TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI
Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Trƣơng Thanh Hùng
Bộ môn Luật Tƣ pháp
Huỳnh Xuân Diễm
MSSV: 5062385
Luật Thƣơng mại 1-K32
Cần Thơ, tháng 5/2012
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
………………….……………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
………
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
………………….……………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU………………………………………………………………............1
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN BẢO VỆ CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ .. ………………………………………………...... 3
1.1. Khái quát về quyền bảo vệ của đƣơng sự trong tố tụng dân sự ………......3
1.1.1. Khái niệm quyền bảo vệ của đương sự ………………………………….3
1.1.2. Khái niệm tố tụng dân sự ………………………………………………...4
1.1.3. Nội dung quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự…………….6
1.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đƣơng sự trong tố tụng dân sự….7
1.2.1. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong
tố tụng dân sự ……………………………………………………………………..7
1.2.2. Nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng
dân sự ……………………………………………………………………………...7
1.2.3. Vai trò và Chức năng của nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương
sự trong tố tụng dân sự..........................................................................................10
1.2.4. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố
tụng dân sự ...…………………………………………………………….............11
1.3. Lƣợc sử về quyền bảo vệ của đƣơng sự trong tố tụng dân sự ..................12
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1959…………………………………….....12
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến 1980…………………………………….....12
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến 2004 ............................................................15
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay ..............................................................16
1.4. Sự cần thiết khi nghiên cứu nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đƣơng
sự trong tố tụng dân sự .......................................................................................17
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BẢO VỆ
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ……………......................19
2.1.Thời điểm bảo đảm quyền bảo vệ của đƣơng sự trong tố tụng dân sự.....19
2.1.1. Thời điểm bắt đầu thực hiện quyền bảo vệ………………………….....19
2.1.2. Thời điểm chấm dứt quyền bảo vệ……………………...........................20
2.2. Chủ thể thực hiện quyền bảo vệ trong tố tụng dân sự ..………………... 20
2.2.1. Chủ thể thực hiện quyền bảo vệ ……………………………………..... 21
2.2.1.1. Đương sự ………………………………………………………….....21
2.2.1.2. Người đại diện của đương sự ………………………………………..22
2.2.1.3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự ......................23
2.2.2.Quyền bảo vệ của các chủ thể qua các giai đoạn tố tụng dân sự ….......24
2.2.2.1. Thụ lý vụ án, hòa giải và chuẩn bị xét xử …………………………...24
2.2.2.2. Xét xử sơ thẩm ……………………………………………………....28
2.2.2.3. Xét xử phúc thẩm …………………………………………………….31
2.3. Chủ thể đảm bảo việc thực hiện quyền bảo vệ của đƣơng sự trong tố tụng
dân sự ……………………………………………………………………………32
2.3.1. Cơ quan tiến hành tố tụng ……………………………………………...32
2.3.1.1. Tòa án ………………………………………………………………..32
2.3.1.2. Viện kiểm sát ………………………………………………………...33
2.3.2. Người tiến hành tố tụng ………………………………………………..36
CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUYỀN BẢO VỆ CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ………...40
3.1. Về mặt lý luận ……………………………………………………………...40
3.1.1. Quy định của pháp luật ………………………………………………..40
3.1.2. Hạn chế ………………………………………………………………...41
3.1.3. Giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về quyền bảo vệ của đương sự
trong tố tụng dân sự ………………………………………………………….....43
3.2. Về mặt thực tiễn …………………………………………………………...47
3.2.1.Thực trạng về vấn đề thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của
đương sự trong tố tụng dân sự ………………………………………………....47
3.2.1.1. Thuận lợi ………………………………………………………….....47
3.2.1.2. Khó khăn vấp phải khi áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của
đương sự trong tố tụng dân sự …………………………………………………..48
3.2.1.3. Những hạn chế khi áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của
đương sự trong tố tụng dân sự …………………………………………………..49
3.2.1.4. Nguyên nhân dân đến hạn chế ……………………………………....51
3.2.2. Một số giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện
nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự………..52
KẾT LUẬN .............................................................................................................57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
Luận văn tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, các mối quan hệ giao dịch dân
sự phát triển ngày càng đa dạng, phức tạp. Cùng với đó việc phát sinh các tranh
chấp dân sự và các đương sự có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết với số lượng ngày
càng nhiều. Kế thừa tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị ra đời vào
ngày 02/01/2002 được xem như sự mở đầu cho công cuộc cải cách tư pháp ở nước
ta: “Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại
phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát
viên… nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những
bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật
quy định”. Để bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án là chính xác, khách quan,
là hiện thân của công lý, công bằng xã hội thì Tòa án phải bảo đảm cho đương sự
thực hiện được quyền bảo vệ của mình khi đứng trước Tòa án. Như vậy, một vấn đề
cấp bách được đặt ra đối với các cơ quan tư pháp là làm thế nào để đạt được yêu cầu
đó? Trong nỗ lực chung, thì việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của hoạt
động bảo vệ của đương sự tại phiên tòa là cần thiết.
Trước yêu cầu thực tế đó và nhằm đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng trong
hoạt động tố tụng dân sự, tránh gây thiệt hại cho đương sự trong vụ án dân sự, đồng
thời làm sáng tỏ về mặt lý luận nên người viết chọn đề tài: “Bảo đảm quyền bảo vệ
của đương sự trong tố tụng dân sự” làm luận văn tốt nghiệp cử nhân của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Dựa theo các kết quả nghiên cứu về phần chung của Bộ luật tố tụng dân sự
mà tác giả đã tìm hiểu, thì chỉ có những nghiên cứu về các nguyên tắc cơ bản trong
việc xét xử của Tòa án như: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh;
Nguyên tắc tranh luận…Các công trình nghiên cứu này có phân tích những khía
cạnh có liên quan đến quyền bảo vệ của đương sự nhưng chỉ là một số quyền cụ thể,
chưa nghiên cứu toàn diện về hệ thống quyền bảo vệ của đương sự. Chính vì tình
hình nghiên cứu trên nên người viết đã chọn đề tài này làm cong trình nghiên cứu
cho mình.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài, người viết nêu một cách khái quát cơ sở lý
luận về quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự, tập trung nghiên cứu quy
định của pháp luật về quyền bảo vệ của đương sự kể từ khi ban hành Bộ luật tố tụng
GVHD: Trương Thanh Hùng
1
SVTH: Huỳnh Xuân Diễm
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
Luận văn tốt nghiệp
dân sự năm 2004 đến nay (bao gồm luật sửa đổi năm 2011) và việc áp dụng các quy
định này vào trong thực tiễn. Các quy định về vấn quyền bảo vệ của đương sự trước
khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 cũng như trình tự, nội dung quyền
bảo vệ… không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu trước kết hợp với việc tìm
hiểu quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về xét xử vụ án dân sự của Tòa án, người
viết tập trung phân tích, làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn, bản chất, nội dung
của nguyên tắc đảm bảo quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự. Dựa vào
những quy định của pháp luật hiện hành kết hợp với những khó khăn vướng mắc
trong thực tiễn áp dụng các quy định về quyền bảo vệ của đương sự trong quá trình
tiến hành tố tụng, cũng như tìm ra nguyên nhân, hạn chế chưa phát huy được hiệu
quả của việc áp dụng nguyên tắc đảm bảo quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng
dân sự từ đó nêu lên một số đề xuất và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
quyền bảo vệ trong quá trình tố tụng để phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng
dân sự hiện hành.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, người viết vận dụng phương pháp duy vật
biện chứng Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng xây dựng
cách thức tiếp cận nội dung của đề tài. Và người viết vận dụng phương pháp nghiên
cứu lý luận trên tài liệu sách vở, phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp dựa trên
cơ sở những quy định của pháp luật hiện hành kết hợp với việc tìm hiểu nghiên cứu
thực tiễn cùng với những khía cạnh pháp lý khác để làm rõ nội dung đề tài.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài mục lục, lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn
được bố cục gồm ba chương:
- Chương 1. Lý luận chung về quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân
sự.
- Chương 2. Quy định của pháp luật về bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự
trong tố tụng dân sự
- Chương 3. Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả quyền bảo vệ của
đương sự trong tố tụng dân sự.
GVHD: Trương Thanh Hùng
2
SVTH: Huỳnh Xuân Diễm
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
Luận văn tốt nghiệp
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN BẢO VỆ CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Một vụ việc dân sự được giải quyết phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau
như khởi kiện, thụ lý vụ án, hòa giải, chuẩn bị xét xử, phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm,
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Để vụ việc dân sự được giải quyết một cách khách
quan, công bằng Tòa án phải tạo điều kiện cho các đương sự thực hiện tất cả các
biện pháp nhằm bảo vệ mình. Thông qua trình tự bảo vệ đó của đương sự Tòa án có
thể đánh giá và giải quyết một cách khách quan, chính xác và công bằng nhằm đảm
bảo quyền và lợi ích của các bên tham gia tố tụng. Để hiểu rõ như thế nào là quyền
bảo vệ? Quyền bảo vệ có ý nghĩa gì? Vai trò, đặc điểm ra sao?... Giải đáp được vấn
đề trên cũng chính là vấn đề người viết muốn đề cập trong chương này.
1.1. Khái quát về quyền bảo vệ của đƣơng sự trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm quyền bảo vệ của đương sự
Ở nước ta, các quyền cơ bản của công dân được quy định một cách đầy đủ và
được bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp có hiệu quả. Hiến pháp nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong chương “quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân” đã ghi nhận khá đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như:
quyền chính trị, kinh tế, văn hóa và các quyền tự do cá nhân khác,…Với chủ trương
luôn mở rộng quyền và lợi ích của công dân đồng thời cũng có những biện pháp
nhằm bảo đảm cho các quyền và lợi ích đó được thực hiện Nhà nước đã ban hành
hàng loạt các cơ chế thực hiện, trình tự bảo vệ khi quyền công dân bị xâm phạm.
Một trong những biện pháp bảo đảm hữu hiệu là trao cho đương sự quyền bảo vệ
mình. Quyền bảo vệ của đương sự được ghi nhận tại Điều 132 Hiến pháp 1992,
Điều 9 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002, Điều 9 Luật tố tụng dân sự 2004. Có thể
nói quyền bảo vệ là quyền năng cơ bản của đương sự nằm trong hệ thống quyền con
người.
Quyền theo từ điển tiếng việt có nghĩa là điều mà pháp luật hoặc xã hội công
nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hòi.
Bảo vệ theo từ điển tiếng việt có nghĩa là giữ gìn, là che chở.
Quyền bảo vệ của đương sự theo quan điểm của tác giả là quyền mà cơ quan
có thẩm quyền trao cho đương sự để đương sự thực hiện các biện pháp nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
GVHD: Trương Thanh Hùng
3
SVTH: Huỳnh Xuân Diễm
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
Luận văn tốt nghiệp
1.1.2. Khái niệm tố tụng dân sự
Trình tự hoạt động do pháp luật quy định cho việc xem xét giải quyết vụ án
và thi hành án được giải thích là “tố tụng dân sự”1. Tuy nhiên, cần xem xét một
cách chính xác hơn về cụm từ được sử dụng lâu đời và có nhiều tranh luận này mới
có thể đặt nền tảng nghiên cứu các vấn đề liên quan trong đó. Được ghép từ danh từ
“tố tụng” là kiện thưa tại Tòa án nói chung có gốc từ tiếng La tinh procedere có
nghĩa là tiến bước, gợi nên một cách thức cần thiết phải thực hiện để đạt được mục
đích, “tố tụng” thường được sử dụng một cách lẫn lộn với danh từ “thủ tục” bởi
tính chất định trước buộc phải tuân theo trong một việc nhất định. Mặc dù cũng
dùng để chỉ định một cách thức tiến hành bắt buộc nhưng danh từ “thủ tục” bao
hàm trong đó nghĩa rộng hơn trên nhiều mặt vượt ra ngoài nghĩa của trình tự giải
quyết vụ việc tại Tòa án (như thủ tục nhập học, thủ tục đi xuất khẩu lao động,…).
Tố tụng khác biệt với thủ tục ở chỗ nó được dùng một cách triệt để và chỉ xuất hiện
ở trong các trình tự tại cơ quan tư pháp đồng thời gợi ra một cách nhìn nhận trong
đó có sự tranh tụng – mâu thẫn yêu cầu tài phán. Trong một thời gian dài của quá
trình phát triển, danh từ thủ tục đã được sử dụng thay cho danh từ tố tụng như: Thủ
tục giải quyết vụ án dân sự, thủ tục giải quyết vụ án kinh tế hay thủ tục giải quyết
các tranh chấp lao động,… đã không thể hiện rõ được bản chất của hoạt động tư
pháp. Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã sử dụng triệt để danh từ tố tụng và thống nhất
các thủ tục giải quyết thành một trình tự tố tụng chung.
Danh từ “dân sự” – civil đôi khi được dùng tương đồng với danh từ prive –
lĩnh vực luật tư, bởi bản chất thỏa thuận, bình đẳng của các bên trong việc xác lập,
thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ. Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự về phạm vi giải quyết các tranh chấp tại Điều 1 thì các ngành luật nội dung có
tranh chấp được giải quyết theo trình tự này bao gồm Luật dân sự, Luật hôn nhân và
gia đình, Luật thương mại, Luật lao động thì danh từ “dân sự” trong “tố tụng dân
sự” đang được dùng như một bộ phận của lĩnh vực tư luật (bởi luật tư bao gồm
nhiều ngành luật khác như luật bảo hiểm xã hội,…).
Tuy nhiên, có thể thấy việc sử dụng cụm từ tố tụng dân sự là sát nghĩa và có
tính chất triệt để hơn cả trong giai đoạn hiện nay. Bởi 3 nguyên nhân:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật Việt Nam không phân chia thành công pháp –
tư pháp như một số nước trên thế giới mà đây chỉ là vấn đề lý luận của những nhà
nghiên cứu pháp luật. Định nghĩa dựa trên sự thừa nhận không chính thức sẽ gây
1
Từ điển luật học – NXB Tư Pháp, tr. 785.
GVHD: Trương Thanh Hùng
4
SVTH: Huỳnh Xuân Diễm
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
Luận văn tốt nghiệp
khó khăn cho việc tiếp cận một ngành luật thực định của đông đảo quần chúng. Vì
vậy, cần thiết phải định nghĩa rõ ràng dựa trên sự thừa nhận chính thức về vị trí và
vai trò của ngành luật trong hệ thống pháp luật.
Thứ hai, việc định nghĩa với cụm từ “tố tụng dân sự” một mặt phản ánh
được tính chất phụ thuộc yếu tố hình thức, thủ tục trong hoạt động giải quyết vụ
việc dân sự bảo đảm hạn chế tính độc đoán của các thẩm phán cũng như giúp các
chủ thể tham gia có thể bảo vệ được mình thông qua những quy định mang tính chất
thủ tục. Mặt khác phản ánh được đối tượng điều chỉnh về mặt nội dung của ngành
luật hình thức tổng hợp này là các ngành luật mang yếu tố “riêng tư” giữa các bên
không có sự tham gia của nhà nước ở một bên chủ thể tranh chấp và gợi được tính
tranh tụng, đối lập một cách bình đẳng giữa các bên đương sự.
Thứ ba, hiệu quả mang lại từ tố tụng không phải là ở việc tạo ra nhiều thủ tục
khác nhau mà nằm ở việc giải quyết nhanh chóng, chính xác, khách quan vụ việc,
giảm thiểu được gánh nặng về cơ cấu, tổ chức cũng như trong cách thức áp dụng
pháp luật. Khi các đối tượng điều chỉnh là thống nhất về mặt bản chất thì có thể quy
nạp chúng về một thủ tục chung để giải quyết không cần thiết phải có nhiều thủ tục
khác nhau. Hiệu quả của tố tụng dân sự trong những năm qua đã minh chứng cụ thể
cho điều đó.
Như vậy, tố tụng dân sự có thể được hiểu dưới góc độ pháp lý là một ngành
luật tố tụng cụ thể còn dưới góc độ thực tiễn là những hình thức thực tiễn do các
chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng tiến hành.
Dưới góc độ pháp lý:
Tố tụng dân sự là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành
điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết vụ việc về dân sự,
hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động tại tòa án đảm bảo sự nhanh
chóng, chính xác trong quá trình giải quyết và thi hành án, đặt ra các chế tài bảo vệ
quyền lợi của nhà nước, của công dân.
Dưới góc độ thực tiễn:
Tố tụng dân sự là một quy trình, thủ tục do pháp luật quy định buộc mọi chủ
thể tiến hành và tham gia tố tụng phải tuân theo nhằm giải quyết nhanh chóng,
chính xác vụ án dân sự và thi hành án, bảo vệ quyền lợi của nhà nước và của công
dân.
GVHD: Trương Thanh Hùng
5
SVTH: Huỳnh Xuân Diễm
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
Luận văn tốt nghiệp
1.1.3. Nội dung quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
Quyền bảo vệ của đương sự xuất phát từ quyền bình đẳng về địa vị pháp lý,
tự do về ý chí của các bên đối với các vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp
pháp của mình trong quan hệ dân sự. Trong tố tụng dân sự, quyền bảo vệ của đương
sự thể hiện ở khả năng những người tham gia tố tụng (nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) tự do sử dụng các quyền và phương tiện tố tụng
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước các nguy cơ xâm hại. Căn
cứ vào Điều 58 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án phải bảo đảm cho đương sự thực hiện
các quyền như: Quyền cung cấp chứng cứ, chứng minh; Quyền yêu cầu cơ quan, tổ
chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp
cho Tòa án; Quyền đề nghị Tòa án xác minh thu thập chứng cứ của vụ án mà tự
mình không thể thực hiện được hoặc đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng,
trưng cầu giám định, định giá; Quyền khiếu nại với Viện kiểm sát về những chứng
cứ mà Tòa án đã xác minh, thu thập do đương sự khác yêu cầu; Được biết và ghi
chép, sao chụp tài liệu , chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án
thu thập; Quyền đề nghị Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời; Quyền
tranh luận tại phiên tòa,… Đây cũng là quyền năng đặc thù của các đương sự được
thừa nhận phổ biến trên thế giới. Xuất phát từ bản chất của các quan hệ dân sự, ở
nước ta, quyền bảo vệ của đương sự vừa là một nội dung, vừa là một nguyên tắc
trong tố tụng dân sự. Quyền bảo vệ của các bên trong quá trình giải quyết các tranh
chấp phát sinh được pháp luật ghi nhận và đảm bảo thực hiện trên thực tế. Trong đó,
các quy phạm pháp luật thủ tục tố tụng được xây dựng phải phù hợp phản ánh đầy
đủ và toàn diện các quan hệ xã hội được ghi nhận trong pháp luật nội dung. Hay nói
cách khác, không có các quy phạm pháp luật nội dung thì không có pháp luật hình
thức, các quyền dân sự là căn cứ làm phái sinh các quyền trong tố tụng dân sự.
Như vậy, quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự theo quan điểm
của tác giả là tổng thể các quyền của đương sự được quy phạm pháp luật tố tụng
dân sự ghi nhận và bảo vệ trong việc lựa chọn và quyết định các hành vi tố tụng
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bản thân mình trong quá trình giải quyết
vụ việc dân sự.
GVHD: Trương Thanh Hùng
6
SVTH: Huỳnh Xuân Diễm
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
Luận văn tốt nghiệp
1.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đƣơng sự trong tố tụng dân sự
1.2.1. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự
trong tố tụng dân sự
Trong tố tụng dân sự khi các bên tham gia vào các giai đoạn tố tụng thì các
bên phải chứng minh được yêu cầu của mình là đúng. Đồng thời, các bên luôn đưa
ra lý lẽ để biện minh cho yêu cầu của mình đặt ra là hợp pháp và có căn cứ. Khi đó,
đòi hỏi các bên phải sử dụng quyền được trao để tự bảo vệ quyền lợi cho mình hay
là cho người khác. Việc bảo đảm cho các đương sự được thực hiện quyền bảo vệ
của mình là điều hết sức cần thiết. Điều 132 của Hiến Pháp 1992 có quy định:
“Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa cho mình”. Kế thừa quy đinh của Hiến pháp, Điều 9 Bộ luật tố
tụng dân sự quy định:“Đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người
khác có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật này bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo
vệ của họ”.
Mục đích của tố tụng dân sự là bảo vệ các quyền, lợi ích của mọi chủ thể của
quan hệ pháp luật dân sự. Trong khoa học pháp lý, nguyên tắc của tố tụng dân sự
được xác định là những tư tưởng chỉ đạo, biểu thị những đặc trưng của tố tụng dân
sự, được quy định trong pháp luật làm nền tảng cho các hoạt động tố tụng dân sự.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự là một trong những nguyên tắc cấu
thành hệ thống nguyên tắc của pháp luật tố tụng dân sự. Bảo đảm quyền bảo vệ của
đương sự trong tố tụng dân sự là làm cho đương sự có đủ những điều kiện cần thiết
để chắc chắn thực hiện được các quyền tố tụng dân sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của họ trước Tòa án.
1.2.2. Nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng
dân sự
Vấn đề bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự được pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam quy định gồm 3 nội dung cơ bản là bảo đảm quyền tự
bảo vệ của đương sự, bảo đảm quyền của đương sự được người khác đại diện, nhờ
người khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và trách nhiệm của Tòa án đối với việc
đảm bảo quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự.
Thứ nhất là bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự.
Thuật ngữ “bảo đảm” trong tiếng Việt là “làm cho chắc chắn thực hiện
được”. Do vậy, bảo đảm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong
GVHD: Trương Thanh Hùng
7
SVTH: Huỳnh Xuân Diễm
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
Luận văn tốt nghiệp
tố tụng dân sự là làm cho đương sự chắc chắn thực hiện được quyền bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án.
Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự quy định:
“1. Đương sự có quyền quyết định khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền
giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn
khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện,
đơn yêu cầu đó.
2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm
dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện,
không trái pháp luật và đạo đức xã hội”.
Trong tố tụng dân sự, quyền tự định đoạt biểu hiện ở khả năng khi tham gia
tố tụng, các đương sự tự do định đoạt các quyền, phương tiện tố tụng nhằm bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của mình trước các xâm hại. Đó cũng là quan niệm chung nhất
được pháp luật tố tụng dân sự của nhiều quốc gia trên thế giới thừa nhận, áp dụng
và trở thành một nguyên tắc tố tụng cơ bản. Có thể nói khi bắt đầu tham gia vào các
giai đoạn của quá trình tố tụng các đương sự luôn có quyền tự mình quyết định các
vấn đề về khởi kiện, thay đổi, chấm dứt các yêu cầu hoặc thỏa thuận giải quyết với
nhau một cách tự nguyện, không trái với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội.
Quyền tự định đoạt của đương sự là tiền đề để các đương sự thực hiện các quyền
khác được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự nhằm thực hiện quyền bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Việc bảo đảm cho các đương sự thực hiện được các quyền và nghĩa vụ tố
tụng là vấn đề rất quan trọng. Vì chính thông qua việc thực hiện được các quyền và
nghĩa vụ tố tụng các đương sự mới đưa ra yêu cầu, chứng cứ lý lẽ để bảo vệ quyền,
lợi ích của mình trước Tòa án một cách tốt nhất. Căn cứ vào quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự tại Điều 6 của Bộ luật tố tụng dân sự thì: “Các đương sự có quyền và
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có
căn cứ và hợp pháp”. Theo đó, các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ và chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, có quyền được
biết và ghi chép, sao chụp các chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do
Tòa án thu thập. Các đương sự có quyền tham gia vào quá trình bảo vệ ở bất kỳ giai
đoạn nào của quá trình tố tụng để giải quyết vụ án. Từ việc thu thập chứng cứ cùng
với việc đưa ra các ý kiến về việc khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn có quyền đưa ra
GVHD: Trương Thanh Hùng
8
SVTH: Huỳnh Xuân Diễm
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
Luận văn tốt nghiệp
yêu cầu phản tố lại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ án có quyền đưa
ra yêu cầu độc lập, để tranh luận lại các yêu cầu mà nguyên đơn đã khởi kiện.
Đương sự chính là người có nghĩa vụ chứng minh và tham gia vào tranh luận
khi cho rằng quyền lợi của mình bị xâm phạm. Trong đổi mới hoạt động tư pháp,
trong đó có việc mở rộng tranh tụng, tăng cường khả năng tranh luận dân chủ giữa
các đương sự, hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự thì Tòa án bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền
bảo vệ của mình trong suốt quá trình giải quyết vụ án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự.
Thứ hai là bảo đảm quyền của đương sự được luật sư hoặc người khác có đủ
điều kiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình.
Khi tham gia tố tụng, các đương sự được thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố
tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình nhưng việc thực hiện có hiệu quả
hay không còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như khả năng nhận thức, học vấn, sự
hiểu biết pháp luật, kinh nghiệm tham gia tố tụng, tâm lý của đương sự,… Do đó,
việc bảo đảm quyền của đương sự được luật sư hoặc người khác có đủ điều kiện
theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là
vấn đề được đặt lên hàng đầu.
Những người khác tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự bao gồm người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự. Bảo đảm quyền của đương sự được người khác bảo vệ trong tố tụng dân
sự bao gồm bảo đảm đương sự được ủy quyền cho người khác đại diện, trong
trường hợp không có năng lực hành vi tố tụng dân sự và bảo đảm quyền nhờ người
khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Thứ ba là trách nhiệm của Tòa án đối với việc bảo đảm quyền bảo vệ của
đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam.
Việc bảo đảm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong quá
trình tố tụng luôn gắn liền với trách nhiệm của Tòa án. Trong mỗi vụ án cụ thể, Tòa
án phải xác định được đầy đủ những ai là đương sự để triệu tập họ đến tham gia tố
tụng. Nếu Tòa án xác định thiếu hoặc bỏ sót bất cứ đương sự nào và không triệu tập
họ đến tham gia tố tụng thì đều có thể dẫn đến việc giải quyết vụ án không đúng.
Các đương sự phần lớn lần đầu tiên tham gia tố tụng nên chưa có kinh nghiệm,
không biết mình có những quyền, nghĩa vụ tố tụng gì. Là cơ quan xét xử, Tòa án
GVHD: Trương Thanh Hùng
9
SVTH: Huỳnh Xuân Diễm
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
Luận văn tốt nghiệp
cần giải thích, giúp đỡ các đương sự biết và thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng
của họ cho có hiệu quả. Tòa án không được hạn chế đương sự thực hiện các quyền,
nghĩa vụ tố tụng của họ đã được pháp luật thừa nhận. Ngoài ra, nếu đương sự là
người không có năng lực hành vi tố tụng, vắng mặt không có tin tức mà không có ai
đại diện thì Tòa án phải cử người đại diện cho họ.
1.2.3. Vai trò và chức năng của nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương
sự trong tố tụng dân sự
Việc xét xử vụ việc dân sự trong tố tụng dân sự thực chất là giải quyết xung
đột những tranh chấp có liên quan đến quyền và lợi ích của các đương sự. Đương
sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện chức năng quan
trọng là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình hoặc cho người khác, họ có
quyền sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ các tình tiết vụ
việc, dựa vào đó Tòa án xác định sự thật khách quan trong khi giải quyết vụ án. Bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp thông qua việc khởi kiện, cung cấp chứng cứ, tranh luận
tại phiên tòa,… là hoạt động trọng tâm có tính chất quyết định để Hội đồng xét xử
ra phán quyết công minh, đúng pháp luật và có tính thuyết phục để bản án được thi
hành một cách nhanh chóng, hạn chế trường hợp kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm,
tái thẩm hoặc giám đốc thẩm. Vì vậy, quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân
sự có các vai trò quan trọng sau đây góp phần vào quá trình Tòa án thụ lý giải quyết
vụ án.
Đối với đương sự thì thực hiện việc quyền bảo vệ trong suốt quá trình tố tụng
giúp đương sự chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Ở giai đoạn thụ lý
giải quyết vụ án, hòa giải và chuẩn bị xét xử các đương sự thực hiện quyền bảo vệ
thông qua việc trình bày ý kiến, đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập cũng như
việc đưa ra các chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình. Đến giai đoạn xét xử
sơ thẩm thì quyền bảo vệ của đương sự được thể hiện bằng quyền yêu cầu thay đổi
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, quyền tranh luận tại phiên tòa, ở
giai đoạn này người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cả những người
tham dự phiên toà được tham dự một cách toàn diện, tập trung ý kiến của các bên
đương sự về đánh giá chứng cứ, mâu thuẫn, thể hiện quan điểm của họ về việc giải
quyết mâu thuẫn trong vụ việc dân sự.
Đối với Hội đồng xét xử, thông qua việc thực hiện quyền bảo vệ của các
đương sự, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự thì Hội đồng xét xử sẽ có điều kiện kiểm tra, đánh giá, xác minh lại các
chứng cứ đã thu thập ở các giai đoạn trước, xem xét lại các tình tiết của vụ án. Đồng
GVHD: Trương Thanh Hùng
10
SVTH: Huỳnh Xuân Diễm
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
Luận văn tốt nghiệp
thời, nhận thức được một cách toàn diện các vấn đề của vụ án từ các yêu cầu của
đương sự, quan hệ pháp luật dân sự giữa các đương sự cần giải quyết, chứng cứ, tài
liệu được sử dụng để giải quyết vụ án. Để Hội đồng xét xử kịp thời đưa ra pháp luật
cần thiết áp dụng để giải quyết vụ án, nhằm bảo vệ quyền và nghĩa vụ của mỗi bên
đương sự trong vụ án theo quy định của pháp luật.
1.2.4. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố
tụng dân sự
Thứ nhất là bảo vệ chính đương sự, thực hiện dân chủ trong các lĩnh vực đời
sống xã hội là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, bảo đảm quyền bảo
vệ của đương sự trong tố tụng dân sự thực chất là thực hiện các biện pháp cần thiết
theo quy định của pháp luật để tạo điều kiện cho tất cả các đương sự thực hiện được
các quyền tố tụng dân sự, thông qua nguyên tắc này, các đương sự sẽ có nhận thức
sâu sắc về các quy định của pháp luật, tạo được sự tôn trọng cần thiết đối với việc
thực hiện các quyền tố tụng dân sự của đương sự.
Thứ hai là hướng đến xét xử đúng sự thật khách quan, tạo điều kiện cho Tòa
án nhận biết sự thật của vụ việc dân sự mà giải quyết vụ việc dân sự công minh và
có căn cứ. Như vậy, việc giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, đúng
đắn, bảo vệ cả người tiến hành tố tụng.
Thứ ba là bảo vệ trật tự xã hội, hướng đến xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
Một trong những mục tiêu của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa là xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Bảo đảm quyền bảo vệ của
đương sự trong tố tụng dân sự cũng góp phần thực hiện mục tiêu trên.
Để đảm bảo quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự yêu cầu Tòa án
phải phổ biến, giải thích cho các đương sự các quy định pháp luật. Thế nên có ý
nghĩa giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân.
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự có ý nghĩa bảo
đảm cho pháp luật được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh.
GVHD: Trương Thanh Hùng
11
SVTH: Huỳnh Xuân Diễm
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
Luận văn tốt nghiệp
1.3. Lƣợc sử về quyền bảo vệ của đƣơng sự trong tố tụng dân sự
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1959
Năm 1945, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – Nhà nước dân chủ đầu tiên
ở khu vực Đông Nam Á được thành lập. Đánh dấu sự thay đổi toàn diện về mọi mặt
trong đời sống xã hội, trong lĩnh vực tư pháp, tố tụng.
Ngày 10/10/1945 nhà nước ta đã ban hành sắc lệnh số 47/SL cho tạm thời
giữ các luật lệ hiện hành của chế độ cũ mà không trái với bản chất của Nhà nước
cách mạng. Tuy nhiên, sắc lệnh trên chỉ đề cập đến việc cho áp dụng các quy phạm
pháp luật nội dung của chế độ cũ mà không không đề cập đến việc có cho tiếp tục
áp dụng các quy định về hoạt động tố tụng hay không. Tiếp theo đó, Nhà nước ban
hành nhiều quy định khác nhau liên quan đến hoạt động tố tụng dân sự ở nhiều văn
bản pháp luật khác nhau như Sắc Lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức các Tòa
án và các ngạch Thẩm phán, Sắc Lệnh 15/SL ngày 17/4/1946 quy định về thẩm
quyền của Tòa án các cấp, Sắc Lệnh 112/SL ngày 28/6/1946 bổ sung sắc lệnh số
15,…Các quy định về quyền bảo vệ của đương sự được quy định trong sắc lệnh số
69/SL ngày 18/6/1949, sắc lệnh 144/SL ngày 22/12/1949 thể hiện sự quan tâm của
Nhà nước và vai trò của nhân dân ngày càng được chú trọng. Nhìn chung trong các
quy định của tố tụng giai đoạn này quyền bảo vệ của đương sự đã được đề cập
nhưng chỉ mang tính đại cương, tạm thời và chưa đầy đủ, chưa cụ thể, thực tế cũng
chỉ nằm rải rác trong các Sắc lệnh, Thông tư đơn hành.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến 1980
Tháng 7/1954, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam thắng
lợi, buộc thực dân Pháp phải ký vào Hiệp định Giơnevơ và cùng các nước tham dự
Hội nghị ký tuyên bố cuối cùng. Đại diện Chính phủ Mỹ không ký Tuyên bố cuối
cùng của Hội nghị Giơnevơ. Đế quốc Mỹ dựa vào đó xúc tiến kế hoạch xâm chiếm
Miền Nam để thay thế thực dân Pháp. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và tiến
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng đất nước vẫn chưa hoàn toàn thống nhất, Miền
Nam vẫn chịu sự thống trị của Chính quyền ngụy Sài Gòn và Đế quốc Mỹ, vì vậy,
hai Miền Bắc, Nam có hai hệ thống pháp luật Tố tụng dân sự khác nhau.
Ở Miền Nam, trong thời gian dài Chính quyền bù nhìn Sài Gòn vẫn áp dụng
những văn bản pháp luật cũ thời Pháp thuộc. Kể từ ngày 16/9/1954 ký kết hiệp định
thâu hồi hoàn toàn chủ quyền tư pháp, Việt Nam chỉ còn duy trì Nghị định
16/3/1910 như luật tố tụng duy nhất áp dụng cho tất cả tụng nhân có việc kiện thưa
trước toà án của ta, bất kể quốc tịch nào. Tuy nhiên, Nghị Định 1910 được biên tập
GVHD: Trương Thanh Hùng
12
SVTH: Huỳnh Xuân Diễm
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
Luận văn tốt nghiệp
cho Toà án Pháp sử dụng để xét xử người bổn quốc nên để giải thích các điều khoản
trong Nghị định 1910 chính quyền Sài Gòn phải tham chiếu các quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 1806 của Pháp. Ngoài ra, án lệ cũng là một trong các
nguồn để các Toà án giải thích pháp luật. Theo quy định của các văn bản pháp luật
nói trên, phiên toà xét xử các vụ việc dân sự phải mở công khai, những người tham
dự phiên toà phải tuân thủ nội quy phiên toà, trình tự phiên toà được tiến hành theo
các bước: Kiểm tra căn cước, thẩm vấn, tranh luận, nghị án, tuyên án. Trong một vụ
kiện hộ, hạn hữu mới thấy các luật sư tham gia. Sau khi hai bên đương sự đã tranh
luận, Biện lý bày tỏ ý kiến về vụ kiện. Việc nghị án có khi mất nhiều ngày, giờ nên
luật cho phép đến cuối phiên toà hoặc phiên xử khác để tuyên án nhưng phải báo
trước ngày đọc án. Ngoài ra, các văn bản pháp luật thời kỳ này còn quy định về thủ
tục xét xử khuyết tịch (vắng mặt các đương sự hoặc một trong các đương sự).
Ngày 5/6/1970 Chính quyền ngụy Sài Gòn ban hành Sắc lệnh số
72/SL/CCĐ/PTNNN quy định về thủ tục tố tụng của những vụ kiện điền địa, ngày
20/12/1972 ban hành Bộ luật dân sự và thương sự tố tụng. Bộ luật đã có nhiều quy
định về phiên toà: Phiên toà công khai (Điều 201), việc thay đổi Thẩm phán (Điều
137 đến 152), thủ tục xét xử vắng mặt đương sự…Tại phiên toà đương sự có thể
trình bày yêu cầu, lý lẽ của mình bằng miệng hoặc bằng văn bản (Điều 202). Tuy
nhiên, các quy định về trình tự, thủ tục tiến hành phiên toà được quy định rất phức
tạp, không rõ ràng.
Ở Miền Bắc, sau khi hoàn toàn giải phóng, quân và dân Miền Bắc ra sức thi
đua sản xuất, hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa đưa miền Bắc vào thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, chi viện Miền Nam kháng chiến chống Mỹ. Cho nên, trong
giai đoạn từ 1955 đến 1959, các văn bản mà nhà nước ta ban hành chủ yếu là các
sắc lệnh về hành chính, hình sự và một vài Sắc lệnh về chính sách quản lý ruộng
đất, các Sắc lệnh về Tố tụng dân sự không được đề cập đến. Ngày 1/1/1960, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 01/LCT công bố Hiến pháp mới của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà. Trên cơ sở Hiến pháp 1959, Quốc hội nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng hoà đã thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 14/7/1960 và Uỷ
ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức Tòa án
nhân dân tối cao và tổ chức của các Tòa án nhân dân địa phương ngày
23/3/1961.Các văn bản pháp luật này đã đánh dấu một bước ngoặt lớn của ngành tư
pháp nói chung và pháp luật Tố tụng dân sự nói riêng. Theo qui định tại các văn bản
pháp luật quan trọng này, hệ thống Tòa án nhân dân có một số thay đổi, Viện công
GVHD: Trương Thanh Hùng
13
SVTH: Huỳnh Xuân Diễm
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
Luận văn tốt nghiệp
tố được tách khỏi hệ thống Toà án và hệ thống Toà án bao gồm: Tòa án nhân dân
tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự.
Với Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, những
quy định về nguyên tắc tiến hành phiên toà, thủ tục phiên toà được bổ sung, hoàn
thiện thêm một bước và được ghi nhận trong những văn bản pháp luật có hiệu lực
pháp lý cao nhất. Điều 100 Hiến pháp 1959 và Điều 6 Luật tổ chức Tòa án nhân dân
năm 1960 quy định: “Khi xét xử, Toà án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật”. Những vấn đề trên cũng được các văn bản của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đề cập đến nhiều hơn như: Thông tư 06 ngày 23/7/1960 quy định về
thành phần Hội đồng xét xử, vấn đề thay đổi những người tiến hành tố tụng.
Sau năm 1960, Tòa án nhân dân tối cao đã có rất nhiều văn bản hướng dẫn
về phiên toà sơ thẩm dân sự như: Thông tư 03/NCLP ngày 30/01/1962 của hướng
dẫn trình tự giải quyết các vụ án ly hôn: Quy định về tổ chức phiên toà (lưu động
ngoài trụ sở hay tại trụ sở Toà án), về thành phần Hội đồng xét xử, Công văn 614
ngày 20/4/1963 quy định các trường hợp hoãn phiên toà: “Nếu nguyên đơn vắng
mặt thì Toà án không xử”
Trên cơ sở áp dụng các quy định của pháp luật về phiên toà sơ thẩm và tổng
kết công tác xét xử hàng năm, ngày 8/2/1977 Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành
“Bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự kèm theo Thông tư số 96NCPL”. Lần đầu tiên, nguyên tắc xét xử phải trực tiếp, bằng miệng và liên tục được
đề cập. “Nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng miệng là một bảo đảm để qua phiên toà
Tòa án nhân dân thẩm tra lại tất cả các tình tiết của vụ kiện và nghe lời yêu cầu của
các đương sự… Căn cứ vào nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng miệng thì Tòa án nhân
dân không thể chỉ dựa vào hồ sơ, mà trong phiên toà phải tiến hành việc xét hỏi một
cách đầy đủ và khách quan…
Sau ngày 30/4/1975, Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, non sông Việt
Nam đã liền một dãy. Cho đến ngày 18/12/1980, Quốc hội đã thông qua bản Hiến
pháp đầu tiên của Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Trên cơ sở Hiến pháp 1980, Luật
tổ chức Tòa án nhân dân 1981, Luật sửa đổi bổ sung luật tổ chức Tòa án nhân dân
1988 được ban hành. Các văn bản pháp luật trên tiếp tục có những quy định về
thành phần Hội đồng xét xử, về các nguyên tắc của tố tụng dân sự như: “Khi xét xử,
Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán” (Điều 4), “Việc xét xử độc lập,
quyết định theo đa số ”(Điều 5),…Như vậy, trong giai đoạn này do đặc thù của
chiến tranh, đất nước bị chia cắt nên từ năm 1954 đến 1975 ở hai Miền Bắc Nam có
hai hệ thống pháp luật khác nhau, vì vậy thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm cũng
GVHD: Trương Thanh Hùng
14
SVTH: Huỳnh Xuân Diễm
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
Luận văn tốt nghiệp
khác nhau. Chỉ đến khi nước nhà thống nhất, Quốc hội của Nhà nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam được bầu ra, các quy định về thủ tục tiến hành phiên toà
mới được áp dụng cho tất cả các Toà án trên toàn quốc. Mặc dù chưa có văn bản
pháp luật tố tụng có hiệu lực pháp lý cao điều chỉnh việc tiến hành phiên toà sơ
thẩm nhưng những nguyên tắc cơ bản của việc tiến hành phiên toà, trình tự tiến
hành phiên toà đã được quy định. Tuy nhiên, các quy định này còn rất tản mạn, chủ
yếu do Tòa án nhân dân tối cao ban hành, nhiều thủ tục quy định chưa được chi tiết,
cụ thể và khoa học nhưng đây vẫn là những cơ pháp lý quan trọng để các Toà án
tiến hành phiên toà sơ thẩm dân sự.
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến 2004
Khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới với sự phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước, các quan hệ xã hội ngày càng đa
dạng và phức tạp hơn trước, nhu cầu giải quyết nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp
luật các tranh chấp dân sự là cần thiết. Việc giải quyết các tranh chấp, yêu cầu dân
sự cần thiết phải được điều chỉnh bằng một văn bản thống nhất và có hiệu lực pháp
lý cao. Trước yêu cầu đó, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự đã được Hội
đồng Nhà nước thông qua ngày 29/11/1989 và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/1990. Đây là văn bản pháp luật tố tụng dân sự có hiệu lực pháp lý cao nhất từ
trước tới nay, tạo ra một hành lang những chuẩn mực nhất định điều chỉnh các quan
hệ trong tố tụng dân sự, đánh dấu bước tiến mới trong quá trình phát triển của Pháp
lệnh tố tụng dân sự. Pháp lệnh có 15 Chương, 88 Điều, trong đó trình tự phiên toà
sơ thẩm dân sự được quy định tại chương X, bao gồm 10 Điều, từ Điều 48 đến Điều
57, quy định về các vấn đề như những người tham gia phiên toà, thủ tục tiến hành
phiên toà: Bắt đầu phiên toà, xét hỏi, tranh luận, nghị án, tuyên án và những thủ tục
tiến hành sau phiên toà. Nhưng các quy định này vẫn còn sơ sài, nhiều vấn đề chưa
được đề cập đến và còn có những điểm bất cập, chưa chặt chẽ, đặc biệt là các quy
định về việc chuẩn bị cho việc mở phiên toà sơ thẩm, thủ tục triệu tập những người
tham gia tố tụng đến phiên toà sơ thẩm, trình tự xét xử sơ thẩm còn nặng về xét hỏi
như phiên toà hình sự v.v.. Đó chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng việc giải quyết các vụ án bị kéo dài, phiên toà sơ thẩm bị hoãn nhiều lần, số
vụ án có kháng cáo, kháng nghị gia tăng, tỷ lệ cải sửa, huỷ án sơ thẩm khi xét xử
phúc thẩm còn cao… Dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự không
được bảo đảm thực hiện đầy đủ.
GVHD: Trương Thanh Hùng
15
SVTH: Huỳnh Xuân Diễm
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
Luận văn tốt nghiệp
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
Thực hiện mục tiêu của Đảng về cải cách tổ chức, hoạt động của các cơ quan
tư pháp, ngày 02/01/2002 Bộ chính trị đã ra Nghị quyết 08-NQ/TW về một số
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, trong đó đã nhấn mạnh
định hướng đổi mới trong hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và Toà án
nói riêng. Đó là: “… Khi xét xử, các Toà án phải bảo đảm cho mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan, Thẩm phán, HTND độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết
quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện các chứng cứ, ý kiến của
Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và
những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp
luật có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật qui định”2. Khi nói đến vấn đề
nâng cao chất lượng hoạt động, cải cách tổ chức của Toà án trong lĩnh vực tố tụng
dân sự trước hết phải nói đến vấn đề đổi mới hoạt động xét xử của Toà án tại phiên
toà sơ thẩm. Trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng, thực trạng Pháp lệnh thủ tục
dân sự và thực tiễn xét xử các vụ việc dân sự, ngày 27/5/2004 Quốc hội Nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự, có hiệu lực kể
từ ngày 1/1/2005. Cùng với việc ban hành Bộ luật tố tụng dân sự, Nhà nước ta cũng
đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật này như Nghị quyết số
01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần
thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Nghị quyết
số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định tại Chương VIII “ Các biện pháp khẩn
cấp tạm thời” của Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày
17/9/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một
số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về “Chứng cứ và chứng minh, Nghị quyết số
02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai “ Thủ tục giải quyết vụ án
tại Toà án cấp sơ thẩm của Bộ luật tố tụng dân sự”,… Với 45 Điều từ Điều 196 đến
Điều 241 của Bộ luật tố tụng dân sự và các hướng dẫn trong các Nghị quyết của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao các vấn đề về phiên toà sơ thẩm dân sự đã
được quy định tương đối đầy đủ, chặt chẽ, khắc phục được tình trạng tản mạn, mâu
thuẫn, khiếm khuyết trong các văn bản tố tụng trước đây. Đặc biệt, các quy định về
phiên toà sơ thẩm có nhiều điểm mới, bảo đảm hơn sự tham gia tố tụng của các
2
Nghị quyết 08 NQ/TW ngày 02/01/2002
GVHD: Trương Thanh Hùng
16
SVTH: Huỳnh Xuân Diễm
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
Luận văn tốt nghiệp
đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự theo hướng mở rộng tranh tụng
v.v..
1.4. Sự cần thiết khi nghiên cứu nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đƣơng
sự trong tố tụng dân sự
Lịch sử phát triển của Tòa án của các nước đã chỉ ra rằng luôn tồn tại song
song hai loại hình tố tụng, tố tụng tranh tụng và tố tụng xét hỏi (tố tụng thẩm vấn).
Tuy nhiên, tùy vào điều kiện kinh tế – xã hội, hệ thống pháp luật mà pháp luật tố
tụng dân sự mỗi nước khác nhau, quy định các vấn đề ở các mức độ khác nhau.
Trong đó, các nước theo hệ thống dân luật (civi law) thì có xu hướng đề cao việc
xét hỏi hơn tranh luận và ngược lại ở những nước theo hệ thống thông luật
(common law) thì lại đề cao việc tranh luận hơn. Theo loại hình tố tụng xét hỏi thì
không đảm bảo một cách đầy đủ cho việc thực hiện quyền bảo vệ nghĩa là nếu
nghiên về thủ tục xét hỏi thì không tạo cơ hội để các bên chứng minh được các
chứng cứ, yêu cầu của mình đưa ra là có căn cứ và hợp pháp, đồng thời có thể thấy
yếu tố quyền lực, sự can thiệp của nhà nước vào các hoạt động này là rất rõ, trong
nhiều trường hợp xét xử còn mang tính hình thức và áp đặt.
Nước ta theo hệ thống dân luật (civi law) nên phiên tòa xét xử phần lớn
nghiêng về loại hình tố tụng xét hỏi, chủ yếu là các Thẩm phán hỏi các đương sự tại
giai đoạn xét xử, mặc dù quyền bảo vệ cũng được ghi nhận trong pháp luật tố tụng
dân sự nhưng quá trình xét xử trên thực tế thẩm phán chưa đề cao và phát huy
quyền bảo vệ của đương sự, chưa đảm bảo được cơ chế, đường lối xét xử theo tinh
thần của nghị quyết 08 - NQ/ TW ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị “về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã nhấn mạnh định hướng mới
trong hoạt động của các cơ quan tư pháp: “Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ
chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện
các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên…nguyên đơn, bị đơn và những người có
quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức
thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định”.
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự là nguyên tắc theo suốt trong quá trình
tố tụng dân sự từ khi khởi kiện, thụ lý vụ án cho đến khi có bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật. Mặc dù, quy định này nhằm đảm bảo cho các bên thực hiện
quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong suốt
quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự nhưng trên thực tế thì vấn đề này hiện
còn rất mờ nhạt, mang tính hình thức. Quyền bảo vệ của các đương sự không được
GVHD: Trương Thanh Hùng
17
SVTH: Huỳnh Xuân Diễm
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
Luận văn tốt nghiệp
thực hiện một cách triệt để, nhiều đương sự khi tham gia vào các giai đoạn của quá
trình tố tụng lại không hình dung được quyền bảo vệ là quyền gì, thực hiện ra sao…
Từ những bất cập hiện có cũng như thực tế xét xử chưa đảm bảo được các
quyền của đương sự khi khởi kiện một vụ án dân sự thì người viết cho rằng nguyên
tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự cần được đưa ra
nghiên cứu để có thể đưa ra cơ chế đảm bảo tốt hơn trong pháp luật về tố tụng dân
sự.
Như vậy, với những nội dung trên có thể thấy rằng, người viết đã phần nào
làm rõ về quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự cũng như vai trò, đặc
điểm, ý nghĩa và sự cần thiết của quyền bảo vệ khi các bên tham gia vào tố tụng.
Đây là quyền được thể hiện xuyên suốt trong quá trình giải quyết vụ án. Mặt khác,
đây cũng là quyền được ghi nhận thành một nguyên tắc trong Bộ luật tố tụng dân
sự - quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự. Để quyền này được thực hiện,
Bộ luật tố tụng dân sự đã có những quy định cụ thể để nhằm đảm bảo cho các bên
khi tham gia vào quá trình tố tụng bảo vệ được quyền và lợi ích cho mình hay lợi
ích của người khác. Bên cạnh đó việc bảo đảm cho các bên thực hiện quyền bảo vệ
cũng là góp phần đảm bảo cho cơ chế xét xử của Tòa án tuân theo quy định của
pháp luật tố tụng dân sự.
GVHD: Trương Thanh Hùng
18
SVTH: Huỳnh Xuân Diễm
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
Luận văn tốt nghiệp
CHƢƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BẢO VỆ
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Trong đời sống dân sự xã hội các quan hệ dân sự là những quan hệ diễn ra
hằng ngày, theo đó các chủ thể của quan hệ dân sự có quyền tự do, tự nguyện, bình
đẳng trong việc thiết lập các quyền và nghĩa vụ dân sự phục vụ cho lợi ích của mình
phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Trong trường hợp có tranh chấp hoặc vi phạm
xảy ra thì họ cũng có quyền lựa chọn cách thức, biện pháp để giải quyết tranh chấp.
Khi họ lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án thì trách nhiệm
chứng minh cho yêu cầu, phản yêu cầu của mình phải thuộc về các đương sự. Hơn
nữa, các vụ kiện dân sự chủ yếu phát sinh là do có sự tranh chấp về quyền và lợi ích
giữa các đương sự. Do đó, việc xác định quyền và nghĩa vụ đó có tồn tại hay không
phải thuộc về các đương sự người biết rõ nguyên nhân, điều kiện phát sinh ra tranh
chấp vì nó không chỉ là con đường ngắn nhất để biết rõ sự thật, mà còn làm các bên
thỏa mãn hơn với kết quả được xác lập lại theo đúng quy định của pháp luật. Vì thế,
trong quá trình giải quyết vụ kiện dân sự, Tòa án phải tạo điều kiện cho các bên
đương sự được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng cách chứng minh
được các yêu cầu của mình là đúng đắn và hợp pháp nhằm nâng cao vai trò chủ
động và tích cực trong việc bảo vệ quyền lợi cho chính họ. Để xem xét quyền bảo
vệ của các chủ thể tham gia tố tụng này được thể hiện như thế nào qua các giai đoạn
tố tụng và thực tế quyền này có được Tòa án đảm bảo thực hiện không, đây cũng
chính là nội dung mà người viết muốn phân tích trong phạm vi chương này.
2.1. Thời điểm bảo đảm quyền bảo vệ của đƣơng sự trong tố tụng dân sự
2.1.1. Thời điểm bắt đầu thực hiện quyền bảo vệ
Khi có tranh chấp dân sự phát sinh dẫn đến việc một trong các bên tham gia
tranh chấp khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình
thì các bên phải chứng minh được yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Vậy,
quyền bảo vệ của các đương sự, người đại diện hợp pháp cũng như người bảo vệ
quyền và lợi ích đương sự bắt đầu từ khi nào?
Nhà nước ta thể chế hóa quyền bảo vệ của đương sự là một nguyên tắc quan
trọng trong pháp luật tố tụng dân sự là khẳng định pháp luật thực sự đã ghi nhận và
bảo đảm cho các đương sự có điều kiện bằng hành vi của mình, tự mình thực hiện
đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng, trên cơ sở đó mà các lợi ích hợp pháp của bản
thân đương sự được bảo vệ và tôn trọng.
GVHD: Trương Thanh Hùng
19
SVTH: Huỳnh Xuân Diễm
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
Luận văn tốt nghiệp
Điều 161 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có
quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp (sau đây gọi chung là
người khởi kiện) khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình”. Song song đó thì khi khởi kiện, người khởi kiện
phải xuất trình các tài liệu chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn
cứ và hợp pháp, tức là phải cung cấp các tài liệu, chứng cứ để chứng minh rằng họ
có quyền khởi kiện đối với quan hệ pháp luật đó. “Trong thời hạn mười lăm ngày kể
từ ngày nhận được thông báo, người được thông báo phải nộp cho Toà án văn bản
ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm
theo, nếu có” Điều 175 Bộ luật tố tụng dân sự. Bằng các chứng cứ, lý lẽ, các bên đã
trình bày ý kiến của mình để gửi đến Tòa án nhằm bảo vệ lợi ích cho chính mình.
Đồng thời, bị đơn còn được quyền đưa ra yêu cầu phản tố lại nguyên đơn theo quy
định tại Điều 176 còn người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ án thì được
quyền đưa ra yêu cầu độc lập khi vụ án có liên quan đến mình theo Điều 177 Bộ
luật tố tụng dân sự.
Do đó, quyền bảo vệ bắt đầu từ khi có đương sự khởi kiện vụ án ra tòa án có
thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2.1.2. Thời điểm chấm dứt quyền bảo vệ
Khi có yêu cầu khởi kiện đến Tòa án thì các bên đã xuất hiện quyền bảo vệ
Theo quy định tại Điều 9 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án phải bảo đảm cho các
đương sự bằng khả năng của chính mình hoặc nhờ người khác thực hiện quyền mà
pháp luật tố tụng cho phép để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho mình.
Như vậy, quyền bảo vệ của các đương sự luôn thể hiện xuyên suốt trong các
giai đoạn của quá trình tố tụng từ khi bắt đầu khởi kiện đến khi bản án có hiệu lực
pháp luật và ở bất kỳ giai đoạn nào thì các bên đều có quyền thực hiện quyền bảo vệ
của mình bằng nhiều hình thức: thông qua việc cung cấp chứng cứ, trình bày ý kiến,
yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập, tranh luận tại phiên Tòa… Vì thế, theo nguyên tắc
chung trong tố tụng dân sự thì người viết cho rằng thời điểm chấm dứt quyền bảo vệ
của đương sự cũng là thời điểm vụ án được giải quyết xong là thời điểm có bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
2.2. Chủ thể thực hiện quyền bảo vệ trong tố tụng dân sự
Trong xã hội hiện đại – xã hội công dân, thì hình thức Nhà nước tiến bộ nhất
là Nhà nước pháp quyền, đóng vai trò là hạt nhân trong kết cấu hệ thống chính trị xã hội. Trong đó, con người vừa là trung tâm, vừa là chủ thể của sự phát triển xã
GVHD: Trương Thanh Hùng
20
SVTH: Huỳnh Xuân Diễm