Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại đầu tư nước NGOÀI tại VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC hợp ĐỒNG xây DỰNG – KINH DOANH–CHUYỂN GIAO (BOT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 79 trang )

ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT KINH DOANH & THƯƠNG MẠI



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2009 – 2013

Đề tài:

ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG
XÂY DỰNG–KINH DOANH–CHUYỂN GIAO
(BOT)

Giảng viên hướng dẫn:
Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

Sinh viên thực hiện:
Trần Duy Cảnh
MSSV: 5095310
Lớp: Luật Thương mại 1

Cần Thơ, tháng 11 năm 2012
1
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh




ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng là yếu tố nền tảng quyết định chất lượng dân sinh,
sự cường thịnh của mỗi đất nước. Trong những năm gần đây, nước ta đang nắm bắt
những nguồn lực đầu tư mạnh mẽ trong và ngoài nước nhằm nhanh chóng xây dựng được
một hệ thống các công trình hiện đại đáp ứng được nhiệm vụ phát triển trong thời kỳ mới.
Như chúng ta đã biết, để xây dựng được các công trình cơ sở hạ tầng hiện đại, đặc biệt là
các công trình đòi hỏi kỹ thuật công nghệ cao thì cần nhiều vốn trong khi nguồn ngân
sách Nhà nước nước ta có hạn. Bởi thế, Nhà nước ta có nhiều chính sách thu hút đầu tư
từ các các nhân, tổ chức trong và ngoài nước, và một trong những hình thức hết sức phổ
biến hiện nay và mang lại hiệu quả cao đó là đầu tư trực tiếp bằng hợp đồng BOT (hợp
đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao). Hình thức đầu tư theo hợp đồng BOT xuất
hiện ở Việt Nam chưa lâu, cho nên còn nhiều vấn đề đặt ra khi ký kết và thực hiện các dự
án, đặc biệt là vấn đề pháp lý. Sự ra đời của Luật đầu tư năm 2005, Nghị định
108/2009/ND-CP và Thông tư 03/2011/TT-BKHDT có nhiều bước tiến bộ dần hoàn
thiện chế định về hợp đồng BOT, tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng vẫn còn tồn tại nhiều
hạn chế cần khắc phục. Do đó, việc nghiên cứu đề tài này thật sự cần thiết nhằm giúp nhà
đầu tư hiểu rõ hơn các quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng BOT nói riêng và
các quy định về pháp luật đầu tư ở Việt Nam nói chung, đồng thời tìm ra những cách
thức tốt nhất đề giải quyết các vấn đề còn tồn tại hiện nay đối với hợp đồng BOT.
2. Mục đích của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm các mục đích sau:
Thứ nhất, tìm hiểu rõ hơn lý luận chung đầu tư nói chung về hợp đồng BOT nói
riêng và các quy định pháp luật hiện hành về đầu tư theo hợp đồng BOT ở Việt Nam.
Thứ hai, cập nhật thực trạng thực hiện của các dự án BOT ở Việt Nam từ đó đánh
giá việc áp dụng các quy định pháp luật vào thực tiễn.

Thứ ba, tìm hiểu những hạn chế của những quy định hiện hành và giải pháp để
giải quyết những hạn chế đó dựa trên quan điểm cá nhân và cả những quan điểm pháp
luật trong và ngoài nước.
2
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh


ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

3. Nội dung và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam về hợp
đồng BOT và các quy định có liên quan và một số trường hợp thực hiện hợp đồng BOT
trên thực tế. Số lượng các quy định pháp luật về hợp đồng BOT hiện hành chủ yếu nằm
trong các văn bản Luật đầu tư năm 2005, Nghị định 108/2009/NĐ-CP được sửa đổi, bổ
sung tại Nghị định 24/2011/NĐ-CP và hướng dẫn cụ thể bởi Thông tư 03/2011/TTBKHĐT. Đây là các văn bản khá mới vì mới được ban hành và có hiệu lực trong thời
gian gần đây là nơi để người viết có thể khai thác được tính mới của đề tài nghiên cứu
của mình. Thêm vào đó, người viết cần có những xem xét đến sự liên quan giữa pháp luật
về đầu tư với các luật khác như Bộ luật dân sự, Luật xây dựng, Luật điện lực, pháp luật
về tố tụng, các quy định có liên quan khác và cả pháp luật nước ngoài có quy định về
hợp đồng BOT. Hơn nữa, trong giai đoạn gần đây, thực tế đầu tư theo hình thức hợp
đồng BOT ở nước ta của các nhà đầu tư không phải lúc nào cũng suông sẽ mà đôi lúc gặp
nhiều khó khăn, đây cũng có thể là vấn đề người viết sẽ đề cập nhiều trong luận văn của
mình đồng thời đưa ra một số đề xuất giải quyết tình trạng trên.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, người viết dựa trên các phương pháp nghiên cứu sau:
Thứ nhất, áp dụng phương pháp phân tích luật viết để hiểu được những quy định
của pháp luật về hợp đồng BOT hiện hành. Đồng thời phân tích những quy định của pháp
luật, các trường hợp cụ thể trong thực tiễn từ đó có những nhận xét đánh giá và bài học

cụ thể cho đề tài.
Thứ hai, áp dụng phương pháp thu thập và xử lý thông tin trong quá trình nghiên
cứu. Thu thập và xử lý thông tin cho việc nghiên cứu là hai bước rất quan trọng trong
cùng một giai đoạn làm luận văn. Người viết sẽ tìm kiếm những nguồn thông tin chính
thống đáng tin cậy phục vụ cho việc hoàn thành tốt đề tài của mình. Việc làm này cũng
giúp người viết biết được tình hình nghiên cứu về lĩnh vực này tới đâu để từ đó quyết
định đi sâu vào phần nào nhằm tạo tính mới cho đề luận văn của mình. Thêm vào đó,
người viết phải biết cách chắc lọc thông tin cần thiết và loại bỏ những thông tin không
cần thiết đến nội dung đề tài của mình nhằm làm cho luận văn cô đọng và thiết thực hơn.
3
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh


ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

Thứ ba, áp dụng phương pháp so sánh luật để làm sáng tỏ đề tài và cũng tìm ra
những điểm tiến bộ hoặc hạn chế (nếu có) của những quy định pháp luật về hợp đồng
BOT. Người viết có thể so sánh các quy định của pháp luật hiện hành với các quy định cũ
hay so sánh các quy định trong nước với quy định của nước ngoài về hợp đồng BOT.
5. Bố cục của luận văn
Luận văn được người viết bố trí thành ba chương nhằm giải quyết từng vấn đề cụ
thể sau:
Chương 1: Lý luận chung về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo hợp đồng
BOT.
Đây là chương lý luận chung về hợp đồng BOT nhằm làm rõ về khái niệm, đặc
điểm, lịch sử hình thành và phát triển, những ưu điểm và hạn chế của việc đầu tư theo
hợp đông BOT. Qua tham khảo nhiều tài liệu, người viết tập hợp và phân tích những
quan điểm của nhiều tác giả trong và ngoài nước cộng với những quan điểm cá nhân làm

rõ bản chất của hợp đồng BOT, làm cơ sở cho việc nghiên cứu các phần tiếp theo của
luận văn.
Chương 2: Pháp luật Việt Nam hiện hành về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
theo hợp đồng BOT
Ở chương này, người viết tập chung phân tích đánh giá những quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh mối quan hệ về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo
hợp đồng BOT. Nội dung chương này giải quyết 3 vấn đề lớn là: quy định của pháp luật
về hợp đồng BOT, quy trình đầu tư và giải quyết tranh chấp. Căn cứ vào những quy định
của pháp luật mà chủ yếu là Luật đầu tư, Nghị định 108/2009/NĐ-CP, Nghị định
24/2011/NĐ-CP, Thông tư 03/2011/NĐ-CP và các văn bản khác liên quan đến hợp đồng
BOT, người viết tiến hành phân tích nhằm làm sáng tỏ và tìm ra một số vấn đề còn tồn tại
làm cơ sở nêu lên kiến nghị ở chương 3.
Chương 3: Một số vấn đề còn tồn tại trong đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và
giải pháp khắc phục
Người viết nêu lên những vấn đề còn tồn tại trong đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
trên cơ sở thực tiễn và các hạn chế của pháp luật Việt Nam và những giải pháp để giải
4
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh


ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

quyết cho từng vấn đề một bao gồm cả giải pháp pháp lý lẫn thực tiễn nhằm hoàn thiện
hơn các quy định của pháp luật và tăng cường sự hiệu quả đối với đầu tư theo hợp đồng
BOT. Chương này tập trung vào một số vấn đề về quy trình đầu tư, chất lượng công
trình, tài chính, việc bảo vệ quyền lợi các bên trong hợp đồng…Người viết dẫn chứng
nhiều ví dụ thực tiễn đang hiện diện trong đời sống thường nhật của chúng ta về các công
trình BOT còn dang dở, kém chất lượng, thời gian thực hiện kéo dài, chi phí đội lên cao

ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của nhà nước, người dân và cả nhà đầu tư. Từ đó dẫn
đến một phần mà người viết tâm đắc là việc bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan trong
các dự án BOT và cho đó là tiêu chí xem xét mức độ thành công của các dự án BOT.
Với những nội dung sắp trình bày theo bố cục này, người viết tin tưởng rằng sẽ
giải quyết được những vấn đề của đầu tư nước ngoài tại Việt Nam một cách đầy đủ, trọng
tâm và xác đáng nhất.
---------------------------------------------------------------------------------------

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ THEO HỢP ĐỒNG BOT
1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẦU TƯ THEO HỢP ĐỒNG BOT
5
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh


ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

1.1.1 Một số quan điểm về đầu tư theo hợp đồng BOT
Thuật ngữ đầu tư nói chung và đầu tư theo hợp đồng xây dựng – kinh doanh –
chuyển giao (sau đây gọi là BOT) không còn xa lạ trong đời sống kinh tế, pháp luật và cả
nhiều ngành khoa học khác. Trong thời kỳ công nghiệp phát triển mạnh mẽ hiện nay,
nhiều hoạt động đầu tư được xúc tiến mạnh mẽ mang lại nhiều thành tựu to lớn cho đời
sống con người, trong đó có đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT. Do có nhiều tác giả
của các ngành khoa học từ các nơi khác nhau trên thế giới nghiên cứu vấn đề này nên sẽ
có nhiều quan điểm khác nhau tùy theo hoàn cảnh cụ thể. Chúng ta xem xét đầu tư theo
hợp đồng BOT trên khía cạnh pháp lý là chính yếu.
Theo tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO), BOT là một
thuật ngữ để chỉ một mô hình hay một cấu trúc sử dụng đầu tư tư nhân để xây dựng cơ sở

hạ tầng vốn dĩ được dành riêng cho khu vực nhà nước.1 Mặc dầu, đây không phải là
phương thức duy nhất đề thu hút vốn từ tư nhân để xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng
công cộng, nhưng BOT là phương thức được sử dụng phổ biến hiện nay ở. Theo đó, nhà
nước sử dụng đầu tư tư nhân để thực hiện các dự án thuộc trách nhiệm của mình. Từ mô
hình hay cấu trúc gần giống với từ hình thức được luật Việt Nam dùng để nhìn nhận về
hợp đồng BOT hiện nay. Nhìn chung, quan điểm về đầu tư theo hợp đồng BOT của
UNIDO khá giống với luật Việt Nam, tức là xem hợp đồng BOT là một hình thức đầu tư
chứ BOT không chỉ là một hợp đồng đơn thuần như các hợp đồng trong dân sự, thương
mại.
BOT còn được hiểu là một hình thức phổ biến trong quan hệ đối tác giữa Nhà
nước và lĩnh vực tư nhân (private – public – partnership hay còn được viết tắt là PPP),
theo đó nhà đầu tư tư nhân sẽ xây dựng và vận hành các công trình một thời gian hợp lý,
sau đó chuyển giao cho cơ quan công quyền.2 Quan điểm này nhìn nhận đầu tư theo hợp
đồng BOT là một quá trình gồm ba bước xây dựng, vận hành, chuyển giao theo thỏa
thuận của các bên trong hợp đồng. Nhìn nhận này cũng có điểm giống với quy định của
Việt Nam là nhìn nhận BOT như một quy trình đầu tư.
Một số quốc gia định nghĩa đầu tư theo hợp đồng BOT tùy theo điều kiện cụ thể.

1
2

Nguyễn Thị Láng - Tạp chí khoa học pháp lý số 4(41)/2007
Emmanuelle Auriol and Pierre M. Picard – A Theory of BOT Concession Contracts

6
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh



ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

Theo luật hợp đồng BOT của Philiphine, BOT là một hợp đồng theo đó nhà đầu tư
đề xuất cam kết xây dựng một công trình cơ sở hạ tầng, cung cấp tài chính, duy trì hoạt
động của nó. Nhà đầu tư được phép thu phí, cho thuê công trình để thu hồi chi phí đầu tư,
vận hành và bảo trì công trình trong thời hạn không quá 50 năm sau đó chuyển giao cho
chính quyền địa phương hoặc cơ quan đại diện hợp pháp của Chính phủ.3
Theo pháp luật Hàn Quốc, hợp đồng BOT là quy định nhằm mục đích xây dựng,
phục hồi các công trình kết cấu hạ tầng, cở sở vật chất thuộc quyền sở hữu của nhà nước
dưới sự xem xét ký kết hợp đồng trao quyền cho nhà đầu tư thực hiện việc xây dựng, sở
hữu tạm thời để kiểm soát, vận hành công trình trong một khoảng thời gian nhất định. Ta
thấy rằng, các quốc gia quy định về hợp đồng BOT cụ thể hơn về nhiều mặt như: hoạt
động của nhà đầu tư phải làm trong thời gian dự án, thời hạn tối đa của dự án, cơ quan
nhà nước được chuyển giao công trình và cả đối tượng của hợp đồng.4
Rõ ràng các quốc gia khác nhau nhìn nhận về BOT khác nhau. Trong khi
Philiphine xem BOT là một cam kết xây dựng thì Hàn Quốc lại xem BOT là một hợp
đồng trao quyền.
Một quan điểm khác dựa vào tính chất về phương diện tài chính của hợp đồng
BOT cho rằng: BOT là cách thức tài trợ dự án theo đó bên cho vay đới với dự án BOT
chỉ xem xét nguồn thu của dự án như là toàn bộ hoặc phần lớn việc bảo đảm các khoản
vay mà không dựa trên tài sản của bên đi vay như các hợp đồng tín dụng thông thường
khác5. Vấn đề này chúng ta sẽ tìm hiểu trong các phần tiếp theo của đề tài.
Tóm lại, có nhiều quan khác nhau về đầu tư theo hợp đồng BOT hiện nay. Việc
nhìn nhận đúng đắn bản chất của hợp đồng BOT có ý nghĩa quan trọng đối với việc hoàn
thiện các quy định của pháp luật về đối tượng này.
1.1.2 Khái niệm về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo hợp đồng BOT
Trước hết chúng ta cần tìm hiểu về thuật ngữ đầu tư.
Trong kinh tế, đầu tư là hoạt động sử dụng nguồn lực về tài chính, nguồn lực về
vật chất và trí tuệ để sản xuất kinh doanh trong một thời gian tương đối dài nhằm thu về


3

Luật BOT (BOT law) của Philiphine hiện hành
trade.ec.europa.eu/doclib/html/145179.htm
5
trade.ec.europa.eu/doclib/html/145179.htm
4

7
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh


ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

lợi nhuận và lợi ích kinh tế xã hội.6 Đối với lĩnh vực kinh tế thì người ta xem đầu tư là
một hoạt động vì mục đích lợi nhuận, cho nên các hoạt động khác không vì mục đích lợi
nhuận không được xếp vào hoạt động đầu tư đối với họ. Khái niệm như thế không toàn
diện nhưng nó mô tả được bản chất của hoạt động đầu tư phù hợp với góc nhìn của
những chuyên gia kinh tế.
Một nhận định khác, đầu tư là sự bỏ vốn vào một đối tượng nào đó nhằm đạt được
một mục đích nào đó . Nhận định này khá chung chung về mục đích của hoạt động đầu
tư. Tuy nhiên, cụm từ “mục đích nào đó” khá rộng khiến người đọc mơ hồ. Theo người
viết khái niệm về đầu tư thứ nhất là hợp lý hơn đối với lĩnh vực kinh tế.
Theo Từ điển tiếng Việt, đầu tư được hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất là việc bỏ vốn
và nhân lực vào việc kinh doanh. Ở nghĩa này không đề cập đến mục đích của việc đầu
tư, thế nhưng phạm vi đề cập của nó chỉ vỏn vẹn trong lĩnh vực kinh doanh, mà hoạt
động kinh doanh bản chất của nó là lợi nhuận, vì thế, ở nghĩa thứ nhất này khá gần với
khái niệm về đầu tư trong lĩnh vực kinh tế nêu trên. Thứ hai, đầu tư có nghĩa là bỏ sức

lực vào việc gì đó để có kết quả tốt. Ở nghĩa này đề cập đến mục đích của hoạt động đầu
tư là đạt được kết quả tốt, kết quả tốt ở đây không chỉ bao hàm lợi nhuận kinh doanh mà
còn đề cập đến nhiều mục đích khác của việc đầu tư. Tóm lại, khái niệm đầu tư gồm hai
phần, thứ nhất, hoạt động của đầu tư là “bỏ ra”, thứ hai, mục đích của đầu tư là “nhận
lại” đối tượng mà nhà đầu tư hướng đến.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, đầu tư không chỉ được nhìn nhận như hoạt động có
mục đích của nhà đầu tư trong lĩnh vực kinh tế mà còn xem xét đầu tư như một quá trình
chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Luật định nghĩa đầu tư như sau: “đầu tư là việc bỏ vốn
bằng các tài sản hữu hình và vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu
tư theo quy định của Luật đầu tư và các quy định của pháp luật khác có liên quan”.7
Chúng ta không thấy việc đề cập đến mục đích lợi nhuận của hoạt động đầu tư theo định
nghĩa trên, tuy nhiên đầu tư là hoạt động thương mại theo Luật Thương mại 2005 mà bản
chất của thương mại là có mục đích lợi nhuận. Pháp luật điều chỉnh quan hệ đầu tư nhằm
cân đối quyền lợi giữa các bên tham gia vào mối quan hệ này, do đó khoa học pháp lý có
góc nhìn khách quan của người đứng giữa - chủ thể quản lý xã hội nhằm đảm bảo sự
6
7

Cần bổ sung tên tác giả Giáo trình kinh tế học đại cương trường Đại học Cần Thơ
Khoản 1 điều 3 Luật đầu tư 2005

8
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh


ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

công bằng về quyền lợi giữa các bên. Không thể nói cách hiểu về đầu tư dưới gốc độ

khoa học pháp lý là bao quát và chính xác hơn các ngành khác bởi vì tùy theo mục đích
nghiên cứu của mình mà từng ngành khoa học đưa ra nhận định khác nhau.
Chúng ta cần tìm hiểu khái niệm nước ngoài trong tên đề tài đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam theo hợp đồng BOT . Khái niệm nước ngoài ở đây chỉ dành cho nhà đầu tư. Để
thỏa mãn yếu tố nước ngoài thì nhà đầu tư phải là cá nhân, pháp nhân không có quốc tịch
Việt Nam. Việc xác định quốc tịch của cá nhân, pháp nhân được thực hiện theo pháp luật
Việt Nam.
Chúng ta cần tìm hiểu khái niệm tại Việt Nam trong tên đề tài đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam theo hợp đồng BOT. Cụm từ “tại Việt Nam” có thể được hiểu là trên lãnh
thổ Việt Nam. Lãnh thổ Việt Nam bao gồm đất liền, biển, hải đảo, không phận và các
lãnh thổ di động thuộc chủ quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy
cụm từ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được hiểu là hoạt động đầu tư do chủ thể nước
ngoài trên lãnh thổ của Việt Nam.
Tiếp đến, chúng ta cần hiểu về hợp đồng BOT.
Hợp đồng theo nghĩa chung nhất là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong những quan hệ cụ thể.8 BOT là từ
viết tắt của Build – Operate - Transfer trong tiếng Anh được các nhà làm luật dịch sang
thành Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành, chúng ta phải xem xét hợp đồng BOT trên nhiều phương diện pháp lý khác nhau:
Thứ nhất, chúng ta có thể xem xét hợp đồng BOT là một quá trình gồm 3 bước
theo đó nhà đầu tư được phép xây dựng công trình và kinh doanh (vận hành) công trình
đó một thời gian nhất định để thu hồi vốn và có lãi. Sau đó, chuyển giao không bồi hoàn
công trình cho Nhà nước. Các nhìn nhận này dựa vào tên gọi của hợp đồng. Cách nhìn
nhận này không hoàn toàn bao quát được cả quá trình đầu tư tuy nhiên đã đề cập đến nội
dung chính yếu của hợp đồng BOT.
Thứ hai, ta xem xét hợp đồng BOT ở khía cạnh chủ thể. Chủ thể của hợp đồng
BOT đặc biệt so với các hợp đồng khác, có một bên là cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
bên kia là nhà đầu tư. Việc quy định một bên trong hợp đồng là Cơ quan nhà nước là một
8


/>
9
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh


ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

điều đặc biệt của hợp đồng BOT vì so với các loại hợp đồng dân sự, thương mại thông
thường khác thì không có quy định này. Do đó, người ta còn gọi hợp đồng BOT là sự hợp
tác giữa công (Nhà nước) và tư (nhà đầu tư).
Thứ ba, hợp đồng BOT được định nghĩa là một hợp đồng cấp quyền, theo đó nhà
nước có nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, nhưng không đủ khả
năng tài chính và kinh nghiệm để thực hiện các công trình đó nên trao cho một hoặc một
nhóm nhà đầu tư, thông qua quy trình chọn thầu, đặc quyền xây dựng, vận hành, quản lý
và khai thác thương mại dự án đó trong một thời hạn nhất định đủ để thu hồi vốn và lợi
nhuận hợp lý và sau đó chuyển giao công trình không bồi hoàn cho nhà nước. Định nghĩa
này không nằm trong phần giải thích từ ngữ về hợp đồng BOT nhưng khi xem xét tất cả
các quy định của luật Việt Nam thì có thể thấy được bản chất này.
Thứ tư, BOT được hiểu là phương thức huy động vốn của nhà đầu tư tư nhân để
tài trợ, xây dựng và kinh doanh công trình cơ sở hạ tầng thường do nhà nước thực hiện.
Các công trình thuộc dự án BOT thường có giá trị tài sản lớn, được thực hiện trong thời
gian khá dài, vì thế nguồn ngân sách quốc gia có thể khó có thể đáp ứng được. Để đáp
ứng nhu cầu phát triển đất nước, nhà nước phải huy động vốn từ tư nhân bằng phương
thức hợp đồng BOT. Nhà nước tạo cho nhà đầu tư nhiều ưu đãi về các khoản vay nhằm
tạo điều kiện cho nhà đầu tư phát huy khả năng về công nghệ, nhận lực cũng như kinh
nghiệm của mình trong quá trình thực hiện dự án.
Theo quy định pháp luật, Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (gọi tắt
là Hợp đồng BOT) là hợp đồng được ký giữa Cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Nhà

đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định;
hết thời hạn, Nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt
Nam.9 Có một số vấn đề cần làm rõ từ định nghĩa nêu trên.
Thứ nhất, hợp đồng BOT là một hình thức đầu tư hay chỉ là một hợp đồng ghi
nhận sự thỏa thuận của các bên. Luật đầu tư định nghĩa hợp đồng BOT là “hình thức đầu
tư” trong khi Nghị định hướng dẫn lại nói rằng đây là “hợp đồng”. Người viết cho rằng
hợp đồng BOT là một hình thức đầu tư là hợp lý hơn. Bởi vì, thông qua hợp đồng BOT,
nhà đầu tư tiến hành cả một dự án đầu tư bao gồm việc thành lập một doanh nghiệp dự án
9

Khoản 2 điều 2 108/2009/NĐ-CP

10
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh


ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

BOT. Hơn nữa Luật đầu tư 2005 ghi nhận hợp đồng BOT là một trong những hình thức
đầu tư trực tiếp cùng với hợp đồng BCC, BTO và BT.
Thứ hai, cần hiểu đúng cụm từ “công trình kết cấu hạ tầng”. Đây là một phạm trù
rất rộng, tuy nhiên trong văn bản hướng dẫn thi hành Luật đầu tư chỉ đề cập đến một số
đối tượng như các công trình giao thông đường bộ, đường không, đường sắt, cung cấp
nước sạch, điện và các công trình khác.10 Do vậy, chúng ta cần hiểu theo nghĩa hẹp hơn
như trong hướng dẫn của pháp luật. Thêm vào đó, từ “xây dựng” phải được hiểu theo
nghĩa rộng hơn bởi vì các dự án BOT không chỉ là các dự án xây dự mới mà còn các dự
án mở rộng, nâng cấp, sữa chữa, hiện đại hóa các công trình. Tuy nhiên các cụm từ nêu
trên đều thuộc phạm trù của lĩnh vực xây dựng vì đối tượng của chúng ta các công trình

kết cấu hạ tầng, cho nên, theo người viết ta không cần bổ sung thêm quy định của pháp
luật.
Thông qua tất cả các phân tích trên, người viết xin đề xuất khái niệm đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam theo hợp đồng BOT như sau: “đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo
hợp đồng BOT là hình thức đầu tư theo đó Nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh
doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định trên lãnh thổ Việt Nam;
hết thời hạn, Nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà
nước Việt Nam”.
1.2 LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỢP ĐỒNG BOT
1.2.1 Sự hình thành và những thành tựu đạt được của việc đầu tư theo hợp đồng
BOT trên thế giới
1.2.1.1 Sự ra đời của đầu tư theo hợp đồng BOT
Hợp đồng BOT ra đời do nhiều yếu tố.
Hợp đồng BOT ra đời trong thời kỳ quan hệ hợp tác quốc tế phát triển. Trải qua
nhiều giai đoạn phát triển của lịch sử, hợp tác quốc tế dần dần phát triển lên một tầm cao
mới, khi đó hội đủ các yếu tố hình thành nên hợp đồng BOT. Giao lưu quốc tế đã có từ
lâu kể từ thời hình thành những Nhà nước đầu tiên. Tuy nhiên, sự ra đời của hợp đồng
BOT phải bắt nguồn từ sự hợp tác quốc tế hiện đại khi mà công nghiệp rất phát triển. Bởi
vì, bên cạnh hợp tác quốc tế thì cần có một số yếu tố quan trọng khác đủ điều kiện hình
10

Điều 4 Nghị định 108/2009/NĐ-CP

11
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh


ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT


thành nên hợp đồng BOT như sự tiến bộ khoa học, chính sách của Nhà nước, nguồn nhân
lực đáp ứng được khả năng thi công… Ta thấy rằng, hợp tác là điều kiện tiên quyết dẫn
đến sự hình thành của hợp đồng BOT giữa các quốc gia trên thế giới.
Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật có vai trò quan trọng đối với sự ra đời của hợp
đồng BOT. Những thành tựu khoa học công nghệ là nền tảng để phát triển kinh tế mà
trước tiên là việc hoàn thiện các cơ sở hạ tầng của đất nước. Tuy nhiên, tốc độ phát triển
về khoa học giữa các quốc gia là không đồng đều tạo nên sự chênh lệch về trình độ thiết
kế, thi công, vận hành các công trình. Đối với các nước có nền công nghiệp hiện đại, họ
sở hữu nguồn chất xám tốt là tác nhân quan trọng để có được những công trình hiện đại,
nhưng đối với các quốc gia đang phát triển họ thiếu thốn mọi mặt và cần phải hợp tác với
các quốc gia phát triển để thụ hưởng các thành tựu của khoa học. Hơn nữa, một quốc gia
dù có phát triển đến đâu thì cũng có những mặt hạn chế của mình, họ cần phải hợp tác để
hoàn thiện chính mình. Việc bổ sung cho nhau những tiến bộ khoa học chính là một con
đường dẫn đến sự ra đời của của hợp đồng BOT.
Chính sách của mỗi quốc gia cũng là một điều kiện không kém phần quan trọng
trên con đường hình thành những hợp đồng BOT. Một quốc gia có nền kinh tế đóng thì
không thể nào có được những hợp đồng BOT đối với nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa,
trong một nền kinh tế tự cung tự cấp khi Nhà nước nắm hết trong tay những ngành công
nghiệp quan trọng mà không mở cửa giao lưu quốc tế thì rõ ràng có rất ít cơ hội cho lĩnh
vực tư nhân có thể đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của đất nước. Và cũng chính vì vậy mà
ở những nước này hợp đồng BOT không thể ra đời. Ngược lại, ở các nước có nền kinh tế
mở, giao lưu quốc tế phát triển thì đầu tư trong và ngoài nước đều phát triển. Đó là môi
trường tốt cho hợp tác và cạnh tranh. Kinh tế Nhà nước không thể để tụt hậu với các quốc
gia láng giềng mà còn so với lĩnh vực tư nhân trong nước.
Một quốc gia có thể áp dụng hình thức BOT để phát triển đất nước khi hội đủ các
yếu tố trên. Lịch sử cho thấy, hợp đồng BOT đầu tiên được diễn ra ở Vương quốc Anh
dành cho một công trình đường cao tốc. Đó là kết quả tất yếu khi nền công nghiệp của
Anh quốc thời bấy giờ phát triển khá nhanh với các cuộc Cách mạng công nghiệp, khoa
học công nghệ, các quỹ tài chính công dần hình thành, giao lưu quốc tế được mở rộng.

Đó là những điều kiện thuận lợi để hợp đồng BOT ra đời. Nhanh chóng sau đó, các quốc
12
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh


ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

gia lân cận như Tây Ban Nha, Ý, Bỉ và Đức đã làm theo, và các dự án BOT đầu tiên đã
ra đời như: bến cảng, đường sắt ở Anh và Mỹ, Périer Brother (1872) tại Pháp về cung cấp
nước sạch, Suez Canal (1859) và nhiều công trình khác. Sau này hợp đồng BOT ngày
càng trở nên phổ biến góp phần tích cực vào việc phát triển cở sở hạ tầng cho nhiều quốc
gia, làm tiền đề cho những nền kinh tế phát triển vượt bậc.11
1.2.1.2 Sự phát triển của các dự án BOT và những thành tựu đạt được
Kể từ hợp đồng BOT đầu tiên được ký kết đến nay là một thời gian dài với nhiều
thay đổi lịch sử, theo đó hợp đồng BOT cũng từng bước phát triển và mang lại những
thành tựu cho nền công nghiệp thế giới, đặc biệt là về lĩnh vực xây dựng cở sở hạ tầng.
Người viết phân tích những phát triển và thành tựu đạt được của từng đối tượng cụ thể
trong hợp đồng BOT nhằm cho thấy rõ mức độ phát triển và những đóng góp của hình
thức đầu tư này đối với nên công nghiệp toàn cầu.
Đầu tư theo hợp đồng BOT thể hiện vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển các
công trình phục vụ giao thông vận tải. Nhiều công trình lớn như đường giao thông, hầm
đường bộ, đường sắt, hàng không hiện đại bậc nhất hiện nay được xây dựng theo con
đường hợp đồng BOT. Các công trình này đáp ứng nhu cầu lớn về vận chuyển hàng hóa,
hành khách, nguyên vật liệu cho công cuộc phát triển kinh tế, tăng cường mối giao lưu
quốc tế, hợp tác, giữa các quốc gia. Những công trình tiêu biểu trong thời gian qua mà
chúng ta có thể nói đến như: sân bay quốc tế Kansai (Nhật Bản), đường cao tốc Bắc-Nam
(Malaysia), dự án nâng cấp hệ thống đường bộ và đường sắt Băng Cốc (Thái Lan), những
con đường quốc lộ của Brasil, Mexico, Ấn Độ và nhiều quốc gia khác trên thế giới cũng

được xây dựng theo hình thức đầu tư này.12 Còn rất nhiều dự án đang được triển khai
thực hiện hứa hứa hẹn về những công trình thiết thực sẽ đưa vào sử dụng trong thời gian
tới.
Trong lĩnh vực năng lượng, đầu tư theo hợp BOT cũng đạt được nhiều thành tựu
nổi bậc. Nhiều dự án đầu tư được thực hiện như: nhà máy năng lượng hạt nhân Daya
Bay, nhà máy điện ở Hunan Changsa (Trung Quốc), nhà máy nhiệt điện Petacalco ở
Mexico, dự án sản xuất năng lượng bằng chất thải Zawiercie (Phần Lan), dự án về năng

11
12

Emmanuelle Auriol and Pierre M. Picard – A Theory of BOT Concession Contracts
/>
13
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh


ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

lượng Paiton (Indonesia), và rất nhiều dự án khác đang được thực hiện. Các dự án này
góp phần đáp ứng nhu cầu lớn về năng lượng nói chung của từng quốc gia, giải quyết
được vấn đề về năng lượng cho sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt trong thời kỳ công
nghiệp phát triển hiện nay.
Ngoài ra, các dự án BOT trên thế giới còn đóng vai trò rất quan trọng trong việc
nâng cao chất lượng đời sống sinh hoạt cho con người như: bảo vệ môi trường, cung cấp
nước sạch, xây dựng trường học, bệnh viện và nhiều công trình ý nghĩa khác. Thông qua
các dự án BOT người dân được tiếp cận với môi trường sinh hoạt hiện đại, các dịch vụ
công cộng có chất lượng cao, vì thế thỏa mãn được nhu cầu của mình. Có rất nhiều dự án

BOT như thế đã và đang được thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giớ như: bệnh viện nhi
đồng Mato Grosso State, bệnh viện Natal (Brasil), bện viện thành phố Isparta (Thổ Nhĩ
Kỳ), dự án quản lý nước sạch, xử lý chất thải ở Đan Mạch, sản xuất năng lượng từ rác
thải ở Băng Cốc (Thái Lan), nhà máy cung cấp nước sạch ở Thượng Hải và Bắc Kinh
(Trung Quốc) và nhiều công trình khác.13 Đây là những công trình quan trọng có ý nghĩa
lớn trong việc cải thiện chất lượng cuộc sống dân sinh của từng quốc gia. Hi vọng trong
thời gian tới sẽ còn nhiều dự án như vậy được thực hiện.
Tóm lại, trải qua thời gian đủ dài để phát triển, đầu tư theo hợp đồng BOT đã đạt
được nhiều thành tựu rất đáng ghi nhận. Nhiều công trình kết cấu hạ tầng được xây dựng
không ngừng góp phần phát triển mọi mặt của thế giới, khẳng định được vai trò quan
trọng của việc đầu tư theo hợp đồng BOT. Trong thời gian tới, hình thức đầu tư này hứa
hẹn sẽ mang lại nhiều thành tựu mới, những công trình mới ở khắp nơi trên thế giới.

1.2.2 Sự hình thành và phát triển của đầu tư theo hợp đồng BOT tại Việt Nam
Tại Việt Nam, đầu tư theo hợp đồng BOT ra đời và từng bước phát triển trong sự
hòa nhập vào sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Năm 1975, khi nước hòa bình
lập lại, Việt Nam thống nhất, Đảng và Nhà nước đã quan tâm tới nhiệm vụ quan trọng là
xây dựng đất nước, trong đó có hợp tác đầu tư với nước ngoài. Những văn bản pháp luật
đầu tiên đã ra đời để điều chỉnh lĩnh vực này. Khi Đảng và Nhà nước ta quyết định mở
13

(tham khảo ngày 24/8/2012)

14
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh


ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT


cửa nền kinh tế, đó chính là lúc nguồn vốn đầu tư nước ngoài có cơ hội tràn vào Việt
Nam nhiều hơn, cũng như lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh trong nước có thể phát triển
và có thể đầu tư ngược vào lĩnh vực kinh tế Nhà nước. Sau một thời gian mở cửa, đầu tư
theo hợp đồng BOT được áp dụng tại Việt Nam và mang lại nhiều thành tựu to lớn.
Nhiều công trình dự án BOT đã hoàn thành và đưa vào sử dụng góp phần quan trọng vào
sự phát triển kinh ta nhà đầu tư không phải được Nhà nước Việt Nam bảo đảm một
cách tuyệt đối. Bởi lẽ, đầu tư là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi và đi kèm với nó là rủi
ro và thua lỗ. Nhà nước không thể đảm bảo cho nhà đầu tư là vốn và tài sản của họ khi
78
79

Khoản 3 điều 38 Nghị đinh 108/2009/NĐ-CP
Điều 34,35 Luật Đất đai 2003

61
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh


ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

đầu tư tại Việt Nam còn nguyên vẹn nếu như có rủi ro, thua lỗ xảy ra. Mà kết quả kinh
doanh phụ thuộc vào doanh nghiệp dự án trong quá trình vận hành của mình đã làm việc
đạt hiệu quả ra sao. Nhà nước bảo đảm vốn và tài sản của nhà đầu tư nước ngoài chỉ
trong phạm vi nhất định. Vốn đầu tư và tài sản hợp pháp của Nhà đầu tư không bị quốc
hữu hóa hoặc bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. Trong trường hợp cần thiết phải
trưng mua, trưng dụng tài sản của Nhà đầu tư, Nhà nước bảo đảm thanh toán hoặc bồi
thường tài sản và vốn của Nhà đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư hoặc theo các điều

kiện khác thỏa thuận tại Hợp đồng dự án.80
Bảo lãnh nghĩa vụ của Nhà đầu tư, Doanh nghiệp dự án và các doanh nghiệp
khác81
Nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án và các doanh nghiệp khác tham gia vào thực hiện
dự án BOT có thể gặp rất nhiều khó khăn về vốn, đầu ra sản phẩm, dịch vụ…Vì thế họ
rất cần sự bản lãnh của Chính phủ Việt Nam trong những trường hợp cần thiết. Chính
phủ chỉ định cơ quan có thẩm quyền bảo lãnh vốn vay, cung cấp nguyên liệu, tiêu thụ sản
phẩm và các nghĩa vụ hợp đồng khác cho Nhà đầu tư, Doanh nghiệp dự án hoặc các
doanh nghiệp khác tham gia thực hiện Dự án và bảo lãnh nghĩa vụ của các doanh nghiệp
nhà nước bán nguyên liệu, mua sản phẩm, dịch vụ của Doanh nghiệp dự án.
Cũng như vấn đề bảo đảm vốn và tài sản của nhà đầu tư, bảo lãnh nghĩa vụ ở đây
không phải là tuyệt đối mà nhà đầu tư, doanh nghiệp BOT và các doanh nghiệp khác phải
có chiến lược xây dựng, vận hành kinh doanh công trình dự án một cách hợp lý tránh rơi
vào tình trạng khó khăn nêu trên.

Bảo đảm về quyền thế chấp tài sản82
Nhà đầu tư nước ngoài được pháp luật Việt Nam bảo vệ về quyền và lợi ích hợp
pháp của mình khi tiến hành đầu tư tại Việt Nam như công dân Việt Nam (trừ một số
quyền và nghĩa vụ nhất định). Theo đó, doanh nghiệp dự án có quyền thế chấp tài sản,
quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, việc này chỉ được

80

Điều 6 Luật Đầu tư năm 2005 và điều 45 Nghị định 108/2009/NĐ-CP
Điều 40 Nghị định 108/2009/NĐ-CP
82
Điều 41 Nghị định 108/2009/NĐ-CP
81

62

GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh


ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

thực hiện khi được sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam
nhằm đảm bảo đúng mục tiêu, tiến độ của dự án.
Đảm bảo về việc chuyển vốn và tài sản ra nước ngoài
Việc được phép chuyển vốn và tài sản ra nước ngoài là nhu cầu của nhà đầu tư
nước ngoài khi thực hiện dự án BOT tại Việt Nam. Tuy nhiên, không phải bất kỳ khoản
vốn, tài chính nào của nhà đầu tư cũng được phép chuyển ra nước ngoài mà phải đáp ứng
các điều kiện nhất định. Trước hết, nhà đầu tư phải hoàn thành nghĩa vụ về tài chính tại
Việt Nam như trả nợ vay, thanh toán các chi phí khác…trước khi chuyển tài sản ra nước
ngoài. Thêm nữa, nhà đầu tư chỉ được chuyển những khoản thu nhập được xem là hợp
pháp ra nước ngoài như: lợi nhuận từ sản xuất kinh doanh, vốn đầu tư và các khoản thanh
lý, tiền gốc và các khoản lãi suất tại ngân hàng…Bên cạnh đó, thủ tục chuyển vốn và tài
sản ra nước ngoài phải tuân theo quy định của pháp luật về ngoại hối của Việt Nam.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ83
Nhà đầu tư nước ngoài có thế mạnh về khoa học kỹ thuật mà đi đôi với nó là các
công trình nghiên cứu khoa học với các sản phẩm về sở hữu trí tuệ. Việc đảm bảo an toàn
quyền sở hữu trí tuệ của nhà đầu tư nước ngoài cũng đồng nghĩa với việc thu hút nhà đầu
tư nước ngoài an tâm đầu tư tại Việt Nam. Theo đó, nhà đầu tư nước ngoài được hưởng
những lợi ích xứng đáng và được đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ của mình trong việc
chuyển giao khoa học công nghệ tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về sở hữu trí
tuệ, chuyển giao công nghệ và những quy định khác có liên quan.
Đảm bảo đầu tư trong trường hợp chính sách, pháp luật của Việt Nam có
thay đổi84
Trong quá trình điều hành đất nước, việc thay đổi các quy định pháp luật cũng như

đường lối chính sách phát triển kinh tế của đất nước cho phù hợp với tình hình thực tế là
rất cần thiết. Thực tế, pháp luật Việt Nam được sữa đổi, thay thế bổ sung rất thường
xuyên trong khi các dự án BOT lại có thời gia tồn tại tương đối dài, thường là các dự án
trung và dài hạn. Cho nên, việc thay đổi chính sách, pháp luật sẽ ảnh hưởng đến quyền
lợi của nhà đầu tư, có thể gây ra thiệt hại và cũng có thể mang lại nhiều lợi ích hơn. Để
83
84

Điều 7 Luật Đầu tư 2005
Điều 11 Luật Đầu tư năm 2005

63
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh


ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

ngăn ngừa thiệt hại có thể xảy ra, pháp luật Việt Nam có những quy định nhằm bảo vệ
quyền lợi của nhà đầu tư:
Trường hợp pháp luật, chính sách mới được ban hành có các quyền lợi và ưu đãi
cao hơn so với quyền lợi, ưu đãi mà nhà đầu tư đã được hưởng trước đó thì nhà đầu tư
được hưởng các quyền lợi, ưu đãi theo quy định mới kể từ ngày pháp luật, chính sách
mới đó có hiệu lực.
Trường hợp pháp luật, chính sách mới ban hành làm ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích
hợp pháp mà nhà đầu tư đã được hưởng trước khi quy định của pháp luật, chính sách đó
có hiệu lực thì nhà đầu tư được bảo đảm hưởng các ưu đãi như quy định tại Giấy chứng
nhận đầu tư hoặc được giải quyết bằng một, một số hoặc các biện pháp sau đây:
Tiếp tục hưởng các quyền lợi, ưu đãi.

Được trừ thiệt hại vào thu nhập chịu thuế.
Được điều chỉnh mục tiêu hoạt động của dự án.
Được xem xét bồi thường trong một số trường hợp cần thiết.
Căn cứ vào quy định của pháp luật và cam kết trong điều ước quốc tế mà Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Chính phủ quy định cụ thể về việc bảo đảm
lợi ích của nhà đầu tư do việc thay đổi pháp luật, chính sách ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích
của nhà đầu tư.
Tóm lại, nhà đầu tư nước ngoài trong các dự án BOT tại Việt Nam hoàn toàn
không bị thiệt hại về quyền lợi một khi chính sách pháp luật Việt Nam về đầu tư có thay
đổi.

Mở cửa thị trường, đầu tư liên quan đến thương mại85
Để phù hợp với những cam kết trong những Điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên, Việt Nam tiến hành mở cửa thị trường theo lộ trình cam kết nhằm dần dần
xóa bỏ những rào cản về thương mại, đầu tư với nước ngoài. Theo đó, nhà đầu tư nước
ngoài dần dần được đối xử bình đẳng như những nhà đầu tư trong nước. Pháp luật hiện

85

Điều 8 Luật đầu tư 2005

64
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh


ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

hành không bắt buộc nhà đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài không buộc phải

thực hiện:
Ưu tiên mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ trong nước hoặc phải mua hàng hóa, dịch
vụ từ nhà sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ nhất định trong nước;
Xuất khẩu hàng hóa hoặc xuất khẩu dịch vụ đạt một tỷ lệ nhất định; hạn chế số
lượng, giá trị, loại hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu hoặc sản xuất, cung ứng trong nước;
Nhập khẩu hàng hóa với số lượng và giá trị tương ứng với số lượng và giá trị hàng
hóa xuất khẩu hoặc phải tự cân đối ngoại tệ từ nguồn xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập
khẩu;
Đạt được tỷ lệ nội địa hóa nhất định trong hàng hóa sản xuất;
Đạt được một mức độ nhất định hoặc giá trị nhất định trong hoạt động nghiên cứu
và phát triển ở trong nước;
Cung cấp hàng hóa, dịch vụ tại một địa điểm cụ thể ở trong nước hoặc nước ngoài;
Đặt trụ sở chính tại một địa điểm cụ thể.
Các đảm bảo khác về đầu tư
Ngoài ra, cũng như nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài còn được đảm
bảo một số vấn đề khác khi đầu tư theo hợp đồng BOT tại Việt Nam như: Bảo đảm cung
cấp các dịch vụ công cộng, áp dụng giá, phí, lệ phí thống nhất trong quá trình thực hiện
đầu tư tại Việt Nam,…
Trong thời gian tới, chắc chắn sẽ còn nhiều quy định về đảm bảo đầu tư đối với
nhà đầu tư nước ngoài nhằm tạo môi trường đầu tư cạnh tranh tại Việt Nam để thu hút
nhà đầu tư nước ngoài.

Chương 3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI CỦA ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TẠI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là một hình thức đầu tư ưu việt và mang lại hiệu
quả, tuy nhiên nó vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần được hoàn thiện. Bằng chứng là có
65
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng


SVTH: Trần Duy Cảnh


ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

nhiều dự án BOT thất bại, không hiệu quả gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước, quyền
lợi của người dân và cả nhà đầu tư. Bên cạnh đó, khi tranh chấp trong hợp đồng BOT xảy
ra, việc bảo vệ quyền lợi của các bên chưa được pháp luật quy định chặt chẽ. Do đó, cần
có những giải pháp thích hợp nhằm giải quyết những bất cập trong đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam giai đoạn hiện nay.
3.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN DỰ ÁN
3.1.1 Việc chuẩn bị thực hiện dự án kéo dài
3.1.1.1 Thực trạng
Thực tế cho thấy các dự án BOT được thực hiện trong một thời gian rất dài bao
gồm nhiều giai đoạn. Bắt đầu là giai đoạn chuẩn bị cho việc thực hiện dự án. Thông
thường giai đoạn này kéo dài một cách không cần thiết mà nguyên nhân chính là do quy
trình công bố danh mục dự án, lựa chọn nhà đầu tư, đàm phán và ký kết hợp đồng. Có
những dự án giai đoạn này kéo dài nhiều năm như dự án Mông Dương 2 (4 năm), dự án
Phú Mỹ 2, Phú Mỹ 3 (thời gian đàm phán cũng kéo dài 4-5 năm) và nhiều dự án khác.86
Nếu so với vòng đời của một dự án BOT trung bình khoảng 20 đến 25 năm thì khoảng
thời gian này là khá dài, trong khi đó với khoảng thời gian tương tự các bên trong hợp
đồng có thể tiến hành xây dựng nhiều hạn mục công trình và đưa vào sử dụng. Sự kéo dài
trên do nhiều nguyên nhân. Đầu tiên là việc lựa chọn nhà đầu tư bằng hình thức đấu thầu
mà hình thức này thường tốn nhiều thời gian. Sau khi chọn được nhà thầu thì cũng không
hẳn hợp đồng BOT sẽ được ký kết nhanh chóng mà còn phải qua quá trình đàm phán
thường kéo dài, thậm chí các bên không thể đạt đến sự đồng thuận cuối cùng, và rồi phải
lựa chọn nhà đầu tư khác bắt đầu lại giai đoạn đàm phán.
Việc lựa chọn nhà đầu tư và đàm phán hợp đồng BOT kéo dài làm chậm tiến độ
thực hiện các kế hoạch về kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và làm chậm kế hoạch
phát triển của một dự án nhất định kéo theo một số hệ quả xấu khác. Đầu tiên, việc kéo

dài quá trình này làm tốn kém ngân sách của cả hai bên trong hợp đồng một cách không
cần thiết. Thêm nữa, nhu cầu đối với các công trình BOT có thể thay đổi theo thời gian,
vì vậy việc kéo dài thời gian đàm phán có thể đưa dự án BOT đang chuẩn bị thực hiện
vào tình trạng lạc hậu hơn so với nhu cầu xã hội. Ví dụ như các tuyến đường giao thông
86

(ngày 26 tháng 10 năm 2012)

66
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh


ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

luôn có nhu cầu nâng cấp mở rộng theo thời gian, vì thế nếu việc đàm phán hợp các hợp
BOT kéo dài từ 4 hay 5 năm thì rõ ràng nhiều dự án đang đàm phán không còn phù hợp
với nhu cầu thực tế nữa. Không kể đến việc các dự án sẽ chịu tác động của tình hình lạm
phát, đẩy chi phí thực hiện dự án lên cao gây bất lợi cho các bên trong hợp đồng.
3.1.1.2 Kiến nghị giải pháp
Để khắc phục những hạn chế trên theo người viết cần có những giải pháp thích
hợp.
Thứ nhất, văn bản hướng dẫn Luật Đầu tư năm 2005 có quy định chỉ tiến hành đấu
thầu rộng rãi quốc tế sau khi đấu thầu rộng rãi trong nước mà không chọn được nhà đầu
tư thực hiện dự án. Người viết vẫn ủng hộ việc chọn nhà đầu tư bằng hình thức đấu thầu
rộng rãi, tuy nhiên không nên phân biệt nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài
trong đấu thầu như quy định hiện hành mà cần đấu thầu rộng rãi quốc tế ngay từ đầu
nhằm chọn được nhà đầu tư tối ưu nhất cho việc thực hiện dự án.87 Mặc dầu sữa đổi quy
định theo hướng này có thể sẽ bất lợi hơn đối với nhà đầu tư trong nước vì họ phải cạnh

tranh với nhiều nhà đầu tư quốc tế có thế mạnh vượt trội về vốn tuy nhiên lại đáp ứng
được yêu cầu chọn lựa nhà đầu tư tốt nhất cho việc thực hiện dự án.
Thứ hai, pháp luật hiện hành cần quy định về thời hạn cụ thể trong quá trình đàm
phán hợp đồng BOT. Người viết không đề xuất một thời hạn đàm phán dự án một cách
cụ thể mà cho rằng thời hạn này phải phù hợp với quy mô dự án. Trong mọi trường hợp,
việc đàm phán một hợp đồng dự án BOT không nên kéo dài quá 2 năm. Theo người viết,
đây là một khoảng thời gian đủ dài để có thể hoàn tất quá trình này.
Thứ ba, các bên cần tiến hành một số giải pháp thực tiễn để rút ngắn quá trình
chuẩn bị này, đặc biệt là các bên cần nâng cao năng lực đàm phán và giao kết hợp đồng
BOT. Đây chỉ là một yêu cầu về mặt kỹ thuật song lại có hiệu quả rất cao trong việc rút
ngắn thời gian đàm phán mà vẫn có một hợp đồng với những tỏa thuận có lợi cho cả hai
bên trong hoàn cảnh pháp luật chưa có những quy định rõ ràng về vấn đề này. Bên cạnh
đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng cần nâng cao năng lực quản lý trong quá trình
lựa chọn nhà đầu tư cũng như đàm phán hợp đồng như vậy mới có thể rút ngắn giai đoạn
chuẩn bị trước khi bước vào giai đoạn quan trọng tiếp theo của dự án BOT.
87

Điểm b khoản 1 điều 18 Nghị định 108/2009/NP-CĐ

67
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh


ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

3.1.2. Vấn đề nguồn vốn
3.1.2.1 Thực trạng
Vốn được xem là chất dinh dưỡng nuôi sống cuộc đời của các dự án BOT tại Việt

Nam nói riêng và tất cả các dự án BOT trên thế giới nói chung. Cho nên nếu nguồn vốn
không được đảm bảo tốt thì các dự án BOT khó mà thành công. Thực tế có nhiều dự án
đã thất bại bởi tồn tại các vấn đề về vốn và tài chính nói chung. Như đã biết, các dự án
BOT được thực hiện trong thời gian dài tìm ẩn nhiều biến động về giá cả thị trường, vì
thế, thông thường giá trị của công trình dự án bị đẩy lên cao, thậm chí gấp nhiều lần so
với thỏa thuận ban đầu trong hợp đồng BOT. Điều đó dẫn đến hệ quả là thiếu vốn đầu tư,
công trình bị đình trệ, chậm tiến độ, chất lượng công trình không được đảm bảo và đôi
lúc không thể thực hiện được nữa. Một số dự án bị thất bại vì gặp khó khăn trong vấn đề
tài chính mà ta có thể nói đến sau đây. Dự án Cầu Bình Triệu 2 ban đầu được duyệt với
tổng kinh phí được duyệt là 341 tỷ đồng nhưng sau đó được đẩy lên đên 1223 tỷ đồng vì
trong quá trình thực hiện dự án cần mở rộng thêm mặt đường và giá cả bất động sản tăng
cao đẩy chi phí đền bù giải phóng mặt bằng lên cao. Dự án Cầu Rạch Miễu với dự kiến
tổng vốn đầu tư ban đầu là 599 tỷ đồng năm 2002 đến năm 2006 có đề nghị tăng lên 988
tỷ đồng.88 Gần như hầu hết các dự án BOT khi tiến hành thực hiện đều có xu hướng tăng
tổng vốn đầu tư, dần dần trở thành quy luật.

3.1.2.2 Giải pháp kiến nghị
Nhận thấy rằng, có hai nguyên nhân khách quan và chủ quan của các vấn đề về tài
chính trong các dự án BOT. Về chủ quan, cơ chế pháp lý về tài chính của chúng ta chưa
hoàn thiện đã làm cho các dự án BOT dễ dàng rơi vào khó khăn bởi các vấn đề về tài
chính. Cụ thể, tỷ lệ vốn góp bắt buộc tối thiểu của chủ sở hữu doanh nghiệp dự án theo
quy định hiện hành thấp (nhà đầu tư có thể góp vốn tối thiểu 10% hoặc 15%) trong khi tỷ
lệ ngân sách nhà nước có thể góp vốn vào dự án lên đến 49%, khoản chênh lệch còn lại

88

(xem ngày
27 tháng 10 năm 2012)

68

GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh


ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

nhà đầu tư còn được bảo lãnh để thực hiện các khoản vay. 89 Có thể nói, trách nhiệm tài
chính đặt lên vai nhà nước khá nhiều so với nhà đầu tư, nhà nước ôm nhiều rủi ro kể cả
phần vốn góp lẫn nghĩa vụ bảo lãnh các khoản vay, trong khi mục đích của BOT lại là tận
dụng thế mạnh về vốn của nhà đầu tư. Theo người viết, quy định như vậy chưa thật sự
chặt chẽ, không phù hợp với mục đích ban đầu của BOT. Tuy nhiên, nếu pháp luật quy
định cho nhà đầu tư nước ngoài quá nhiều nghĩa vụ lại là rào cản đối với các dự án BOT,
không tạo môi trường thuận lợi cho nhà đầu tư đầu tư vào Việt Nam. Để giải quyết vấn
đề này, theo người viết cần có những quy định hợp lý hơn về nghĩa vụ tài chính của nhà
đầu tư trong hợp đồng BOT bằng những biện pháp sau:
- Tăng tỷ lệ vốn góp tối thiểu của nhà đầu tư nước ngoài đồng thời giảm tỷ lệ vốn góp tối
đa của ngân sách nhà nước theo một tỷ lệ hợp lý. Cụ thể, tỷ lệ vốn góp tối thiểu của nhà
đầu tư là 30%, còn quy định về tỷ lệ góp vốn từ ngân sách nhà nước như vậy là hợp lý
song khi đàm phàn hợp đồng BOT cần hạn chế tỷ lệ góp vốn này. Như vậy sẽ cân bằng
nghĩa vụ về tài chính của hai bên.
- Giảm tỷ lệ các khoản vay của nhà đầu tư tại ngân hàng. Điều này có nghĩa là tăng tỷ lệ
vốn đầu tư của những chủ thể trực tiếp tham gia thực hiện dự án (theo người viết là vốn
cứng).
- Nhà nước chỉ bảo lãnh nghĩa vụ nhà đầu tư trong các trường hợp cần thiết. Đặc biệt, cần
hạn chế bảo lãnh để nhà đầu tư vay vốn, thay vào đó nhà đầu tư phải tự chủ động nguồn
tài chính của mình khi tham gia vào hoạt động đầu tư. Như vậy sẽ giảm được gánh nặng
trách nhiệm đối với nhà nước đồng thời nhà đầu tư sẽ phải tăng cường trách nhiệm về tài
chính của mình.
Về khách quan, tổng vốn đầu tư của các dự án BOT chịu sự chi phối bởi tác động

chung của nền kinh tế, thông thường sẽ đẩy tổng vốn đầu tư lên cao. Thứ nhất, tác động
của lãi suất vay và lạm phát là điển hình nhất. Nếu không có bất kỳ thay đổi nào trong
hợp đồng dự án thì giá trị công trình vẫn sẽ bị đẩy lên cao theo thời gian. Vấn đề này
được khắc phục bởi những dự báo về sự biến động kinh tế, tuy nhiên không phải dự báo
lúc nào cũng chính xác. Thứ hai là việc mở rộng quy mô dự án. Đây là điều rất phổ biến
trong các công trình BOT vì để đáp ứng nhu cầu xã hội ngày một tăng. Thứ ba là việc
89

Thông tư 166/2011/TT-BTC

69
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh


ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

khắc phục rủi ro trong quá trình thi công. Vấn đề này ít xảy ra nhưng một khi xảy ra thì
việc giải quyết vô cùng khó khăn, nguồn tài chính không phải lúc nào cũng đáp ứng
được. Ví dụ điển hình là vụ sập đường dẫn cầu Cần Thơ gần đây. Để khắc phục những
yếu tố khách quan gây ra các khó khăn về tài chính, việc làm trước hết là nâng cao năng
lực của nhà đầu tư và cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xử lý các tình huống
có thể xảy ra. Đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cần có những kế hoạch, quy
hoạch đúng đắn, dự báo và đánh giá các yếu tố tác động đến giá cả thị trường, nhu cầu xã
hội hợp lý phục vụ cho dự án BOT. Nhà đầu tư và cơ quan nhà nước cần thỏa thuận trước
những phương án dự phòng để xử lý những tác động xấu có thể xảy ra trước khi tiến
hành thực hiện dự án BOT.
3.1.3 Vấn đề chất lượng công trình
3.1.3.1 Thực trạng

Thực tế, sau khi nghiệm thu và đưa và sử dụng nhiều công trình BOT đã nhanh
chóng xuống cấp, hư hỏng không đạt được mục đích ban đầu. Đặc biệt là nhiều dự án
giao thông đường bộ xuống cấp nghiêm trọng trong thời gian gần đây gây bức xúc cho
người dân và dư luận. Đơn cử, Quốc lộ 14 đoạn từ cầu 20 (huyện Đắk Song) đến Cây
Chanh (huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông) dài hơn 70km, sau gần 2 năm triển khai cải tạo
nâng cấp theo dự án BOT đến nay vẫn chỉ là “con đường đau khổ”.90 Nguyên nhân của
việc các công trình BOT có chất lượng kém là năng lực thi công của nhà thầu còn yếu
kém và sự quản lý của doanh nghiệp dự án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong khi
thực hiện dự án chưa hiệu quả. Thêm vào đó, pháp luật hiện hành về BOT chưa quy định
các tiêu chí về chất lượng công trình dự án mà chủ yếu do các bên tự thỏa thuận dựa trên
các quy định về chất lượng của từng ngành lĩnh vực cụ thể. Về năng lực thi công, các nhà
thi công trong nước còn nhiều yếu kém về kỹ thuật, trình độ chưa đáp ứng được những
công trình có giá trị lớn trong khi nhà đầu tư nước ngoài lại không am hiểu về các điều
kiện khách quan như thổ nhưỡng, khí hậu tại Việt Nam. Về chủ quan, nhà đầu tư muốn
có được công trình một cách nhanh chóng để khai thác thu lợi mà ít chú ý đến tuổi thọ
công trình và các yếu tố mang tính bền vững khác. Vì vậy khi tiến hành các dự án BOT,

90

(ngày 24/10/2012)

70
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh


ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BOT

chất lượng công trình phải hết sức được chú trọng, tránh tình trạng hư hỏng, xuống cấp

nhanh chóng của công trình và sự cố có thể xảy ra.
3.1.3.1 Giải pháp kiến nghị
Để giải quyết tình trạng trên, theo người viết phải thực hiện những biện pháp thực
tiễn cần thiết. Thứ nhất, khi xét duyệt dự án BOT phải đặc biệt quan tâm đến phát triển
bền vững, trong đó có chất lượng công trình.91 Đây là một giải pháp thực tiễn, việc thực
hiện phải dựa vào cách nhìn nhận, đánh giá, xem xét và quyết định của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Do vậy, để thực hiện tốt giải pháp này chủ thể quản lý nhà nước
phải nâng cao trách nhiệm, năng lực của mình. Thứ hai, xử lý nghiêm các vi phạm về
chất lượng công trình.
3.2 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CÁC BÊN
Đầu tư theo hợp đồng BOT là một hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận giữa các
bên trong hợp đồng, đồng thời các tác động đến quyền lợi của người dân và các bên liên
quan. Để các dự án BOT thành công thì phải đảm bảo được lợi ích cũng như chịu trách
nhiệm về nghĩa vụ của mình một cách công bằng và hợp lý. Với các quy định của pháp
luật và thực tế cho thấy, không phải lúc nào quyền lợi của các bên đều được bảo vệ một
cách hợp lý, thậm chí có thể nói là bất công. Vậy, cần phải tìm ra những nguyên nhân và
giải pháp để bảo vệ quyền lợi giữa các bên.
3.3.1 Bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư nước ngoài
Bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư nước ngoài là điều hết sức cần thiết. Khi tiến
hành đầu tư tại Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài đối mặt với nhiều khó khăn khách quan
hơn so với các nhà đầu tư trong nước. Nhà đầu tư nước ngoài cần được đảm bảo những
quyền lợi nhất định mới có thể an tâm tiến hành các hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Bên
cạnh đó, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư còn thể hiện chính sách
đúng đắn của Việt Nam trong xu thế hội nhập hiện nay. Hơn nữa, quyền lợi nhà đầu tư
được đảm bảo là tiền đề cho việc xúc tiến mạnh mẽ đầu tư theo hợp đồng BOT trong
nước giúp Việt Nam nhanh chóng thực hiện được các nhiệm vụ xây dựng các công trình
cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế xã hội.
91

Nguyễn Long Ngọc – Phó chủ tịch thường trực Hội khoa học và kỹ thuật cầu đường trả lời trên Báo Tuổi trẻ

tháng 1 năm 2010.

71
GVHD: Thạc sĩ Diệp Ngọc Dũng

SVTH: Trần Duy Cảnh


×