Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngay từ thời La Mã cổ đại (thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên) các nhà luật học đã
khẳng định rằng: ở đâu có pháp luật, ở đó phải có Tòa án để bảo vệ pháp luật. Ở nước
ta, Tòa án nhân dân là một trong bốn hệ thống cơ quan cấu thành bộ máy nhà nước,
hoạt động của Tòa án là hình thức thực hiện một trong ba loại quyền lực nhà nước đó
là: quyền tư pháp.
Là cơ quan xét xử, Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án quân sự nói riêng đều có
nhiệm vụ “bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền
làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài
sản, tự do danh dự và nhân phẩm của công dân”. Bằng hoạt động của mình, đã góp
phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật,
tôn trọng những nguyên tắc của cuộc sống, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm, các vi phạm pháp luật khác.
Theo quy định tại Điều 127 Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung 2001, Luật tổ chức
Tòa án nhân dân 2002 và Pháp lệnh Tổ chức Tòa án quân sự năm 2002 quy định: “Tòa
án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án
khác do luật định” là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Như vậy, Tòa án nói chung vụ án Tòa án quân sự nói riêng là cơ quan duy nhất thực
hiện chức năng xét xử và chỉ có Tòa án mới có quyền này.
Xét xử là một hình thức thực hiện quyền lực nhà nước, thể hiện ý chí nhà nước,
hoạt động xét xử nhân danh Nhà nước và căn cứ vào pháp luật để đưa ra một phán
quyết về một vụ việc củ thể thuộc các lĩnh vực hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
tế, lao động, hành chính…
Hoạt động xét xử của Tòa án quân sự có vai trò quan trọng nhằm bảo đảm sự ổn
định của trật tự pháp luật, việc giữ vững kỷ cương của xã hội, sự tự do và an Tòa n của
con người…Bằng việc xét xử nghiêm minh chẳng những có tác dụng trừng trị, răn đe,
giáo dục mà còn góp phần ngăn chặn, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật trong
xã hội.
Theo tinh thần của Nghị quyết 48 – NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020 và Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 2/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 thì, Việt Nam đang tiến hành công cuộc đổi mới đất nước và thực hiện tiến
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân hoàn
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 1
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
cảnh đó vai trò và vị trí của công tác tư pháp trong đó có những yêu cầu về đổi mới tổ
chức và hoạt động của Tòa án ngày càng được chú trọng hơn. Kế thừa tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền, về tư tưởng “phụng công, thủ pháp,
chí công, vô tư” với phương châm “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”. Việc nghiên
cứu Phiên Tòa xét xử vụ án hình sự nói chung và Phiên Tòa xét xử vụ án hình sự của
Tòa án quân sự nói riêng có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình cải cách tư
pháp mà lấy Tòa án làm trung tâm như hiện nay. Bởi vì, tại Phiên Tòa xét xử vụ án hình
sự mọi tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án đều được đưa ra xem xét công khai thông
qua việc xét hỏi và tranh luận; tại phiên Tòa sẽ diễn ra dưới hình thức tranh tụng giữa
bên buộc tội (đại diện Viện kiểm sát là Kiểm sát viên) và bên gỡ tội (Luật sư bào chữa
và người bảo vệ quyền lợi của đương sự) trước Tòa án (Thẩm phán và Hội thẩm) là
trọng tài phân xử. Đồng thời người tham gia tố tụng được trình bày quan điểm của mình
thể hiện tính dân chủ. Từ đó thấy được ưu và nhược điểm và đưa ra hướng giải quyết
kịp thời và đúng đắn.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài “Phiên Tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án
quân sự” sẽ giúp cho người đọc biết được:
Tòa án quân sự cũng giống như Tòa án nhân dân khi xét xử vụ án hình sự đều
theo trình tự, thủ tục của Bộ luật tố tụng hình sự 2003
Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự điều có chức năng xét xử các vụ án hình sự,
nhưng sự khác biệt cơ bản là Tòa án quân sự mang nét đặc thù của Quân đội và chỉ xét
xử đối tượng là quân nhân phạm tội, người ngoài quân đội phạm tội
Như chúng ta đã biết Tòa án có chức năng duy nhất là xét xử, Tòa án nhân dân
cũng như Tòa án quân sự điều có chức năng xét xử các vụ án hình sự. Vần đế tác giả
muốn đặt ra là tại sao chúng ta không nhập chung hai Tòa án quân sự vào Tòa án nhân
dân thành một hoặc với cơ cấu Tòa án như hiện nay không cần sự tồn tại của Tòa án
quân sự? Một vấn đề dễ nhận thấy đó là hệ thống Quân đội nhân dân Việt Nam được
phân đều trong cả nước với nhiệm vụ vô cùng quan trọng là bảo vệ Tổ quốc; chống lại
các thế lực thù địch và nếu có chiến tranh lực lượng này sẽ đi đầu. Bên cạnh đó công
nhân, viên chức làm việc trong Quân đội được hưởng chế độ cao hơn những người bên
ngoài nhưng trách nhiệm cao, công việc nhiều. Do đó, khi quân nhân pham tội, Tòa án
nhân dân xét xử liệu bảo đảm quyền và lợi ích của họ so với những công hiến lớn lao
cho quê hương đất nước.
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 2
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
3. Phạm vi nghiên cứu
Quá trình giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn khác nhau: Khởi tố,
Điều tra, Truy tố, Xét xử và Thi hành án. Trong đó có thể nói việc xét xử vụ án hình sự
đóng vai trò quan trọng. Trong phạm vi nghiên cứu của bài Luận văn tác giả chủ yếu đi
sâu nghiên cứu “Phần Xét xử”. Cụ thể là: “Phiên Tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
của Tòa án quân sự”. Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn xét xử đầu
tiên của quá trình xét xử, lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử công khai, Tòa n diện tất cả bị
cáo với những hành vi mà Viện kiểm sát truy tố. Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, Tòa án
phải xem xét Tòa n diện hồ sơ vụ án với tổng thể những hành vi thực hiện vụ án, những
hành vi tố tụng của người tham gia tố tụng, của người tiến hành tố tụng, những yếu tố
cấu thành tội phạm, các tình tiết có liên quan đến việc giải quyết đúng đắn, khách quan
vụ án.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài: “Phiên Tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án
quân sự” tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Dựa vào cơ sở khoa học
pháp lý và những nội dung lý luận về luật học; phân tích câu chữ để tìm hiểu quy định
của pháp luật hiện hành; phương pháp so sánh để làm sáng tỏ sự giống và khác nhau
giữa Phiên Tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án quân sự và Tòa án nhân dân;
sử dụng các phương pháp tìm kiếm tài liệu….Bên cạnh đó các thông tin được sử dụng
trong Luận văn được thu thập thông qua việc tác giả đi thực tập thực tế tại Tòa án quân
sự khu vực 2 - Quân khu 9, từ đó chọn lọc ra các vần đề có liên quan đến đề tài.
5. Kết cấu của đề tài
Kết cấu đề tài Luận văn “Phiên Tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án
quân sự” thể hiện ở ba chương:
Chương 1: Khái quát chung về Tòa án quân sự. Trong đó nêu lên vị trí pháp lý,
chức năng của Tòa án quân sự; Cơ cấu tổ chức của Tòa án quân sự từ trung ương đến
địa phương.
Chương 2: Phiên Tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án quân sự. Trong
đó phân tích cụ thể diễn biến của Phiên Tòa xét xử vụ án hình sự của Tòa án quân sự từ
khai mạc phiên Tòa , xét hỏi tại phiên Tòa, tranh luận tại phiên Tòa và cuối cùng là
nghị án và tuyên án.
Chương 3: Thực trạng xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự, những vướng mắt vụ
án đề xuất hướng giải quyết của tác giả.
Đây là đề tài khá rộng và còn nhiều vấn đề đang tranh cải, chưa thống nhất về
quan điểm, hệ thống pháp luật có liên quan. Cho nên việc nghiên cứu đề tài này không
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 3
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
thể tránh khỏi hạn chế, thiếu sót. Rất mong sự góp ý của Quý thầy cô và các bạn sinh
viên.
Chân thành cám ơn!
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 4
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TOÀ ÁN QUÂN SỰ HIỆN NAY
1.1 Vị trí pháp lý, vai trò của Toà án quân sự
Tư pháp là một khái niệm có nội dung phong phú. Dưới góc độ “thể chế nhà
nước” thì tư pháp là một phần hoạt động của nhà nước góp phần tạo nên chính thể nhà
nước, đối với các nhà nước tư sản khái niệm “tư pháp” dùng để chỉ hoạt động xét xử là
chính, còn đối với Nhà nước ta “tư pháp” dùng để chỉ hoạt động của các cơ quan tư
pháp gồm có Toà án, Viện kiểm sát, điều tra, thi hành án. Nhưng trong đó chủ yếu chỉ
hoạt động xét xử của Toà án và hoạt động giám sát của Viện kiểm sát.
Trong hệ thống tư pháp, Toà án giữ một vị trí đặc biệt. Bằng hoạt động của mình,
Toà án thể hiện vai trò quan trọng trong việc giữ gìn, bảo đảm công lý, bảo vệ pháp luật
và quyền lợi của công dân.
Để thực hiện vai trò này, Toà án là cơ quan duy nhất được Hiến pháp giao cho
nhiệm vụ xét xử các vụ tranh chấp trong những hoạt động của xã hội dựa trên cơ sở của
pháp luật. Điều 127 Hiến pháp 1992 quy định: “Toà án nhân dân tối cao, các Toà án
nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ
quan xét xử của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong tình hình đặc biệt,
Quốc hội có thể thành lập Toà án đặc biệt”.
Theo Điều 1 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì: “Các Toà án quân
sự là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc hệ
thống Toà án nhân dân được tổ chức trong quân đội”
Ngoài việc quy định một cách dứt khoát là hoạt động xét xử chỉ giao cho Toà án,
Hiến pháp còn quy định rõ các loại Toà án được thành lập: Toà án nhân dân tối cao,
Toà án nhân dân địa phương, Toà án quân sự, các Toà án nhân dân theo quy định của
Quốc hội bằng một đạo luật. Quy định này chứng tỏ tầm quan trọng của hoạt động xét
xử, việc thành lập các Toà án đều phải do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất quyết
định.
Cụ thể hóa nguyên tắc hiến định nêu trên, Điều 1 Luật tổ chức Toà án nhân dân
2002 quy định: “Toà án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao
động, kinh tế và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật”
1.2 Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Toà án quân sự
1.2.1 Chức năng, nhiệm vụ của Toà án quân sự
Nói đến chức năng của Toà án quân sự cũng như các cơ quan nhà nước khác là
xác định những phương hướng hoạt động chủ yếu của cơ quan nhà nước đó. Đối với
Toà án nhân dân nói chung và Toà án quân sự nói riêng có nhiều hoạt động khác nhau
nhưng hoạt động chủ yếu là “xét xử”. Xét xử là chức năng của Toà án được quy định
tại Điều 127 Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001, Quốc hội quy định:
“Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các
Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam”. Như vậy, các Toà án là cơ quan xét xử và chỉ có Toà án mới có quyền xét
xử.
Do vậy, có thể gọi các Toà án là cơ quan xét xử những vụ án hình sự, những vụ án
dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình và những vụ án khác theo quy định của pháp
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 5
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
luật. Nhưng đối với các Toà án quân sự chỉ xét xử những vụ án hình sự được quy định
tại Bộ luật Hình sự 1999.
Trong phạm vi chức năng của mình, các Tòa án quân sự có nhiệm vụ bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân;
bảo vệ an ninh quốc phòng, kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của Quân đội: bảo vệ tài sản
của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự, nhân
phẩm của quân nhân, công chức, công nhân quốc phòng và của các công dân khác.
Bằng hoạt động của mình, các Tòa án quân sự góp phần giáo dục quân nhân, công
chức, công nhân quốc phòng trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp
luật, điều lệnh của Quân đội, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.
1.2.Quyền hạn của Toà án quân sự
Theo quy định Luật tổ chức Toà án nhân dân 2002 thì: Trong phạm vi chức năng
của mình, Toà án có nghĩa vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của
nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do,
danh dự, nhân phẩm của công dân.
Quyền hạn của Toà án quân sự được quy định ở Điều 5 Pháp lệnh Tổ chức Toà án
quân sự năm 2002: “Bản án, quyết định của Tòa án quân sự đã có hiệu lực pháp luật
phải được các đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế và mọi
người tôn trọng.
Cá nhân, đơn vị, cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của
Tòa án quân sự phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Trong phạm vi chức năng của mình, các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi
hành bản án, quyết định của Tòa án quân sự phải nghiêm chỉnh thi hành và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ đó”.
1.3 Cơ cấu tổ chức của Toà án quân sự các cấp
Theo quy định của pháp luật hiện hành, hệ thống các cơ quan xét xử của Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm:
Toà án nhân dân tối cao
Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
Các Toà án quân sự (bao gồm: Toà án quân sự Trung ương; Các Toà án quân sự
quân khu và tương đương; Các Toà án quân sự khu vực).
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 6
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
Sơ đồ: Tổ chức Tòa án nhân dân nước CHXHCN Việt Nam1
Tổ chức và hoạt động của các Toà án nước ta hiện nay về cơ bản theo nguyên tắc
lãnh thổ kết hợp với thẩm quyền xét xử.
Ở mỗi đơn vị huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; ở mỗi tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương có một Toà án; mỗi khu vực, khu quân sự cũng có một Toà án; ở
Trung ương có Toà án nhân dân tối cao.
Theo quy định tại Điều 2 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự 2002 các Toà án
quân sự gồm có: “Toà án quân sự trung ương; Các Toà án quân sự quân khu và tương
đương; Các Toà án quân sự khu vực”.
1.3.1 Toà án quân sự trung ương
1.3.1.1 Nhiệm vụ quyền hạn của Toà án quân sự Trung ương
Theo quy định tại Điều 22 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì, Toà
án quân sự Trung ương có thẩm quyền xét xử: “Phúc thẩm những vụ án hình sự mà bản
án quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của các Toà án quân sự cấp dưới trực tiếp bị
kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng; Giám đốc thẩm, tái thẩm
những vụ án hình sự mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự
cấp dưới bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng.
Toà án quân sự Trung ương giám đốc việc xét xử của các Toà án quân sự cấp
dưới”.
1.3.1.2 Tổ chức và hoạt động của Toà án quân sự Trung ương
Theo quy định tại Điều 21 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì, Toà
án quân sự trung ương thuộc cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân tối cao.
Cơ cấu tổ chức của Toà án quân sự trung ương gồm có: Uỷ ban Thẩm phán Toà
án quân sự trung ương; Các Toà phúc thẩm Toà án quân sự trung ương; Bộ máy giúp
việc.
Toà án quân sự trung ương gồm có: Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm phán,
Thư ký Toà án.
Trong đó:
Theo khoản 1 Điều 23 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì, Ủy ban
Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương gồm có: Chánh án, các Phó Chánh án Tòa án
quân sự trung ương; Một số Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương được Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án quân sự trung ương.
1
/>
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 7
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
Tổng số thành viên Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương không quá bảy
người.
Theo khoản 2 Điều 23 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì, Ủy ban
Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Căn
cứ vào Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn cụ thể
việc áp dụng thống nhất pháp luật tại các Tòa án quân sự; Tổng kết kinh nghiệm xét xử
của các Tòa án quân sự; Thông qua báo cáo của Chánh án Tòa án quân sự trung ương
về công tác của các Tòa án quân sự để báo cáo với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Theo khoản 3 Điều 23 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì, Phiên
họp của Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương phải có ít nhất hai phần ba tổng
số các thành viên tham gia. Quyết định của Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung
ương phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành.
Theo Điều 24 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì, Chánh án Tòa án
quân sự trung ương có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Tổ chức công tác xét xử;
Chủ tọa các phiên họp của Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương; Kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa án
quân sự cấp dưới theo quy định của pháp luật tố tụng; Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ
cho Thẩm phán, Hội thẩm quân nhân và cán bộ của các Tòa án quân sự; Tổ chức việc
kiểm tra công tác của các Tòa án quân sự cấp dưới; Báo cáo công tác của các Tòa án
quân sự với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Thực
hiện các công tác khác theo quy định của pháp luật.
Phó Chánh án Tòa án quân sự trung ương giúp Chánh án làm nhiệm vụ theo sự
phân công của Chánh án. Khi Chánh án vắng mặt, một Phó Chánh án được Chánh án
ủy nhiệm thay mặt lãnh đạo công tác Tòa án. Phó Chánh án chịu trách nhiệm trước
Chánh án về nhiệm vụ được giao.
1.3.2 Toà án quân sự quân khu và tương đương
1.3.2.1 Nhiệm vụ quyền hạn của Toà án quân sự quân khu
Theo Điều 26 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì, Tòa án quân sự
quân khu và tương đương có thẩm quyền xét xử: Sơ thẩm những vụ án hình sự không
thuộc thẩm quyền của các Tòa án quân sự khu vực và những vụ án hình sự thuộc thẩm
quyền của các Tòa án quân sự khu vực nhưng Tòa án quân sự quân khu và tương đương
lấy lên để xét xử; Phúc thẩm những vụ án hình sự mà bản án, quyết định chưa có hiệu
lực pháp luật của các Tòa án quân sự cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định
của pháp luật tố tụng; Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án hình sự mà bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa án quân sự cấp dưới bị kháng nghị theo quy
định của pháp luật tố tụng; Giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.
1.3.2.2 Tổ chức và hoạt động của Toà án quân sự quân khu
Toà án quân sự quân khu và tương đương là Toà án tương đương cấp Tỉnh.
Theo khoản 1 Điều 25 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì, Cơ cấu tổ
chức của Tòa án quân sự quân khu và tương đương gồm có: Ủy ban Thẩm phán; Bộ
máy giúp việc.
Theo khoản 2 Điều 25 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì, Tòa án
quân sự quân khu và tương đương có Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội
thẩm quân nhân, Thư ký Tòa án.
Trong đó:
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 8
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
Theo khoản 1 Điều 27 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì, Ủy ban
Thẩm phán Tòa án quân sự quân khu và tương đương gồm có: Chánh án, các Phó
Chánh án Tòa án quân sự quân khu và tương đương;
Một số Thẩm phán Tòa án quân sự quân khu và tương đương được Chánh án Tòa
án quân sự trung ương quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án quân sự quân khụ
và tương đương.
Tổng số thành viên Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự quân khu và tương đương
không quá năm người.
Theo khoản 2 Điều 27 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì, Ủy ban
Thẩm phán Tòa án quân sự quân khu và tương đương có những nhiệm vụ và quyền hạn
sau đây: Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án hình sự mà bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của các Tòa án quân sự cấp dưới bị kháng nghị theo quy định của
pháp luật tố tụng; Bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật tại Tòa án quân sự cấp
mình và các Tòa án quân sự cấp dưới; Tổng kết kinh nghiệm xét xử; Thông qua báo cáo
của Chánh án Tòa án quân sự quân khu và tương đương về công tác của các Tòa án
quân sự trong quân khu và tương đương để báo cáo với Chánh án Tòa án quân sự trung
ương, Tư lệnh quân khu và tương đương.
Theo khoản 3 Điều 27 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì, Phiên
họp của Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự quân khu và tương đương phải có ít nhất
hai phần ba tổng số thành viên tham gia. Quyết định của Ủy ban Thẩm phán Tòa án
quân sự quân khu và tương đương phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán
thành.
Theo Điều 28 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì, Chánh án Tòa án
quân sự quân khu và tương đương có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Tổ chức
công tác xét xử; Chủ tọa các phiên họp của Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự quân
khu và tương đương; Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của các Tòa án quân sự cấp dưới theo quy định của pháp luật tố tụng;
Tổ chức việc kiểm tra công tác của các Tòa án quân sự cấp dưới; Tổ chức bồi dưỡng
nghiệp vụ cho Thẩm phán, Hội thẩm quân nhân và cán bộ Tòa án quân sự cấp mình và
Tòa án quân sự cấp dưới. Báo cáo công tác của các Tòa án quân sự trong quân khu và
tương đương với Chánh án Tòa án quân sự trung ương, Tư lệnh quân khu và tương
đương; Thực hiện các công tác khác theo quy định của pháp luật.
Phó Chánh án giúp Chánh án làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án. Khi
Chánh án vắng mặt, một Phó Chánh án được Chánh án ủy nhiệm thay mặt lãnh đạo
công tác Tòa án. Phó Chánh án chịu trách nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ được
giao.
1.3.3 Toà án quân sự khu vực
1.3.3.1 Nhiệm vụ quyền hạn của Toà án quân sự khu vực
Theo khoản 2 Điều 29 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì, Tòa án
quân sự khu vực có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm
theo quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự mà bị cáo khi phạm tội hoặc khi bị khởi tố
có quân hàm từ Trung tá trở xuống hoặc là người có chức vụ từ Trung đoàn trưởng
hoặc tương đương trở xuống; giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.
1.3.3.2 Tổ chức và hoạt động của Toà án quân sự khu vực
Toà án quân sự khu vực tương đương với Toà án cấp Huyện.
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 9
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
Theo khoản 1 Điều 29 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì, Tòa án
quân sự khu vực có Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm quân nhân, Thư ký
Tòa án.
Tòa án quân sự khu vực có bộ máy giúp việc.
Theo Điều 30 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì, Chánh án Tòa án
quân sự khu vực có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Tổ chức công tác xét xử;
Báo cáo công tác của Tòa án quân sự khu vực với Chánh án Tòa án quân sự cấp trên
trực tiếp; Thực hiện các công tác khác theo quy định của pháp luật.
Phó Chánh án giúp Chánh án làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án và
chịu trách nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ được giao.
1.4 Đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự 2002 thì
những vụ án hình sự mà người phạm tội là các đối tượng sau đây thuộc thẩm quyền xét
xử của Toà án quân sự không phụ thuộc vào việc họ phạm tội gì và phạm tội ở đâu:
Quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời
gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ
phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và những người được trưng
tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý;
Trong đó Quân nhân tại ngũ được hiểu là công dân nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam phục vụ trực tiếp trong Quân đội. Quân nhân bao gồm sĩ quan, hạ sĩ
quan, binh sĩ và quân nhân chuyên nghiệp được quy định trong Luật Nghĩa vụ quân sự,
Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam”2. Căn cứ vào các điểm nêu trên, quân nhân
tại ngũ cùng với người ngoài quân đội (ngoài xã hội) thực hiện tội phạm mà các tội
phạm này thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự, đồng thời có cả các tội phạm
thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân, thì Toà án quân sự xét xử toàn bộ vụ án,
trừ trường hợp có thể tách ra để xét xử riêng, thì Toà án nhân dân xét xử các bị cáo và
các tội phạm thuộc thẩm quyền của mình.
Công chức quốc phòng bao gồm những công dân được tuyển dụng vào phục vụ
trong Quân đội hoặc từ sĩ quan chuyển sang và do các đơn vị, doanh nghiệp quân đội trực
tiếp quản lý theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và Luật sĩ quan Quân đội
nhân dân Việt Nam;
Công nhân quốc phòng bao gồm:
- Những công dân được tuyển dụng thuộc biên chế của các đơn vị, doanh
nghiệp quân đội;
- Những công dân có hợp đồng lao động không xác định thời hạn trong các đơn
vị, doanh nghiệp quân đội, nếu họ phạm tội khi đang thực hiện nhiệm vụ quốc phòng
theo hợp đồng;
Những người này chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm của quân nhân trong thời gian họ tham gia chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ
chiến đấu;
2
TTLT số 01/2003/TTLT - TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP-BQP NGÀY 11/08 /2003 2003 hướng dẫn áp dụng một số quy
định tại chương XXIII “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân” của Bộ luật hình sự năm 1999.
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 10
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
Công dân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định vào phục vụ Quân
đội khi:
- Có lệnh tổng động viên, động viên cục bộ;
- Có chiến tranh;
- Có nhu cầu chiến đấu để bảo vệ địa phương, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ mà chưa
đến mức phải động viên cục bộ.
Những người trên đây chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân trong thời gian được trưng tập đó.
Quân nhân dự bị được hiểu là công dân được đăng ký vào ngạch dự bị động viên
theo Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên. Quân nhân dự bị chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân trong thời
gian người đó được tập trung huấn luyện.
Được coi là quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện trong các trường
hợp sau đây:
a) Tập trung huấn luyện chính trị, quân sự thường kỳ hàng năm;
b) Tập trung diễn tập;
c) Tập trung kiểm tra tình trạng sẵn sàng động viên;
d) Tập trung kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu”3.
Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ
chiến đấu theo quy định của pháp luật về dân quân, tự vệ;
Dân quân, tự vệ phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu
là người thuộc một bộ phận dân quân, tự vệ được giao cho đơn vị quân đội khi có nhu
cầu chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu để tăng khả năng hoàn thành nhiệm vụ tác chiến
của đơn vị quân đội. Dân quân, tự vệ phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu hoặc
phục vụ chiến đấu chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm của quân nhân trong thời gian phối thuộc được quy định trong quyết định
của cấp có thẩm quyền.
Những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp
quản lý bao gồm những công dân do nhu cầu chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc do nhiệm
vụ quân sự khác được các đơn vị quân đội trưng tập và trực tiếp quản lý họ để đáp ứng
các nhu cầu đó.
Theo khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì Toà án
quân sự còn xét xử những người không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 điều này
mà phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiêt hại cho Quân đội. Tức là,
Toà án quân sự còn xét xử những vụ án mà thường dân phạm tội có liên quan đến bí
mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội cụ thể là:
- Bí mật quân sự là bí mật của Quân đội, bí mật về an ninh quốc phòng được xác
định là bí mật quân sự và được quy định trong các văn bản do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành.
3
TTLT số 01/2003/TTLT - TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP-BQP NGÀY 11/08 /2003 2003 hướng dẫn áp dụng một số quy
định tại chương XXIII “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân” của Bộ luật hình sự năm 1999.
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 11
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
- Gây thiệt hại cho Quân đội là gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự,
nhân phẩm của những người quy định tại khoản 1 Điều 3 của Pháp lệnh hoặc tài sản
của những người này được Quân đội cấp phát để thực hiện nhiệm vụ quân sự; gây thiệt
hại đến tài sản, danh dự, uy tín của Quân đội. Tài sản của Quân đội là tài sản do Quân
đội quản lý, sử dụng, kể cả trường hợp Quân đội giao tài sản đó cho dân quân, tự vệ
hoặc bất kỳ người nào khác quản lý, sử dụng để chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc thực
hiện nhiệm vụ quân sự. Cũng được coi là gây thiệt hại cho Quân đội trong trường hợp
người đang bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù trong nhà tạm giữ, trại tạm
giam, trại giam do Quân đội quản lý mà lại tiếp tục phạm tội.
Theo quy định tại Điều 4 của Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì,
đối với những người không còn phục vụ trong Quân đội mà phát hiện hành vi phạm tội
của họ đã được thực hiện trong thời gian phục vụ trong Quân đội hoặc những người
đang phục vụ trong Quân đội mà phát hiện hành vi phạm tội của họ đã được thực hiện
trước khi vào Quân đội, thì Toà án quân sự xét xử những tội phạm có liên quan đến bí
mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội; những tội phạm khác do Tòa án nhân dân
xét xử. Việc tính thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc thời gian phục vụ trong Quân
đội được thực hiện như sau:
- Thời điểm bắt đầu thời gian phục vụ trong Quân đội được tính từ:
Thời điểm đơn vị quân đội nhận bàn giao quân từ Ban chỉ huy quân sự địa
phương;
Thời điểm đã đăng ký tại nơi tuyển dụng làm nhiệm vụ quân sự, nơi tập
trung huấn luyện, diễn tập hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng động viên, tình trạng sẵn
sàng chiến đấu, phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, nơi được
trưng tập làm nhiệm vụ quân sự và chịu sự quản lý trực tiếp của các đơn vị quân đội;
Thời điểm có mặt tại đơn vị, doanh nghiệp quân đội để thực hiện hợp đồng
lao động.
- Thời gian phục vụ trong Quân đội được kết thúc vào:
Thời điểm nhận quyết định ra quân trong các trường hợp quân nhân được phục
viên, xuất ngũ, chuyển ngành, thôi việc, nghỉ hưu, nghỉ mất sức hoặc nghỉ việc theo các
chế độ, chính sách xã hội khác.
Trường hợp chiến sĩ xuất ngũ đúng thời hạn mà đơn vị tổ chức cho ra quân thì
thời gian phục vụ trong Quân đội được kết thúc vào thời điểm đơn vị bàn giao cho Ban
chỉ huy quân sự địa phương;
Thời điểm cắt quân số được ghi trong quyết định cắt quân số hoặc thời điểm
ra quyết định cắt quân số, nếu trong quyết định đó không ghi ngày cắt quân số đối với
trường hợp đào ngũ;
Thời điểm tước danh hiệu quân nhân của đơn vị quân đội có thẩm quyền có hiệu
lực đối với trường hợp vi phạm kỷ luật hoặc vi phạm pháp luật;
Thời điểm kết thúc thời hạn tập trung huấn luyện, diễn tập hoặc kiểm tra tình trạng
sẵn sàng động viên, tình trạng sẵn sàng chiến đấu, phối thuộc với Quân đội trong
chiến đấu, phục vụ chiến đấu;
Thời điểm hết hạn trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội
trực tiếp quản lý trong trường hợp không có quyết định của cơ quan quân sự có thẩm
quyền về việc kéo dài thời hạn này;
Thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động.
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 12
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
Theo quy định tại Điều 5 của Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002, thì
trường hợp trong cùng vụ án vừa có người phạm tội hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền
xét xử của Toà án quân sự, vừa có người phạm tội hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét
xử của Toà án nhân dân thì Toà án quân sự xét xử toàn bộ vụ án; nếu có thể tách ra để
xét xử riêng thì Toà án quân sự xét xử những người phạm tội và tội phạm theo quy định
tại Điều 3 và Điều 4 của Pháp lệnh, người phạm tội và tội phạm khác thuộc thẩm quyền
xét xử của Toà án nhân dân; cụ thể như sau:
“Chỉ được tách vụ án để điều tra, truy tố, xét xử riêng, nếu việc tách đó không ảnh
hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án;
Khi xét thấy cần tách vụ án để xét xử riêng, thì Toà án quân sự đã thụ lý vụ án
trao đổi với Viện kiểm sát quân sự có nhiệm vụ thực hành quyền công tố tại phiên toà
về việc đó. Nếu Viện kiểm sát quân sự thống nhất với ý kiến của Toà án quân sự, thì
Toà án quân sự chuyển trả hồ sơ cho Viện kiểm sát quân sự để giải quyết theo thẩm
quyền. Trong trường hợp Viện kiểm sát quân sự không thống nhất với ý kiến của Toà
án quân sự, thì Toà án quân sự đã thụ lý vụ án phải xét xử toàn bộ vụ án”.
Quân nhân tại ngũ phạm tội trong quân đội và ngoài xã hội đều do Toà án quân sự
xét xử. Trong trường hợp quân nhân tại ngũ cùng với thường dân thực hiện tội phạm
nhưng tội phạm đó không liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại nghiêm trong
cho quân đội thì Toà án nhân dân xét xử. Trường hợp này những quân nhân tại ngũ phải
bị tước quân tịch, loại ra khỏi lực lượng vũ trang để cho Toà án nhân dân xét xử hành vi
phạm tội của họ.
1.5 Các nguyên tắc hoạt động của Toà án quân sự
Xét xử nói chung và xét xử vụ án hình sự nói riêng phải tuân theo những quy tắc,
bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của những người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng nhằm tìm ra sự thật của vụ án, xét xử đúng người, đúng tội,
không để lọt tội phạm, đồng thời không làm oan người vô tội. Xuất phát từ chức năng
xét xử, ngoài việc quán triệt các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước,
Toà án quân sự còn phải chấp hành các nguyên tắc đặc thù chi phối cả hệ thống Toà án:
1.5.1 Nguyên tắc “Việc xét xử của Tòa án quân sự quân khu và tương đương,
Tòa án quân sự khu vực có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp
luật tố tụng. Khi xét xử, Hội thẩm quân nhân ngang quyền với Thẩm phán”.
Để bảo đảm tính công bằng, bình đẳng của pháp luật, việc xét xử không chỉ có
những người chuyên môn mà có cả đại diện từ phía nhân dân, bắt nguồn từ nguyên tắc
“ tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Điều 4 Luật tổ chức Toà án nhân dân
2002 quy định: “Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia, việc
xét xử của Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật
tố tụng. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”. Quy định này được Quốc
hội xác định từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Điều 65 Hiến pháp năm 1946 quy
định: “Trong khi xử việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý kiến
nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với Thẩm phán nếu là việc đại hình”. Đến
nay quy định này vẫn còn nguyên giá trị và được khẳng định qua các Hiến pháp 1959,
Hiến pháp 1980, và trong Điều 129 Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001.
Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm quân nhân là những người lao động hoặc đang ở
trong quân ngũ thay mặt cho nhân dân vào hoạt động xét xử để cho các quyết định của
Toà án không chỉ hợp lý mà còn hợp tình vì họ là những người sống gần dân, nắm bắt
được tâm tư, nguyện vọng của người dân hơn. Sự tham gia của Hội thẩm nhân dân tại
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 13
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
phiên toà nhằm bảo đảm cho Toà án khi xét xử phải tính đến các phong tục, tập quán,
và nguyên vọng của nhân dân, để các quyết định của Toà án “thấu tình, đạt lý”
Trongkhi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân ngang quyền với nhau cùng
nhau thảo luận, bàn bạc để đi đến một quyết định thống nhất.
1.5.2 Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm quân nhân độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật
Điều 130 Hiến pháp 1992 và Bộ luật tố tụng hình sự 2003 đều quy định: “Khi xét
xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Độc lập xét xử không
chỉ là nguyên tắc xét xử mà còn là nguyên tắc Hiến định, nhằm bảo đảm việc xét xử của
Toà án không bị chi phối bởi bất cứ sự tác động nào khi ra bản án hoặc những quyết
định.
Nội dung của nguyên tắc này là Thẩm phán và Hội thẩm hoàn toàn độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật trong khi tiến hành chức năng xét xử các vụ án nói chung và vụ án
hình sự nói riêng, cũng như khi ra bản án hoặc quyết định khác. Các cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội hoặc bất cứ ai khác không được can thiệp vào hoạt động xét xử. Họ độc
lập đánh giá chứng cứ đã thu thập được tại phiên toà, độc lập xem xét các tình tiết có
liên quan đến vụ án. Trên cơ sở đó áp dụng những quy định của pháp luật để ra bản án
hoặc quyết định. Toà án quân sự cấp trên không được phép dùng mệnh lệnh hành chính
buộc Toà án quân sự cấp dưới xét xử theo một hướng nào đó trong các vụ án. Các cơ
quan nhà nước không được can thiệp vào việc xét xử của Toà án.Do đó, đòi hỏi Thẩm
phán và Hội thẩm quân nhân phải có tinh thần kiên quyết đấu tranh chống mọi sự áp đặt
từ bên ngoài, đặc biệt đối với những người có chức, có quyền.
Nguyên tắc này đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm phải thường xuyên học tập năng
cao trình độ nghiệp vụ, quán triệt đường lối chính sách của Đảng để vận dụng vào từng
vụ án cụ thể, chịu trách nhiệm về những bản án hoặc quyết định của mình đã xét xử,
không đổ lỗi cho người khác, không ỷ lại cấp trên.
1.5.3 Nguyên tắc Toà án quân sự xét xử tập thể và quyết định theo đa số
Xét xử là một hoạt động đặc thù của Nhà nước nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, có liên quan đến vận mệnh của cá nhân, gia đình, quyền và lợi ích của Nhà nước,
các tổ chức xã hội. Do đó, trong công tác xét xử cần phải thận trọng, có quyết định
đúng đắn, đồi hỏi trí tuệ của tập thể, vì thế nhất thiết phải thành lập Hội đồng xét xử.
Nguyên tắc xét xử tập thể được bảo đảm bằng các quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự về thành phần Hội đông xét xử ở cấp sơ thẩm ít nhất là ba người, đối với vụ án
có tính chất nghiêm trọng, phức tạp hoặc đối với bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo
khung hình phạt có mức cao nhất là tử hìnhthì Hội đồng có năm người (Điều 185 Bộ
luật tố tụng hình sự)
Trong khi nghị án, theo nguyên tắc quyết định theo đa số nên trong Hội đồng xét
xử thường có ba hoặc năm người (nếu có Hổi thẩm tham gia xét xử thì số Hội thẩm
nhiều hơn Thẩm phán: Hội đồng xét xử có ba người thì có hai Hội thẩm và một Thẩm
phán; Hội đồng xét xử có năm người thì có ba Hội thẩm và hai Thẩm phán), khi biểu
quyết thì lấy theo đa số, Hội thẩm biểu quyết trước rồi đến Thẩm phán để tránh việc
Hội thẩm bị ảnh hưởng bởi Thẩm phán.
1.5.4 Nguyên tắc Toà án quân sự xét xử công khai
Nguyên tắc này nhằm thu hút đông đảo nhân dân tham gia phiên toà xét xử, đảm
bảo sự giám sát của nhân dân đối với việc xét xử của Toà án quân sự, cũng như có tác
dụng giáo dục, phòng ngừa của hoạt động xét xử. Toà án quân sự có thể xét xử tại
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 14
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
phàng xử án của Toà án quân sự, cũng có thể xét xử lưu động tại nơi xâye ra vụ án.
Trong mọi trường hợp, địa điểm và thời gian cần phải được thông báo rõ ràng cho bị
cáo, cho người bị hại và các đương sự cũng như những người có liên quan cùng biết.
Toà án quân sự cũng có thể xét xử kín một phần hay toàn bộ vụ án.
Đối với vụ án xét xử kín thì mọi người không được phép tham dự như đối với
những vụ án có liên quan bí nật quốc gia, bí mật quân sự hay những vụ án về tình
dục…mà những tình tiết của vụ án không có lợi về mặt giáo dục cũng như không có lợi
cho người bị hại…Toà án quân sự có thể quyết định cho những người có liên quan đến
tham dự một phần hay toàn bộ vụ án. Tuy nhiên, dù xử công khai hay xử kín, bản án,
quyết định của Toà án quân sự phải được đọc công khai khi tuyên án.
1.5.5 Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật
Theo quy định tại Điều 11 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì, Tòa
án quân sự xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không
phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá
nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân và các cơ sở sản xuất, kinh doanh
thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật.
Mọi hành vi phạm tội, mọi tranh chấp pháp lý do bất kỳ ai thực hiện đều được Toà
án xét xử nghiêm minh, công khai và bình đẳng.
Pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, cho nên
bất cứ ai tham gia tố tụng cũng được hưỡng những quyền và phải thực hiện những
nghĩa vụ đó. Mọi người đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ không phân biệt nam nữ,
dân tộc, tính ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội. Theo quy định tại Điều 19
Bộ luật tố tụng hình sự thì nội dung của quyền bình đẳng trước pháp luật là: Viện kiểm
sát, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và những người đại diện hợp pháp của họ,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng
cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Toà án. Toà án có trách
nhiệm tao điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của
vụ án.
1.5.6 Nguyên tắc khi xét xử đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo
Nguyên tắc này được quy định tại Điều 12 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự
năm 2002: “Tòa án quân sự bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự”; Điều 132 Hiến pháp 1992 quy định: “Quyền bào
chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa cho mình. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa; Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có
quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào
chữa của họ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình.
1.5.7 Nguyên tắc tiếng nói và chữ viết trong tố tụng hình sự (chưa hoàn chỉnh
trở về sau)
Ở nước ta cũng như nhiều quốc gia trên thế giới có nhiều dân tộc khác nhau cùng
sinh sống trên lãnh thổ; đồng thời trong quá trình mở cửa, hội nhập, hợp tác với các
nước khác nhau trên thế giới, những quan hệ pháp luật nói chung và pháp luật hình sự
nói riêng giữa nước ta với các nước trên thế giới ngày càng phát triển. Do đó, việc quy
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 15
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
định tiếng nói, chữ viết thống nhất khi tiến hành tố tụng là một việc rất cần thiết, nhưng
đồng thời cũng bảo đảm cho các dân tộc khác nhau và người nước ngoài dùng tiếng nói,
chữ viết của dân tộc mình khi tham gia tố tụng tại Toà án Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 13 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì, Toà
án quân sự bảo đảm cho những người tham gia tố tụng quyền dùng tiếng nói, chữ viết
của dân tộc mình trước Toà án. Và theo Điều 24 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì, tiếng
nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng có
quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trong trường hợp này cần có phiên
dịch.
Như vậy, mọi hoạt động tố tụng đều phải được thực hiện bằng tiếng Việt, nếu
trong trường hợp không được thể hiện bằng tiếng Việt thì phải phiên dịch ra tiếng Việt.
Việc thực hiện nguyên tắc này đối với giai đoạn xét xử nói chung là tốt, nhưng ở giai
đoạn điều tra, truy tố do nhận thức không đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
2003 về tiếng nói chữ viết, mà đặc biệt là chữ viết, nên có nhiều tài liệu được viết bằng
tiếng nước ngoài nhưng không được dịch ra tiếng Việt, thậm chí tiếng nước ngoài còn
được sử dụng trong các văn bản như: kết luận điều tra, bản cáo trạng hoặc bản án.
Đối với Toà án khi thụ lý vụ án, kiểm tra hồ sơ, nếu có tài liệu được viết bằng chữ
nước ngoài chưa được dịch ra tiếng Việt thì Toà án phải trả hồ sơ hoặc yêu cầu Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát dịch ra tiếng Việt và coi đây là chứng cứ quan trọng không thể
làm rõ tại phiên toà, nếu Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đáp ứng yêu cầu của
Toà án thì kiên quyết trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
1.5.8 Toà án quân sự thực hiện hai cấp xét xử
Đây là nguyên tắc Hiến định được quy định tại Điều 136 Hiến pháp 1992 với nội
dung: “ Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải
được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân
dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh
chấp hành”. Và theo quy định tại Điều 14 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002
thì, “Toà án quân sự thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Bản án, quyết định sơ thẩm của
Tòa án quân sự có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng.
Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do pháp luật
quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có
hiệu lực pháp luật; Đối với bản án, quyết định của Tòa án quân sự đã có hiệu lực pháp
luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo
trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm do pháp luật tố tụng quy định”.
Theo quy định tại điều 20 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, nguyên tắc này được thể
hiện như sau: Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Bản án, quyết định sơ thẩm của
Toà án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật này. Bản án, quyết
định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do Bộ luật này quy định
thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị
thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp
luật; Đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi
phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm.
Như vậy, căn cứ vào những điểm nêu trên thì, xem xét lại theo thủ tục giám đốc
thẩm và tái thẩm không phải là một cấp xét xử. Cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 16
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
trong phạm vi trách nhiệm của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án và quyết định
của Toà án và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc chấp hành đó.Trong phạm vi
trách nhiệm của mình, cơ quan nhà nước, chính quyền xã, phường, thị trấn, tổ chức và
công dân phải phối hợp với cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định
của Toà án trong việc thi hành án. Cơ quan nhà nước, chính quyền xã, phường, thị trấn
có trách nhiệm tạo điều kiện và thực hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi
hành bản án, quyết định của Toà án trong việc thi hành án.
1.6 Thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự
1.6.1 Thẩm quyền theo cấp xét xử của Toà án quân sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 , thì Toà án
nhân dân cấp huyện và Toà án quân sự khu vực sơ thẩm những vụ án hình sự về những
tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiệm trọng, trừ
những tội phạm sau đây:
Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
Các tội quy định tại các Điều 934, 955, 966, 1727, 2168, 2179, 21810, 21911, 22212,
22313, 22414, 22515, 22616, 26317, 29318, 29419, 29520, 29621, 32222 và 32323 của Bộ luật
hình sự.
So với Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, thì Toà án cấp huyện được tăng thẩm
quyền hơn. Nếu Bộ luật tố tụng hình sự 1988 chỉ giao cho Toà án cấp huyện xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự những tội phạm mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt từ bảy
năm tù trở xuống, trừ một số tội, thì Bộ luật tố tụng hình sự 2003 giao cho Toà án cấp
huyện xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm mà Bộ luật hình sự quy
định hình phạt từ mười lăm năm trở xuống. Tuy nhiên, việc tăng thẩm quyền xét xử sơ
thẩm cho Toà án cấp huyện không thể tiến hành đồng loạt ngay sau khi Bộ luật tố tụng
hình sự 2003 có hiệu lực (ngày 01-7-2004) mà phải căn cứ vào tình hình cụ thể, khả
năng và điều kiện của mỗi Toà án cấp huyện; Toà án nào có đủ điều kiện thì được Uỷ
4
Tội giết người – BLHS 1999
Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh – BLHS 1999
6
Tội giết người do vượt quá giới hạnh phòng vệ chính đáng – BLHS 1999
7
Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên – BLHS 1999
8
Tội vi phạm quy định điều kiển tàu bay – BLHS 1999
9
Tội cản trở giao thông đường không – BLHS 1999
10
Tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông không không bảo đảm an toàn – BLHS 1999
11
Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường không –
BLHS 1999
12
Tôi điều khiển tàu bay vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam –
BLHS 1999
13
Tội điều khiển phương tiện hàng hải vi phạm các quy định về hàng hải của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam – BLHS 1999
14
Tội tạo ra và lan truyền, phát tán các chương trình vi – rút tin học – BLHS 1999
15
Tội vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính điện tử - BLHS 1999
16
Tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính – BLHS 1999
17
Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước, tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ tài liệu bí mật nhà nước – BLHS 1999
18
Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội – BLHS 1999
19
Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội – BLHS 1999
20
Tội ra bản án trái pháp luật – BLHS 1999
21
Tội ra quyết định trái pháp luật – BLHS 1999
22
Tội đầu hàng địch – BLHS 1999
23
Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh – BLHS 1999.
5
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 17
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
ban Thường vụ giao trước, nhưng chậm nhất đến ngày 1-7-2009 tất cả Toà án cấp
huyện sẽ xét xử sơ thẩm theo thẩm quyền mới.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, thì Toà án nhân
dân cấp tỉnh và Toà án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về
những tội phạm không thộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện và Toà án quân
sự khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp dưới mà mình lấy lên
để xét xử.
Thực tiễn xét xử cho thấy nhiều vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án cấp
huyện, nhưng lại do Cơ quan điều tra cấp tỉnh khởi tố, điều tra, kết luận và Viện kiểm
sát cấp tỉnh cũng truy tố ra Toà án cấp tỉnh, Toà án cấp tỉnh cũng thụ lý và đưa ra xét
xử. Tình trạng này tương đối phổ biến, nhưng lại được giải thích rằng, Cơ quan điều tra
cấp huyện khởi tố, điều tra, kết thúc điều tra, Viện kiểm sát cấp huyện đã truy tố, Toà
án cấp tỉnh còn lấy lên để xét xử được huống chi vụ án đã do cơ quan điều tra cấp tỉnh
khởi tố điều tra, Viện kiểm sát cấp tỉnh đã truy tố thì không có lý do gì Toà án cấp tỉnh
không xét xử sơ thẩm. Giải thích như vậy chỉ có tính chất nguỵ biện, không có cơ sở và
trái với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Việc Toà án cấp tỉnh quyết định lấy một
vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện lên để xét xử hoàn toàn khác với việc vụ
án thuộc thẩm quyền của cấp huyện nhưng cơ quan điều tra, truy tố và xét xử ở cấp tỉnh
tiến hành tố tụng. Việc nhà làm luật phân định thẩm quyền theo việc cũng đồng thời
phân định thẩm quyền điều tra, truy tố và xét xử. Toà án cấp tỉnh chỉ lấy lên để xét xử
khi mọi việc điều tra, truy tố đã hoàn tất và việc lấy lên để xét xử cũng chỉ đối với
những trường hợp cá biệt.
Khoản 1 Điều 26 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì, Tòa án quân
sự quân khu và tương đương có thẩm quyền xét xử: “Sơ thẩm những vụ án hình sự
không thuộc thẩm quyền của các Tòa án quân sự khu vực và những vụ án hình sự thuộc
thẩm quyền của các Tòa án quân sự khu vực nhưng Tòa án quân sự quân khu và tương
đương lấy lên để xét xử”;
Khoản 1 Điều 29 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì: “Tòa án quân
sự khu vực có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm theo
quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự mà bị cáo khi phạm tội hoặc khi bị khởi tố có
quân hàm từ Trung tá trở xuống hoặc là người có chức vụ từ Trung đoàn trưởng hoặc
tương đương trở xuống; giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật”.
1.6.3 Thẩm quyền theo lãnh thổ của Toà án quân sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, thì Toà án có
thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là Toà án nơi tội phạm được thực hiện. Trong trường
hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi
thực hiện tội phạm thì Toà án có thẩm quyền xét xử là Toà án nơi kết thúc việc điều tra.
Theo quy định này, thì việc xác định thẩm quyền trước hết căn cứ vào nơi tội
phạm thực hiện, tức là địa danh hành chính mà người phạm tội thực hiện tội phạm.
Ví dụ: Trần Văn H trú quán ở tỉnh Vĩnh Long, đầu năm 2009 H lên đường thực
hiện nghĩa vụ quân sự ở (Cần Thơ), nhưng vào tháng 5/2009 H phạm tội: “vi phạm
những quy định về an toàn giao thông đường bộ” thì thẩm quyền xét xử thuộc Toà án
quân sự khu vực 2 – Quân khu 9.
Tuy nhiên, có một số trường hợp tội phạm được thực hiện ở nhiều nơi khác nhau
và lại do cơ quan Điều tra phát hiện ở một nơi mà tội phạm không được thực hiện hoặc
ở nơi tội phạm kết thúc.
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 18
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
Trong trường hợp không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Toà án có thẩm
quyền xét xử là Toà án nơi kết thúc điều tra. Về nguyên tắc, cơ quan tiến hành tố tụng
phải chứng minh nơi thực hiện phạm tội của bị can, bị cáo, vì theo quy định tại Điều
167 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì nội dung bản cáo trạng phải ghi rõ ngày, giờ,
tháng, năm, địa điểm xảy ra tội phạm. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp cơ quan tiến
hành tố tụng chỉ xác định được hành vi phạm tội mà không thể xác định chính xác nơi
xảy ra tội phạm. Ví dụ: Nguyễn Văn Kh lừa chị M, chị L và chị H ở ba tỉnh khác nhau,
nói là về Hà Nội xin việc làm cho các chị, nhưng Kh đã đưa chị M và L qua biên giới
Việt – Trung thuộc tỉnh Cao Bằng bán cho một người Trung Quốc, còn chị H, Kh đưa
qua biên giới thuộc tỉnh Quảng Ninh bán cho một người Trung Quốc khác. Sau một
thời gian, chị Hoặc trốn được về nước đã tố cáo hành vi phạm tội của Kh với cơ quan
điều tra nơi chi Hoặc cư trú. Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra còn phát hiện Kh
còn bán chị M và L. Trong trường hợp này không thể xác định nơi thực hiện tội phạm
của Kh là nơi nào, nên thẩm quyền xét xử vụ án đối với Kh là Toà án nơi kết thúc việc
điều tra.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 171 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì bị cáo phạm
tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam thì do Toà án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối
cùng của bị cáo ở trong nước xét xử.
Trong trường hợp không xác định được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị
cáo thì tuỳ trường hợp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho Toà án
nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí minh xét xử.
Ví dụ: Phạm Trọng B là sĩ quan quân đội được cử đi học tập, nghiên cứu ở nước
ngoài đã có hành vi cố ý làm lộ bí mật quân sự. sau khi kết thúc thời gian học tập,
nghiên cứu ở nước ngoài, Phạm Trọng B trở về Việt Nam, Cơ quan điều tra hình sự Bộ
quốc phòng mới phát hiên B phạm tội này. Chánh án Toà án quân sự trung ương đã
quyết định giao cho Toà án quân sự quân khu 5 xét xử vì B là sĩ quan thuộc Binh đoàn
X đóng quân trên địa bàn quân khu 5.
Theo quy định tại Điều 172 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 những tội phạm xảy ra
trên tàu bay hoặc tàu biển của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt
động ngoài không phận hoặc lãnh hải Việt Nam thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án
Việt Nam, nơi có sân bay hoặc bến cảng trở về đầu tiên hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó
đăng ký.
Ví dụ: Trần Văn Q là thuỷ thủ tàu viễn dương X thuộc Công ty vẩn tải biển thành
phố Đà Nẵng, trong thời gian tàu đang vận hành trên vùng biển thuộc hải phận của
Nhật Bản, Q đã giết Đặng Văn T. Khi tàu viễn thương về nước đã cập cảng Hải Phòng,
nên thẩm quyền xét xử hành vi phạm tội của Q thuộc Toà án nhân dân thành phố Hải
Phòng.
Điều luật chỉ quy định Toà án nơi có sân bay hoặc bến cảng trở về đầu tiên, hoặc
nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký mà không quy định Toà án cấp nào nên thẩm
quyền xét xử những tội phạm thuộc trường hợp quy định tại Điều 172 Bộ luật tố tụng
hình sự 2003 còn tuỳ thuộc vào thẩm quyền theo việc được quy định tại Điều 170 Bộ
luật tố tụng hình sự 2003.
1.7 Tổ chức và thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự một số nước trên thế
24
giới
24
Tạp chí Toà án nhân dân tháng 3 – 2007 (số 6)
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 19
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
Hiện nay, trong quân đội của đa số các nước trên thế giới đều tổ chức Toà án quân
sự (TAQS). Tuy thuộc vào thể chế chính trị, chức năng, nhiệm vụ của quân đội mà ở
mỗi quốc gia có những quy định đặc thù về Toà án quân sự. Mặc dù vậy, qua nghiên
cứu tổ chức và thẩm quyền xét xử của TAQS một số nước tiêu biểu trên thế giới rút ra
được những vấn đề có tính khái quát chung sau đây:
1.7.1 Về tổ chức
Nghiên cứu mô hình tổ chức TAQS trong quân đội ở nhiều nước trên thế giới cho
thấy có hai hình thức tổ chức cơ bản là: mô hình TAQS thường trực và mô hình Toà án
binh.
1.7.1.1 Mô hình Toà án quân sự thường trực: là mô hình mà ở đó các Toà án
quân sự được thành lập với cơ cấu tổ chức, biên chế ổn định. Các sĩ quan, cán bộ làm
việc tại toà chủ yếu thực hiện nhiệm vụ xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền, không phải
kiêm nhiệm các công việc khác. Đại diện của các Toà án quân sự các nước theo mô
hình này là Trung Quốc, Lào, Cu Ba, Myanma, Thái Lan. Các Toà án quân sự các nước
này được tổ chức theo một hệ thống từ trung ương xuống cơ sở và chia ra thành các cấp
xét xử khác nhau. Toà án quân sự cấp trên trực tiếp xét xử phạm tội đối với vụ án mà
bản án của Toà án quân sự cấp dưới trực tiếp đã xét xử sơ thẩm. Ở Trung Quốc, Lào và
Cu Ba, các Toà án quân sự nằm trong hệ thống Toà án nhân dân, xét xử theo luật chung
của nhà nước ban hành. Khác với ba nước trên, ở Myanmar và Thái Lan thì các Toà án
quân sự cũng được tổ chức trong quân đội theo ba cấp nhưng hoàn toàn độc lập với hệ
thống Toà án nhân dân. Toà án tối cao không có thẩm quyền xem xét lại các bản án của
Toà án quân sự, mà chỉ có nhà vua mới có thẩm quyền này.
Ví dụ:
Theo pháp luật của Cu Ba thì các Toà án quân sự Cu Ba được tổ chức theo lãnh
thổ hành chính, gồm có:
Toà quân sự thuộc Toà án nhân dân tối cao là cấp xét xử cao nhất trong quân
đội.
Các Toà án quân sự Tập đoàn quân là cấp xét xử thứ hai (tương đương Toà án
quân sự cấp quân khu của Việt Nam). Cu ba có ba Toà án quân sự cấp Tập đoàn quân là
Toà án quân sự tập đoàn quân Miền Tây, Toà án quân sự tập đoàn quân Niền Trung,
Toà án quân sự tập đoàn quân Miền Đông.
Các Toà án quân sự thuộc khu quân sự là cấp xét xử thứ bản án (tương đương
như Toà án quân sự khu vực của Việt Nam). Cu Ba có 17 Toà án quân sự khu vực.
Việc quản lý về tổ chức các Toà án quân sự Cu Ba do Chánh án Toà án nhân dân
tối cao đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Bộ trưởng Bộ các lực lượng vũ trang
cách mạng Cu Ba. Cục Toà án quân sự thuộc Bộ các lực lượng vũ trang cách mạng là
cơ quan trực tiếp giúp Bộ trưởng Bộ các lực lưọng vũ trang cách mạng quản lý các Toà
án quân sự có sự phối hợp với Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Đồng chí Cục trưởng
Cục Toà án quân sự đồng thời đồng thời là Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
Cơ cấu tổ chức của Cục Toà án quân sự thuộc Bộ các Lực lượng vũ trang cách
mạng gồm có:
Ban chỉ huy Cục gồm có 2 thành viên là Cục trưởng và Cục phó. Cục trưởng đồng
thời là Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
Ban Thư ký là tổ chức giúp việc cho ban chỉ huy Cục.
Phòng phân tích và thanh sát: là cơ quan giúp Ban chỉ huy cục trong công tác
phân tích, thống kê tội phạm; tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, thắc mắc của quân nhân
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 20
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
và nhân dân; chuẩn bị các tài liệu cho công tác bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho cán
bộ ngành Toà án quân sự; xác định cơ cấu, tổ chức và các chế đọ, nề nếp hoạt động của
các Toà án quân sự.
Phòng tổ chức và kế hoạch là cơ quan giúp chỉ huy Cục thực hiện lập kế hoạch
hoạt động ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, tập hợp những yêu cầu về vật chất, phương
tiện cần thiết đảm bảo cho hoạt động của Toà án quân sự; điều hành và kiểm tra công
tác của các phòng, ban của Toà án quân sự tập đoàn quân, đảm bảo khâu quản lý, kiểm
tra các phương tiện kỹ thuật, hậu cần cho các Toà án quân sự, kiểm tra và điều hành các
vấn đề liên quan đến công tác sẵn sãng chiến đấu của Toà án quân sự.
Ban cán bộ là cơ quan giúp Chỉ huy Cục trong công tác chuyển chọn, đào tạo,
định hướng nghề nghiệp, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ Toà án, phân tích và
đánh giá việc bố chí cán bộ tại các Toà án quân sự; theo dõi việc học tập của các học
viên của ngành Toà án quân sự hiện đang học tập tại các trường; đảm bảo việc thực
hiện các chế độ chính sách như: khen thưởng, đề bạt, bổ nhiệm, nghỉ hưu…đối với đội
ngũ cán bộ ngành Toà án quân sự.25
Ưu điểm của mô hình tổ chức Toà án quân sự thường trực là tính chuyên nghiệp
của Toà án quân sự trong công tác xét xử. Toà án quân sự giải quyết vụ án theo trình tự,
thủ tục tố tụng chặt chẽ và đảm bảo các quyền cho những người tham gia tố tụng, đặc
biệt là đối với bị cáo. Người phạm tội sẽ được các cơ quan tư pháp trong quân đội như
Cơ quan điều tra, công tố (Viện kiểm sát) xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự
trước khi chuyển cho Toà án quân sự để xét xử theo thẩm quyền. Với quá trình tố tụng
như vậy, hành vi phạm tội của người phạm tội được điều tra toàn diện, kỹ lưỡng, hạn
chế mức độ oan sai. Đội ngũ cán bộ Toà án quân sự được chuyên môn hoá, được đào
tạo cơ bản, bồi dưỡng nghiệp vụ xét xử thường xuyên nên có điều kiện nâng cao trình
độ chuyên môn cũng như năng lực thực hành. Biên chế của Toà án quân sự ổn định, tập
trung thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là xét xử, ít bị chi phối bởi các nhiệm vụ quân sự
khác.
Tuy nhiên, mô hình này lại có nhược điểm là nếu tổ chức không hợp lý, số lượng
án ít sẽ dẫn đến hệ thống cồng kềnh. Bởi lẽ một Toà án quân sự được lập ra thì tương
ứng với Toà án của cấp đó lại có một hoặc một số cơ quan điều tra, cơ quan công tố
(Viện kiểm sát) cùng cấp để thực hiện chức năng điều tra, truy tố vụ án. Với mô hình tổ
chức này dù không có hay có ít vụ việc thì cơ cấu tổ chức, biên chế của các cơ quan tư
pháp này vẫn phải đảm bảo đủ ban bệ, từ lãnh đạo đến Thẩm phán,Thư ký. Như vậy,
chi phí quản lý đối với các cơ quan này so với số vụ việc phải giải quyết là khá cao dẫn
đến hiệu quả kinh tế thấp.26
1.7.1.2 Mô hình Toà án binh
Mô hình này có đặc điểm khác biệt với mô hình Toà án quân sự thường trực là các
Toà án binh ở cấp sơ thẩm không phải là các Toà án quân sự thường trực mà chỉ được
thành lập bằng một quyết định của người chỉ huy có thẩm quyền khi cần thiết để xét xử
quân nhân vi phạm pháp luật trong đơn vị. Hội đồng xét xử ở cấp này thường chỉ có
một Thẩm phán chuyên môn, còn lại là những sĩ quan kiêm nhiệm. Toà án quân sự
25
Các báo cáo kết quả đi thăm và làm việc với Toà án quân sự các nước: Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Cu Ba,
Myanmar, Anh quốc của Đoàn cán bộ Toà án quân sự Việt Nam.
26
Các báo cáo kết quả đi thăm và làm việc với Toà án quân sự các nước: Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Cu Ba,
Myanmar, Anh quốc của Đoàn cán bộ Toà án quân sự Việt Nam.
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 21
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
thường trực chỉ được tổ chức ở cấp xét xử phúc thẩm, thượng thẩm. Đại diện của các
nước theo mô hình này là Anh, Đức và Mỹ. Ở Anh có hai loại Toà án binh sơ thẩm
(Toà án binh cấp quận) và Toà án binh thẩm quyền chung. Trong thời chiến còn có
thêm Toà án binh chiến trận. Ở Mỹ có ba loại toà sơ thẩm: Toà án binh giản lược, Toà
án binh đặc biệt và Toà án binh thẩm quyền chung. Nếu bị cáo không đồng ý với quyết
định của toà sơ thẩm thì có quyền kháng cáo lên cấp phúc thẩm. Ở Anh toà phúc thẩm
các bản án của Toà án binh là một Toà án thường trực nhưng không phải là Toà án
thuộc quân đội mà nó là Toà án thông thường với các Thẩm phán dân sự. Điểm đặc biệt
của Toà án này là nó chỉ có nhiệm vụ xem xét lại các bản án của Toà án binh đã ban
hành. Ở Mỹ thì các toà phúc thẩm lại là các Toà án thường trực được tổ chức trong
quân đội để xem xét lại các bản án của Toà án binh đã được người chỉ huy có thẩm
quyền thành lập Toà án hinh phê chuẩn. Ở một quân chủng có một toà phúc thẩm loại
này và nó có nhiệm vụ xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm các bản án do Toà án binh
trong quân chủng đó đã ban hành. Trên toà hình sự phúc thẩm của các quân chủng thì
có Toà thượng thẩm liên bang cho toàn lực lượng Hoa Kỳ. Trong quân đội Mỹ chỉ có 1
Toà thượng thẩm gồm 5 Thẩm phán với nhiệm kỳ là 15 năm.27
Ưu điểm của mô hình này là có xu hướng gọn nhẹ vì những vụ án đơn giản thì
người chỉ huy có thẩm quyền có thể tự mình giải quyết được theo thủ tục rút gọn. Hệ
thống Toà án quân sự không cồng kềnh, biên chế ít; vụ việc xảy ra được giải quyết
nhanh vì không phải qua các trình tự tố tụng rườm rà như điều tra, truy tố.
Tuy nhiên, nếu tổ chức theo mô hình này dẫn đến nhiều tồn tại, bất cập như Toà
án binh của Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Thể hiện, việc xét xử
tội phạm, vi phạm pháp luật trong đơn vị phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người chỉ
huy. Một vụ án xảy ra, người chỉ huy thấy cần giải quyết bằng Toà án thì thành lập Toà
án binh, nếu không muốn thì thôi, dẫn đến việc xử lý không triệt để, bỏ lọt tội phạm. Do
không có cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nên người chỉ huy giải quyết vụ việc không
theo thủ tục tư pháp, không đảm bảo đầy đủ được các quyền cho những người tham gia
tố tụng. Các Thẩm phán xét xử là những sĩ quan kiêm mhiệm, không phải là những
người chuyên tráchnên trình độ chuyên môn, kinh nghiêm xét xử thấp, chất lượng, hiệu
quả xét xử không cao.
1.7.2 Về thẩm quyền xét xử
Nghiên cứu thẩm quyền xét xử của các Toà án quân sự các nước thấy rằng mỗi
nước thẩm quyền của Toà án quân sự được quy định khác nhau, phụ thuộc vào chế độ
chính trị, mô hình tổ chức các cơ quan nhà nước và vị trí vai trò của quân đội trong hệ
thống chính trị. Thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự các nước được xác định theo
hai khuynh hướng sau:
Khuynh hướng quy định thẩm quyền rộng. Ngoài quân nhân phạm tội thì những
người khác do quân đội quản lý phạm tội hoặc phạm tội liên quan đến quốc phòng – an
ninh do Toà án quân sự xét xử. Đại diện cho khuynh hướng này là các nước như: Trung
Quốc, Lào và Cu Ba là những nước có cùng chế độ chính trị với Việt Nam. Các Toà án
quân sự Trung Quốc có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự mà người phạm tội là
quân nhân trong quân ngũ, người được hưởng lương từ nguồn ngân sách của quân đội
và các vụ án hình sự khác mà Toà án nhân dân tối cao giao cho Toà án quân sự xét xử
(thường là các vụ án liên quan đến quốc phòng – an ninh)
27
Military courts-Martial: An Overview (Toà án quân sự - một cách nhìn tổng quan)
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 22
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
Các Toà án quân sự Cu Ba có thẩm quyền xét xử các quân nhân phạm tội (bao
gồm các quân nhân thuộc lực lượng vũ trang cách mạng Cu Ba và cán bộ, chiến sĩ
thuộc Bộ Công an) và những người khác phạm tội liên quan đến quốc phòng và an
ninh. Khi chiến tranh xảy ra thì các Toà án nhân dân sẽ sáp nhập vào các Toà án quân
sự, và khi đó các Toà án quân sự sẽ là cơ quan xét xử duy nhất đảm nhiệm việc xét xử
các vụ án với mọi đối tượng phạm tội.
Các Toà án quân sự Lào có thẩm quyền xét xử như thẩm quyền xét xử của Toà án
quân sự Việt Nam28.
Khuynh hướng quy định thẩm quyền hẹp. Đại diện cho khuynh hướng này là các
nước theo chế độ Tư bản chủ nghĩa. Ở các nước này, Toà án quân sự chỉ xét xử quân
nhân phạm tội. Cụ thể như Toà án quân sự Mỹ, Toà án quân sự Thái Lan, Toà án quân
sự Myanmar có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự mà bị cáo là sĩ quan, quân nhân
thuộc lực lượng vũ trang. Tuy nhiên, thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự Vương
quốc Anh cũng khá rộng. Ngoài những người thuộc biên chế trong lực lượng vũ trang
Vương quốc Anh đóng quân trong nước cũng như ở ngoài nước phạm tội. Toà án quân
sự còn có thẩm quyền xét xử cả một số thành phần là dân sự ở ngoài lãnh thổ Vương
quốc Anh như nhà thầu quân sự, các thành viên của gia đình quân nhân đi cùng đóng
quân ở nước ngoài phạm tội.
Nghiên cứu hai khuynh hướng quy định thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự
các nước nêu trên có thể rút ta một số nhận xét sau:
Thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự các nước trên thế giới đều có điểm chung
là xét xử của quân nhân phạm tội. Thẩm quyền xét xử các quân nhân là đặc thù, là
nguyên tắc chung trong hoạt động của Toà án quân sự các nước trong mọi giai đoạn
phát triển của xã hội, không phụ thuộc vào chế độ chính trị.
Ở những nước mà nhiệm vụ của Toà án quân sự được quy định không chỉ bảo vệ
sức mạnh chiến đấu mà còn bảo vệ nền tảng chính trị của Quân đội thì thẩm quyền xét
xử được xác định với phạm vi rộng. Quân đội của những nước này do một Đảng cầm
quyền lãnh đạo trực tiếp, toàn diện mọi mặt. Do đó, mọi hành vi phạm tội xâm hại đến
quốc phòng-an ninh, gây thiệt hại cho quân đội đều giao cho Toà án quân sự xét xử.
Ở những nước mà nhiệm vụ của Toà án quân sự chỉ là bảo vệ sức mạnh chiến đấu
của quân đội thì thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự có hẹp hơn. Quân đội của các
nước này luôn đứng trung lập, phi chính trị, không theo đảng phái nào.
Tóm lại, nghiên cứu tổ chức và thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự các nước
trên thế giới, so sánh với Toà án quân sự của Việt Nam, người viết cho rằng, hệ thống
Toà án quân sự được tổ chức thương trực trong quân đội là phù hợp với Việt Nam.
28
_Appellate Review of Courts-Martial, (Toà phúc thẩm của các toà án binh)
/>_The United States Court of Appeals for the Armed Forces (Toà phúc thẩm cho toàn quân đội của Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ)
_Military Courts in Missouri, (Toà án binh ở bang Missouri) />_Military Justice 101 – Part 7, (Tư pháp quân sự chương 101 - Phần 7)
/>
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 23
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
CHƯƠNG 2
PHIÊN TOÀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TOÀ ÁN QUÂN
SỰ
2.1 Toà án quân sự có chức năng xét xử sơ thẩm
Toà án quân sự có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là: Toà án quân sự
quân khu và Toà án quân sự khu vực.
Theo quy định tại Điều 26 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 2002 thì, Tòa
án quân sự quân khu và tương đương có thẩm quyền xét xử: “Sơ thẩm những vụ án
hình sự không thuộc thẩm quyền của các Tòa án quân sự khu vực và những vụ án hình
sự thuộc thẩm quyền của các Tòa án quân sự khu vực nhưng Tòa án quân sự quân khu
và tương đương lấy lên để xét xử”. Và Điều 29 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm
2002 thì Tòa án quân sự khu vực có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về
những tội phạm theo quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự mà bị cáo khi phạm tội
hoặc khi bị khởi tố có quân hàm từ Trung tá trở xuống hoặc là người có chức vụ từ
Trung đoàn trưởng hoặc tương đương trở xuống; giải quyết những việc khác theo quy
định của pháp luật.
2.2 Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng
Theo khoản 1 Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì cơ quan tiến hành tố tụng
gồm có: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án. Nhưng đó là cơ quan tiến hành tố
tụng cho tất cả các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án hình sự cho đến khi vụ án
được đưa ra xét xử. Nếu ở giai đoạn điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng gồm có: Cơ
quan điều tra và Viện kiểm sát, thì ở giai đoạn xét xử (kể cả xét xử sơ thẩm, phúc thẩm,
giám độc thẩm hoặc tái thẩm) cơ quan tiến hành tố tụng gồm: Viện kiểm sát và Toà án.
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 24
SVTH: Nguyễn Thị Kim So
Luận văn tốt nghiệp
Phiên toà xét xử sơ thẩm của Toà án quân sự
Như vậy, ở giai đoạn điều tra không có Toà án và ở giai đoạn xét xử không có Cơ quan
điều tra.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì người tiến
hành tố tụng gồm có: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó chánh án Toà án,
Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký Toà án. Nếu ở giai đoạn điều tra người tiến hành tố
tụng gồm có: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng,
Phó viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, thì ở giai đoạn xét xử người tiến hành tố
tụng chỉ có Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký Toà án. Vần đề này hiện
nay cũng có ý kiến cho rằng Điều tra viên cần tham gia tố tụng ở giai đoạn xét xử với tư
cách là người bảo vệ tính hợp pháp về những tình tiết của vụ án trong quá trình điều tra
mà họ đã thu thập, được thể hiện trong bản kết luận điều tra. Tuy nhiên, cần phải có
thời gian và trên cơ sở nghiên cứu một cách toàn diện cả về mặt lý luận cũng như thực
tiễn mới có thể xem xét việc Điều tra viên có cần tham gia phiên toà hay không.
2.2.1 Cơ quan tiến hành tố tụng
Ở giai đoạn xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng chỉ có Viện kiểm sát và Toà án, mỗi
cơ quan có chức năng nhiệm vụ riêng, nhưng điều nhằm một mục đích là xác định sự
thật của vụ án, thực hiện đúng phương châm: xét xử đúng người, đúng tội, không để
lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Hoạt động của cơ quan
tiến hành tố tụng được thông qua người đứng đầu (Viện trưởng Viện kiểm sát hoặc
Chánh án Toà án), nhưng cũng có một số trường hợp được thông qua hành vi của người
tiến hành tố tụng (Kiểm sát viên, Thẩm phán). Vì vậy, giữa cơ quan tiến hành tố tụng
với người tiến hành tố tụng có mối quan hệ mất thiết với nhau, nhưng lại không đồng
nhất với nhau
Cơ quan tiến hành tố tụng gồm: Viện kiểm sát và Toà án
Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng không chỉ ở giai đoạn điều tra mà còn
cả ở giai đoạn xét xử. Viện kiểm sát gồm có Viện kiểm sát nhân dân các cấp và Viện
kiểm sát quân sự các cấp. Tuy nhiên ở giai đoạn xét xử sơ thẩm chỉ có Viện kiểm sát
nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự khu vực
và Viện kiểm sát quân sự quân khu.
Thẩm quyền của Viện kiểm sát ở giai đoạn xét xử sơ thẩm là quyết định rút quyết
định truy tố trước khi mở phiên toà, nếu không rút quyết định truy tố thì cử kiểm sát
viên tham gia phiên toà (ngồi ghế công tố), quyết định việc thay đổi Kiểm sát viên tham
gia phiên toà. Kiểm sát viên được cử tham gia phiên toà sơ thẩm trở thành người tiến
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 25
SVTH: Nguyễn Thị Kim So