Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại PHÁP LUẬT về CHẾ độ hưu TRÍ CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (836.03 KB, 58 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
-----˜&™-----

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2007-2011

PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ
CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG

Giảng viên hướng dẫn :
NGUYỄN ÁNH MINH
Bộ môn Luật Hành chính

Sinh viên thực hiện:
NGUYỄN ANH KHOA
MSSV: 5075270
Lớp: Luật Thương mại 3 - K33

Cần Thơ, 4/2011


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...


………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
Cần Thơ, ngày … tháng … năm …


NHẬN XÉT CỦA THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...

………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………...
Cần Thơ, ngày … tháng … năm …


MỤC LỤC
Lời mở đầu…………………………………………………………………….................1
Chương 1: Những vấn đề chung về chế độ hưu trí

1.1 . Mối quan hệ giữa chế độ hưu trí và Bảo hiểm xã hội………………………..............3
1.2 . Khái niệm chế độ hưu trí…………………………………………………………….7
1.3 . Đặc điểm của chế độ hưu trí…………………………………………………………9
1.4 . Phân loại chế độ hưu trí…………………………………………………………….11
1.4.1. Chế độ hưu trí dành cho người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc……………...11
1.4.2. Chế độ hưu trí dành cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện…….............12
1.4.3. Chế độ hưu trí hằng tháng………………………………………………………...13
1.4.4. Chế độ hưu trí một lần…………………………………………………………….13
1.5. Tầm quan trọng của chế độ hưu trí đối với người lao động………………………...13
1.5.1. Chế độ hưu trí bảo đảm cho đời sống của người lao động khi về hưu……………14
1.5.2. Chế độ hưu trí góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn định và thúc đẩy công bằng
xã hội……………………………………………………………………………………..14
1.5.3. Chế độ hưu trí phản ánh trình độ phát triển của quốc gia………………………..16
Chương 2: Pháp luật về chế độ hưu trí ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
2.1. Cơ sở hình thành pháp luật về chế độ hưu trí ở Việt Nam………………………….17
2.1.1. Cơ sở kinh tế - xã hội……………………………………………………………..17
2.1.2. Cơ sở chính trị…………………………………………………………….............21
2.1.3. Cơ sở pháp lý……………………………………………………………………...22
2.2. Những quy định của pháp luật về chế độ hưu trí ở Việt Nam………………………24
2.2.1. Đối tượng áp dụng chế độ hưu trí…………………………………………………25
2.2.2. Điều kiện hưởng lương hưu và mức hưởng lương hưu…………………………...28
2.2.2.1. Điều kiện hưởng lương hưu và mức hưởng lương hưu hằng tháng…………….28
2.2.2.2. Điều kiện được nhận trợ cấp một lần khi nghỉ hưu……………………..............34
2.3. Thực trạng áp dụng chế độ hưu trí cho người lao động ở Việt Nam………..............36
2.4. Giải pháp cho chế độ hưu trí ở Việt Nam…………………………………………...43
2.5. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu trí ở Việt Nam..............47
Kết luận………………………………………………………………………………….49
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục



Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chế độ hưu trí là một bộ phận không thể thiếu trong chính sách an sinh xã hội của
mọi quốc gia, là một trong những công cụ để đo trình độ phát triển của một quốc gia
nào đó. Ngoài ra chế độ hưu trí còn đóng vai trò ổn định xã hội, thúc đẩy công bằng
xã hội. Chính vì lẽ đó mà dù quốc gia phát triển hay đang phát triển đều cố gắng xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu trí.
Tại Việt Nam, chế độ hưu trí đã được đề cập rất sớm trong bản Hiến pháp đầu tiên
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa như là một quyền lợi của người lao động. Từ
quy định đó, chế độ hưu trí hiện diện xuyên suốt trong các văn bản luật về lao động và
an sinh xã hội như Bộ luật lao động và đặc biệt là Luật Bảo hiểm xã hội ban hành năm
2006 trên cơ sở những quy định của Điều lệ bảo hiểm xã hội ban hành trước đó. Càng
về sau này, các văn bản luật càng điều chỉnh phù hợp hơn so với tình hình thực tế.
Tuy nhiên, vẫn còn những kẽ hở làm cho luật chưa được hoàn thiện và tạo cơ hội cho
tiêu cực phát sinh, ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động và lợi ích của nhà
nước.
Đất nước ta đã bước thời kỳ đổi mới được hơn 20 năm và ngày càng tiến nhanh
trên con đường trở thành một nước phát triển. Để đạt được mục tiêu đó thì lực lượng
sản xuất là một nhân tố không thể thiếu. Người lao động là bộ phận quan trọng cấu
thành nên lực lượng sản xuất. Do đó, việc đảm bảo cho người lao động có cuộc sống
ổn định là việc làm cấp bách. Pháp luật về chế độ hưu trí của Việt Nam cũng có
những bước tiến đáng kể nhưng vẫn chưa theo kịp với những biến chuyển của tình
hình kinh tế - xã hội đất nước. Việc chi trả lương hưu, các quy định về điều kiện nghỉ
hưu, mức hưởng lương hưu… đôi khi còn gây khó khăn cho người lao động và các
bên liên quan, đặc biệt là trong hình lạm phát ở nước ta vẫn chưa được kiềm chế ở

mức an toàn. Bên cạnh đó, một số quy định của pháp luật vẫn chưa được hợp lý nên
vô hình chung đã gây ra những vướng mắc nhất định trong việc áp dụng vào thực tế.
Việc nghiên cứu pháp luật về chế độ hưu trí không những giúp người viết nâng cao
hiểu biết về lĩnh vực này mà còn có lợi ích thiết thực về sau này khi người viết công
tác tại các cơ quan, doanh nghiệp. Chính những nguyên nhân đó đã thôi thúc người
viết tìm hiểu đề tài “Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động”.
2. Mục đích nghiên cứu
Luật Bảo hiểm xã hội đã ra đời cách đây 5 năm và Bộ luật Lao động 1994 được
sửa đổi bổ sung vào năm các năm 2002, 2006, 2007 vẫn đang được nghiên cứu sửa

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

1

SVTH: Nguyễn Anh Khoa


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động

đổi, bổ sung tiếp tục. Cả hai văn bản đều có quy định những vấn đề về chế độ hưu trí
nhưng những quy định đó vẫn chưa khắc phục được những bất cập trong chế độ hưu
trí. Thông qua nghiên cứu đề tài “Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động”,
người viết sẽ có cơ hội tìm hiểu rõ hơn những vấn đề liên quan đến chế độ hưu trí
cũng như những bất cập của chế độ hưu trí ở Việt Nam hiện nay. Từ kết quả của
nghiên cứu này người viết sẽ đưa ra những đề xuất để góp phần hoàn thiện chế độ hưu
trí trong luật Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ công trình nghiên cứu của mình, người viết sẽ tiến hành nghiên

cứu những vấn đề lý luận cơ bản của chế độ hưu trí trong hệ thống pháp luật về an
sinh xã hội của Việt Nam hiện hành cũng như những bất cập trong quá trình áp dụng
luật. Trong phạm vi nghiên cứu của mình, người viết cũng sẽ nêu bật lên những
vướng mắt trong thực tiễn đồng thời đưa ra những giải pháp và kiến nghị.
4. Phương pháp nghiên cứu
Xác định được đây là một vấn đề vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tế nên
người viết sẽ vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và xã hội
để giải quyết những vấn đề thuộc về lý luận đồng thời dùng phương pháp so sánh,
phân tích luật viết, kết hợp với việc sử dụng kiến thức của bản thân cũng như của các
chuyên gia để giải quyết phần thực tiễn.
5.Bố cục đề tài
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận cũng như Phụ lục và tài liệu tham khảo thì đề tài tập
trung ngắn gọn trong hai chương, cụ thể là:
Chương một: Những vấn đề chung về chế độ hưu trí. Trong phạm vi chương này
người viết tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản về chế độ hưu trí như: mối quan
hệ giữa bảo hiểm xã hội và chế độ hưu trí, khái niệm, đặc điểm, phân loại chế độ hưu
trí…
Chương hai: Pháp luật về chế độ hưu trí ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp.
Chương này người viết sẽ phân tích những quy định của pháp luật về chế độ hưu trí
của Việt Nam kết hợp với việc so sánh, đối chiếu với luật một số nước để tìm ra
những điểm chưa hợp lý của luật. Bên cạnh đó, người viết cũng tập trung phân tích
nhằm nêu bật những bất cập trong thực tế. Từ việc phân tích hai vấn đề nêu trên,
người viết sẽ đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm khắc phục những bất cập đó.

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

2

SVTH: Nguyễn Anh Khoa



Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động

CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ
CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ
Chế độ hưu trí được ra đời từ rất lâu. Trong suốt quá trình hình thành và
phát triển nó luôn chiếm vị trí quan trọng trong chính sách an sinh xã hội của
các quốc gia. Trong nền kinh tế thị trường, chế độ hưu trí ngày càng phát huy vai
trò của mình trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
Tuy nhiên việc thực hiện tốt chế độ hưu trí cho người lao động không phải là việc
dễ dàng. Đặc biệt là trong tình hình dân số thế giới đang tăng từng ngày và đã
vượt qua mốc 6 tỷ người. Dân số phát triển nhanh tạo ra một lực lượng lao động
hùng hậu nhưng cũng tạo ra một số lượng lớn người về hưu. Vấn đề giải quyết
quyền lợi của đối tượng này ảnh hưởng rất lớn đến nhiều phương diện khác như
kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội. Việc nghiên cứu những vấn đề chung về chế
độ hưu trí sẽ làm sáng tỏ phần nào bản chất và những đặc điểm của chế độ này,
từ đó tìm ra căn nguyên của những vấn đề phát sinh từ chế độ hưu trí.
1.1. Mối quan hệ giữa chế độ hưu trí và Bảo hiểm xã hội
Con người muốn tồn tại và phát triển thì phải lao động sản xuất để tạo ra
của cải vật chất . Tuy nhiên, trong quá trình lao động sản xuất và trong đời sống,
con người phải đối diện với rất nhiều rủi ro. Có thể nói rủi ro là một phần tất yếu
của cuộc sống mà ai ai cũng mắc phải dù chỉ một lần trong đời. Những rủi ro đó
thể do thiên tai, địch họa, bệnh tật… Khi gặp phải những vấn đề kể trên thì
không phải ai cũng vượt qua được một cách suông sẻ nên con người luôn tìm
cách hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro mà mình có thể mắc phải. Ngoài
những giải pháp thông thường thì con người còn nghĩ ra giải pháp lập một quỹ
dự phòng dùng để bù đắp những thiệt hại, đó là hình thức nguyên khai của bảo

hiểm. Bảo hiểm trong buổi đầu hình thành chủ yếu áp dụng để giảm thiểu tổn
thất trong mua bán, vận chuyển hàng hóa. Về sau này, do nhận thấy được tính ưu
việt của hình thức này nên họ đã mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác như chăm sóc
sức khỏe, việc làm, học tập…
Vào khoảng thế kỷ VI, những người nông dân vùng thung lũng Anpơ đã
nhận thấy khả năng của sự đóng góp cộng đồng để trợ cấp cho những người bị
ốm đau, tai nạn. Họ đã thành lập những hội tương tế với cách thức mỗi người đều
trích ra một phần thu nhập để đóng chung vào một quỹ phòng khi ai ốm đau, tai

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

3

SVTH: Nguyễn Anh Khoa


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động

nạn thì dùng quỹ đó để giúp đỡ(1) . Hiệu quả của mô hình này đã tác động mạnh
mẽ đến ý thức và trách nhiệm xã hội của nhà nước. Sau cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ nhất, số người nông dân bỏ nông thôn ra thành thị làm công ngày
càng đông. Khi làm công cho chủ thì thu nhập chủ yếu của họ là tiền lương, tiền
công làm thuê. Tuy nhiên họ cũng phải đối mặt với rủi ro không có thu nhập
những lúc ốm đau, tai nạn. Chính vì vậy, cũng như những người nông dân trước
kia, họ cũng lập ra một quỹ tương trợ để giúp nhau những lúc khó khăn. Đó là
tiền đề để ra đời loại hình bảo hiểm xã hội.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 nổ ra vào thế kỷ XIX đã làm thay
đổi toàn bộ thế giới. Lao động thủ công dần nhường chỗ cho máy móc, số lượng

người lao động làm công ăn lương cũng tăng lên nhanh chóng. Thu nhập của họ
gắn liền với công việc, chính vì vậy những rủi ro như ốm đau, tai nạn, tuổi già…
cũng vì thế mà tăng lên. Nhận thức được vấn đề này, một số nước đã khuyến
khích thành lập các quỹ tương trợ để giúp đỡ những người lao động. Một trong
những quốc gia đó là Đức. Cuối thế kỷ XIX, bộ máy chính quyền nhiều bang ở
Đức bắt đầu thiết lập quỹ trợ cấp ốm đau do chính những người thợ bắt buộc phải
đóng góp để tương trợ những người lao động gặp rủi ro ốm đau. Vào năm 1850 ở
Đức đã thành lập quỹ ốm đau và bắt buộc công nhân phải đóng góp để trợ cấp
cho những người bị bệnh tật. Trong khoảng từ năm 1883 đến 1889, các hình thức
bảo hiểm mang tính bắt buộc được mở rộng trong các trường hợp tai nạn lao
động, tuổi già, tàn tật với sự tham gia đóng góp của ba bên (người lao động,
người sử dụng lao động và Nhà nước). Mọi người làm công ăn lương bắt buộc
phải đóng góp, bất kể là thợ lành nghề hay lao động phổ thông, là người già hay
trẻ, là nam hay nữ... Từ đó, nhiều nhà nước đã ban hành các đạo luật làm cơ sở
để điều chỉnh các mối quan hệ về trợ cấp cho những người gặp rủi ro bất hạnh.
Bên cạnh đó các dịch vụ xã hội như: dịch vụ y tế, dự phòng tai nạn, dịch vụ chăm
sóc người già, bảo vệ trẻ em... từng bước được mở rộng ở các nước tuỳ thuộc vào
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của từng nước. Tất cả những hoạt động chung
mang tính xã hội vì mục đích cao cả trợ giúp cho các thành viên trong xã hội như
vậy được hiểu là an sinh xã hội.(2)
Trong các dạng trợ cấp của bảo hiểm xã hội buổi sơ khai thì trợ cấp tuổi già
là một trong những dạng trợ cấp ra đời sớm nhất và gắn liền với sự phát triển của
bảo hiểm xã hội. Theo một số tài liệu thì chế độ hưu trí (trợ cấp tuổi già) lần đầu

(1)
(2)

Một số vấn đề lý luận về an sinh xã hội, Ts. Lê Thị Hoài Thu, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội.
Một số vấn đề lý luận về an sinh xã hội, Ts. Lê Thị Hoài Thu, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội


GVHD: Nguyễn Ánh Minh

4

SVTH: Nguyễn Anh Khoa


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động

tiên được quy định trong luật của nước Phổ(3) (tiền thân của nước Đức). Do
những hiệu quả tích cực mà nó mang lại nên chế độ hưu trí phát triển nhanh
chóng và lan dần ra các nước. Chế độ hưu trí được công nhận trên toàn thế giới
vào năm 1952 với Công ước số 102 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Công
ước này khuyến nghị các nước phải thực hiện ít nhất 3 trong số 9 chế độ được
quy định trong Công ước. Một trong 9 chế độ được khuyến nghị đó là chế độ hưu
trí. Tuy có những quy định khác nhau nhưng mục đích chung của chế độ hưu trí
các nước đều giống nhau. Tại Việt Nam, chế độ hưu trí đã ra đời từ thời Pháp
thuộc nhưng đối tượng áp dụng chỉ là người Pháp và những người làm việc cho
Pháp. Sau Cách mạng tháng 8, Nhà nước ta đã quy định chế độ trợ cấp tuổi già là
một quyền lợi của người lao động. Từ đó đến nay, chế độ hưu trí của Việt Nam
không ngừng phát triển và trở thành một trong những nội dung quan trọng của
pháp luật về an sinh xã hội.
Chế độ hưu trí là một nội dung cơ bản và ra đời cùng với bảo hiểm xã hội
nên giữa chế độ hưu trí và bảo hiểm xã hội có mối quan hệ mật thiết. Công ước
102 (năm 1952) của Tổ chức lao động thế giới (ILO) đã khuyến nghị các quốc
gia thành viên phải thực hiện một số chế độ bảo hiểm nhất định. Điều 2 khoản ii
Công ước quy định các quốc gia phải thực hiện ít nhất là 3 phần trong các phần
II, III, IV, V, VI, VII, VIII, IX và X; bao gồm ít nhất là một trong các phần IV,

V, VI, IX và X(4). Luật Việt Nam quy định chế độ hưu trí là một trong các chế độ
trợ cấp xã hội có trong Bộ luật lao động và Luật Bảo hiểm xã hội. Việc ban quy
định chế độ hưu trí trong bảo hiểm xã hội giúp cho bảo hiểm xã hội toàn diện
hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân. Thực tế cho thấy, quốc gia có chính
sách hưu trí tốt thì có chính sách bảo hiểm xã hội phát triển. Như vậy, sự phát
triển của chế độ hưu trí gắn liền với sự phát triển của bảo hiểm xã hội. Bên cạnh
đó, chế độ hưu trí cùng với các chế độ bảo hiểm khác trong bảo hiểm xã hội góp
phần làm cho xã hội phát triển ổn định, giúp dung hòa lợi ích giữa người lao
động và người sử dụng lao động từ đó giảm thiểu xung đột xã hội do lợi ích giai
cấp.
Cũng như các chế độ bảo hiểm hiện hành, chế độ hưu trí cũng mang các đặc
điểm chung của bảo hiểm xã hội. Về bản chất bảo hiểm xã hội cũng như chế độ
hưu trí là sự hạn chế rủi ro cho người tham gia bằng cách lập ra một quỹ dự trữ
(3)

Một số vấn đề về chính sách hưu trí, T.s Nguyễn Huy Ban
/>(4)
Phần II: Chăm sóc y tế; Phần III: Trợ cấp ốm đau; Phần IV: Trợ cấp thất nghiệp; Phần V: Trợ cấp tuổi
già; Phần VI: Trợ cấp trong trường hợp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp; Phần VII: Trợ cấp gia
đình (phụ cấp gia đình); Phần VIII: Trợ cấp thai sản; Phần IX: Trợ cấp tàn tật; Phần X: Trợ cấp tiền tuất.

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

5

SVTH: Nguyễn Anh Khoa


Luận văn tốt nghiệp


Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động

do mọi người đóng góp vào. Với số tiền mà quỹ này chi trả thì người tham gia có
thể trang trải được phần nào khó khăn mắc phải. Sự tương đồng về đặc điểm của
chế độ hưu trí và bảo hiểm xã hội thể hiện ở những điểm sau:
So với các loại hình bảo hiểm khác thì chế độ hưu trí cũng như bảo hiểm xã
hội thuộc về bảo hiểm con người. Nguồn tài chính đóng góp là do người chủ sử
dụng lao động và người lao động cùng nhau đóng góp, trong một số trường hợp
còn có thêm sự đóng góp của nhà nước. Đây là đặc điểm cơ bản phân biệt bảo
hiểm xã hội với các loại hình bảo hiểm còn lại. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã
hội có sự khác nhau giữa các quốc gia nhưng nhìn chung đều là cá nhân người
lao động. Khi gặp phải rủi ro thì quỹ bảo hiểm sẽ chi trả cho người tham gia, một
số trường hợp đặt biệt thì người thân của người tham gia sẽ được nhận thay.
Như đã đề cập ở trên, nguồn quỹ bảo hiểm xã hội và quỹ hưu trí được hình
thành từ sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và có thể có
sự đóng góp của nhà nước. Nguồn quỹ này được tập hợp thành một quỹ riêng.
Tuy nhiên không phải trường hợp nào tham gia bảo hiểm xã hội cũng sẽ được
nguồn quỹ này chi trả mà quỹ này chỉ chi trả cho những trường hợp cần đến sự
hộ trợ của xã hội. Điều này xuất phát từ nguyên tắc lấy số đông bù số ít, số tiền
đóng góp của những cá nhân này sẽ được dùng để hỗ trợ cho cá nhân khác gặp
phải rủi ro, như vậy có thể xem như rủi ro đã được san đều cho tất cả những
người tham gia.
Một điểm phân biệt giữa chế độ hưu trí trong bảo hiểm xã hội với các loại
hình bảo hiểm còn lại đó là tính tự nguyện trong việc tham gia bảo hiểm. Các
loại hình bảo hiểm con người và bảo hiểm tài sản kể trên đa số đều là tự nguyện
khi người tham gia cảm thấy có điều kiện tham gia hay cảm thấy việc tham gia là
cần thiết để phòng ngừa rủi ro. Nhưng trên nguyên tắc thì bảo hiểm xã hội là bắt
buộc tham gia, đặc biệt là đối với người lao động. Tuy vậy cũng có một số
trường hợp ngoại lệ việc tham gia bảo hiểm xã hội là không bắt buộc. Luật hầu
hết các nước đều bắt buộc chủ sử dụng lao động phải tạo điều kiện cho người lao

động tham gia bảo hiểm xã hội bằng cách trích một phần doanh thu để đóng bảo
hiểm xã hội cho người lao động. Điều này có lẽ xuất phát từ những lợi ích to lớn
mà bảo hiểm xã hội mang lại. Một khi đã tham gia bảo hiểm xã hội thì người
tham gia có thể an tâm trước những rủi ro vì khi gặp phải những rủi ro thì họ đã
có sự hỗ trợ từ bảo hiểm xã hội, sự hỗ trợ đó sẽ giúp họ vượt qua khó khăn mà
nếu không tham gia bảo hiểm xã hội thì họ khó lòng vượt qua được.

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

6

SVTH: Nguyễn Anh Khoa


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động

1.2. Khái niệm chế độ hưu trí
Cho đến thời điểm hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa nào chính thức cho
chế độ hưu trí mặc dù chế độ này đã tồn tại và phát triển từ lâu đời. Theo Đại từ
điển Tiếng Việt thì “hưu trí là nghỉ việc khi đã già hoặc đủ thời gian phục vụ,
được hưởng chế độ lương bổng theo quy định của nhà nước”(5). Như vậy có thể
suy ra chế độ hưu trí là chế độ trợ cấp dành cho những người nghỉ việc khi đã già
hoặc đủ thời gian phục vụ. Chế độ hưu trí được quy định bởi nhà nước và người
về hưu không cần phải lao động nữa vẫn có được thu nhập.
Tổ chức Lao động thế giới (ILO) cũng không đưa ra một khái niệm chính
thức nào về chế độ hưu trí nhưng theo cách diễn đạt mà ILO dùng để khuyến
nghị các quốc gia áp dụng và Điều 25, Điều 26 và Điều 27 của Công ước này thì
có thể hiểu chế độ hưu trí theo ILO là chế độ trợ cấp dành cho người lao động đã

già đến một độ tuổi nhất định. Cũng theo ILO thì chế độ hưu trí là một trong các
dạng trợ cấp xã hội mà các quốc gia thành viên buộc phải thực hiện.
Cũng như ILO, luật Việt Nam cũng không đưa ra định nghĩa chính thức về
chế độ hưu trí. Chúng ta có thể suy ra khái niệm chế độ hưu trí từ định nghĩa bảo
hiểm xã hội của Luật Bảo hiểm xã hội 2006 “Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc
mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất
nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội”.
(Điều 2 khoản 1 Luật Bảo hiểm xã hội 2006). Như vậy, từ khái niệm trên chúng
ta có thể suy ngược lại rằng chế độ hưu trí là một trong các chính sách của bảo
hiểm xã hội dùng để thay thế hay bù đắp một phần thu nhập của người lao động
bị giảm do hết tuổi lao động trên cơ sở đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội.
Từ các khái niệm nêu trên chúng ta có thể nhận thấy có hai nội dung cơ bản
hình thành nên chế độ hưu trí:
Thứ nhất, hưu trí cũng là một dạng trợ cấp của xã hội như trợ cấp ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, tàn tật, tử tuất… Loại hình bảo hiểm này
cũng được thực hiện bởi sự phân phối, phân phối lại thu nhập. Mặc dù hầu hết
các quốc gia đều có qui định việc người lao động đóng góp để hưởng hưu trí
nhưng không thể ai đóng bao nhiêu hưởng bấy nhiêu. Bởi vì sau khi nghỉ việc
tuổi thọ của mỗi người một khác. Vì thế vấn đề chia sẻ rủi ro, bù đắp, tương trợ
cộng đồng cũng được thể hiện khá rõ. Xét về khía cạnh tài chính thì đây cũng có
thể được xem là một dạng tiết kiệm tài sản. Bởi vì số tiền mà người lao động
(5)

Đại từ điển Tiếng Việt, Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nguyễn
Như Ý chủ biên, tr864.

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

7


SVTH: Nguyễn Anh Khoa


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động

đóng góp vào quỹ hưu trí được dùng để chi trả lại cho chính họ. Số tiền dùng để
đóng góp vào quỹ hưu trí chỉ là một phần nhỏ trong thu nhập. Khoản tiền nhỏ đó
nếu sử dụng ngay thì cũng không thể giúp ích được bao nhiêu nhưng dùng số tiền
đó để đóng góp vào quỹ hưu trí thì nó sẽ trở nên rất hữu dụng khi người lao động
về hưu. Thông qua việc đóng góp vào quỹ hưu trí, người lao động đã tích lũy cho
chính mình và cho cả người khác. Do đó ngoài tính kinh tế, chế độ hưu trí còn
mang tính xã hội. Đó là sự thể hiện tinh thần tương thân tương ái của cộng đồng,
đúng như bản chất nguyên thủy của chế độ hưu trí.
Thứ hai, hưu trí dành cho những người cao tuổi không thể tiếp tục làm việc
được nữa. Đây là một nội dung quan trọng nhất của chế độ hưu trí. Trước hết nó
thể hiện sự rủi ro về tuổi tác cần được trợ cấp, mặt khác nó lại bảo đảm cho
quyền về lao động cho những người chưa bị rủi ro, vẫn làm việc bình thường.
Như vậy quyền được trợ cấp hưu trí chỉ được xác lập khi con người đạt đến một
độ tưổi nhất định mà độ tuổi ấy được xác định là không thể làm việc bình thường
được nữa. Trong khoa học để xác định tuổi để nghỉ hưu, người ta căn cứ vào hai
yếu tố chính là sự giảm sút về sinh học của cơ thể con người và tuổi thọ trung
bình cả những người trong độ tuổi lao động. Sự giảm sút về sinh học gắn liền với
sự già đi của tuổi tác. Tương ứng với một độ tuổi nhất định thì cơ thể con người
có những đặc điểm riêng. Ví dụ con người trưởng thành ở độ tuổi từ 14 đến khi
bước qua tuổi 20. Đến giai đoạn sau 30 tuổi con người bắt đầu có dấu hiệu lão
hóa. Sang độ tuổi sau 40, quá trình lão hóa diễn ra nhanh chóng hơn, thể lực và
trí lực cũng suy giảm nhanh hơn. Theo Tiến sĩ Nguyễn Huy Ban thì khi nam giới

60 tuổi thì sự giảm sút của hệ thần kinh trung bình là khoảng 20 %, hệ xương cơ
giảm 18 %, các giác quan giảm 25 %(6). Như vậy những người lao động chân tay
(kể cả lao động trí óc) không thể tiếp tục làm việc bình thường được (bình
thường ở đây là sự khoẻ mạnh, nhanh nhạy). Mặt khác để thực hiện chế độ trợ
cấp hưu trí cũng cần tính đến thời gian mà người lao động được hưởng trợ cấp
(tức là kể từ khi nghỉ việc đến lúc chết). Thí dụ tuổi thọ bình quân của những
người trong độ tuổi lao động là 60 thì không thể qui định tuổi nghỉ hưu là 60
được, bởi vì qui định như vậy sẽ có rất nhiều người không thể sống đến 60 tuổi
để được hưởng hưu trí. Ngược lại nếu tuổi thọ bình quân là 80 thì độ tuổi về hưu
cũng không nên qui định là 60, bởi vì qui định như vậy thì thời gian nghỉ việc
hưởng hưu trí sẽ rất dài không chỉ ảnh hưởng về tài chính cho hưu trí mà còn
(6)

T.s Nguyễn Huy Ban, Một số vấn đề về chính sách hưu trí,
nhật ngày 11/02/2011].

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

8

SVTH: Nguyễn Anh Khoa


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động

lãng phí về sử dụng lao động. Do đó vấn đề xác định độ tuổi nào mà con người
không thể lao động với năng suất bình thường nữa để về hưu rất quan trọng. Nếu
không xác định một cách đúng đắn sẽ dẫn đến việc nghỉ hưu quá sớm, gây tổn

thất cho thu nhập của người lao động hoặc nghỉ quá trễ làm ảnh hưởng không tốt
đến sức khỏe của người lao động và năng suất lao động. Độ tuổi trung bình và sự
giảm sút về sinh học của cơ thể còn là căn cứ để xác định sự ưu tiên đối với một
số ngành nghề mà người làm công việc đó không thể làm tốt trong một thời gian
dài do sự khắc nghiệt hoặc do mức độ nguy hiểm mà nghề đó mang lại.
Từ những phân tích nêu trên, chúng ta có thể khái quát khái niệm chung về
chế độ hưu trí là một trong các loại hình bảo hiểm xã hội có vai trò đảm bảo thu
nhập cho người hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia lao động nữa. So với
luật quốc tế, luật Việt Nam có những điểm tương đồng và có sự kế thừa những
quy định trước đây.
1.3. Đặc điểm của chế độ hưu trí
Chế độ hưu trí là một bộ phận của bảo hiểm xã hội, tuy nhiên ngoài những
đặc điểm tương đồng với bảo hiểm xã hội thì chế độ hưu trí có những đặc điểm
riêng. Những đặc điểm của chế độ hưu trí xuất phát từ những đặc thù về đối
tượng tham gia cũng như đặc thù về vấn đề thụ hưởng.
Vấn đề thụ hưởng chế độ hưu trí có những khác biết so với các loại hình
bảo hiểm khác trong bảo hiểm xã hội. Sự chắn chắn trong việc thụ hưởng chế độ
hưu trí gần như là 100%, còn các chế độ bảo hiểm khác thì việc thụ hưởng còn
tùy vào trường hợp. Điều này xuất phát từ bản chất của chế độ hưu trí là chế độ
trợ cấp tuổi già. Có thể người tham gia không được nhận trợ cấp thai sản do
không sinh con hoặc không được nhận chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp do may mắn không gặp phải những vấn đề đó nhưng tuổi già thì không ai
tránh khỏi. Chế độ hưu trí cũng là chế độ bảo hiểm xã hội mà người tham gia
được hưởng với thời gian dài nhất. Thời gian thụ hưởng chế độ hưu trí bắt đầu từ
lúc người lao động nghỉ hưu đến lúc người lao động chết. Khi người lao động
chết còn được nhận trợ cấp tuất.
Đặc điểm thứ nhất có thể nhận ra ở chế độ hưu trí là sự phân biệt độ tuổi
lao động giữa nam và nữ. Hầu hết các nước có sự phân biệt độ tuổi nghỉ hưu
giữa nam và nữ đều cho phép nữ nghỉ hưu sớm hơn nam 5 tuổi. Theo người viết,
những nước áp dụng quy định này giữ quan điểm giữa nữ và nam có sự khác biệt

về sinh lý khi lớn tuổi cho nên không thể quy định tuổi lao động của nữ bằng với
nam giới. Ngoài ra do truyền thống coi phụ nữ là phái yếu cho nên có những ưu
tiên nhất định. Điều này phần nào hợp lý ở hoàn cảnh trước đây. Tuy nhiên, cùng
GVHD: Nguyễn Ánh Minh

9

SVTH: Nguyễn Anh Khoa


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động

với sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực chăm sóc sức
khỏe nên sự khác biệt về thể trạng giữa nam và nữ khi lớn tuổi không còn rõ rệt
nữa. Chính vì vậy mà đa phần các nước hiện nay đều không phân biệt độ tuổi
nghỉ hưu giữa nam và nữ. Việt Nam theo quan điểm thứ nhất, nghĩa là có sự phân
biệt độ tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ.
Đặc điểm thứ hai có ở chế độ hưu trí đó là chế độ hưu trí có sự ưu đãi đối
với một số ngành nghề, lĩnh vực nhất định. Vấn đề này xuất phát từ lý do điều
kiện làm việc trong một số ngành nghề có tính chất độc hại, nguy hiểm hay làm
việc tại vùng xa xôi hẻo lánh, trong những lĩnh vực quan trọng như an ninh quốc
phòng. Khi làm việc trong những điều kiện như thế người lao động có nguy cơ bị
ảnh hưởng đến sức khỏe về lâu dài nên khả năng làm việc khi lớn tuổi sẽ không
bằng những người lao động làm việc trong điều kiện bình thường. Sự phân biệt
này thể hiện sự ưu đãi của nhà nước đối với người lao động làm việc trong các
ngành nghề, lĩnh vực đó, đồng thời khuyến khích người lao động vào làm việc,
tạo ra sự phân công lao động đồng đều giữa các khu vực, các ngành nghề, lĩnh
vực. Pháp luật Việt Nam cũng như luật các nước đều có quy định này. Theo đó,

những người lao động làm việc trong những điều kiện nặng nhọc, độc hại, làm
việc ở những vùng sâu, vùng xa hoặc làm việc trong lực lượng vũ trang sẽ được
nghỉ hưu sớm hơn lao động làm việc trong điều kiện bình thường 5 tuổi, kể cả
nam và nữ.
Ngoài ra, chế độ hưu trí còn thể hiện tính kinh tế và tính xã hội sâu sắc.
Tính kinh tế của chế độ hưu trí thể hiện ở việc người tham gia chỉ cần trích một
phần nhỏ tiền lương để đóng góp vào quỹ hưu trí là có thể có được nguồn thu
nhập (đương nhiên là thấp hơn) lúc về hưu mà không cần phải lao động nữa. Vấn
đề thu nhập được nhận lúc về hưu tùy thuộc vào thời gian tham gia đóng góp vào
quỹ hưu trí và thời điểm về hưu. Thời gian tham gia đóng góp vào quỹ hưu trí
càng lâu và thời điểm về hưu muộn sẽ được nhận trợ cấp nhiều hơn và ngược lại.
Tính xã hội của chế độ hưu trí thể hiện ở việc người đang tham gia đóng góp vào
quỹ hưu trí sẽ tương trợ cho những người về hưu. Nói một cách nôm na đó là
việc chi trả theo kiểu “gối đầu”. Theo cách này thì số tiền mà người đang còn
làm việc đóng góp vào quỹ hưu trí cùng với sự hỗ trợ của nhà nước và đóng góp
của người sử dụng lao động được dùng để chi trả cho các đối tượng về hưu và cứ
như thế duy trì. Cách làm này ngoài thể hiện tính nhân văn trong chế độ hưu trí
còn giúp cho quỹ hưu trí hoạt động một cách ổn định lâu dài. Để duy trì được sự
ổn định này thì yếu tố quan trọng nhất là tương quan giữa số người đang trong độ
tuổi lao động và số người về hưu. Nếu số người trong độ tuổi lao động nhiều hơn
GVHD: Nguyễn Ánh Minh

10

SVTH: Nguyễn Anh Khoa


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động


số người về hưu thì nguồn quỹ hưu trí sẽ dồi dào trong hiện tại nhưng trong
tương lai khi số người này về hưu thì khoản tiền dùng để chi trả cho họ sẽ rất lớn.
Còn nều số người về hưu nhiều hơn số lao động đang làm việc thì sẽ không đủ
nguồn quỹ để chi trả cho họ. Khi đó Nhà nước sẽ phải gánh một khoản chi phí
không nhỏ. Chưa kể đến trường hợp vỡ quỹ hưu trí do quỹ không còn khả năng
thanh toán.
Nhận thức được tầm quan trọng của chế độ hưu trí nên một số nước như
Nhật Bản, Hoa Kỳ, Pháp… đã pháp điển hóa các quy định của chế độ hưu trí
thành luật riêng. Tại Việt Nam, đến thời điểm này, chế độ hưu trí vẫn còn được
điều chỉnh bởi Luật bảo hiểm xã hội, Bộ Luật Lao động và các văn bản dưới luật
khác. Trong tương lai, với tầm quan trọng của mình thì nên chăng luật riêng về
hưu trí cũng cần được ban hành tại Việt Nam.
1.4. Phân loại chế độ hưu trí
Việc phân loại chế độ hưu trí nhằm mục đích phân biệt các đối tượng tham
gia cũng như phương thức đóng góp để từ đó có chính sách chi trả thích hợp. Các
nước trên thế giới cũng căn cứ vào tiêu chí này để phân chia các dạng của chế độ
hưu trí cho phù hợp với quốc gia mình. Khi phân loại chế độ hưu trí, các quốc gia
tuy có sự khác nhau nhưng về cách thức phân chia thì có những điểm tương
đồng. Theo hình thức tham gia ta có chế độ hưu trí dành cho người tham gia bảo
hiểm xã hội bắt buộc và chế độ hưu trí dành cho người tham gia bảo hiểm xã hội
tự nguyện. Theo hình thức chi trả thì chúng ta có chế độ hưu trí hằng tháng và
chế độ hưu trí một lần.
1.4.1. Chế độ hưu trí dành cho người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
Tại Việt Nam, người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc có sự hạn chế về
quy mô, chủ yếu là người lao động làm công ăn lương, cán bộ, công chức, quân
nhân… Đây là những đối tượng có nguồn thu nhập ổn định lâu dài và thường
xuyên. Luật Việt Nam cũng quy định việc đóng bảo hiểm xã hội cho các đối
tượng này là bắt buộc đối với chủ sử dụng lao động và bắt buộc với cả người lao
động.

Khi tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, ngoài những quyền lợi được
hưởng khi đang làm việc, người lao động sẽ được hưởng lương hưu khi hết tuổi
lao động. Về độ tuổi được xem là hết tuổi lao động, như được đề cập ở trên, có
sự chênh lệch giữa các nước. Tại Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản, độ tuổi
nghỉ hưu đối với lao động nữ là 55 tuổi, đối với lao động nam là 60 tuổi. Tại Anh
người lao động nghỉ hưu muộn hơn, nữ nghỉ hưu ở tuổi 60 và nam nghỉ hưu ở
tuổi 65. Ở Pháp, trước đây cũng áp dụng độ tuổi nghỉ hưu giống Trung Quốc,
GVHD: Nguyễn Ánh Minh

11

SVTH: Nguyễn Anh Khoa


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động

Việt Nam và Nhật Bản nhưng Dự luật cải cách hưu trí được đưa ra vào cuối năm
2010 đã điều chỉnh độ tuổi nghỉ hưu giống luật của Anh. Bên cạnh đó một số
nước không phân biệt độ tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ. Phần lớn các quốc gia
hiện nay đều áp dụng nguyên tắc này. Tuy nhiên trong một số trường hợp luật
các nước cho phép người lao động được về hưu sớm hơn.
1.4.2. Chế độ hưu trí dành cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện
Về cơ bản chế độ hưu trí dành cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội
tự nguyện cũng tương tự như người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc,
chỉ khác về đối tượng tham gia. Tại một số nước trên thế giới, luật không phân
biệt chế độ hưu trí dành cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
và chế độ hưu trí dành cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Tại Nhật Bản chế độ hưu trí nhà nước được chia làm 2 loại hình chính là: chế độ

hưu trí quốc gia áp dụng cho công dân Nhật Bản tuổi từ 20 đến dưới 60 và thực
hiện tự nguyện cho người dân Nhật Bản ở trong nước từ 60 đến dưới 65 tuổi, ở
nước ngoài từ 20 đến dưới 65 tuổi; chế độ hưu trí dành cho người lao động thực
hiện cho người lao động dưới 65 tuổi làm việc tại các cơ quan thuộc Chính phủ,
chính quyền địa phương, các công ty, tập đoàn, trường học tư. Đối tượng tham
gia chia làm 3 nhóm: nhóm 1 gồm lao động cá thể, nông dân, người không có
việc làm, sinh viên tham gia chế độ hưu trí quốc gia; nhóm 2 gồm lao động trong
khu vực tư nhân và nhà nước tham gia chế độ bảo hiểm hưu trí dành cho người
lao động; nhóm 3 gồm người phụ thuộc là vợ/chồng sống dựa vào nguồn thu
nhập của người lao động thuộc nhóm 2, tham gia vào chế độ hưu trí quốc gia.
Nguồn quỹ hưu trí được hình thành từ sự đóng góp của người dân, chủ sử dụng
lao động và ngân sách nhà nước. Trước đây ngân sách nhà nước hỗ trợ 1/3 chi
phí lương hưu cơ bản, từ năm 2009 tăng lên ½(7). Chế độ hưu trí của Trung Quốc
phân làm 3 dạng dựa theo đối tượng thụ hưởng gồm chế độ hưu trí dành cho lao
động làm việc trong các doanh nghiệp được ra đời vào năm 1950; chế độ hưu trí
đối với công chức, viên chức được thực hiện bởi nhà nước, cá nhân không phải
đóng góp; chế độ trợ cấp tuổi già ở khu vực nông thôn được ra đời vào năm 1991
và ngày càng phát triển(8).

1.4.3. Chế độ hưu trí hằng tháng
(7)

Nhìn ra nước ngoài, Tổng quan về hệ thống an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội Nhật Bản, Tạp chí Bảo
Hiểm Xã Hội, Số 6B/2009 (132), www.Tapchibaohiemxahoi.org.vn;
(8)
Nhìn ra nước ngoài, Tổng quan về an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội Trung Quốc, Tạp chí Bảo Hiểm
Xã Hội, Số 6B/2009 (132) www.Tapchibaohiemxahoi.org.vn.

GVHD: Nguyễn Ánh Minh


12

SVTH: Nguyễn Anh Khoa


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động

Đối với đối tượng đủ điều kiện về hưu thì sẽ được hưởng lương hưu hằng
tháng khi nghỉ hưu. Mức lương hưu hằng tháng được ấn định ở một mức tối thiểu
nhất định và được tăng dần lên theo số năm đóng bảo hiểm xã hội. Ngoài ra còn
có chế độ hưu trí hằng tháng với mức thấp hơn. Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam
quy định chế độ hưu trí hằng tháng đầy đủ tối đa bằng 75% mức bình quân tiền
lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội(9). Chế độ hưu trí hằng tháng với mức
thấp hơn tối đa bằng 75% mức bình quân tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã
hội nhưng giảm 1% cho mỗi năm nghỉ trước tuổi(10). Luật hưu trí của Nhật Bản
cũng quy định tương tự nhưng số tiền bị cắt giảm khi nghỉ trước tuổi là 0,5%(11).
Quy định này nhằm mục đích khuyến khích người lao động làm việc lâu hơn để
có thêm thu nhập, ngoài ra còn giúp giảm bớt gánh nặng cho quỹ hưu trí.
1.4.4. Chế độ hưu trí một lần
Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam quy định, khi tham gia bảo hiểm xã hội bắt
buộc trong một khoảng thời gian nhất định thì người lao động còn được hưởng
trợ cấp một lần khi nghỉ hưu (12). Bên cạnh đó các đối tượng về hưu nhưng không
đủ điều kiện hưởng lương hưu hằng tháng thì cũng được hưởng trợ cấp một
lần(13). Chế độ hưu trí một lần giúp cho các đối tượng có đóng góp vào quỹ hưu
trí vẫn nhận được trợ cấp đủ không đủ điều kiện hưởng lương hưu. Ngoài ra,
hình thức chi trả này cũng khuyến khích người tham gia tích cực đóng góp vào
quỹ hưu trí để nhận được nhiều ích lợi hơn.
1.5. Tầm quan trọng của chế độ hưu trí đối với người lao động

Chế độ hưu trí có tầm quan trọng rất lớn đối với người lao động. Trong
buổi đầu hình thành, chế độ hưu trí chỉ đơn thuần là sự tương trợ của người lao
động cho nhau những lúc khó khăn. Bước sang nền kinh tế thị trường, chế độ
hưu trí càng chiếm vai trò quan trọng. Chế độ này trở thành một phần không thể
thiếu trong cuộc sống của người lao động và trong chính sách đối nội của các
quốc gia. Tầm quan trọng của chế độ hưu trí thể hiện ở các khía cạnh như sau:
1.5.1. Chế độ hưu trí bảo đảm cho đời sống của người lao động khi về hưu
Chế độ hưu trí là một dạng phúc lợi xã hội dành cho người lao động khi về
hưu. Người lao động tham gia vào nền kinh tế với tư cách người tạo ra của cải
vật chất, phục vụ cho nhu cầu của xã hội. Người lao động có vai trò thúc đẩy xã
hội phát triển. Họ đã tạo ra của cải vật chất cho xã hội khi họ còn điều kiện thì
(9)

Khoản 1 Điều 52 Luật Bảo hiểm xã hội 2006,
Khoản 2 Điều 52 Luật Bảo hiểm xã hội 2006,
(11)
Nhìn ra nước ngoài, Tổng quan về hệ thống an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội Nhật Bản, Tạp chí Bảo
Hiểm Xã Hội, Số 6B/2009 (132), www.Tapchibaohiemxahoi.org.vn;
(12)
Khoản 1 Điều 54 Luật Bảo hiểm xã hội 2006,
(13)
Điều 55 Luật Bảo hiểm xã hội 2006.
(10)

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

13

SVTH: Nguyễn Anh Khoa



Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động

khi họ không còn điều kiện lao động nữa thì xã hội phải chăm lo lại cho họ. Điều
này hoàn toàn phù hợp với quy luật cho và nhận. Người lao động lúc còn khả
năng lao động có thể tự nuôi sống mình và cả những người thân của mình. Tuy
nhiên, khi không còn khả năng lao động nữa thì vấn đề tìm kiếm nguồn thu nhập
để duy trì cuộc sống của bản thân và gia đình trở thành vấn đề nan giải, đặc biệt
là đối với các trường hợp không có người thân hay những người thân cũng không
có khả năng tự lo cho bản thân mình. Khi đó, lương hưu là một giải pháp cứu
cánh cho người lao động. Với khoản lương hưu đó, người lao động có thể duy trì
được cuộc sống cho bản thân và gia đình mặc dù có thể eo hẹp hơn trước kia. Đối
với trường hợp người về hưu may mắn có người thân phụng dưỡng thì tiền lương
hưu mang ý nghĩa như một khoản tiết kiệm. Người đó có thể dùng lương hưu để
đầu tư sinh lợi hoặc phòng khi rủi ro. Ngoài ra khoản tiền này còn có thể dành
cho con cháu như một di sản thừa kế.
Con người khi lớn tuổi thường hay mặc cảm, tự ti vì coi mình là gánh nặng
của gia đình. Với khoản lương hưu có được hằng tháng, người về hưu có thể san
sẻ gánh nặng giúp gia đình, chí ít cũng được những nhu cầu cơ bản hằng ngày.
Như vậy người về hưu sẽ không còn có cảm giác mặc cảm, xem mình là người
vô dụng nữa. Với suy nghĩ đó, người về hưu sẽ sống tích cực hơn. Mặc khác,
chẳng may người đó mất thì gánh nặng dành cho gia đình cũng được giảm bớt do
đã được nhận trợ cấp tuất từ bảo hiểm xã hội.
1.5.2. Chế độ hưu trí góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn định và
thúc đẩy công bằng xã hội
Như đã nói, chế độ hưu trí đảm bảo cho người lao động vẫn có thu nhập khi
về hưu. Việc này sẽ giúp người lao động yên tâm sản xuất vì họ nhận thức được
rằng lao động tạo ra thu nhập không chỉ cho hôm nay mà còn cho những ngày

sau này. Trước khi có chế độ hưu trí thì người lao động chỉ có một nguồn thu
nhập duy nhất là từ tiền lương. Khi không còn lao động được nữa thì nguồn thu
nhập này cũng mất đi do đó người lao động luôn có cảm giác lo âu. Khi tham gia
đóng góp vào quỹ hưu trí thì dù ít hay nhiều, người lao động cũng nhận được trợ
cấp. Tâm lý thoải mái sẽ khiến cho người lao động tích cực hơn trong sản xuất,
tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa làm giàu cho nền kinh tế.
Việc quy định khoảng đóng góp do người sử dụng lao động, người lao động
và nhà nước góp phần tạo nên mối quan hệ hài hòa giữa 3 chủ thể trên. Chế độ
hưu trí hoàn toàn phù hợp với ý nguyện của cả ba chủ thể. Người lao động muốn
cuộc sống của mình được bảo đảm sau khi hết tuổi lao động mà không phải dựa
vào con cháu và có một khoảng tiền phòng khi ốm đau. Người sử dụng lao động
GVHD: Nguyễn Ánh Minh

14

SVTH: Nguyễn Anh Khoa


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động

muốn người lao động cố gắng sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm để tăng lợi nhuận
cho nên phải tạo niềm tin và sự gắn kết từ phía người lao động bằng cách chăm
lo cho đời sống của họ và việc tham gia đóng bảo hiểm xã hội là một phần trong
mục đích đó. Còn về phía Nhà nước thì việc đặt ra quy định và hoàn thiện dần
chế độ hưu trí thể hiện sự quan tâm chăm lo của nhà nước đối với nhân dân, hơn
nữa việc đảm bảo chế độ hưu trí cho người lao động sẽ góp phần tạo nên sự tin
tưởng của nhân dân vào sự lãnh đạo của Nhà nước. Với bản chất là sự đền bù
xứng đáng cho người lao động sau quãng thời gian cống hiến cho xã hội, chế độ

hưu trí còn là sự thể hiện trách nhiệm của Nhà nước, của xã hội và của người sử
dụng lao động. Do đó chế độ hưu trí góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Một xã
hội được xem là phát triển cao thật sự khi nó đảm bảo cuộc sống tốt đẹp cho con
người từ lúc lọt lòng đến lúc từ trần. Sẽ không thể có công bằng xã hội khi người
lao động sau khi tạo ra của cải vật chất cho xã hội lại về hưu với 2 bàn tay trắng
và tấm thân già yếu, bệnh tật. Nói một cách khác chế độ hưu trí mang nặng tính
xã hội hơn tính pháp lý. Hơn nữa, chế độ hưu trí còn ảnh hưởng đến sự ổn định
trong đời sống chính trị của quốc gia. Cuộc biểu tình phản đối Dự luật cải cách
hưu trí vừa qua ở Pháp là một minh chứng rõ ràng nhất. Cuộc biểu tình này đã
tạo ra phản ứng dây chuyền trong xã hội và làm nước Pháp chìm trong hỗn loạn
trong một khoảng thời gian, gây thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế nước Pháp(14).
Biểu tình cũng diễn ra tại Hy Lạp để phản đối Chính phủ nước này cải cách hưu
trí(15) (cả hai nước đều cải cách tăng tuổi nghỉ hưu lên 5 tuổi đối với cả nam lẫn
nữ nhưng không tăng lương hưu ). Từ thực tiễn các quốc gia cho thấy khi “động”
đến vấn đề hưu trí sẽ “chạm” đến rất nhiều vấn đề xã hội khác.
1.5.3. Chế độ hưu trí phản ánh trình độ phát triển của quốc gia
Chính sách hưu trí chỉ có thể thực hiện tốt khi nền kinh tế quốc gia phát
triển cao. Khi đó việc huy động tài chính đóng góp vào quỹ hưu trí cũng sẽ dễ
dàng hơn. Khi nền kinh tế phát triển, cả người sử dụng lao động, Nhà nước đều ý
thức được tầm quan trọng của người lao động, đó là cơ hội để người lao động
khẳng định quyền lợi của mình. Do đó khi quyền lợi của mình bị xâm phạm,
người lao động sẽ đấu tranh để giành quyền lợi. Thông qua các hình thức đấu
tranh của người lao động mà nhà nước thấy được vấn đề bất ổn xã hội để từ đó
đưa ra những chính sách phù hợp. Thực tế chứng minh rằng bất kể quốc gia theo
(14 )

Hanoimoionline. Bãi công phản đối cải cách hưu trí gây ảnh hưởng nghiêm trong tai Pháp.
nhật ngày 6/01/2011];
(15)
VOVnews: Quốc Hội Hy Lạp thông qua cải cách hưu trí

nhật ngày
06/01/2011].

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

15

SVTH: Nguyễn Anh Khoa


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động

chế độ nào nhưng có chính sách hưu trí phát triển đều là quốc gia có nền kinh tế
phát triển.
Tóm lại, chương 1 đã khái quát tất cả những vấn đề chung về bảo hiểm xã
hội và chế độ hưu trí. Chế độ hưu trí là một bộ phận không thể tách rời của bảo
hiểm xã hội và có thể nói là ra đời và phát triển cùng lúc với bảo hiểm xã hội. Từ
những phân tích như trên ta thấy được tầm quan trọng của chế độ hưu trí. Trong
thời buổi kinh tế thị trường và toàn cầu hóa đang trở thành một xu hướng, sức
lao động của con người ngày càng có giá trị thì việc hoàn thiện chế độ hưu trí là
việc làm cấp bách. Việc này đòi hỏi phải có sự tham gia của cả Nhà nước, người
sử dụng lao động, người lao động và toàn xã hội. Bên cạnh đó chế độ hưu trí còn
thể hiện tính nhân văn của xã hội và truyền thống của dân tộc khi phân biệt độ
tuổi nghỉ hưu của nam và nữ, giữa những người làm việc trong điều kiện không
thuận lợi với những người làm việc trong điều kiện bình thường.
Việt Nam đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc hoàn
thiện chế độ hưu trí cho người lao động sẽ góp phần tạo niềm tin của nhân dân
vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, từ đó tạo động lực trong lao động sản

xuất, đẩy nhanh sự phát triển của đất nước. Một chính sách đúng đắn và hợp lý
cho chế độ hưu trí sẽ tránh được những bất ổn trong xã hội, tạo cho xã hội một
sự phát triển bền vững lâu dài.

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

16

SVTH: Nguyễn Anh Khoa


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động

CHƯƠNG 2:
PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ Ở VIỆT NAM –
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Chế độ hưu trí là một chính sách quan trọng của quốc gia. Đó là một trong
những công cụ để Nhà nước duy trì sự ổn định và phát triển xã hội. So sánh với
những loại hình an sinh xã hội còn lại thì chế độ hưu trí vừa có những điểm tương
đồng vừa mang những nét đặc trưng riêng. Chế độ hưu trí còn là một chế độ thể
hiện tính nhân văn sâu sắc. Thông qua chính sách hưu trí, Nhà nước thể hiện rõ bản
chất của mình. Cùng với các chính sách khác trong bảo hiểm xã hội chế độ hưu trí
góp phần bảo đảm cho quyền và lợi ích chính đáng của người lao động.
Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân
và vì dân. Mọi chế độ, chính sách của nhà nước đều hướng đến lợi ích của nhân
dân. Tuy đất nước còn gặp nhiều khó khăn trên con đường phát triển nhưng Đảng
và Nhà nước đã cố gắng ban hành nhiều quy định về an sinh xã hội nói chung và
chế độ hưu trí nói riêng. Những quy định này xuất phát từ thực tiễn ở Việt Nam và

phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tình hình thế
giới có nhiều biến động. Suy thoái kinh tế toàn cầu, vỡ nợ công ở một số nước, các
thảm họa về mội trường… đã ảnh hưởng không nhỏ đến nước ta. Cùng với sự thiếu
đồng bộ trong công tác quản lý nên tình hình kinh tế xã hội Việt Nam cũng có nhiều
khó khăn nhất định gây ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là người lao
động làm công ăn lương. Chính vì vậy việc chăm lo hoàn thiện hệ thống pháp luật
về an sinh xã hội là một việc làm cần thiết.
2.1. Cơ sở hình thành pháp luật về chế độ hưu trí ở Việt Nam
2.1.1. Cơ sở kinh tế - xã hội(16)
Tính đến năm 2005 thì đất nước ta đã trải qua gần 20 năm đổi mới. Nền kinh
tế Việt Nam không ngừng phát triển và đạt được những tiến bộ đáng khích lệ. Từ
một nước nông nghiệp lạc hậu, đến thời điểm đó, Việt Nam đang đứng trước
ngưỡng cửa để thoát khỏi nhóm các nước đang phát triển. Trong giai đoạn đầu đổi
mới (1986 - 1991), tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế có chậm và gặp phải nhiều khó
khăn do tình hình thế giới có nhiều biến động và chính sách bao vây, cấm vận của
Mỹ nhưng GDP của Việt Nam vẫn tăng dần theo công cuộc đổi mới. Tốc độ tăng
(16)

Các số liệu được trích dẫn từ bài viết Thành tựu thời kỳ đổi mới ở Việt Nam – Con đường đi lên CNXH,
hình thành những nét cơ bản, Gs – Ts Chu Văn Giáp
/>H_hinh_thanh_nhung_net_co_ban.html[cập nhật ngày 24/01/2011].

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

17

SVTH: Nguyễn Anh Khoa


Luận văn tốt nghiệp


Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động

trưởng, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thời kỳ 1992 – 1997 tăng bình quân
8,75%/năm. Thời kỳ 2000 – 2007 là 7,55%/năm. Theo ông Trần Đức Khiển, Thứ
trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư, trong 20 năm qua, nét nổi bật của Việt Nam là từ
một nước trì trệ, tăng trưởng thấp, tích luỹ phần lớn nhờ vào vay mượn bên ngoài,
đến nay đã trở thành một nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực. Việt Nam
đã tạo được khả năng tích luỹ để đầu tư cho phát triển và cải thiện đời sống của
người dân. Tổng tích luỹ tăng từ 9,5 – 11,3%/năm tuỳ giai đoạn. Nhưng cơ bản,
Việt Nam đã đổi mới được cơ chế quản lý, nhờ đổi mới mà Việt Nam từng bước
xâydựng được vai trò của mình trong hội nhập khu vực và quốc tế.
Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đến năm 1995, lần đầu tiên, hầu hết
các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch Nhà nước 5 năm 1991-1995 được hoàn thành và
hoàn thành vượt mức. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được
những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thời kỳ 1986 – 1990: GDP tăng 4,4%/năm. Đây là
giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện
một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và giải phóng sức sản xuất.
Bước sang giai đoạn 1991 – 1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trì trệ, suy
thoái, đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện. GDP bình
quân năm tăng 8,2%. Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy
mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Từ năm 1996 - 2000, là bước phát
triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực cùng thiên tai nghiêm
trọng xảy ra liên tiếp đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách. Tuy nhiên, giai
đoạn này, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước
7%/năm. Năm 2000 - 2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục,
GDP bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP

theo giá hiện hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu
đồng, tương đương với 640 USD. Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu
50 vạn - 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên
thế giới. Năm 2005, nước ta đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà
phê, thứ 4 về cao su, thứ 2 về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu.
Về cơ cấu ngành, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1988 là
46,3%, năm 2005 còn 20,9%. Trong nội bộ ngành nông nghiệp cơ cấu trồng trọt và
chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

18

SVTH: Nguyễn Anh Khoa


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động

suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Giá trị tạo ra trên
một đơn vị diện tích ngày một tăng lên. Trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, giá trị
sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5,5%/năm, giá trị tăng thêm bằng khoảng
3,89%/năm. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục. Năm 1988 là
21,6%, năm 2005 lên 41%. Từ chỗ chưa khai thác dầu mỏ, đến thời điểm đó, mỗi
năm đã khai thác được khoảng gần 20 triệu tấn quy ra dầu. Ngành công nghiệp chế
tác chiếm 80% giá trị sản lượng công nghiệp. Công nghiệp xây dựng phát triển
mạnh với thiết bị công nghệ ngày càng hiện đại. Sản phẩm công nghiệp xuất khẩu
ngày càng tăng, có chỗ đứng trong những thị trường lớn. Trong kế hoạch 5 năm
2001 - 2005, giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng tăng 15,9%/năm, giá trị tăng

thêm đạt 10,2%/năm. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm
1988 lên 38,1% năm 2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn
thông phát triển với tốc độ nhanh. Các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn
pháp lý... có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Cơ cấu lao động có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, giảm tỷ lệ lao động trong sản xuất thuần nông, tăng tỷ lệ lao động
trong công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Năm 1990, lao động nông, lâm, ngư
nghiệp chiếm 73,02% trong tổng số lao động xã hội, năm 2000 còn 56,8%.
Trong khi đó, tỷ trọng lao động của ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ
12,1% năm 2000 lên 17,9% năm 2005; lao động trong các ngành dịch vụ tăng tương
ứng từ 19,7% lên 25,3%; lao động đã qua đào tạo tăng từ 20% năm 2000 lên 25%
năm 2005.
Kinh tế Nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập
trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế.
Số doanh nghiệp Nhà nước qua sắp xếp đổi mới, cổ phần hoá đã giảm từ 12.084
doanh nghiệp năm 1990 xuống còn 2.980 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước và 670
công ty cổ phần do Nhà nước chi phối trên 51% vốn điều lệ năm 2005. Qua đổi
mới, doanh nghiệp Nhà nước năm 2005 đóng góp 38,5% GDP và khoảng 50% tổng
ngân sách Nhà nước. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả
trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao
động xã hội. Năm 2005 chiếm 46% GDP. Trong đó, kinh tế hợp tác phát triển ngày
càng đa dạng, hoạt động ngày càng có hiệu quả, năm 2005, kinh tế hợp tác đóng
góp khoảng 7% GDP. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn
các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

19


SVTH: Nguyễn Anh Khoa


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động

tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp
khoảng 38% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng
trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông
quốc tế. Năm 2005, khu vực này đóng góp 15,5% GDP, trên 7,5% tổng thu ngân
sách, trên 17,1% tổng vốn đầu tư xã hội, trên 23% kim ngạch xuất khẩu (không kể
dầu khí); đạt trên 35% giá trị sản xuất công nghiệp; thu hút hơn nửa triệu lao động
trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp.
Qua 20 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng
bộ. Từng bước phát triển đồng bộ và quản lý sự vận hành các loại thị trường cơ bản,
theo cơ chế mới. Thị trường hàng hoá phát triển với quy mô lớn, tốc độ nhanh. Các
thị trường dịch vụ, lao động, khoa học và công nghệ, bất động sản đang được hình
thành. Các cân đối vĩ mô của nền kinh tế cơ bản được giữ ổn định, tạo môi trường
và điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế. Tiềm lực tài chính ngày càng được
tăng cường, thu ngân sách tăng trên 18%/năm; chi cho đầu tư phát triển bình quân
chiếm khoảng 30% tổng chi ngân sách.
Xuất khẩu, nhập khẩu tăng rất nhanh cả về quy mô và tốc độ. Tổng kim ngạch
xuất khẩu hàng hoá trước thời kỳ đổi mới chỉ đạt khoảng 1 tỷ USD/năm, đến nay
tổng kim ngạch xuất khẩu đã vượt hơn 50% GDP, tức là trên 25 tỷ USD/năm. Một
số sản phẩm của Việt Nam đã có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới với những
thương hiệu có uy tín. Đáng chú ý là xuất khẩu dịch vụ tăng rất nhanh, tăng
15,7%/năm, bằng 19% tổng kim ngạch xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu được mở

rộng sang những nền kinh tế lớn. Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá từ năm 2000
đến 2005 tăng khoảng 19%/năm, nhập siêu khoảng 4 tỷ USD/năm, bằng 17,5% tổng
kim ngạch xuất khẩu. Nhập siêu tuy còn cao nhưng vẫn trong tầm kiểm soát và có
xu hướng giảm dần. Cơ cấu xuất nhập khẩu chuyển biến theo hướng tích cực. Tỷ
trọng hàng công nghiệp nặng và khoáng sản giảm từ 37,2% năm 2000 xuống còn
36% năm 2005, hàng nông, lâm thuỷ sản giảm từ 29% xuống 24%; hàng công
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tăng từ 38,8% lên 39,8%.
Trong 20 năm qua, công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo đạt kết
quả tốt, vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Từ năm 2000 đến
năm 2005, tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động. Năm 2005, thất nghiệp ở thành thị
giảm xuống còn 5,3%; thời gian sử dụng lao động ở nông thôn đạt 80%.

GVHD: Nguyễn Ánh Minh

20

SVTH: Nguyễn Anh Khoa


Luận văn tốt nghiệp

Pháp luật về chế độ hưu trí cho người lao động

Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 200 USD năm 1990 lên khoảng
640 USD năm 2005. Theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm
1992 xuống dưới 7% năm 2005. Theo chuẩn quốc tế (1 USD/người/ngày) thì tỷ lệ
đói nghèo của Việt Nam đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 28,9% năm 2002.
Chỉ số phát triển con người được nâng lên, từ mức dưới trung bình (0,498)
năm 1990, tăng lên mức trên trung bình (0,688) năm 2002; năm 2005 Việt Nam xếp
thứ 112 trên 177 nước được điều tra; mạng lưới y tế được củng cố và phát triển, y tế

chuyên ngành được nâng cấp, ứng dụng công nghệ tiên tiến; việc phòng chống các
bệnh xã hội được đẩy mạnh; tuổi thọ trung bình từ 68 tuổi năm 1999 nâng lên 71,3
tuổi vào năm 2005.
Từ những thành tựu đã đạt được trong 10 năm đổi mới cho thấy nền kinh tế
Việt Nam đang phát triển rất nhanh. Điều đó đặt ra nhiều vấn đề, trong đó vấn đề
thất nghiệp, lạm phát, chăm sóc y tế, chế độ hưu trí cho người lao động. Việc ngày
càng nhiều thành phần kinh tế tham gia vào thị trường đã tạo ra cạnh tranh ngày
càng khốc liệt. Đi liền với sự phát triển nhanh chóng về kinh tế và những đòi hỏi
càng cao của xã hội cùng với xu hướng toàn cầu hóa thì việc hoàn thiện khung
pháp lý chung về an sinh xã hội là một việc làm cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người lao động và tạo điều kiện để Việt Nam hòa nhập với thế giới
bên ngoài.
2.1.2. Cơ sở chính trị
Kể từ sau Đại hội Đảng lần VI (1986), đất nước ta đã có những chuyển biến rõ
rệt về kinh tế. Đó là do Đảng ta đã quyết tâm đổi mới, đưa đất nước ra khỏi tình
trạng trì trệ, lạc hậu. Vấn đề bảo đảm cuộc sống cho nhân dân lao động luôn được
Đảng và nhà nước quan tâm. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI nêu rõ
“Từng bước xây dựng chính sách bảo trợ xã hội chủ nghĩa đối với toàn dân theo
phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, mở rộng và phát triển các công
trình sự nghiệp bảo trợ xã hội, tạo lập nhiều hình thức bảo trợ xã hội cho những
người có công với cách mạng và những người gặp khó khăn. Nghiên cứu, bổ sung
chính sách, chế độ bảo trợ xã hội phù hợp với quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế, quản lý xã hội”; “Thực hiện đúng chế độ về hưu. Tổ chức tốt hơn việc phục vụ
về xã hội, y tế, văn hóa, thông tin cho người về hưu”(17). Trong phương hướng, mục
tiêu chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội trong 5 năm 1986 – 1990 cũng đề ra mục tiêu
phát triển chế độ, chính sách đối với người lao động về hưu như sau: “Công tác bảo
trợ xã hội đối với toàn dân phải được tiến hành theo phương châm “Nhà nước và
(17)

Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập, NXB Chính trị quốc gia, tr74


GVHD: Nguyễn Ánh Minh

21

SVTH: Nguyễn Anh Khoa


×