Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại PHÁP LUẬT về THANH TRA CHUYÊN NGÀNH tài NGUYÊN môi TRƯỜNG và THỰC TIỄN áp DỤNG tại TỈNH ĐỒNG NAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (748.66 KB, 73 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA CHUYÊN NGÀNH
TÀI NGUYÊN MÔI TRƢỜNG VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TẠI TỈNH ĐỒNG NAI

GVHD: Ths.Kim Oanh Na

SVTH: Phạm Thị Thu Vân
Lớp: Luật Thƣơng mại 1 K34
MSSV: 5086014

Cần Thơ, tháng 5/2012


Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN
*********
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............


…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............

SVTH: Phạm Thị Thu Vân

i


Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG
*********
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............

…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………...............

SVTH: Phạm Thị Thu Vân

ii


Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn

MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU………………………………………………………………….1
1. Tính cấp thiết của đề tài……………………………………………………...1
2. Mục tiêu nghiên cứu…………………………………………………………2
3. Phạm vi nghiên cứu………………………………………………………….2
4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………….2
5. Kết cấu luận văn……………………………………………………………..2
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ MÔI TRƯỜNG, QUÁ TRÌNH THÀNH
LẬPTHANH TRA MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG………………………………………………………………………3
1.1 Khái quát về môi trường……………………………………………………3
1.1.1 Khái niệm môi trường và chức năng của môi trường.……………………3
1.1.2 Các biện pháp bảo vệ môi trường………………………………………...7
1.1.3 Tình hình môi trường và sự cần thiết của việc bảo vệ môi trường……….9
1.1.4 Sơ lược các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường……………...15
1.2 Những vấn đề cơ bản về Thanh tra chuyên ngành Tài nguyên và Môi
trường…………………………………………………………………………18
1.2.1 Quá trình thành lập lực lượng Thanh tra môi trường……………………18
1.2.2 Vị trí và chức năng của Thanh tra môi trường…………………………..19
1.2.3 Cơ cấu, tổ chức của lực lượng thanh tra môi trường……………………18
1.2.4 Cơ cấu, tổ chức của lực lượng thanh tra môi trường……………………22
1.2.5 Mối quan hệ của Thanh tra Tài nguyên và Môi trường…………………21
1.2.6 Sơ lược pháp luật về thanh tra và thanh tra môi trường.……………......28
Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA CHUYÊN NGÀNH TÀI NGUYÊN
VÀ MÔI TRƯỜNG - THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH ĐỒNG
NAI……………………………………………………………………………34
2.1 Thẩm quyền của Thanh tra môi trường…………………………………...34
SVTH: Phạm Thị Thu Vân

iii



Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn

2.1.1 Thẩm quyền của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường……………..34
2.1.2 Thẩm quyền của Chánh Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường……...37
2.1.3 Thẩm quyền của thanh tra Tổng cục, thanh tra Cục…………………….39
2.1.4 Thẩm quyền của Chánh Thanh tra Tổng cục, Chánh Thanh tra Cục……42
2.1.5 Thẩm quyền của Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường……………...43
2.1.6 Thẩm quyền của Chánh Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường……...44
2.1.7 Thẩm quyền của thanh tra viên…………………………………………45
2.2 Thực tiễn tổ chức và hoạt động của lực lượng thanh tra môi trường tại tỉnh
Đồng Nai………………………………………………………………………46
2.3 Khó khăn trong việc thực hiện công tác…………………………………..56
2.4 Kiến nghị, đề xuất…………………………………………………………56
KẾT LUẬN……………………………………………………………………63

SVTH: Phạm Thị Thu Vân

iv


Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Môi trường đã trở thành vấn đề chung của nhân loại, được toàn thế giới
quan tâm. Môi trường ở Việt Nam hiện nay đang xuống cấp, cục bộ, bị ô nhiễm
và suy thoái nghiêm trọng. Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, nước ta
còn phải gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề do ô nhiễm môi trường mang lại như
cạn kiệt nguồn tài nguyên, đất đai bị xói mòn và thoái hóa, rừng bị tàn phá và
khai thác bừa bãi, thiên tai thường xuyên xảy ra, nguy cơ mất cân bằng sinh thái
đã ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống và phát triển bền vững của đất
nước. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực môi trường chưa hoàn chỉnh và đồng bộ,
việc thanh tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường chưa
nghiêm khắc, thiếu tính cương quyết. Chủ thể vi phạm pháp luật về môi trường
hoạt động với những thủ đoạn, phương thức ngày càng tinh vi, xảo quyệt và có
quan hệ rộng, gây khó khăn cho việc xử lý. Tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của
các lực lượng trực tiếp làm công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về môi
trường chưa cụ thể, rõ ràng và thống nhất nên hoạt động gặp một số khó khăn, trở
ngại, chưa phát huy tốt hiệu quả trong phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi
vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Thanh tra môi trường là một trong những lực lượng nòng cốt thực hiện
công tác phòng ngừa, phát hiện, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường ở nước ta bên cạnh lực lượng cảnh sát môi trường. Tuy thành lập đã
khá lâu nhưng lực lượng thanh tra môi trường của nước ta hiện nay còn hạn chế
về khả năng chuyên môn, nghiệp vụ; tổ chức và hoạt động còn lỏng lẻo dẫn đến
việc triển khai thực hiện nhiệm vụ còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó các văn
bản pháp luật điều chỉnh về hoạt động của thanh tra môi trường còn rất ít, chưa
đáp ứng được yêu cầu của thực tế, trong khi các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ
môi trường diễn ra ngày càng nhiều và càng tinh vi. Do vậy, trong bài luận văn
này người viết thông qua tìm hiểu một số quy định của pháp luật có liên quan về
lực lượng thanh tra môi trường cũng như thực tiễn công tác của lực lượng này,
qua đó rút ra một số ý kiến và đề xuất của cá nhân người viết về đề tài này. Đó
cũng chính là lý do người viết chọn nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về thanh tra

chuyên ngành Tài nguyên môi trƣờng và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Đồng
Nai”.
SVTH: Phạm Thị Thu Vân

1


Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn

2. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu pháp luật về thanh tra môi trường,tổ chức bộ máy và hoạt động
của lực lượng Thanh tra môi trường trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
đấu tranh phòng ngừa, phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường.
Qua đó trau dồi thêm kiến thức về bảo vệ môi trường cho bản thân. Cũng trên cơ
sở tìm hiểu những quy định đó, rút ra những thuận lợi và khó khăn và nguyên
nhân của những khó khăn đó để dự báo và vạch ra hướng đi cụ thể thông qua đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng Thanh tra
môi trường.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ cho phép, bài luận văn này người viết tập trung nghiên
cứu các quy định của pháp luật về thẩm quyền của lực lượng thanh tra môi
trường dựa trên cơ sở Luật bảo vệ môi trường 2005 quy định cụ thể tại Điều 125
và Điều 126, Nghị định 35/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07/4/2009 về tổ
chức và hoạt động của Thanh tra tài nguyên và môi trường và Nghị định số
117/2009 về xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, và những tồn tại của
việc áp dụng những quy định đó vào thực tiễn công tác của lực lượng thanh tra
môi trường.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong bài luận văn này, người viết chủ yếu vận dụng những phương pháp
sau: phân tích, tổng hợp, đánh giá và kết hợp lý luận thực tiễn….
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mục lục, lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo
thì nội dung chính của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về môi trường và Thanh tra chuyên
ngành Tài nguyên môi trường.
Chương 2: Pháp luật về Thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường
và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Đồng Nai.

SVTH: Phạm Thị Thu Vân

2


Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn

Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ MÔI TRƢỜNG, QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP
THANH TRA MÔI TRƢỜNG VÀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG
1.1 Khái quát về môi trƣờng
1.1.1 Khái niệm môi trƣờng và chức năng của môi trƣờng
1.1.1.1 Khái niệm môi trƣờng
Môi trường là một phạm trù rất rộng và theo đó chúng ta có rất nhiều định
nghĩa khác nhau về môi trường, khái niệm này được sử dụng trong nhiều lĩnh vực
khác nhau như môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường giáo dục,….
Một cách dễ hiểu nhất thì môi trường là toàn bộ điều kiện tự nhiên và xã hội nói
chung, trong đó con người hay một sinh vật tồn tại và phát triển. Ngoài ra môi
trường còn được hiểu theo nhiều nghĩa đặc biệt khác như nó bao gồm các yếu tố

đất, nước, không khí,… Môi trường có thể dùng để đề cập tới tất cả những sự
sống và không sống mà nó bao quanh và ảnh hưởng tới sinh vật sống. Nói đến
môi trường, điều quan trọng cần ghi nhớ là không thể ngăn cách hay tách rời các
thành phần môi trường. Đó là các yếu tố tạo thành môi trường như không khí,
nước, âm thanh, ánh sáng, đất, núi, rừng, sông, hồ, biển, sinh vật và các hệ sinh
thái, các khu dân cư, khu sản xuất, khu bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan thiên
nhiên, di tích lịch sử và các hình thái vật chất khác…Như vậy, môi trường có thể
xem như tổng các điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng đến sự phát triển hay tồn tại
của sinh vật và con người.
Theo định nghĩa của UNESCO năm 1967 thì “môi trường sống của con
người là phần không gian mà con người tác động, sử dụng và bị nó làm ảnh
hưởng, là tập hợp các yếu tố vật chất (tự nhiên và nhân tạo) và xã hội xung quanh
con người”. Theo định nghĩa này, nói đến môi trường cần phải làm rõ đó là “môi
trường sống của con người”, để tránh nhầm lẫn với “môi trường sống của sinh
vật”. Theo đó, môi trường gồm 2 nhóm yếu tố:
Nhóm vật chất: bao gồm các yếu tố tự nhiên như đất, nước, không khí, vật
lý, sinh học và các yếu tố nhân tạo như đô thị, máy móc…
Nhóm phi vật chất: bao gồm các yếu tố xã hội và nhân văn như quy chế
luật pháp, chương trình, dự án…có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát
triển của mỗi cá nhân và cộng đồng.
Môi trường có 4 loại chính tác động qua lại lẫn nhau(1):
SVTH: Phạm Thị Thu Vân

3


Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn


- Môi trường tự nhiên bao gồm nước, không khí, đất đai, ánh sáng và sinh
vật.
- Môi trường kiến tạo gồm những cảnh quan được thay đổi do con người.
- Môi trường không gian gồm những yếu tố về địa điểm, khoảng cách, mật
độ, phương hướng và sự thay đổi trong môi trường.
- Môi trường văn hóa – xã hội bao gồm các cá nhân và các nhóm, công
nghệ, tôn giáo, các định chế, kinh tế học, thẩm mỹ học, dân số học và các hoạt
động khác của con người.
Theo cách nhìn của khoa học môi trường hiện đại thì trái đất có thể xem
như con tàu vũ trụ lớn, mà loài người là những hành khách(2). Về mặt vật lý, trái
đất gồm thạch quyển, bao gồm tất cả các vật thể ở dạng thể rắn của trái đất và có
độ sâu tới khoảng 60 km; thủy quyển tạo nên bởi các đại dương, biển cả, ao hồ,
sông suối và các thủy vực khác; khí quyển với không khí và các loại khí khác bao
quanh mặt đất. Về mặt sinh học, trên trái đất có sinh quyển bao gồm các cơ thể
sống, khí quyển và thủy quyển tạo thành môi trường sống của các cơ thể sống và
địa quyển tạo thành lớp phủ thổ nhưỡng đa dạng. Khác với các “quyển” vật chất
vô sinh, trong sinh quyển ngoài vật chất, năng lượng, còn có thông tin với tác
dụng duy trì cấu trúc và cơ chế tồn tại của các vật thể sống. Dạng thông tin ở mức
độ phức tạp và phát triển cao nhất là trí tuệ con người, có tác dụng mạnh mẽ đến
sự tồn tại và phát triển của trái đất. Từ nhận thức đó, đã hình thành khái niệm về
“trí quyển”, bao gồm những bộ phận trên trái đất, tại đó có tác động trí tuệ con
người. Những thành tựu mới nhất của khoa học kỹ thuật cho thấy rằng trí quyển
đang thay đổi một cách nhanh chóng, sâu sắc và phạm vi tác động ngày càng mở
rộng, kể cả ở ngoài phạm vi trái đất. Về mặt xã hội, các cá thể con người họp lại
thành gia đình, cộng đồng, bộ tộc, quốc gia, xã hội theo những loại hình, phương
thức và thể chế khác nhau. Từ đó tạo nên các mối quan hệ, các hình thái tổ chức
kinh tế - xã hội có tác động mạnh mẽ tới môi trường vật lý, môi trường sinh học.
Theo Luật bảo vệ môi trường năm 1993 tại đoạn 1 Điều 3: “Môi trường
bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhằm tạo quan hệ mật thiết
với nhau,

(1). Sách Khoa học môi trường, Nxb. Giáo dục, 2007, trang 18
(2). Sách Khoa học môi trường, Nxb. Giáo dục, 2007, trang 23

SVTH: Phạm Thị Thu Vân

4


Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn

bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển
của con người và thiên nhiên”.
Tuy nhiên, Điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2005 định nghĩa gọn lại:
“Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con
người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người
và sinh vật”.
Như vậy, ta có thể hiểu rằng môi trường sống của con người theo Luật bảo
vệ môi trường 2005 bao gồm:
Thứ nhất, môi trường tự nhiên gồm các yếu tố thiên nhiên như vật lý, hóa
học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người nhưng ít nhiều chịu ảnh hưởng
bởi con người (sông, núi, biển, không khí, đất, nước,…).
Thứ hai, môi trường nhân tạo bao gồm tất cả các nhân tố do con người tạo
nên nhằm tác động tới môi trường làm thành những tiện nghi, phục vụ nhu cầu
của con người: nhà ở, xí nghiệp, công sở, các khu đô thị, công viên nhân tạo,
công trình nghệ thuật, văn hóa.
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống con người, sinh
vật và sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, của dân tộc và của nhân
loại. Điều 29 Hiến pháp 1992 đã quy định: “Cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang,

tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà
nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm
cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường”.
Tóm lại, môi trường là tất cả những gì xung quanh ta, cho ta cơ sở để sống
và phát triển.
Thế giới đang đứng trước nhiều vấn đề mang tính toàn cầu. Môi trường
đang bị ô nhiễm và suy thoái nặng. Trong những thập niên qua, chất lượng môi
trường không những không được cải thiện mà trái lại, ngày càng trở nên trầm
trọng hơn. Để đảm bảo sự phát triển bền vững, song song với việc thực hiện các
chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, việc bảo vệ môi trường là một yêu cầu cấp
thiết hiện nay.
1.1.1.2 Chức năng của môi trƣờng
Môi trƣờng có các chức năng cơ bản sau:

SVTH: Phạm Thị Thu Vân

5


Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn

Thứ nhất, môi trường cung cấp nơi cư trú cho con người để xây dựng các
điểm dân cư . Nơi cư trú lý tưởng phải là nơi an toàn cho con người và cộng
đồng.
Cuộc sống mỗi người đều cần một không gian sống nhất định, không gian
này đòi hỏi phải đạt những tiêu chuẩn nhất định về các yếu tố môi trường, cảnh
quan và xã hội. Nơi cư trú lý tưởng sẽ là nơi tạo cảm giác thoải mái và an toàn
cho con người. Không gian sống cần có cảnh quan đẹp, hài hòa, thỏa mãn được

đòi hỏi của con người. Do xã hội ngày càng phát triển, không gian sống này càng
bị thu hẹp nên đòi hỏi không gian sống ngày càng phải có chất lượng cao hơn.
Khi đó: môi trường đất, nước, không khí đều đảm bảo tiêu chuẩn cho phép của
môi trường, không chứa chất độc hại gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người.
Thứ hai, môi trường cung cấp tài liệu cho sự phát triển xã hội (bao gồm cả
các tài nguyên, không gian môi trường và năng lượng).
Con người khai thác trong thiên nhiên những nguồn tài nguyên như: đất,
nước, không khí, gỗ, than đá và các nguồn năng lượng khác để tạo ra của cải vật
chất nhằm phục vụ nhu cầu hằng ngày của mình. Thiên nhiên là nguồn cung cấp
mọi tài nguyên cần thiết để đáp ứng nhu cầu đang tăng cả về số lượng, chất lượng
và mức độ phức tạp theo trình độ phát triển của con người.
Thứ ba, môi trường chấp nhận và tự làm sạch rác thải.
Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra trong
cuộc sống và hoạt động sản xuất. Trong sản xuất và tiêu dùng, con người luôn
đưa chất thải vào môi trường. Khi dân số còn thưa thớt, chất thải phân hủy tự
nhiên làm cho các chất thải một thời gian biến đổi lại trở lại trạng thái nguyên
liệu của tự nhiên, không những tránh ô nhiễm mà còn tái tạo nguồn nguyên liệu
tự nhiên. Khi dân số thế giới gia tăng quá nhanh, cộng với quá trình công nghiệp
hóa và quá trình đô thị hóa làm gia tăng lượng chất thải, gây ô nhiễm môi trường
mỗi ngày một nặng do chất thải không kịp phân hủy hoặc xử lý không xuể, quá
trình làm sạch rác thải diễn ra chậm hơn.
Thứ tư, môi trường lưu trữ và cung cấp thông tin (các quy luật khoa học,
các thông tin về khảo cổ), cung cấp các tiện nghi môi trường.
Môi trường sống của con người chính là nơi lưu lại lịch sử địa chất và lịch
sử tiến hóa của vật chất, sinh vật và lịch sử phát triển của loài người, cung cấp dự
SVTH: Phạm Thị Thu Vân

6



Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn

báo về các thiên tai như động đất, núi lửa, sóng thần,… Đồng thời môi trường
cũng cung cấp các tiện nghi môi trường là các giá trị phi thị trường của hệ sinh
thái, góp phần tạo nên các giá trị văn hóa, thẩm mỹ…
1.1.2 Các biện pháp bảo vệ môi trƣờng
Môi trường cần được bảo vệ trước nguy cơ bị phá hủy nặng nề hiện tại và
trong cả tương lai. Để môi trường sống không bị ô nhiễm, chúng ta cần có những
biện pháp cụ thể và hiệu quả.
Có rất nhiều biện pháp khác nhau để bảo vệ môi trường, nhưng quan trọng
là các biện pháp sau:(3)
Biện pháp tổ chức - chính trị
Biện pháp này được xem là biện pháp mang tính nền tảng vì nó gắn liền
với quyền lực chính trị và quyết định đến đường lối, chủ trương, chính sách về
môi trường của mỗi quốc gia. Các biện pháp chính trị trong bảo vệ môi trường có
ý nghĩa: Bảo vệ môi trường trở thành các nhiệm vụ chính trị mỗi khi các tổ chức
chính trị, đảng phái đưa chúng vào các cương lĩnh hoạt động của mình; bằng vận
động chính trị, vấn đề bảo vệ môi trường sẽ được thể chế hóa thành các chính
sách, pháp luật.
Các biện pháp chính trị được thực hiện nhằm xây dựng hoặc củng cố
quyền lực và ảnh hưởng chính trị. Biện pháp này thường được thông qua hoạt
động ngoại giao giữa các quốc gia, qua hoạt động của các tổ chức quốc tế, hoặc
được thực hiện thông qua hoạt động của các tổ chức chính trị mà quan trọng nhất
là đảng cầm quyền ở trong nước. Đảng cộng sản Việt Nam đưa vấn đề môi
trường vào cương lĩnh, chiến lược hành động của mình không nhằm mục đích gì
khác ngoài làm tăng thêm tính toàn diện, đúng đắn và khả thi của cương lĩnh,
chiến lược đó.
Biện pháp tuyên truyền, giáo dục

Đây cũng được xem là biện pháp quan trọng vì thông qua đó sẽ hình thành
và nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của các tổ chức, cá nhân. Ý thức của cộng
đồng về bảo vệ môi trường sẽ được nâng cao thông qua các hoạt động tuyên
truyền và giáo dục. Càng mở rộng các hoạt động giáo dục cộng đồng về tác hại
(3). Giáo trình Luật môi trường, Đại học Luật Hà Nội, Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội – 2007, trang 22

SVTH: Phạm Thị Thu Vân

7


Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn

của sự ô nhiễm, suy thoái môi trường thì càng nâng cao được hiệu quả của công
tác bảo vệ môi trường.
Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước ta cũng đặc biệt chú ý đến việc
giáo dục cộng đồng về bảo vệ môi trường(4).
Các biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ pháp luật có thể thực hiện dưới mọi
hình thức, cấp độ và phạm vi khác nhau. Điển hình là các hình thức như đưa giáo
dục ý thức bảo vệ môi trường vào chương trình học tập; sử dụng rộng rãi các
phương tiện truyền thông; tổ chức các diễn đàn và các cuộc điều tra xã hội…
Biện pháp kinh tế
Biện pháp kinh tế đang là một trong những biện pháp tác động có hiệu quả
nhất hiện nay vì nó tác động vào chính lợi ích kinh tế của các tổ chức, cá nhân để
các chủ thể này vì lợi ích của mình mà phải thay đổi hành vi xử sự đối với môi
trường. Biện pháp này tác động vào lợi ích kinh tế ở hai phương diện: trừng phạt
về kinh tế đối với hành vi tác động có hại cho môi trường trên cơ sở nguyên tắc
người gây ô nhiễm phải trả tiền, khuyến khích về lợi ích kinh tế cho những hành

vi tác động thân thiện với môi trường. Tức là mỗi người gây ô nhiễm phải đóng
một khoản thuế tỉ lệ với lượng chất thải của mình. Việc đánh thuế ô nhiễm đã
khuyến khích việc ứng dụng công nghệ sạch (không gây hoặc ít gây ô nhiễm), và
nhà sản xuất có hai phương thức lựa chọn: thải trực tiếp chất thải ra môi trường
và chịu đóng thuế cao, hoặc xử lý chất thải trước khi thải ra môi trường để khỏi
đóng thuế hoặc đóng thuế thấp.
Trợ giá cũng là một biện pháp kinh tế để khuyến khích các hoạt động bảo
vệ môi trường thông qua việc miễn giảm thuế cho các sản phẩm hoặc các hoạt
động mang tính bảo vệ môi trường. Phá bỏ các khoản trợ giá còn tồn tại có hại
đối với bảo vệ môi trường sinh thái, làm tăng nguồn tài chính để chi cho các hoạt
động bảo vệ môi trường, làm cho người dân ý thức hơn trong việc sử dụng tài
nguyên thiên nhiên, tránh được việc sử dụng lãng phí, đảm bảo cho sự phát triển
bền vững.(5)

(4). Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
(5). Giáo trình Cơ sở khoa học môi trường, Ths.Lê Hoàng Việt, Đại học Cần Thơ, 2000, trang 23

SVTH: Phạm Thị Thu Vân

8


Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn

Biện pháp khoa học công nghệ
Biện pháp này được xem như giải pháp để giải quyết mâu thuẫn giữa môi
trường và phát triển vì nhờ có khoa học, công nghệ mà con người có thể tiếp tục

phát triển nâng cao mức sống trong khi vẫn đảm bảo các yêu cầu về môi
trường thông qua việc áp dụng công nghệ sạch, sử dụng năng lượng tái sinh, vật
liệu mới…
Việc bảo vệ môi trường, quy luật hoạt động của môi trường nói chung và
các yếu tố cấu thành nó nói riêng không thể thực hiện được một cách đầy đủ nếu
thiếu các biện pháp khoa học công nghệ.
Ví dụ như việc xử lý chất thải, nếu các cộng đồng chỉ xử lý chất thải bằng
các phương pháp thủ công như đốt rác, chôn rác thì việc tránh ô nhiễm này sẽ dẫn
đến sự ô nhiễm khác.
Biện pháp pháp lý
Với các đặc trưng như mang tính quy phạm phổ biến và được bảo đảm
thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế và các hoạt động khác của Nhà nước. Khi
nói đến bảo vệ môi trường, chúng ta không thể không nhắc đến các biện pháp
pháp lý. Pháp luật đã và đang khẳng định vai trò không thể thiếu trong hoạt động
bảo vệ môi trường hiện nay. Pháp luật với tư cách là hệ thống các quy phạm điều
chỉnh hành vi xử sự của con người sẽ có tác dụng rất lớn trong việc bảo vệ môi
trường. Có thể nói đây chính là biện pháp đảm bảo thực hiện các biện pháp bảo
vệ môi trường nói trên. Các cam kết về mặt chính trị, chính sách môi trường của
đảng cầm quyền…chỉ có thể đi vào thực tiễn khi chúng được thể chế hóa bằng
pháp luật. Thông qua pháp luật, nhà nước xác định rõ nguyên tắc, mục đích và
nội dung quản lí môi trường, hướng hành vi xử sự của con người trong việc giữ
gìn và làm trong sạch môi trường sống, làm cân bằng hiện trạng môi trường.
1.1.3 Tình hình môi trƣờng và sự cần thiết của việc bảo vệ môi trƣờng
1.1.3.1 Tình hình môi trƣờng
Thực trạng môi trường toàn cầu đang là mối quan tâm, lo lắng của cộng
đồng quốc tế. Vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường đang là mối lo, mối hiểm
họa và là nhân tố kìm hãm sự phát triển bền vững của toàn nhân loại. Một trong
những thách thức mang tính toàn cầu hiện nay là phải giải quyết tình trạng môi
trường bị suy thoái và biến đổi bất lợi cho đời sống sản xuất của con người.
SVTH: Phạm Thị Thu Vân


9


Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn

Tuy chưa khẳng định được mức độ ô nhiễm và suy thoái môi trường ở
mức trầm trọng và trên quy mô toàn cầu nhưng tình trạng này ở một số khu vực
trên thế giới đã rất trầm trọng và biểu hiện ở hầu như tất cả các thành phần chủ
yếu của môi trường.
Hiện tại, những biểu hiện của môi trường toàn cầu là đáng lo ngại. Môi
trường đang có những thay đổi bất lợi cho con người, đặc biệt là những yếu tố
mang tính tự nhiên như đất, nước, không khí, hệ thực vật, động vật. Tình trạng
môi trường thay đổi và bị ô nhiễm theo chiều hướng xấu đang diễn ra trên phạm
vi mỗi quốc gia cũng như trên phạm vi toàn cầu.(6)
Trên phạm vi toàn cầu, sự thay đổi theo chiều hướng xấu của môi trường
diễn ra ở nhiều yếu tố của môi trường, với nhiều cấp độ khác nhau.Thiên tai
thường xuyên xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới mà nguyên nhân chính là do sự hủy
hoại của con người; các cơn bão, áp thấp nhiệt đới, lũ lụt, sóng thần,…diễn ra với
cấp mạnh hơn bao giờ hết; rừng bị tàn phá, suy giảm tầng ozon gây ra hiệu ứng
nhà kính, chất thải công nghiệp và chất thải sinh hoạt ngày càng nhiều gây suy
thoái môi trường; sự suy giảm của nhiều loài thực vật, sự diệt vong của nhiều loài
động vật gây mất cân bằng sinh thái, an ninh lương thực, an ninh môi trường
đang là thách thức cho nhân loại hiện nay. Ví dụ cụ thể có thể được nêu ra ở đây
là số lượng và sức mạnh của các cơn bão diễn ra trong thời gian gần đây. Thời
gian gần đây, có sự tăng trưởng số lượng cơn bão loại 4 và 5 (tức là những cơn
bão mạnh có thể gây lở đất) trên hệ thống đo Saffir - Simpson. Cụ thể từ năm
1975 đến 1989, toàn cầu có 171 cơn bão lớn, nhưng từ năm 1990 đến 2004 tăng

lên 269 cơn(7). Năm 2010, trận lụt dữ dội chưa từng có ở Pakistan đã làm chết
hơn 1.600 người, đợt nắng nóng khủng khiếp nhất từ 1.000 năm qua ở Nga, lở
đất kinh hoàng ở Trung Quốc đã làm hơn 1.117 người bị chết và hơn 627 người
bị mất tích, Trung Âu chìm trong biển nước… Một loạt thiên tai khủng khiếp xảy
ra trong mùa hè 2010 được coi là những cảnh báo nhãn tiền về tác hại của biến
đổi khí hậu. Năm 2011, cơn lũ ở Thái Lan được xem là cơn lũ tồi tệ nhất trong
nửa thế kỷ qua tại đất nước này làm ít nhất 562 người thiệt mạng và phá hủy
hàng triệu nhà cửa, khu sản xuất.

(6). Giáo trình Hóa học môi trường, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 2006, trang 47
(7).Website: />
SVTH: Phạm Thị Thu Vân

10


Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn

Tình trạng môi trường ở Việt Nam cũng có những nét chung của môi
trường thế giới và cũng có những nét riêng do hoàn cảnh lịch sử và sự phát triển
của đất nước qua các giai đoạn khác nhau. Có nhiều mặt, có nhiều yếu tố, thực
trạng môi trường của Việt Nam còn xấu hơn ở nhiều nước trên thế giới.
Việc môi trường bị hủy hoại diễn ra do nhiều yếu tố khác nhau. Mỗi yếu
tố của môi trường chịu sự tác động của một hoặc một vài nhân tố khác nhau đồng
thời cũng chịu tác động trực tiếp lẫn nhau. Trong số các nhân tố ảnh hưởng đến
môi trường sống của con người cần phải kể đến việc gây ô nhiễm, việc đô thị
hóa, phát triển công nghiệp, phá rừng, khai thác tài nguyên bừa bãi.
Môi trường Việt Nam hiện nay được xem như là “con thuyền có mức tải

nhất định, nếu quá tải, con thuyền sẽ chìm”(8). Sau đây là một số số liệu cụ thể về
tình hình môi trường Việt Nam hiện nay (liên quan đến các thành phần của môi
trường):
Tình trạng môi trƣờng không khí: Việt Nam là 1 trong số 10 quốc gia
có mức độ ô nhiễm không khí cao nhất thế giới, ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi
trườg và sức khỏe. Đây là kết quả nghiên cứu vừa được công bố mới đây tại Diễn
đàn kinh tế thế giới Davos (Thụy Sỹ) tính đến ngày 10/02/2012.
Theo báo cáo môi trường quốc gia năm 2010, các nguồn chất thải gây ô
nhiễm không khí chủ yếu là từ hoạt động giao thông đóng góp tới 85% khí CO
và hoạt động công nghiệp phát sinh chủ yếu là khí SO2.
Khí thải từ các phương tiện giao thông, hoạt động sản xuất công nghiệp,
bụi từ những công trường đang xây dựng... chỉ là số ít trong các nguyên nhân dẫn
đến tình trạng gia tăng ô nhiễm không khí ở Việt Nam, đặc biệt tại các đô thị
lớn.
Theo Giáo sư – Tiến sĩ Phạm Ngọc Đăng, Chủ tịch Hội Môi trường xây
dựng Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam,
người đã có 50 năm nghiên cứu về môi trường đô thị thì Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh là nơi mà tình trạng ô nhiễm không khí diễn ra nặng nhất với nồng độ

(8). Website: />
SVTH: Phạm Thị Thu Vân

11


Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn

nhiều chất khí đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép nhiều lần và "trong các chất

SO2, CO, NOX, bụi là ô nhiễm nặng nhất, gấp 2 đến 3 lần tiêu chuẩn cho phép.
Ở các khu phố, nút giao thông nó có thể gấp 10 lần tiêu chuẩn cho phép".(9)
Sự ra đời của quá nhiều nhà máy cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm không
khí. Như nhà máy dệt 8/3, nhà máy cơ khí Mai Động ở Hà Nội; khu công nghiệp
Thượng Đình, khu công nghiệp Văn Điển…không khí cũng bị ô nhiễm nặng; ở
Hải Phòng, ô nhiễm nặng ở khu nhà máy xi- măng, nhà máy Thủy Tinh và Sắt
tráng men; ở Việt Trì (Phú Thọ) ô nhiễm nặng xung quanh nhà máy Supe phốt
phát và hóa chất Lâm Thao, nhà máy giấy, nhà máy dệt; ở Ninh Bình và Phả Lại
ô nhiễm nặng do nhà máy nhiệt điện, các nhà máy vật liệu xây dựng, lò vôi; ở
thành phố Hồ Chí Minh và cụm công nghiệp Biên Hòa, không khí cũng bị ô
nhiễm ở nhiều nhà máy….
Tình trạng môi trƣờng đất: Ở Việt Nam, đất đai bị xói mòn và bạc hóa ở
nhiều nơi, nhất là vùng trung du, đồi trọc. Mặc dù đất sa mạc hoá không tập trung
và hình thành nên những hoang mạc rộng hàng trăm ngàn ha như ở một số quốc
gia trên thế giới nhưng với khoảng 1/3 diện tích đất canh tác đang bị tác động bởi
sa mạc hoá cũng đang là vấn đề phức tạp, nan giải.
Đặc trưng tình trạng sa mạc hoá ở Việt Nam phân bố trên khắp đất nước,
trong đó chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn, miền núi. Đây là những vùng
đất trống, đất cát ven biển và đất rừng nghèo đã và đang bị suy thoái.
Trong số gần 8 triệu ha đang chịu tác động sa mạc hoá, thì có tới gần 90%
là đất trống, đồi trọc bị thoái hoá mạnh, đất bị đá ong hoá do hậu quả của nạn phá
rừng và sử dụng đất không hợp lý kéo dài trong nhiều năm. Số còn lại là những
đụn cát và bãi cát di động ở các tỉnh ven biển miền Trung. Đất khô theo mùa
hoặc vĩnh viễn ở Nam Trung Bộ như: Bình Thuận, Ninh Thuận, Nam Khánh
Hoà. Đất bị xói mòn ở Tây Bắc, Tây Nguyên và đất bị nhiễm mặn, nhiễm phèn ở
đồng bằng sông Cửu Long - tứ giác Long Xuyên.
Theo đánh giá của các chuyên gia môi trường, trong số 400.000 ha đụn cát
nằm dọc duyên hải miền Trung thì Ninh Thuận và Bình Thuận là những tỉnh bị
ảnh hưởng nặng nề nhất cả nước với hơn 1/3 tổng diện tích đất đai đang bị sa
mạc hoá. Đặc biệt, cả nước có tới 9,4 triệu ha đất hoang hóa, trong đó khoảng 7,5


(9). Website: />
SVTH: Phạm Thị Thu Vân

12


Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn

triệu ha chịu tác động mạnh bởi sa mạc hóa. Bên cạnh đó, hiện tượng xói mòn,
rửa trôi, sạt lở, mặn hóa, phèn hóa… đang xảy ra ở nhiều nơi đã làm cho khoảng
50% trong số 33 triệu ha đất tự nhiên của nước ta được coi là vấn đề suy thoái.
Tình trạng môi trƣờng nƣớc: Nước ta có mạng lưới sông ngòi dày đặc
với 13 hệ thống sông lớn có diện tích trên 10.000 km2. Tài nguyên nước mặt
tương đối phong phú, chiếm khoảng 2% tổng lượng dòng chảy của các con sông
trên thế giới. Đây là nguồn tài nguyên quý giá, góp phần quan trọng vào sự phát
triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên này đang ngày
một bị đe dọa bởi sự ô nhiễm chủ yếu do con người gây nên.
Môi trường nước ở nhiều đô thị, khu công nghiệp và làng nghề ngày càng
bị ô nhiễm bởi nước thải, khí thải và chất thải rắn. Ở các thành phố lớn, hàng
trăm cơ sở sản xuất công nghiệp đang gây ô nhiễm môi trường nước do không có
công trình và thiết bị xử lý chất thải. Ô nhiễm nước do sản xuất công nghiệp là
rất nặng. Ví dụ: ở ngành công nghiệp dệt may, ngành công nghiệp giấy và bột
giấy, nước thải thường có độ pH trung bình từ 9-11; chỉ số nhu cầu oxy sinh hoá
(BOD), nhu cầu oxy hoá học (COD) có thể lên đến 700mg/1 và 2.500mg/1; hàm
lượng chất rắn lơ lửng... cao gấp nhiều lần giới hạn cho phép. Hàm lượng nước
thải của các ngành này có chứa xyanua (CN-) vượt đến 84 lần, H2S vượt 4,2 lần,
hàm lượng NH3 vượt 84 lần tiêu chuẩn cho phép nên đã gây ô nhiễm nặng nề các

nguồn nước mặt trong vùng dân cư.
Tại cụm công nghiệp Tham Lương, thành phố Hồ Chí Minh, nguồn nước
bị nhiễm bẩn bởi nước thải công nghiệp với tổng lượng nước thải ước tính
500.000 m3/ngày từ các nhà máy giấy, bột giặt, nhuộm, dệt. Ở thành phố Thái
Nguyên, nước thải công nghiệp thải ra từ các cơ sở sản xuất giấy, luyện gang
thép, luyện kim màu, khai thác than; về mùa cạn tổng lượng nước thải khu vực
thành phố Thái Nguyên chiếm khoảng 15% lưu lượng sông Cầu; nước thải từ sản
xuất giấy có pH từ 8,4-9 và hàm lượng NH4 là 4mg/1, hàm lượng chất hữu cơ
cao, nước thải có màu nâu, mùi khó chịu…
Tình trạng ô nhiễm nước ở các đô thị thấy rõ nhất là ở thành phố Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh. Ở các thành phố này, nước thải sinh hoạt không có hệ
thống xử lý tập trung mà trực tiếp xả ra nguồn tiếp nhận (sông, hồ, kênh, mương).
Mặt khác, còn rất nhiều cơ sở sản xuất không xử lý nước thải, phần lớn
các bệnh viện và cơ sở y tế lớn chưa có hệ thống xử lý nước thải; một lượng rác
SVTH: Phạm Thị Thu Vân

13


Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn

thải rắn lớn trong thành phố không thu gom hết được… là những nguồn quan
trọng gây ra ô nhiễm nước.
Không chỉ ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh mà ở các đô thị khác như
Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam Định, Hải Dương… nước thải sinh hoạt cũng
không được xử lý độ ô nhiễm nguồn nước nơi tiếp nhận nước thải đều vượt quá
tiêu chuẩn cho phép, các thông số chất lơ lửng (SS), BOD; COD; oxy hoà tan
(DO) đều vượt từ 5-10 lần, thậm chí 20 lần tiêu chuẩn cho phép.

Về tình trạng ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông
nghiệp, hiện nay Việt Nam có gần 76% dân số đang sinh sống ở nông thôn là nơi
cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, phần lớn các chất thải của con người và gia súc không
được xử lý nên thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình trạng ô nhiễm
nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Trong sản xuất nông
nghiệp, do lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, các nguồn nước ở sông, hồ,
kênh, mương bị ô nhiễm, ảnh hưởng lớn đến môi trường nước và sức khoẻ nhân
dân.
Nguyên nhân chủ yếu của tình hình ô nhiễm môi trƣờng ở nƣớc ta
hiện nay:
- Đất nước ta trong thời kỳ hội nhập, khoa học kỹ thuật phát triển nhưng
công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất kinh doanh, các cụm công nghiệp…chưa diễn ra thường xuyên và thiếu tính
chuyên nghiệp.
- Do quá trình đô thị hóa quá nhanh nên kéo theo nhiều hệ lụy, trong đó có
ô nhiễm môi trường.
- Hệ thống pháp luật của Nhà nước ta chưa thực sự chú trọng đến việc bảo
vệ môi trường. Chỉ mãi đến những năm cuối của thập kỷ 90 thì vấn đề bảo vệ
môi trường mới bắt đầu thực sự được pháp luật điều chỉnh. Tuy Nhà nước đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật về môi trường song việc triển khai thực hiện chúng
chưa triệt để. Chẳng hạn các quy định về bảo vệ rừng, bảo vệ nguồn nước chống
lại sự khai thác rừng bừa bãi hay việc hủy hoại bởi các chất thải từ các nhà máy,
xí nghiệp chưa được thực hiện triệt để.
- Do thiếu công nghệ tiên tiến và các nguồn tài chính cần thiết nên một
khối lượng lớn các chất thải công nghiệp, chất thải sinh hoạt chưa được xử lý.
SVTH: Phạm Thị Thu Vân

14



Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn

- Ý thức bảo vệ môi trường của phần lớn các tầng lớp người dân còn thấp.
Những khó khăn trước mắt về kinh tế làm cho người dân không thấy được tác hại
của việc hủy hoại môi trường.
1.1.3.2 Sự cần thiết của việc bảo vệ môi trƣờng
Môi trường đang bị hủy hoại từng ngày, cùng với những hậu quả nghiêm
trọng xảy ra trong những năm gần đây ở các quốc gia trên thế giới, trong đó có
Việt Nam đang là tiếng chuông báo động lớn về tình hình ô nhiễm môi trường
trầm trọng trên toàn thế giới, buộc các quốc gia chú ý hơn tới những biện pháp
hữu hiệu nhằm bảo vệ môi trường. Bảo vệ môi trường là yếu tố quan trọng trong
chiến lược phát triển của các quốc gia và được thực hiện dưới nhiều cấp độ khác
nhau như cấp độ cá nhân, cộng đồng, địa phương, vùng, quốc gia, quốc tế. Nhiều
trung tâm nghiên cứu môi trường được thành lập để nghiên cứu các tác động của
môi trường và các biện pháp đối phó nhằm giảm thiểu các hậu quả tiêu cực do ô
nhiễm môi trường có thể mang lại.
Môi trường rất cần thiết cho cuộc sống của con người, cung cấp cho con
người những điều kiện để sống (như ăn, ở, mặc, hít thở…). Nếu không có những
điều kiện đó con người không thể sống, tồn tại và phát triển được. Con người
sống được cần phải ăn, ở, mặc, hít thở không khí trong lành… Những điều kiện
thiết yếu đó của cuộc sống là do môi trường cung cấp. Vì vậy, môi trường rất cần
thiết cho cuộc sống của con người. Thế nhưng, môi trường bị ô nhiễm chủ yếu do
con người gây ra. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 nước ta phải đối phó với
những vấn đề hết sức khó khăn do yếu tố môi trường mang lại chưa được giải
quyết trong khi dự báo mức độ ô nhiễm tiếp tục gia tăng, đây cũng là vấn đề đối
với môi trường nước ta hiện nay.
Hiện nay, do dân số ngày càng tăng; do sự phát triển công nghiệp tạo ra
nhiều khí thải, nước thải; do sự tàn phá rừng,… khiến cho môi trường đang bị ô

nhiễm nặng nề, ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ và cuộc sống của con người.
Để đảm bảo sự phát triển bền vững, chúng ta cần phải sống thân thiện với môi
trường, giữ gìn và bảo vệ môi trường trong sạch. Môi trường bị ô nhiễm ảnh
hưởng không tốt đến sức khoẻ và cuộc sống của con người.
Mỗi người đều phải có trách nhiệm giữ gìn và bảo vệ môi trường bằng
những việc làm cụ thể của mình, con người cần phải sống thân thiện với môi
trường, giữ gìn, bảo vệ môi trường trong sạch.
SVTH: Phạm Thị Thu Vân

15


Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn

Do vậy, bảo vệ môi trường là một yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay cho
Việt Nam nói riêng, toàn thế giới nói chung.
1.1.4 Sơ lƣợc các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trƣờng
Nước ta đang trong thời kỳ mở cửa nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, phấn đấu đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại hóa. Đồng thời với những cơ hội lớn trong bước đà phát triển
kinh tế, Việt Nam đang đối đầu với những vấn đề thử thách, vấn đề môi trường là
một trong những thử thách đó. Để bảo vệ môi trường, Nhà nước cần áp dụng các
biện pháp cần thiết để ngăn chặn các hành vi hủy hoại môi trường thiên nhiên,
môi trường sống bị rối loạn như tuyên truyền, giáo dục, kinh tế, hành chính, hình
sự.
Nhằm tạo cơ sở cho việc xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật bảo vệ môi trường, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản như
Luật tài nguyên nước 1998, Luật đất đai 2003, Luật bảo vệ và phát triển rừng

2004, Luật bảo vệ môi trường 2005, Bộ luật dân sự 2005, Bộ luật hình sự 1999
(sửa đổi, bổ sung 2009), Luật khoáng sản 2010…
Văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên của Việt Nam liên quan đến lĩnh vực
môi trường là Sắc lệnh 142/SL ngày 21/12/1949 quy định về kiểm soát lập biên
bản các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ rừng. Tiếp đó chúng ta có Pháp lệnh về
bảo vệ rừng ban hành ngày 11/9/1972.
Kể từ khi Luật bảo vệ môi trường 1993 ra đời, đến nay Việt Nam đã có
Luật bảo vệ môi trường 2005 (thay thế Luật bảo vệ môi trường năm 1993) là văn
bản làm hành lang pháp lý cho mọi hoạt động về bảo vệ môi trường trong quá
trình phát triển kinh tế và xã hội của đất nước ta. Với 136 Điều, Luật bảo vệ môi
trường 2005 đã điều chỉnh hầu hết các mối liên hệ, liên quan trong hoạt động của
con người đến các thành phần môi trường.
Ngoài luật bảo vệ môi trường còn có nhiều luật khác điều chỉnh các thành
phần môi trường như Luật đất đai 2003, Luật khoáng sản 2010, Luật bảo vệ và
phát triển rừng 1998, Bộ luật hình sự 1999,… Giữa các Luật và Nghị định về bảo
vệ môi trường hiện nay đã có sự trùng lặp, chồng chéo và mâu thuẫn trong việc
áp dụng luật và các văn bản dưới luật; đặc biệt là sự trùng lắp về các quy định
trong Luật bảo vệ môi trường với các luật về tài nguyên. Điều đó cho thấy rất cần
có sự thống nhất giữa các bộ luật có liên quan đến bảo vệ môi trường và tài
nguyên.
SVTH: Phạm Thị Thu Vân

16


Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn

Bên cạnh đó, Nhà nước ta còn ban hành một số văn bản dưới luật liên

quan tới việc hướng dẫn thi hành các văn bản luật như:
Thông tư số 08/2006/TT-BTNMT ngày 08/9/2006 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường hướng dẫn về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi
trường và cam kết bảo vệ môi trường.
Nghị định số 21/2008/NĐ-CP ngày 28/02/2008 của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 của Chính
phủ về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ môi
trường.
Thông tư số 05/2008/TT-BTNMT ngày 08/12/2008 của Bộ Tài nguyên và
môi trường hướng dẫn về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi
trường và cam kết bảo vệ môi trường.
Nghị định số 04/2009/NĐ-CP ngày 14/01/2009 của Chính phủ về ưu đãi,
hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường.
Nghị định số 25/2009/NĐ-CP ngày 06/03/2009 của Chính phủ về tổng
hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo.
Nghị định số 82/2009/NĐ-CP ngày 12/10/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 63/NĐ-CP ngày 13/5/2008 của Chính phủ về
phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản.
Nghị định số 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 của Chính phủ về xử lý
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Thông tư số 08/2009/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường ngày
15/7/2009 quy định quản lý và bảo vệ môi trường khu kinh tế, khu công nghệ
cao,
khu công nghiệp và cụm công nghiệp.
Nghị định số 29/2011/NĐ-CP ngày 18/4/2011 của Chính Phủ ban hành
quy định về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, cam
kết bảo vệ môi trường.
Thông tư số 12/2011/TT-BTNMT ngày 14/4/2011 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường quy định về quản lý chất thải nguy hại.


SVTH: Phạm Thị Thu Vân

17


Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn

Thông tư số 48/2011/TT-BTNMT ngày 28/12/2011của Bộ Tài nguyên và
Môi trường sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2009/TT-BTNMT
của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định quản lý và bảo vệ môi trường khu
kinh tế, khu công nghệ cao, khu công nghiệp và cụm công nghiệp.
Nhìn chung, những quy định của pháp luật Việt Nam trong công tác bảo
vệ môi trường được Nhà nước ta ban hành khá hoàn chỉnh. Thông qua pháp luật,
giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho người dân, qua đó họ tự ý thức được và
cải thiện môi trường ngày tốt hơn. Tuy nhiên, để tránh sự chồng chéo giữa Luật
bảo vệ môi trường và các luật về tài nguyên, Nhà nước ta nên xây dựng Luật bảo
vệ môi trường với tư cách là luật chung, điều chỉnh những vấn đề mang tính
nguyên tắc như :bảo tồn, khai thác và sử dụng các thành phần môi trường và tài
nguyên; nguyên tắc kiểm soát ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường… Các vấn đề
cụ thể trong việc sử dụng, khai thác, quản lý, bảo vệ các thành phần môi trường
sẽ do các luật về tài nguyên điều chỉnh (luật khoáng sản 2010, luật bảo vệ và phát
triển rừng 1998, luật đất đai 2003…).
1.2 Những vấn đề cơ bản về Thanh tra chuyên ngành Tài nguyên và Môi
trƣờng
1.2.1 Quá trình thành lập lực lƣợng Thanh tra môi trƣờng
Năm 1992, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường được thành lập. Cục
Môi trường là cơ quan đầu tiên chuyên trách về môi trường có chức năng giúp Bộ
trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường thống nhất quản lý các hoạt động

bảo vệ môi trường trong cả nước. Cuối năm 1993, Quốc hội nước CHXHCN Việt
Nam thông qua Luật Bảo vệ môi trường - nền tảng pháp lý cho hệ thống luật
pháp về môi trường của nước ta. Nghị định số 175-CP ngày 18/10/1994 của
Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường, từng bước tổ chức và
hoạt động của Thanh tra Nhà nước về bảo vệ môi trường, góp phần tích cực nâng
cao hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Bộ Khoa học,
Công nghệ và Môi trường đã ban hành Thông tư số 1485 – MTg ngày
12/12/1994 hướng dẫn tổ chức, quyền hạn và phạm vi hoạt động của thanh tra về
bảo vệ môi trường. Năm 1995, lực lượng Thanh tra nhà nước về bảo vệ môi
trường chính thức được thành lập, từng bước được tổ chức và bước đầu hoạt
động. Theo đó, Thanh tra Cục Môi trường có nhiệm vụ giúp Thanh tra Bộ Khoa

SVTH: Phạm Thị Thu Vân

18


Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai
nnnnnnnnnn

học, Công nghệ và Môi trường thực hiện chức năng thanh tra Nhà nước về bảo vệ
môi trường trong phạm vi cả nước.
Thanh tra Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, được tổ chức theo Điều 19 Pháp lệnh Thanh tra. Điều 4 Nghị
định số 244/HĐBT ngày 30/6/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ)
thực hiện chức năng Thanh tra Nhà nước về bảo vệ môi trường trong phạm vi
quản lý Nhà nước về môi trường của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương. Đến năm 2003, Bộ Tài nguyên và Môi trường quyết định tái lập
Thanh tra Bộ, từng bước tổ chức chặt chẽ về tổ chức và hoạt động của lực lượng

thanh tra chuyên ngành.
Luật Bảo vệ môi trường 2005 thay thế Luật bảo vệ môi trường năm 1993
là một bước tiến quan trọng trong quá trình lập pháp, với nhiều quy định mới
được sửa đổi, bổ sung đã tạo hành lang pháp lý khá đầy đủ và góp phần quan
trọng vào việc bảo vệ môi trường ở nước ta trong thời gian qua.
Song song với quá trình hình thành và phát triển của pháp luật bảo vệ môi
trường, ngày 30 tháng 9 năm 2008, sự ra đời của Tổng cục Môi trường theo
Quyết định số 132/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ là một bước quan
trọng trong tiến trình hệ thống lại các cơ quan quản lý môi truờng của nhà nước,
đồng thời đánh dấu sự trưởng thành và phát triển của ngành môi trường ở nước
ta. Với những giai đoạn đánh dấu như vậy, lực lượng thanh tra chuyên ngành tài
nguyên và môi trường từng bước phát triển về tổ chức, chuyên môn nghiệp vụ
được nâng cao, đảm bảo thực hiện tốt vai trò và nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra của
mình.
1.2.2 Vị trí và chức năng của Thanh tra môi trƣờng
Thanh tra bảo vệ môi trường là thanh tra chuyên ngành bảo vệ môi trường.
Thanh tra bảo vệ môi trường có đồng phục và phù hiệu riêng, có thiết bị và
phương tiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ.(11)
Thanh tra Tài nguyên và Môi trường là cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh
vực, được tổ chức theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị định 35/2009; thực hiện
chức năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về đất đai, tài nguyên
(11). Khoản 1 Điều 125 Luật Bảo vệ môi trường 2005

SVTH: Phạm Thị Thu Vân

19


Đề tài: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành Tài nguyên môi trường và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Đồng Nai

nnnnnnnnnn

nước,tài nguyên khoáng sản, địa chất, môi trường, khí tượng, thuỷ văn, đo đạc,
bản đồ, quản lý tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo (sau đây gọi chung là
tài nguyên và môi trường) theo quy định của pháp luật.
Thanh tra là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền được tiến hành theo
một thủ tục chặt chẽ nhằm xác định các vi phạm pháp luật và chính sách môi
trường, nguyên nhân và hậu quả của những vi phạm đó để xử lý theo đúng các
quy định của pháp luật. Thủ tục thanh tra được quy định chặt chẽ.
So với hoạt động kiểm tra vốn được thực hiện định kỳ, thường xuyên, hoạt
động thanh tra được tiến hành khi có những dấu hiệu cho thấy có sự vi phạm và
cần thiết phải xác định các vi phạm đó.
Hoạt động thanh tra thường được tiến hành khi có kiến nghị đề xuất trong
quá trình kiểm tra hoặc giám sát.
Thanh tra là hoạt động có tầm quan trọng rất lớn trong việc đảm bảo thực
hiện chính sách và pháp luật môi trường. Vì vậy, nội dung, thủ tục thanh tra,
thẩm quyền tiến hành thanh tra là những vấn đề phải lưu ý trong quản lý nhà
nước về môi trường. Thẩm quyền, nhiệm vụ của thanh tra bảo vệ môi trường
được thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra.(12)
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 126 Luật Bảo vệ môi trường 2005: “Số
lần kiểm tra, thanh tra về bảo vệ môi trường nhiều nhất là hai lần trong năm đối
với một cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, trừ trường hợp cơ sở sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ đó bị tố cáo là đó vi phạm hoặc có dấu hiệu vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường.”
1.2.3 Nội dung, hình thức và phƣơng thức hoạt động của Thanh tra môi
trƣờng
Về nội dung hoạt động, thanh tra tài nguyên môi trường bao gồm thanh
tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
Thanh tra hành chính là thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật và
thực hiện nhiệm vụ được giao của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý

trực tiếp của Thủ trưởng cùng cấp và thanh tra nội dung, trình tự, thủ tục tiến
hành thanh tra hành chính.
(12). Giáo trình Luật môi trường, Đại học Luật Hà Nội, Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội, 2006, trang 77

SVTH: Phạm Thị Thu Vân

20


×