt động BTT đã được thực hiện. Công ước
UNIDROIT về BTT quốc tế năm 1988 (còn gọi Công ước Ottawa năm 1988), Công
ước của Liên hiệp quốc về chuyển nhượng khoản phải thu trong thương mại quốc tế
năm 2001 do UNCITRAL xây dựng, các quy định chung của Hiệp hội bao thanh toán
quốc tế ngày càng có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi khía cạnh pháp lý của quan hệ BTT.

GVHD: Ths. Lê Huỳnh Phương Chinh


5

SVTH: Đỗ Ngọc Lan Phương


3

http:/Avww.tapchiketoan.com/ngan-hang-tai-chũửi/tai-chinh-doanh-nghiep/bao-thanh-toan-Êictormg-mot-hinhthuc-tin- Luận văn tốt nghiệpdung-moi-tai-

Pháp luật vê hoạt động bao thanh toán- Thực trạng và giải pháp

vie .html

1.1.1 Tại Việt Nam

Nghiệp vụ BTT hiện nay tuy còn khá mới mẻ đối với nhiều tổ chức và doanh
nghiệp, nhung cũng không còn xa lạ với hệ thống ngân hàng Việt Nam. Ban đầu,
nghiệp vụ BTT được các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam giới thiệu như
một sản phẩm mang lại nhiều ưu thế ừong hoạt động ngân hàng. Một số bài báo giới
thiệu về nghiệp vụ BTT như bài viết của ông Nguyễn Mạnh Dũng - Vụ các ngân hàng
đăng trên Thị trường tài chính tiền tệ tháng 7/1999, rồi bài viết của Nguyễn Văn Hà
đăng trên tạp chí Phát triển kinh tế tháng 8/2004 đã cho thấy hình thức “mua bán nợ”
đã bắt đàu len lỏi trong nền kinh tế đang chuyển minh của nước ta bấy giờ. Tháng
9/2004 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ký ban hành Quyết định số
1096/2004/QĐ-NHNN về Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng
(sau đây gọi tắt là Quy chế hoạt động BTT). Quyết định này có ý nghĩa như là một
bước mở đường cho sự phát triển của nghiệp vụ BTT tại Việt Nam. Vào thời điểm
cuối năm 2004, đầu năm 2005 diễn ra rất nhiều các cuộc hội thảo, báo cáo và quảng bá
về dịch vụ này, như hội thảo về BTT do FENB (Far East National Bank thuộc tập đoàn
Sinopac Holding) của Mỹ tổ chức vào ngày 23/9/2004 nhằm giới thiệu và vận động sự

tham gia cung cấp dịch vụ của một số ngân hàng thương mại cổ phàn (Ngân hàng
thương mại cổ phàn Phương Đông (OCB), Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu
(ACB), Ngân hàng Thương mại cổ phàn Kỹ thương (Techcombank)...). Hội thảo về
BTT tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 07/3/2005 với sự tham dự của đại diện
các ngân hàng thương mại tại Việt Nam và các đại diện của Hiệp hội bao thanh toán
thế giới3. BTT, tuy thế vẫn chưa thể trở thành một công cụ phổ biến được các doanh
nghiệp sử dụng rộng rãi trong hoạt động phát triển kinh doanh của minh do nhiều
nguyên nhân, mà một trong số đó là việc thiếu sót của quy định pháp luật về nghiệp vụ
BTT. Nắm bắt được tình hình trên và cùng với sự gia tăng của các giao dịch kinh tế,
cũng như xu hướng đa dạng hóa công cụ tài chính diễn ra trong thời gian qua mà
Quyết định 30/2008/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế hoạt động
BTT (ban hành theo Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/9/2004 của Ngân
hàng Nhà nước) được ban hành. Đây được xem như động thái chuẩn bị cho một bước
chuyển mới của một nghiệp vụ đang từng bước khẳng định vị thế của mình trong hệ
thống các công cụ tài chính đắc lực của nền kinh tế. BTT sau đó được chính thức ghi
nhận trong một văn bản pháp lý cao hơn, Luật Các tổ chức tín dụng 2010 (hiệu lực
01/01/2011). Có thể mạnh dạn nói rằng, bước ngoặt này sẽ mở ra một cơ hội mới cho
BTT mở rộng phát triển xứng đáng với tiềm năng của nó hiện vẫn được các quốc gia

GVHD: Ths. Lê Huỳnh Phương Chinh

6

SVTH: Đỗ Ngọc Lan Phương


4

Huỳnh
Thị

Hương Thảo, Phát
triển nghiệp vụ
bao thanh toán trong
Luận văn tốt nghiệp
Pháp luật về hoạt động bao thanh toán- Thực trạng và giải pháp
hoạt động tài trợ
thương mại và năng
cao
năng lực cạnh
tranh tại các ngân hàng
thương mại ở
Việt Nam, Tạp chí
Ngân hàng số 19
tháng 10/2008, trang
màu mỡ để phát triển dịch vụ, bởi vì đó là nhu cầu cấp thiết từ phía khách hàng- chính
26
5
Võ Đình Toàn,
trình Luật Ngăn
là đại đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang hoạt động, cũng như nhu cầu từ phía Giáo
hàn,
Trường Đại học luật

Nội,nhà cung cấp - các tổ chức tín dụng (TCTD) trong và ngoài nước. Do đó, BTT chắc NXB Công an nhân
dân,

Nội
2005,
trang 226. chắn sẽ không là ngoại lệ.


1.2Khái niệm bao thanh toán

Theo các từ điển luật học, thuật ngữ BTT (factoring) thường được mô tả là việc
chuyển nhượng các khoản thu thưomg mại của người bán cho tổ chức BTT (factor).
Khi thực hiện các giao dịch thưomg mại làm phát sinh các khoản phải thu (các khoản
tiền bán hàng chưa đến hạn thanh toán), người bán có thể cải thiện trạng thái ngân quỹ
của mình bằng việc đem nhượng bán các khoản phải thu để nhận ngay các khoản tiền
mặt đã trừ phàn chiết khấu từ tổ chức BTT. Tổ chức BTT sau khi nhận các khoản phải
thu từ người bán sẽ thực hiện việc thu nợ đối với người mua.

Theo Hiệp hội Bao thanh toán quốc tế (FCI), BTT là một dịch vụ tài chính trọn
gói, bao gồm sự kết hợp giữa tài trợ vốn hoạt động, bảo hiểm rủi ro tín dụng, theo dõi
các khoản phải thu và dịch vụ thu hộ. Đó là sự thỏa thuận giữa người cung cấp dịch vụ
BTT (factor) với người cung ứng hàng hóa dịch vụ hay còn gọi là người bán hàng
trong quan hệ mua bán hàng hóa (seller). Theo như thỏa thuận, factor sẽ mua lại các
khoản phải thu của người bán dựa trên khả năng trả nợ của người mua trong quan hệ
mua bán hàng hóa (buyer) hay còn gọi là con nợ trong quan hệ tín dụng (debtor)4.

Công ước của UNIDROIT về BTT quốc tế năm 1988 (còn gọi Công ước
Ottawa năm 1988) thì mô tả hoạt động BTT như sau5:

-

Bên bán hàng hóa sẽ chuyển giao cho bên BTT các khoản phải thu phát sinh từ
họp đồng mua bán hàng hóa giữa bên bán và bên mua (con nợ), trừ các họp
đồng nhằm mục đích tiêu dùng cho cá nhân, hộ gia đình.

GVHD: Ths. Lê Huỳnh Phương Chinh

7


SVTH: Đỗ Ngọc Lan Phương


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động bao thanh toán- Thực trạng và giải pháp

hàng Nhà nước Việt Nam ban hành kèm Quy chế hoạt động BTT của các tổ chức tín
dụng. Cụ thể BTT được định nghĩa như sau:
BTT là một hình thức cấp tin dụng của TCTD cho bên bản hàng thông qua việc
mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa đã được bên bán
hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đong mua bán hàng hóa.

Lúc này BTT phải co minh trong mỗi lĩnh vực mua bán hàng hóa, vì vậy việc
áp dụng Quy chế hoạt động BTT lại càng gò bó và chưa thực sự phát huy hết được lợi
thế của nghiệp vụ BTT, cũng như chưa được quan tâm một cách đúng mực từ phía các
doanh nghiệp và các TCTD. Từ tình hình trên, Quyết định số 30/2008/QĐ-NHNN
ngày 16/10/2008 của Ngân hàng Nhà nước được ban hành nhằm sửa đối, bố sung một
số điều của Quy chế hoạt động BTT ban hành theo Quyết định số 1096/2004/QĐNHNN ngày 06/9/2004. Trong đó, BTT được mở rộng hoạt động bao gồm Mua bán
hàng hoả và Cung ứng dịch vụ.
Còn theo Luật Các tổ chức tín dụng 2010 (có hiệu lực ngày 01/01/2011) thì
“Bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng hoặc bên mua hàng
thông qua việc mua lại có bảo lưu quyền truy đỏi các khoản phải thu hoặc các khoản
phải trả phát sinh từ việc mua, bán hàng hoả, cung ứng dịch vụ theo hợp đồng mua,
bản hàng hoả, cung ứng dịch vụ”.

Định nghĩa về BTT được ghi nhận trong Luật Các tổ chức tín dụng 2010 đề cập
đến một số vấn đề sau:


Thứ nhất, BTT đã không chỉ là một hình thức cấp tín dụng dành cho riêng
người bán. BTT vẫn được áp dụng trước đây trong và ngoài nước là một loại hình tài
trợ thưomg mại dành cho người bán. Các đom vị BTT sẽ ứng cho người bán một khoản
tiền để đổi lấy “quyền đòi nợ” đối với người mua hàng. Qua đó, giúp người bán hàng,
cung ứng dịch vụ có thể tìm kiếm nguồn tài chính khác mà không phải đối mặt với sự
chậm trễ trong việc thanh toán của người mua hàng, sử dụng dịch vụ. BTT theo định
nghĩa trên còn là một hình thức cấp tín dụng cho người mua. Nghĩa là các TCTD sẽ
cấp một khoản tài chính nhất định (theo thỏa thuận) giúp người mua đối mặt với các
khoản nợ sắp đến hạn thanh toán trong hợp đồng với người bán.

Thứ hai, BTT được mở rộng không chỉ trong việc mua lại “các khoản phải thu”
GVHD: Ths. Lê Huỳnh Phương Chinh

8

SVTH: Đỗ Ngọc Lan Phương


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật vê hoạt động bao thanh toán- Thực trạng và giải pháp

đơn vị BTT có mức rủi ro cao hơn so với việc các TCTD mua lại “các khoản phải thu”
do người bán bán ra. Do khi làm thủ tục xin tài trợ BTT, có thể suy đoán người mua
đang ở trong tinh trạng nào mới thực hiện việc xin cấp tín dụng vào thời điểm các
khoản nợ chưa đến hạn thanh toán. Việc thẩm định tình hình sản xuất kinh doanh, tình
hình nợ, khả năng thanh toán của bên mua có thể cho kết quả là không ổn định. Và vì
thế việc mua lại “các khoản phải trả” càn mức độ tin cậy đối với khách hàng nhiều hơn
là mua lại “các khoản phải thu”.


Thứ ba, là quy định về việc “có bảo lưu quyền truy đòi”. Quyền truy đòi không
được nhắc đến ừong định nghĩa về BTT trong Quy chế hoạt động BTT. Tuy nhiên,
việc truy đòi hay miễn truy đòi lại được nhắc đến trong các loại hình BTT (Điều 11
Quy chế hoạt động BTT). “Truy đòi” là việc bên bán hàng phải hoàn trả lại theo yêu
cầu của TCTD số tiền mà TCTD đã chuyển giao như thỏa thuận trong họp đồng BTT
do các điều khoản trong họp đồng mà theo đó các TCTD được quyền đòi lại các khoản
đã bỏ ra. Có thể hiểu rằng việc truy đòi là dấu hiệu ngầm trong khái niệm BTT quy
định trong Quy chế hoạt động BTT. Do rủi ro lớn nhất của hoạt động BTT là việc bên
mua hàng trì hoãn việc thanh toán hoặc mất đi khả năng thanh toán, đặc biệt là đối với
BTT miễn truy đòi. Nên để giảm thiểu rủi ro trên các TCTD phải cẩn trọng khi xem
xét đến việc có nên ký họp đồng BTT với khách hàng hay không. Điều đó lại còn tùy
thuộc vào nghiệp vụ, kỹ thuật chuyên ngành, kinh nghiệm.. .của thành viên các TCTD
thực hiện nghiệp vụ BTT. Và để tạo cơ sở pháp lý vững vàng hơn cho hoạt động BTT,
định nghĩa về BTT trong Luật Các tổ chức tín dụng 2010 đã đề cập đến điều được
ngầm hiểu trong khái niệm BTT quy định tại Điều 2 Quy chế hoạt động BTT. Tuy
nhiên điều đó không có nghĩa là hoạt động BTT nhất định và luôn luôn phải được thực
hiện dưới hình thức “BTT có quyền truy đòi”. Việc “truy đòi” hay “miễn truy đòi” là
do thỏa thuận của các bên trong họp đồng BTT. Xét đến các yếu tố rủi ro mà TCTD có
thể gặp phải, có thể nhận thấy, khi mua “các khoản phải thu”, cùng với việc ứng tiền
cho người bán và thu tiền người mua khi đến hạn thanh toán thì có thể áp dụng một
trong hai hình thức BTT trên. Tuy nhiên, đối với việc cấp tín dụng cho người mua
thông qua việc mua lại “các khoản phải trả” thì rõ ràng TCTD chỉ có thể ký kết họp
đồng với quyền truy đòi, nếu như muốn đảm bảo sự an toàn cho đồng vốn đã bỏ ra.

Mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau nhưng tất cả đều hướng về bản chất
của hoạt động BTT - sự chuyển nhượng quyền đòi nợ. Khoản nợ từ họp đồng của
GVHD: Ths. Lê Huỳnh Phương Chinh

9


SVTH: Đỗ Ngọc Lan Phương


6

Điều 4 Quy chế hoạt động BTT của tổ
06/9/2004, Luận văn tốt nghiệpđược sửa đổi, bổ
NHNN
của Thống
hàng Nhà

chức

tín

dụng

ban

hành

theo

Quyết

định

1096/2004/QĐ-NHNN ngày
sung
bởi

Quyết
định
Pháp luật vê hoạt động bao thanh toán- Thực trạng và giải pháp
30/2008/QĐngày
16/10/2008
đốc
Ngân
nước.

nghiệp, “là khoản tiền bên bản hàng hóa, cung ứng dịch vụ phải thu từ bên mua hàng
hóa, sử dụng dịch vụ theo hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ ” 6. Tương tự
vậy, các khoản phải trả là tài sản nợ của doanh nghiệp, được tính dựa trên các khoản
nợ, các giao dịch chưa thanh toán hoặc bất cứ nghĩa vụ tiền tệ liên quan trực tiếp đến
hợp đồng. Các chứng từ thương mại liên quan đến giao dịch giữa người mua và người
bán được xem là căn cứ để xác định sự tồn tại pháp lý và giá trị kinh tế của các khoản
phải thu và phải trả. Thông thường các loại chứng từ này bao gồm: chứng từ hàng hóa
(ví dụ: hỏa đơn bán hàng, hóa đơn vận tải...), chứng từ tài chính (ví dụ: hối phiếu, lệnh
phiếu...) và có thể là các sổ sách kế toán có liên quan. Hoạt động BTT gắn liền với
việc chuyển giao cho đơn vị BTT các chứng từ chứng minh các khoản phải thu và phải
trả này. Xét một giao dịch thực tế thì bên bán hàng là bên ghi nhận chứng từ một cách
rõ ràng và cụ thể nhất. Vì đó là cơ sở đảm bảo họ có thể đòi lại những khoản nợ đến
hạn và mặt khác là nhằm tránh những ừanh chấp không đáng có. Do vậy, bên bán
hàng sẽ là chủ thể thực hiện việc chuyển giao này.
1.3Đặc điểm của hoạt động BTT theo quy định của pháp luật Việt Nam
BTT mang một số các đặc điểm nổi bật sau:

- BTT là một hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng hoặc bên mua hàng. Theo
Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 thì cấp tín dụng được hiểu “là việc thỏa
thuận để tổ chức, cả nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử
dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết

khẩu, cho thuê tài chỉnh, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ
cấp tín dụng khác BTT là một nội dung của hoạt động cấp tín dụng nên chỉ
các TCTD (sau khi đáp ứng được các yêu cầu do pháp luật quy định và được sự
chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước) mới có quyền thực hiện nghiệp vụ BTT.
Theo đó, TCTD chuyển tiếp một khoản tiền nhất định theo như thỏa thuận cho
khách hàng và được “hoàn trả” bằng khoản phải thu trong họp đồng mua bán
hàng hỏa, cung ứng dịch vụ mà khách hàng này đã xác lập trước đó với một chủ
thể khác. Hay nói cách khác, TCTD sử dụng nguồn vốn từ hoạt động kinh
doanh của mình để mua lại các khoản phải thu từ bên bán hàng và sẽ được thu
hồi lại khi bên mua hàng thanh toán. Khoản tiền ứng trước này sẽ thấp hơn giá
trị thực tế của các khoản phải thu. Phàn chênh lệch này chính là phí và lãi tín
dụng. Như thế, “nguyên tắc hoàn trả” của hoạt động cấp tín dụng có thể được

GVHD: Ths. Lê Huỳnh Phương Chinh

10

SVTH: Đỗ Ngọc Lan Phương


7

Khoản 5 Điều 19 Quy chế hoạt động BTT của tổ chức tín dụng ban hành kèm Quyết
NHNN
Luận văn tốt nghiệpngày 06/9/2004,Pháp luật vê hoạt động bao thanh toán- Thực trạng và giải phápđược sửa
định
ngày
đốc Ngân

-


định 1096/2004/QĐđổi, bổ sung bởi Quyết
30/2008/QĐ-NHNN
16/10/2008 của Thống
hàng Nhà nước

BTT mang bản chất là hình thức cấp tín dụng ngắn hạn. TCTD chỉ được cấp tín
dụng BTT nếu thời gian còn lại của các khoản phải thu tính từ thời điểm BTT
không quá 180 ngày7. Quy định này nhằm đảm bảo khả năng quản lý của
TCTD đối với các khoản phải thu. Tưomg tự vậy, có thể áp dụng khoản thời
gian trên đối với các khoản phải trả.

-

Hoạt động BTT dựa trên quan hệ về mua bán quyển tài sản là quyển đòi nợ.
Đây là dấu hiệu để phân biệt hoạt động BTT và các hình thức cấp tín dụng
khác. Do quyền đòi nợ là một loại tài sản được xác định từ một giao dịch
thưomg mại cụ thể nên khi thực hiện hoạt động BTT, tổ chức tín dụng phải tiến
hành phân tích toàn diện và trực tiếp các giao dịch làm phát sinh các khoản phải

thu, tình hình tài chính và hoạt động của cả bên bán hàng và bên mua hàng.
1.4 Vai trò của hoạt động BTT

BTT mang lại nhiều lợi ích cho các bên trong quá trình thanh toán. Cụ thể:
1.4.1. Đổi với bên bán hàng, cung ứng dịch vụ

Thứ nhất, bên bán được giải quyết nhu cầu về vốn, do được cung cấp nguồn tài
chính để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn bao giờ cũng là vấn đề
chiếm trọn sự quan tâm của các doanh nghiệp. Trong giao dịch mua bán hàng hóa, một
trong những trăn trở của bên bán là làm sao có thể nhận được tiền nhanh chóng để có

thể tiếp tục quay vòng vốn kinh doanh. Với BTT người bán có thể thu tiền ngay thay
vì phải đợi đến kì hạn mới được thanh toán theo họp đồng. Hoạt động BTT giúp người
bán lấp được lỗ hổng thiếu hụt tiền mặt trong khoảng thời gian từ khi giao hàng đến
khi được người mua thanh toán. Nhờ sử dụng được các khoản ứng trước mà nguồn
vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh doanh được tăng lên góp phần thúc đẩy hoạt
động sản xuất kinh doanh phát triển.

Thứ hai, các khoản nợ xấu có thể được loại trừ. Không một doanh nghiệp nào
có thể tránh khỏi những khoản nợ, được xem là một yếu tố tất nhiên trong hoạt động
kinh doanh thường nhật. Rất nhiều doanh nghiệp đang phải đối mặt với những rủi ro

GVHD: Ths. Lê Huỳnh Phương Chinh

11

SVTH: Đỗ Ngọc Lan Phương


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật vê hoạt động bao thanh toán- Thực trạng và giải pháp

kinh doanh nhanh nhẹn, gọn gàng mà vẫn đảm bảo đạt được hiệu quả tốt nhất luôn
được đánh giá cao và thu hút được nhiều khách hàng hom. Như vậy, BTT tạo được
nhiều lợi thế trong kinh doanh cho doanh nghiệp bằng việc giúp doanh nghiệp khẳng
định được vị thế, nâng cao sức ảnh hưởng và uy tín của mình trên thưcmg trường; tăng
lợi thế cạnh ừanh khi chào hàng với các điều khoản thanh toán trả chậm mà không ảnh
hưởng đến nguồn vốn kinh doanh của minh.

Thủ năm, được sự tư vấn của tổ chức BTT, doanh nghiệp có thể hạn chế được

rủi ro trong kinh doanh đặc biệt là trong giao thưomg với các đối tác nước ngoài.
1.4.2 Đổi với bên mua hàng, sử dụng dịch vụ

Thứ nhất, do được đơn vị BTT ứng vốn trước nên bên mua có thể mua chịu
hàng một cách dễ dàng bên cạnh đó có thể tăng sức mua, tìm kiếm thêm lợi nhuận
đồng thời cũng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.

Thứ hai, ừong tài trợ thương mại thì phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
L/C (Letter of Credit) được xem là phương thức thông dụng nhất. Trong phương thức
này, nhà xuất khẩu (bên bán) yêu cầu nhà nhập khẩu (bên mua) tiến hành thủ tục mở
L/C tại một ngân hàng với các điều kiện đã thỏa thuận. Thủ tục mở L/C cho khách
hàng được xem là một hình thức tài trợ cho doanh ngiệp vì khi ngân hàng đồng ý mở
L/C cho bên mua hàng bao hàm trong đó là sự cam kết thanh toán cho người hưởng
lợi L/C. Ngân hàng sẽ gánh chịu rủi ro nếu bên mua không có khả năng thanh toán.
Trong hoạt động BTT, bên mua nhờ sự đảm bảo tài chính của TCTD bằng một khoản
ứng trước cho bên bán mà không phải mở L/C; đồng nghĩa với việc giảm được gánh
nặng tài chính khi không phải bỏ ra một khoản tiền cho việc mở L/C nhằm đảm bảo
khả năng thanh toán.

Thủ ba, giảm được thời gian, chi phí quản lý sổ sách kế toán và quản lý các
khoản nợ. Do chức năng quản trị sổ sách của nghiệp vụ BTT, đơn vị BTT sẽ là chủ
thể thực hiện việc quản lý các khoản nợ, theo sát tình hình kinh doanh của bên mua,
thông báo cho bên mua hàng về tình trạng của sổ quản lý, thời hạn thanh toán.. .Theo
đó, bên mua hàng sẽ có thể tiết kiệm các khoản về nhân sự, tiết kiệm thời gian khi thực
GVHD: Ths. Lê Huỳnh Phương Chinh

12

SVTH: Đỗ Ngọc Lan Phương



Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về hoạt động bao thanh toán- Thực trạng và giải pháp

với các TCTD, việc gia tăng nguồn vốn luôn luôn mang đến những cơ hội hợp tác kinh
doanh khác, từ đó mang lại nhiều hơn doanh thu cũng như là lợi nhuận.

Thủ hai, BTT góp phần đa dạng hỏa các sản phẩm dịch vụ của các đơn vị BTT.
Với các ngân hàng thương mại thì việc đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng là một vấn
đề quan trọng. TCTD có nhiều dịch vụ sẽ tạo thêm nhiều sự lựa chọn cho khách hàng,
từ đó có thể tìm kiếm nhiều nguồn thu hơn. Bên cạnh đó, TCTD còn có thể nâng cao
hình ảnh thương hiệu của mình, mở rộng phạm vi ảnh hưởng, tăng ưu thế cạnh tranh.

Thứ ba, đơn vị BTT khi thực hiện nghiệp vụ này có thể lưu giữ sổ sách, xem
xét tình hình hoạt động kinh doanh và khả năng tài chính của khách hàng đồng thời là
tiến hành thu nợ. Thực hiện BTT, các TCTD có thể theo dõi hoạt động kinh doanh của
khách hàng, bên cạnh đó có thể tiếp cận những khách hàng tiềm năng trong tương lai
thông qua những khách hàng cũ.
1.5 Phân loại BTT
1.5.1 Căn củ vào phạm vi lãnh thố

BTT được phân thành 02 loại: BTT ừong nước và BTT quốc tế

-

BTT trong nước: (hay Factoring nội địa, Domestic Factoring) là factoring chỉ
giới hạn trong biên giới một quốc gia, dựa trên hợp đồng mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ trong đó bên bán hàng và bên mua hàng là người cư trú theo
quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối. (Khoản 2 Điều 4 Quy chế hoạt

động BTT)

-

BTT quốc tế: (BTT xuất - nhập khẩu, Intemational Factoring) là BTT liên quan
đến ít nhất hai quốc gia khác nhau, dựa trên hợp đồng xuất nhập khẩu. (Khoản 3
Điều 4 Quy chế hoạt động BTT)

Điểm khác biệt giữa hai loại BTT này là khả năng có sự tham gia của hai đơn vị

GVHD: Ths. Lê Huỳnh Phương Chinh

13

SVTH: Đỗ Ngọc Lan Phương


8

Điều 12 Quy chế hoạt động BTT của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN ngày
06/9/2004, Luận văn tốt nghiệpđược sửa đổi, bổ
sung bởi Quyết định 30/2008/QĐPháp luật vê hoạt động bao thanh toán- Thực trạng và giải pháp
NHNN
ngày 16/10/2008 của
Thống đốc
Ngân
hàng Nhà
nước.

Theo phương thức này mọi rủi ro nếu xảy ra đều do đơn vị BTT gánh lấy.

Chính vì thế mà phương thức miễn truy đòi chỉ được sử dụng khi đơn vị BTT thẩm
định và đánh giá khách hàng với độ tin cậy cao.

-

BTT có quyền truy đòi: (with recourse/ recourse factoring) : Theo phương thức
này đơn vị BTT sẽ truy đòi số tiền đã chuyển giao cho người bán do người mua
mất khả năng thanh toán. Cụ thể: “đơn vị BTT có quyền đòi lại số tiền đã ứng
trước cho bên bản hàng, cung ủng dịch vụ khi bên mua hàng, sử dụng dịch vụ
không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán”. (Điểm a khoản 1 Điều 11
Quy chế hoạt động BTT)

Do những rủi ro mà BTT miễn truy đòi có thể gặp phải, các TCTD thường áp
dụng mức phí và lãi suất khi thực hiện phương thức này cao hơn là phương thức BTT
có quyền truy đòi.
1.5.3 Căn củ vào phương thức BTT

Theo phương thức thực hiện nghiệp vụ thì BTT được chia thành:

-

BTT từng làn: Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng, cung ứng dịch vụ thực
hiện các thủ tục cần thiết và ký họp đồng bao thanh toán đối với các khoản phải
thu của bên bán hàng, sử dụng dịch vụ.

-

BTT hạn mức: Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng, cung ứng dịch vụ thoả
thuận và xác định một hạn mức bao thanh toán duy trì trong một khoảng thời
gian nhất định.


-

Đồng BTT: Hai hay nhiều đơn vị bao thanh toán cùng thực hiện hoạt động bao
thanh toán cho một họp đồng mua, bán hàng, cung ứng dịch vụ trong đó một
đơn vị bao thanh toán làm đầu mối thực hiện việc tổ chức đồng bao thanh toán8

GVHD: Ths. Lê Huỳnh Phương Chinh

14

SVTH: Đỗ Ngọc Lan Phương


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật vê hoạt động bao thanh toán- Thực trạng và giải pháp

Bảo lãnh ngân hàng trong Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành theo Quyết
định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/06/2006 của Ngân hàng Nhà nuớc Là cam kết
bằng văn bản của tố chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyển (bên nhận bảo
lãnh) vế việc thực hiện nghĩa vụ tài chinh thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh)
khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đủng nghĩa vụ đã cam kết với
bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tố chức tín dụng sổ tiền
đã được trả thay.

Như vậy, các bên liên quan trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng là:

-


Bên bảo lãnh: các ngân hàng, các TCTD được phép thực hiện nghiệp vụ bảo
lãnh ngân hàng.

-

Bên được bảo lãnh: các đom vị, tố chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước
(trừ một số cá thể được quy định tại Khoản 1 Điều 4 Quy chế bảo lãnh ngân

Stf đồ 1.1 Quan hệ giữa các bên trong quy trình bảo lãnh

(1) : Họp đồng dịch vụ bảo lãnh (ký kết giữa TCTD với khách hàng được bảo
lãnh).

(2) : Họp đồng bảo lãnh (ký kết giữa TCTD bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh- bên
có quyền).

(3) : Nghĩa vụ tài sản cần được bảo đảm (phát sinh giữa khách hàng được bảo
lãnh với bên nhận bảo lãnh - bên có quyền).

GVHD: Ths. Lê Huỳnh Phương Chinh

15

SVTH: Đỗ Ngọc Lan Phương


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật vê hoạt động bao thanh toán- Thực trạng và giải pháp


hàng. Vì lí do này, bảo lãnh thanh toán sẽ là sự đảm bảo thanh toán số hàng hóa cho
người bán hàng nếu người mua không thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình khi đến
hạn. Số tiền bảo lãnh thanh toán thường chính là giá trị hàng hóa và số phí phải trả cho
số ngày kéo dài thêm vì đòi bồi thường.

Theo đó, có thể thấy BTT và bảo lãnh thanh toán có một số nét giống nhau:

-

Đều là những hình thức cấp tín dụng, một nghiệp vụ của các TCTD được thực
hiện bằng kỹ thuật chuyên môn nghiệp vụ nhằm đảm bảo sự an toàn cho các
đồng vốn mình bỏ ra khi chấp nhận đóng vai trò người sẽ trả các khoản nợ tài
chính của khách hàng.

-

Đều gắn liền với một giao dịch cụ thể giữa hai chủ thể. Đối với bảo lãnh thanh
toán thì hai chủ thể này sẽ tuông tự như BTT: người bán, người thụ hưởng và
người mua, người có nghĩa vụ thanh toán.

-

Đều là những công cụ mang tính chất tài trợ. Nhu cầu về vốn đối với hoạt động
kinh tế là một vấn đề cầp thiết, đặc biệt là trong họp đồng có giá trị lớn, thời
gian kéo dài thi khả năng về vốn càng trở nên bức thiết. Khi đó, sự xuất hiện
của BTT và bảo lãnh ngân hàng mà cụ thể là bảo lãnh thanh toán là một sự hỗ
trợ rất lớn.

-


Khi BTT được thực hiện dưới dạng mua lại các khoản phải trả, người mua phải
nhận nợ và hoàn trả lại số tiền mà đom vị BTT đã thực hiện chi trả thay cho
mình, giống như bảo lãnh ngân hàng khi thực hiện nghĩa vụ thay cho khách
hàng và được khách hàng hoàn trả theo thỏa thuận.

Cả hai hoạt động BTT và bảo lãnh thanh toán đều có cũng bản chất là cung cấp
cho khách hàng một khoản tín dụng nhất định. Song với những đặc trưng riêng của
mình, BTT và bảo lãnh thanh toán vẫn có những điểm khác biệt cơ bản.

GVHD: Ths. Lê Huỳnh Phương Chinh

16

SVTH: Đỗ Ngọc Lan Phương


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật vê hoạt động bao thanh toán- Thực trạng và giải pháp

Thứ hai, BTT và bảo lãnh thanh toán còn khác nhau về chủ thể được cấp tín
dụng. Tùy vào từng loại hình bảo lãnh ngân hàng mà có thể có các đối tượng khách
hàng khác nhau. Ví dụ: đối với bảo lãnh vay vốn, đối tượng là các doanh nghiệp, tổ
chức và cá nhân có nhu càu vay vốn trong và ngoài nước; đối với bảo lãnh hoàn trả
tiền đặt cọc thì đối tượng là người bán trong họp đồng thưomg mại.. .Và đối tượng của
bảo lãnh thanh toán chính là người mua, người có nghĩa vụ trả tiền trong giao dịch
thưomg mại. Nghiệp vụ BTT được quy định trong Luật Các tổ chức tín dụng 2010 là
hình thức cẩp tín dụng cho bên bán hàng hoặc bên mua hàng.

Thứ ba, mức tài trợ của hai hình thức cấp tín dụng này cũng có điểm khác nhau.

Đơn vị BTT khi mua lại các khoản nợ thì thường với mức giá thấp hom giá trị của
khoản nợ đó. Lợi nhuận phát sinh từ sự chênh lệch giữa tiền thu được của số nợ đã
mua và giá mua thực tế của món nợ đó. Nói cách khác, khi cấp tín dụng cho người
bán, giá trị bao giờ cũng nhỏ hơn giá trị các khoản thu. Ngược lại, với bảo lãnh thanh
toán, khi thực hiện chi trả cho bên có quyền, TCTD thông thường phải chấp nhận số
tiền là toàn bộ giá trị họp đồng.

Thứ tư, sự khác biệt giữa BTT và bảo lãnh thanh toán còn thể hiện ở quan hệ
họp đồng khi thực hiện nghiệp vụ. Mặc dù ở hai hình thức cấp tín dụng trên đều tồn tại
ít nhất ba chủ thể: TCTD; bên bán, bên có quyền; bên mua, bên có nghĩa vụ thanh toán
nhưng về quan hệ họp đồng thì có sự khác nhau. Trong bảo lãnh thanh toán thường tồn
tại hai mối quan hệ pháp luật như sau: một là, quan hệ hợp đồng dịch vụ bảo lãnh
(phát sinh giữa TCTD với khách hàng được bảo lãnh); hai là, quan hệ họp đồng bảo
lãnh (phát sinh giữa TCTD bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh - bên có quyền). Còn đối
với BTT, chỉ tồn tại họp đồng BTT giữa TCTD (bên tài trợ) và bên bán hoặc bên mua
(bên được tài trợ). TCTD tiếp đó chỉ việc thực hiện việc thông báo cho bên còn lại
trong họp đồng thương mại mà không cần phải ký thêm một họp đồng nào khác.

Thứ năm, về khả năng bảo hiểm đối với rủi ro, TCTD mặc nhiên có quyền truy
đòi người mua, bên cỏ nghĩa vụ thanh toán các khoản đã ừả cho người bán. Còn đối
với hoạt động BTT, TCTD có thể truy đòi hoặc không, tùy thuộc vào đây là họp đồng

GVHD: Ths. Lê Huỳnh Phương Chinh

17

SVTH: Đỗ Ngọc Lan Phương


9


Nguyễn
gia

Đăng

Dờn,

Nghiệp

vụ

ngân

Luận văn tốt nghiệpTP.HCM,

hàng
2009,

thương

mại,

Trường

Đại

học

kinh


tế

TP.HCM, NXB
trang 108.

Pháp luật vê hoạt động bao thanh toán- Thực trạng và giải pháp

1.6.2 Phân biệt BTT và chiết khẩu giấy tờ có giá

Trong đời sống kinh tế, nhiều chủ thể được pháp luật cho phép phát hành các
giấy tờ cỏ giá để huy động vốn. Ví dụ: công ty cổ phần được quyền phát hành cổ
phiếu, trái phiếu; ngân hàng thưomg mại có thể phát hành chứng chỉ tiền gửi; thưcmg
nhân có quyền phát hành hối phiếu...Theo Khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam 2010 thì giấy tờ có giá là “bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tố
chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giả trong một thời hạn nhất
định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”.

Theo đó, kể từ khi xác lập quyền sở hữu đối với giấy tờ có giá, chủ sở hữu cần
phải chờ đến hạn thanh toán mới thu hồi được lượng tiền đã bỏ ra. Tuy nhiên, có một
giải pháp khác có thể nhanh chóng thu hồi đó là chuyển nhượng quyền sở hữu giấy tờ
có giá cho chủ thể khác trước hạn thanh toán. Nếu bên mua giấy tờ có giá là TCTD thì
được gọi là cấp tín dụng bằng hình thức chiết khấu giấy tờ có giá.
Chiết khấu theo Luật Các tổ chức tín dụng 2010 là “việc mua có kỳ hạn hoặc
mua cỏ bảo lim quyền truy đòi các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của
người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán ”

Phần bài này, người viết chỉ đề cập đến chiết khấu hối phiếu, hình thành dựa
trên quan hệ thưomg mại. Như đã biết, trong kinh doanh, việc mua bán chịu giữa các
đối tác gần như đã trở thành một “thói quen thưcmg mại”. Một mặt nó thúc đẩy quá

trình mua bán. Mặt khác, lại tạo một gánh nặng về vốn ngắn hạn đối với ngưới bán.
Kết quả của quá trình mua bán chịu là giá trị các khoản phải thu đang dần trở thành
những tồn đọng nợ khó đòi. Để giải quyết tình trạng trên, giá trị của các khoản phải
thu có thể được ký phát thành một hối phiếu đòi nợ (sau đây gọi tắt là hối phiếu) do
người bán lập ra để lệnh cho người mua phải ừả tiền cho người thụ hưởng theo một số
tiền và thời hạn nhất định với mệnh giá cụ thể; hoặc tồn tại dưới những hóa đơn khác
nhau tập họp thành một bộ chứng từ chứng minh mối quan hệ nợ nần giữa các đối tác
kinh doanh.

GVHD: Ths. Lê Huỳnh Phương Chinh

18

SVTH: Đỗ Ngọc Lan Phương

Đại

học

quốc


10

Nguyễn
gia

Đăng

Dờn,


Nghiệp

vụ

ngân hàng thương mại, Trường Đại học kinh tế TP.HCM, NXB
2009,Pháp luật về hoạt động bao thanh toán- Thực trạng và giải pháptrang 108.

Luận văn tốt nghiệpTP.HCM,

Stf đồ 1.2 Quy trình chiết khấu hối phiếu10
Ngân hàng chiết khấu

Thanh

Người thụ hưởng
hối phiếu

(4)
<

Chứng từ + Hối phiếu

Chuyển
nhượng
quyền hưởng lợi

0)

(1) Ký phát hối phiếu


(2) Chấp nhận và gửi hối phiếu

(3) Chiết khấu hối phiếu

(4) Thanh toán hối phiếu

Theo đó, ta thấy được những khác biệt cơ bản giữa chiết khấu hối phiếu và bao
thanh toán:
về đối tượng:

Chiết khấu hối phiếu có đối tượng là hối phiếu đòi nợ, do người ký phát lập, yêu
cầu người bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một
thời gian nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng. Trong khi đó, đối tượng
của BTT là các hóa đơn chứng tỏ quan hệ tín dụng thương mại giữa người bán và

GVHD: Ths. Lê Huỳnh Phương Chinh

19

SVTH: Đỗ Ngọc Lan Phương

Đại

học

quốc



×