Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại QUYỀN và NGHĨA vụ của CHỦ nợ và CON nợ TRONG THỦ tục PHÁ sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (911.73 KB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NIÊN KHÓA 2008 - 2012

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ NỢ VÀ CON NỢ
TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Ths. NGUYỄN MAI HÂN

NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG

MSSV: 5085907
Lớp Luật Thương Mại, K34

Cần thơ, tháng 11 năm 2011


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xây dựng nền kinh tế thị trường, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
là con đường tất yếu để Việt Nam tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Từ sau Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI, với chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu,


bao cấp xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của
Nhà nước nền kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển ở nước ta rất phong
phú, đa dạng với nhiều loại hình doanh nghiệp. Thêm vào đó năm 1997 Việt
Nam gia nhập tổ chức Thương mại quốc tế WTO, một bước ngoặt lớn đối với
nền kinh tế đang phát triển. Nền kinh tế của nước ta bắt đầu gia nhập vào nền
kinh tế thế giới, một sân chơi thương mại mang tính toàn cầu. Sự hội nhập với
các nền kinh tế lớn cũng sẽ kéo theo hệ quả không thể tránh khỏi sự tác động của
các quy luật chung vô cùng khắc nghiệt như quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị,
quy luật cung cầu… Chính vì thế nền kinh tế của ta đã nảy sinh nhiều hiện tượng,
một trong những hiện tượng đó là sự phá sản doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cũng giống như một thực thể sống, có giai đoạn ra đời, phát
triển và suy vong. Nhưng khi một doanh nghiệp bị phá sản thì sẽ để lại những hệ
lụy nhất định như xáo trộn nền kinh tế, tăng số lượng người thất nghiệp, làm cho
sức ép về việc làm ngày càng lớn có thể xảy ra các tệ nạn xã hội, thậm chí tội
phạm. Và ảnh hưởng chung lớn nhất là có thể dẫn đến sự suy thoái và khủng
hoảng nền kinh tế quốc gia, thậm chí có thể khủng hoảng cả nền kinh tế khu vực.
Sau khi Đảng và Nhà nước đã xác định xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Năm 1993 đạo luật đầu tiên về phá sản
đã được ban hành. Tuy nhiên qua mười năm thực hiện Luật phá sản doanh
nghiệp năm 1993 đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Tiếp đó Luật phá sản năm
2004 ra đời tưởng đâu sẽ khắc phục được những khiếm khuyết của Luật phá sản
doanh nghiệp năm 1993. Thế nhưng, sau hơn 3 năm thi hành, số lượng các vụ
việc phá sản được thụ lý vẩn ở mức rất khiêm tốn: tổng cộng chỉ có gần 60 hồ sơ
được thụ lý ở cả ba khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng.
Điều đó không có nghĩa là môi trường kinh doanh trong nước hết sức lành
mạnh mà phản ánh rằng các doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản vẫn
chưa tìm thấy ở pháp luật phá sản hiện hành một cơ sở vững chắc để bảo vệ
quyền lợi cho mình.
Cho nên yêu cầu hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo vệ quyền lợi cho đối tượng
này càng trở nên cấp thiết. Do vậy, nghiên cứu về thủ tục phá sản để làm sáng tỏ

quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân

Trang 1

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

để hoàn thiện pháp luật phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong nước và môi
trường kinh tế quốc tế.
Vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài: “Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con
nợ trong thủ tục phá sản” làm Luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Phân tích quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục trong điều
kiện hiện nay tại Việt Nam, những bất cập còn tồn tại của hệ thống pháp luật phá
sản sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhận thức được quyền và nghĩa vụ của
mình. Đồng thời, đưa ra giải pháp cho từng vấn đề.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài này được xây dựng trên cơ sở vận dụng những kiến thức đã có, Bên
cạnh đó người viết còn sử dụng phương pháp như: phân tích, đánh giá tổng hợp
tài liệu có liên quan đến pháp luật phá sản nói chung và quyền và nghĩa vụ của
chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản nói riêng.
4. Bố cục đề tài
Luận văn được kết cấu gồm ba chương không kể lời nói đầu, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo.
Chương 1: Tổng quan về phá sản và pháp luật phá sản.
Chương 2: Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản.
Chương 3: Một số bất cập và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp

luật về quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản.
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo

Với trình độ còn nhiều hạn chế cũng như kinh nghiệm nghiên cứu chưa
nhiều cho nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo và tất cả các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân

Trang 2

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ PHÁ SẢN VÀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN
1.1. Khái quát chung về phá sản và pháp luật phá sản
1.1.1. Phá sản theo pháp luật của một số quốc gia trên thế giới
Danh từ phá sản được bắt nguồn từ chữ "Ruin" trong tiếng Latinh có nghĩa là
"sự kháng tận". Khái niệm này dùng để chỉ sự mất cân đối giữa thu và chi của
một doanh nghiệp. Ở Châu Âu khi nói đến phá sản người ta thường dùng danh từ
"Bankrupcy" trong tiếng Anh hoặc "Banqueroute" trong tiếng Pháp. Cả hai danh
từ này đều bắt nguồn từ chữ "Bancanetta" của Lamã, có nghĩa là "chiếc ghế bị
gãy". Ở thời Lamã các thương gia ở thành phố thường họp nhau lại để xem xét
việc làm ăn và công nợ. Người nào mất khả năng thanh toán công nợ sẽ bị mất
quyền tham gia đại hội thương gia và ghế của họ cũng bị đem ra khỏi hội

trường.1
Theo Luật phá sản nhiều nước trên thế giới thì phá sản là tình trạng một
doanh nghiệp không có khả năng nộp thuế, không có khả năng thanh toán công
nợ trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên việc quan niệm thế nào là mất khả
năng thanh toán nợ ở các quốc gia khác nhau cũng rất khác nhau. Có nhiều nước
quy định rõ chỉ số nợ đến hạn chưa được thanh toán để xác định doanh nghiệp đã
lâm vào tình trạng phá sản nhưng ở đại đa số nước thì vấn đề định lượng khoản
nợ như vậy thường không được đặt ra.
* Luật phá sản Hungari ban hành năm 1991 quy định nếu doanh nghiệp bị
rơi vào một trong các trường hợp sau đây đều bị xếp vào loại không có khả năng
thanh toán.
+ Sau 60 ngày không trả được lương cho cán bộ công nhân viên của mình
hoặc quá hạn 30 ngày không trả được nợ cho các chủ nợ mà con nợ không thảo
luận với các chủ nợ hoặc thấy trước khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn
trong vòng một năm.
+ Đã có lệnh buộc phải trả nợ nay hết hạn nhưng vẫn chưa trả được nợ.
+ Không thực hiện đúng cam kết với các chủ nợ trước pháp luật.
* Luật phá sản của Singapo ban hành năm 1985 thì các con nợ bị rơi vào
một trong các tình trạng sau thì đều bị coi là phá sản.
+ Nếu con nợ cố ý gian lận để chuyển giao, chuyển nhượng, biếu xén hay
tẩu tán một phần hay toàn bộ tài sản của mình ở Singapore hoặc ở nước khác.

1

Nguyễn Tấn Hơn, Phá sản doanh nghiệp, một số vấn đề thực tiễn, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm
1995 trang 3.

GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân

Trang 3


SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

+ Nếu bị tuyên bố phá sản mà con nợ chuyển giao hay chuyển nhượng
một phần hay toàn bộ tài sản của mình ở Singapore hay ở nước ngoài cho người
khác hay cố tạo các khoản chi phí mà pháp luật hiện hành coi là giả mạo không
hợp pháp.
+ Nếu con nợ bị tòa án quận huyện hay cấp trên xử phạt bằng cách tịch
thu tài sản và chịu án phí 500 đô la (tiền Singapore).
+ Nếu con nợ báo tin cho chủ nợ rằng anh ta hủy bỏ hoặc trì hoãn công nợ.
+ Nếu con nợ điều đình xin khất nợ với hai chủ nợ trở lên hoặc đưa ra kế
hoạch trả nợ nhưng trong vòng 14 ngày sau khi cam kết trả nợ, kế hoạch ấy vẫn
chưa được đăng ký trước Tòa án đúng như chế độ thanh toán công nợ hiện hành.
+ Nếu chánh án hay nhân viên Tòa án cấp quận huyện tiến hành kiểm kê
tài sản thấy rằng con nợ không còn tài sản để tịch thu. Và như vậy ngày Tòa án
hết lệnh kiểm kê được coi là ngày doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
+ Nếu trước Tòa án con nợ xin phá sản hoặc tuyên bố phá sản.
* Luật phá sản Australia đưa ra một số căn cứ để dựa vào đó quyết định
tuyên bố phá sản.
+ Khi số tiền mặt của doanh nghiệp cộng với giá trị tài sản không thuộc
loại có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp và khả năng dễ chuyển nhượng mà
nhỏ hơn tổng số nợ không có bảo đảm thì coi như doanh nghiệp đã lâm vào tình
trạng phá sản.
+ Khi nhận giấy đòi nợ với số lượng lớn mà con nợ không đưa ra được
bằng chứng nào trước tòa về khả năng thanh toán món nợ. Do chính luật sư của
doanh nghiệp mắc nợ đưa ra rằng doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nợ
đến hạn. Nếu chủ doanh nghiệp không đưa ra sự phản đối có cơ sở thuyết phục.

+ Khi thẩm phán có thông tin cho rằng nhiều séc của doanh nghiệp bị
ngân hàng từ chối thanh toán. Trong trường hợp này nếu muốn Toà án không ra
quyết định tuyên bố phá sản thì doanh nghiệp phải chứng minh trước Tòa là séc
này có thể thanh toán được.
+ Khi doanh nghiệp đang khó khăn về tài chính mà tất cả các chủ nợ có
bảo đảm lại đòi đối xử với các vật bảo đảm, thẩm phán có thể ra quyết định phá
sản với doanh nghiệp nào là vì có thể rõ ràng suy đoán rằng do không trả được
nợ nên các chủ nợ mới tước đi các vật cầm cố, thế chấp.
+ Khi một doanh nghiệp không thực hiện được yêu cầu của thẩm phán về
việc thanh toán một món nợ nào đó theo thủ tục pháp lý thông thường, tức là khi
còn nợ người khác mà có lệnh trả nợ của thẩm phán mà con nợ vẫn không thi
hành đó chính là dấu hiệu mất khả năng thanh toán.

GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân

Trang 4

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

* Luật phá sản Bỉ quy định một doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ là
doanh nghiệp không trả được nợ đến hạn, bị mất uy tín về tài chính, tức là không
còn đủ tài sản để đảm bảo các số nợ của mình hoặc kiếm cách trả nợ bằng
phương pháp bất thường. Đối với cá nhân thì luật không phân biệt.
* Luật không có khả năng thanh toán và luật treo giò giám đốc của Anh ban
hành năm 1986 thì các doanh nghiệp có giá trị tài sản thấp hơn số nợ phải trả
(hiện tại và tương lai) đều bị xếp vào loại không có khả năng thanh toán. Nhưng
ở Anh không có khả năng thanh toán không có nghĩa là doanh nghiệp bị xếp vào

loại phá sản, mà ở nước này còn dành một thời gian để khôi phục doanh nghiệp,
sau thời gian này nếu doanh nghiệp không trở lại hoạt động bình thường được và
không trả được nợ thì sẽ bị tuyên bố phá sản.
1.1.2. Phá sản theo pháp luật Việt Nam
Đại hội đảng lần thứ VI của Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam tiến hành tháng 12 năm 1986 quyết định cơ chế đổi mới kinh tế. Lúc
bấy giờ ở nước ta chưa có một khái niệm phá sản nào. Đến 1990 văn bản pháp lý
đầu tiên liên quan đến giải quyết tình trạng doanh nghiệp thua lỗ không có khả
năng thanh toán đó là Quyết định số 315 Hội đồng bộ trưởng (HĐBT) ngày
01/09/1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Theo khoản 4 điều 3 quyết định số 315 của
HĐBT thông qua ngày 01/09/1990 qui định: “Đối với các đơn vị kinh doanh lỗ
vốn kéo dài nhiều năm thì Bộ và địa phương phải lập danh sách đầy đủ, tiến hành
phân loại theo mức độ quan trọng của các sản phẩm và dịch vụ do đơn vị tạo ra
và theo mức độ kém hiệu quả của các đơn vị. Từ đó tìm biện pháp để hỗ trợ cho
đơn vị hoạt động; sáp nhập vào xí nghiệp khác hoặc chuyển thành các tổ chức
kinh tế tập thể. Nếu đã thực hiện các biện pháp chấn chỉnh trên mà vẫn không có
hiệu quả, tiếp tục thua lỗ, không có khả năng trả nợ thì cho phép giải thể theo
hướng dẫn kèm theo Quyết định này”.
Mặc dù quyết định số 315 của HĐBT thông qua ngày 01/09/1990 cũng có đề
cập đến tình trạng làm ăn thua lỗ cua doanh nghiệp nhưng không hề có một khái
niệm phá sản nào được đặt ra ở đây. Bởi vì, quyết định này chỉ cho phép doanh
nghiệp giải thể.Có thể nói quyết định số 315 của HĐBT chỉ mới nhen nhóm bản
chất của phá sản.
Đến luật doanh nghiệp tư nhân và luật Công ty được Quốc hội thông qua
ngày 21/12/1990 thì khái niệm phá sản mới chính thức được đề cập tới. Theo tinh
thần quy định tại Điều 24 luật Công ty ngày 21/12/1990 và Điều 17 Luật doanh
nghiệp tư nhân ngày 21/12/1990 thì khi doanh nghiệp tư nhân hoặc Công ty (gọi
chung là doanh nghiệp) gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh
đến mức tại một thời điểm tổng số giá trì các tài sản còn lại của doanh nghiệp
GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân


Trang 5

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

không đủ thanh toán các khoản nợ đến hạn, là doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản.
Vì là lần đầu tiên đề cập đến khái niệm phá sản nên Luật doanh nghiệp tư
nhân và Luật công ty đã không bao quát hết những khía cạnh cần thiết. Thực tế
chứng minh rằng có thể một doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó tổng giá trị
tài sản còn lại của doanh nghiệp nhỏ hơn tổng số nợ đến hạn chưa chắc đã đưa
doanh nghiệp đó đến tình trạng phá sản, nếu như nợ đến hạn của doanh nghiệp đó
vẫn thanh toán được đều đặn (Tức là không có dấu hiệu ngừng thanh toán nợ).
Bên cạnh đó có không ít những doanh nghiệp lớn hơn nhiều so với nợ đến hạn
nhưng vẫn bị tòa án tuyên bố phá sản vì doanh nghiệp đó không có khả năng
thanh toán (ngừng thanh toán).
Trong quá trình thực hiện Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty đã bộc
lộ những hạn chế đáng kể. Nhằm khắc phục những hạn chế này, Quốc hội đã
thông qua Luật phá sản doanh nghiệp ngày 30/12/1993.Luật phá sản doanh
nghiệp 1993 là đạo luật đầu tiên của nhà nước ta được ban hành khi kinh nghiệm
lập pháp về phá sản gần như không có. Cụ thể tại Điều 2 qui định:
Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản phải thỏa mãn ba điều kiện sau:
+ Doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh
doanh.
+ Doanh nghiệp bị mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
+ Doanh nghiệp đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết để khắc phục
việc mất khả năng thanh toán nhưng không khắc phục được.

Theo qui định này thì dấu hiệu “làm ăn thua lỗ hoặc gặp khó khăn dẫn đến
mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn “là dấu hiệu đặc trưng cơ bản
nhất để xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, còn dấu hiệu “đã áp
dụng các biện pháp tài chính cần thiết “chỉ là dấu hiệu bổ sung cho việc xác định
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Nghị định số 189 của Chính phủ (CP)
chi tiết hóa việc xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Cụ thể tại
Điều 3 qui định như sau:
+ Doanh nghiệp được coi là có dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản nói tại
Điều 2 của Luật phá sản doanh nghiệp, nếu kinh doanh bị thua lỗ trong 2 năm
liên tiếp đến mức không trả được các khoản nợ đến hạn, trong 3 tháng liên tiếp
không trả đủ lương cho người lao động theo thỏa ước lao động tập thể và hợp
đồng lao động.
+ Khi xuất hiện dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản như trên, doanh
nghiệp phải áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết để khắc phục tình trạng mất
khả năng thanh toán nợ đến hạn như: Có phương án tổ chức lại sản xuất kinh
GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân

Trang 6

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

doanh, quản lí chặt chẽ các khoản chi phí, tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm; có
biện pháp xử lí hàng hóa, sản phẩm, vật tư tồn đọng; thu hồi các khoản nợ và tài
sản bị chiếm dụng; thương lượng với các chủ nợ để hoãn, mua, bảo lãnh, giảm và
xóa nợ; tìm kiếm các khoản tài trợ và các khoản vay để trang trải các khoản nợ
đến hạn và đầu tư đổi mới công nghệ.
+ Sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết trên đây mà doanh

nghiệp vẫn gặp khó khăn, không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh
toán nợ đến hạn thì doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản và phải xử lí theo
quy định của Luật phá sản doanh nghiệp.
Nhìn chung, theo Luật phá sản doanh nghiệp thì thủ tục phá sản chỉ được mở ra
đối với các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khi đã hội đủ ba điều kiện
trên.
Có thể nói rằng, ngay cả Luật phá sản doanh nghiệp và Nghị định số 189/CP
/1994 đã có những qui định chặt chẽ hơn về điều kiện xác định doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản. Nhưng cái chặt chẽ ở đây lại không cân đối. Luật phá sản
doanh nghiệp quá chú trọng việc áp dụng thủ tục phá sản để xử lý tài sản của con
nợ hơn là để phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Bởi vì, một
doanh nghiệp mà chờ đủ ba điều kiện trên mới mở thủ tục phá sản thì doanh
nghiệp đó không con một khả năng tài chính nào để phục hồi lại dược.
Nói tóm lại, mục đích của Luật phá sản doanh nghiệp ban hành là để tạo điều
kiện để doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khôi phục hoạt động kinh
doanh, trở lại thương trường đã không đạt dược. Mà thực tế mở thủ tục phá sản
cũng chỉ để thanh lý tài sản.
Luật phá sản 2004 ra đời đã khắc phục những hạn chế của Luật phá sản doanh
nghiệp năm 1993 bổ sung những nội dung mới trên cơ sở tổng kết mười năm áp
dụng Luật phá sản doanh nghiệp 1993 về thủ tục phá sản. Nếu theo Luật phá sản
19932 thì doanh nghiệp muốn mở thủ tục phá sản phải thỏa ba điều kiện như đã
phân tích ở trên thì đến Luật phá sản 2004 lại qui định theo hướng đơn giản hóa
tiêu chí xác định tình trạng phá sản. Cụ thể tại Điều 3 thì: “Doanh nghiệp, hợp tác
xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ khi chủ nợ có yêu cầu thì
coi như là lâm vào tình trạng phá sản”.
Có thể nói đây là một điểm mới của Luật phá sản 2004, qui định này khá đơn
giản, dễ thực hiện vì không có căn cứ thời gian thua lỗ, nguyên nhân thua lỗ. Cho
nên có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp sớm mở thủ tục phá sản, cũng như tạo
2


Theo Tô Nguyễn Cẩm Anh, một số suy nghĩ về luật phá sản, tạp chí Nhà nước và pháp luật năm 2005
(Số 6/2005), tr33.

GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân

Trang 7

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

khả năng phục hồi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác
xã. Qui định này có ý nghĩa quan trọng, vì nếu xác định tình trạng này muộn thì
khả năng phục hồi sẽ không có mà chỉ áp dụng thủ tục để thanh lý tài sản mà
thôi.
Như đã phân tích ở trên thì dấu hiệu để xác định doanh nghiệp, hợp tác xã
lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp, hợp tác xã đó không có khả năng
thanh toán các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ đã có yêu cầu. Cụ thể tại Mục 2
Chương 1 - NQ số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28/04/2005 hướng dẫn chi tiết qui
định thế nào là việc không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn
khi chủ nợ đã xóa yêu cầu:
+ Các khoản nợ đến hạn phải là các khoản nợ không có bảo đảm hoặc có
bảo đảm một phần (chỉ tính phần không có bảo đảm) đã rõ ràng được các bên xác
nhận, có đầy đủ giấy tờ, tài liệu để chứng minh và không có tranh chấp.
+ Chủ nợ đã có yêu cầu thanh toán nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã không
có khả năng thanh toán.
Yêu cầu của chủ nợ thanh toán các khoản nợ đến hạn phải có căn cứ chứng
minh là chủ nợ đã có yêu cầu, nhưng không được doanh nghiệp, hợp tác xã thanh
toán (như văn bản đòi nợ của chủ nợ, văn bản khất nợ của doanh nghiệp, hợp tác

xã).
Nghiên cứu dấu hiệu mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, về phương diện lí
luận cũng như thực tiễn cần xem xét một số khía cạnh cụ thể sau:
Thứ nhất, mất khả năng thanh toán không có nghĩa là doanh nghiệp , hợp
tác xã hoàn toàn cạn kiệt tài sản. Doanh nghiệp có thể còn rất nhiều tài sản mà
vẫn mất khả năng thanh toán, chỉ vì tài sản đó không thể bán được, cho nên
doanh nghiệp không có tiền để thanh toán các khoản nợ.
Thứ hai, mất khả năng thanh toán không chỉ là hiện tượng doanh nghiệp
không thanh toán được nợ mà nó còn thể hiện doanh nghiệp đang lâm vào tình
trạng tài chính tuyệt vọng, trừ phi có sự can thiệp của tòa án hoặc sự giúp đỡ của
các chủ nợ.
Thứ ba, đối với doanh nghiệp tư nhân, nếu trong hoạt động sản xuất kinh
doanh có giao kết bất kì hợp đồng nào mà sau đó phát sinh ra các khoản nợ thì
các khoản nợ này được coi là cơ sở để đánh giá tình trạng phá sản của doanh
nghiệp. Nhưng ở đây cũng cần phân biệt với các khoản nợ cho do chủ doanh
nghiệp tư nhân xác lập trên cơ sở những hợp đồng phục vụ cho sinh hoạt cá nhân
hoặc gia đình họ vì nó không xuất phát từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, pháp luật không nhất thiết quy định cụ thể mất khả năng thanh toán
một khoản nợ bao nhiêu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản, bởi vì tình hình tài
GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân

Trang 8

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

chính trong các doanh nghiệp rất khác nhau, có thể có những doanh nghiệp nợ
vài ba chục triệu nhưng không có cách gì để trả, trong lúc có những doanh nghiệp

nợ tới vài ba trăm triệu vẫn có khả năng thanh toán bình thường.
Thứ năm, bản chất của việc mất khả năng thanh toán có thể không trùng với
biểu hiện bên ngoài là trả được nợ hay không. Trong nền kinh tế thị trường hiện
nay, nhiều doanh nghiệp không trả được nợ nhưng điều này chỉ có tính chất nhất
thời trong khi mọi hoạt động của doanh nghiệp vẫn diễn ra bình thường. Ngược
lại, có những doanh nghiệp sự trả nợ chỉ là trá hình, che đậy tình trạng tài chính
tuyệt vọng của doanh nghiệp, họ phải sử dụng nhiều phương tiện gian trá để bù
đắp ngân quỹ như vay nặng lãi, thế chấp tài sản nhiều lần để vay vốn ngân
hàng…3
Có thể nói rằng một khi con nợ ngừng trả nợ coi như đã lâm vào tình trạng
phá sản và lúc đó, các chủ nợ đã có cơ sở pháp lí để nộp đơn yêu cầu Tòa án mở
thủ tục phá sản. Nhưng lưu ý một điều là doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản chưa hẳn đã bị phá sản. Doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
chỉ được coi là phá sản khi đã tiến hành thủ tục tuyên bố phá sản.
1.2. Ảnh hưởng của phá sản đối với nền kinh tế thị trường
Phá sản là một hiện tượng kinh tế xã hội tất yếu trong môi trường kinh doanh
cạnh tranh như hiện nay. Nó kéo theo nhiều hiện tượng kinh tế xã hội nhất định
đồng thời tác động đến nhiều mặt trong đời sống xã hội và pháp luật. Vì thế có
thể nói rằng: “Phá sản trong nền kinh tế thị trường hiện nay như một con dao hai
lưỡi”, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực.
1.2.1. Ảnh hưởng tiêu cực
Phá sản sẽ làm mất cân bằng nền kinh tế , làm suy yếu nền kinh tế của một
quốc gia. Đồng thời phá sản cũng kéo theo nhiều hệ lụy như nhân công mất việc,
từ đó gây ra những bất ổn cho xã hội. Cụ thể ở các mặt sau đây:
Về mặt kinh tế: Một doanh nghiệp bị phá sản trong điều kiện ngày nay có thể
dẫn đến những tác động tiêu cực. Khi quy mô của doanh nghiệp phá sản càng
lớn, tham gia vào quá trình phân công lao động của ngành nghề đó càng sâu và
rộng, số lượng bạn hàng ngày càng đông, thì sự phá sản của nó có thể dẫn đến sự
phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp bạn hàng theo "hiệu ứng domino” còn
gọi là phá sản dây chuyền.

Về mặt xã hội: Phá sản doanh nghiệp để lại những hậu quả tiêu cực nhất định
về mặt xã hội bởi nó làm tăng số lượng người thất nghiệp, làm cho sức ép về việc
làm ngày càng lớn và có thể làm nảy sinh các tệ nạn xã hội.
3

Giáo trình Luật Thương Mại tập 2, trường Đại học Luật Hà Nội, nhà xuất bản Công an nhân dân năm
2006.

GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân

Trang 9

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

Về mặt chính trị: Phá sản dây chuyền sẽ dẫn tới sự suy thoái và khủng hoảng
nền kinh tế quốc gia, thậm chí khủng hoảng kinh tế khu vực và đây là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến những khủng hoảng sâu sắc về chính trị.
Như vậy, xét ở ba mặt trên, phá sản với tính cách là một hiện tượng xã hội
tiêu cực cần được hạn chế và ngăn chặn đến mức tối đa. Để hạn chế các tác động
tiêu cực, phá sản cần phải được coi là sự lựa chọn cuối cùng và duy nhất của
chính phủ đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Yêu cầu này cần phải
được thể hiện một cách nhất quán trong pháp luật phá sản qua các nội dung như:
tiêu chí xác định một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, vấn đề hồi phục
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, thứ tự ưu tiên thanh toán các khoản nợ
khi tuyên bố phá sản.
1.2.2.Ảnh hưởng tích cực
Chúng ta có thể khẳng định rằng, phá sản không chỉ có những ảnh hưởng tiêu

cực mà nó còn có những ảnh hưởng tích cực đến nhiều mặt đời sống kinh tế xã
hội.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay cạnh tranh là tất yếu doanh nghiệp nào
mạnh sẽ tồn tại , doanh nghiệp nào yếu sẽ bị đào thải và phá sản là một trong
những trường hợp loại trừ các doanh nghiệp yếu.
Xét về mặt kinh tế thì phá sản là một giải pháp hữu hiệu để “cơ cấu lại” nền
kinh tế, có thể ví phá sản như vườn dọn sạch cỏ dại để cây trồng phát triển, phá
sản góp phần hình thành duy trì sự tồn tại của những doanh nghiệp đủ sức đứng
vững trong điều kiện cạnh tranh ngày càng nghiệt ngã. Phá sản giữ một vai trò
đặc biệt quan trọng để loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, kinh
nghiệm quản lý tồi ra khỏi nền kinh tế, giữ lại những doanh nghiệp mà ở chúng
sức cạnh tranh tốt hơn, làm ăn có lãi hơn. Thực tế đã chứng minh rằng trong nền
kinh tế thị trường chỉ tồn tại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, sự cạnh
tranh bao giờ cũng mang lại kết cục nghiệt ngã nhưng nó lại là quy luật không
thể thay đổi của nền kinh tế thị trường nơi mà ở đó lợi nhuận là trung tâm cạnh
tranh là động lực.4
Bên cạnh những ảnh hưởng đã trình bày ở trên phá sản còn tác động đến
nhiều ngành luật như Dân luật, Hình luật... bởi vì khi tiến hành giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản nó liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau, nhiều các quan hệ
xã hội khác nhau mà chúng là đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật khác
nhau. Chẳng hạn như khi các doanh nghiệp bị phá sản thường Tòa án xét xử các
vụ tranh chấp về công nợ giữa chủ nợ và con nợ nếu chúng không thỏa thuận
được với nhau và như vậy phá sản liên quan đến Dân luật, hoặc trong trường hợp
4

/>
GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân

Trang 10


SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

con nợ cố tình gian lận trong phá sản phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo quy
định khoản 3 Điều 8 Luật phá sản năm 2004, trong quá trình tiến hành thủ tục
phá sản nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Thẩm phán cung cấp tài liệu cho
Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) cùng cấp để xem xét khởi tố về hình sự, ở đây
rõ ràng phá sản đã liên quan đến Hình luật...
Tóm lại, phá sản là một hiện tượng phức tạp nhiều khi nó làm ảnh hưởng lớn
đến nền chính trị như vụ phá sản của tập đoàn viễn thông Worldcom năm 2005
vừa qua. Tuy nhiên, trong từng lĩnh vực riêng phá sản cũng giải quyết được một
số vấn đề lớn về kinh tế và xã hội, đó cũng là một giải pháp hữu ích để giúp
doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng nặng về cả vật chất lẫn tinh thần, tránh tình
trạng gây sức ép cho các con nợ. Trong nền kinh tế thị trường cần phải xem xét
phá sản là hiện tượng lành mạnh tất yếu, nó là một sản phẩm của nền kinh tế thị
trường và nền kinh tế này chấp nhận nó là một lẽ đương nhiên.
1.3. Vai trò của pháp luật phá sản đối với nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường thì yếu tố cạnh tranh là sự
sống còn và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, cũng chính nền kinh tế thị
trường đã để lại nhiều hệ lụy đáng kể cho nền kinh tế - chính trị xã hội, một trong
những vấn đề đó là hiện tượng phá sản. Thực tế chứng minh rằng phá sản là hiện
tượng bình thường và cần thiết của nền kinh tế thị trường còn pháp luật phá sản
là sự can thiệp có ý thức của Nhà nước vào hiện tượng này. Vì vậy pháp luật phá
sản có vai trò hết sức quan trọng không những bảo vệ lợi ích chính đáng của các
chủ thể tham gia quan hệ phá sản ma còn góp phần bảo vệ trật tự kỉ cương xã hội
ổn định nền kinh tế.
1.3.1 Bảo vệ lợi ích chính đáng của chủ nợ
Khi mới hình thành, Luật phá sản chủ yếu được áp dụng cho các thương gia

nhằm bảo vệ lợi ích của các chủ nợ. Ví dụ: Luật phá sản đầu tiên của nước Anh
đã quy định nhiều biện pháp rất nghiêm ngặt, kể cả bỏ tù con nợ.
Đồng thời với quá trình dân chủ hóa các hoạt động kinh tế, nhất là xu thế mở
rộng quyền tự do và bình đẳng trong kinh doanh, pháp luật về phá sản ngày càng
có xu hướng nhân đạo hóa các biện pháp áp dụng đối với chủ doanh nghiệp bị
phá sản, phát triển các quy định nhằm bảo vệ lợi ích của các con nợ. Tuy nhiên
lợi ích của các chủ nợ vẫn là mục tiêu bảo vệ hàng đầu.
Khi một nhà đầu tư cho các doanh nghiệp vay vốn, họ có hai phương pháp để
đòi nợ:
• Đòi nợ bằng phương pháp thông thường- thông qua việc đưa đơn kiện ra
tòa án hoặc trọng tài kinh tế.
• Đòi nợ bằng một cơ chế đặc biệt- thông qua thủ tủc phá sản.
GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân

Trang 11

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

Tính đặc biệt của thủ tục này thể hiện ở chỗ:
+ Giúp cho các chủ nợ thu hồi được tài sản của mình. Tòa án phải ra
quyết định tuyên bố doanh nghiệp mắc nợ bị phá sản, để rồi nhân việc đó mà bán
toàn bộ tài sản của doanh nghiệp đó đi, nhằm thanh toán cho chủ nợ. Cách trả nợ
theo thủ tục phá sản là trả nợ một cách tập thể, và bằng cách chấm dứt sự tồn tại
của con nợ.
+ Luật đảm bảo cho chủ nợ lợi ích của mình, hạn chế tình trạng dây dưa
thanh toán nợ. Do đó, tạo điều kiện cho các chủ đầu tư tự tin hơn trong quá trình
cho vay và đòi nợ.

Sự bảo vệ của luật phá sản đối với chủ nợ được thể hiện cụ thể: pháp luật cho
phép các chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp
tác xã Khoản 1 Điều 13 Luật phá sản năm 2004; chủ nợ có quyền tham gia giải
quyết những vấn đề quan trọng của doanh nghiệp mà liên quan đến lợi ích của
mình trong quá trình giải quyết việc phá sản. Chẳng hạn, lợi ích của chủ nợ được
bảo đảm bằng việc pháp luật cho phép tất cả các chủ nợ đều được tham gia vào
hội nghị chủ nợ, được cử đại diện của mình tham gia vào tổ quản lí, thanh lí tài
sản Điều 9, Điều 62 Luật phá sản năm 2004. Hơn nữa, trong quá trình giải quyết,
pháp luật phá sản còn đưa ra các cơ chế cho phép các chủ nợ có khả năng bảo vệ
tối đa lợi ích của mình như: kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh doanh, hành vi
của con nợ (Điều 63), tham gia giải quyết những vấn đề liên quan trực tiếp tới
quyền lợi của mình, khiếu nại các quyết định của Toà án . . . tất cả nhằm mục
đích bảo vệ tối đa hoá khă năng thu hồi nợ.
Ngoài ra, vai trò của Luật phá sản trong việc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
của các chủ nợ (ở chừng mực nhất định còn nhằm bảo vệ quyền lợi ích của người
lao động) qua quy định tại Điều 31 Luật phá sản năm 2004: kể từ ngày nhận
được quyết định mở thủ tục phá sản, nghiêm cấm doanh nghiệp, hợp tác xã cất
giấu, tẩu tán tài sản; thanh toán nợ không có bảo đảm; từ bỏ hoặc giảm bớt quyền
đòi nợ; chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm bằng tài
sản của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã phải được sự đồng ý bằng văn bản của Thẩm phán
trước khi thực hiện những họat động sau: cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán,
tặng cho, cho thuê tài sản; nhận tài sản từ một hợp đồng chuyển nhượng; chấm
dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực; vay tiền; bán, chuyển đổi cổ phần hoặc
chuyển quyền sở hữu tài sản; thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã và trả lương cho người lao động trong
doanh nghiệp, hợp tác xã.

GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân


Trang 12

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

Để bảo vệ tuyệt đối quyền lợi cho các chủ nợ, Luật phá sản còn cho phép chủ
nợ có bảo đảm còn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố các giao dịch của doanh
nghiệp, hợp tác xã quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật phá sản năm 2004 vô
hiệu. Khi các giao dịch này được tuyên bố vô hiệu thì những tài sản thu hồi được
phải nhập vào khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Thêm vào đó, trong quá
trình tiến hành thủ tục phá sản nếu xét thấy việc đình chỉ thực hiện hợp đồng
đang có hiệu lực và đang được thực hiện hoặc chưa được thực hiện sẽ có lợi hơn
cho doanh nghiệp, hợp tác xã thì chủ nợ cũng có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết
định đình chỉ thực hiện hợp đồng.
Pháp luật đã thiết kế sẵn một thủ tục pháp lí đảm bảo sự bình đẳng quyền lợi
giữa các chủ nợ, không cho phép chủ nợ nào được tự ý xé lẻ đi kiện riêng con nợ
để đòi nợ, không một chủ nợ nào được con nợ ưu tiên trả nợ trong khi các chủ nợ
khác chưa được trả (trừ chủ nợ có đảm bảo đặc biệt cho món nợ của mình, chủ
nợ có tài sản cầm cố, thế chấp).
1.3.2. Bảo vệ lợi ích của con nợ
Khi mới xuất hiện, Luật Phá sản không đề cập đến vấn đề bảo vệ lợi ích cho
các con nợ, vì những nhà lập pháp đã cho rằng phá sản là phạm tội, chủ doanh
nghiệp phá sản, vì thế, là phạm nhân. Những chủ doanh nghiệp như thế không
những không được bảo vệ mà còn bị trừng phạt, thậm chí bỏ tù.
Tuy nhiên, ngày nay, đại đa số các nước trên thế giới không còn quan niệm
như vậy nữa. Họ hiểu rằng kinh doanh là một công việc khó khăn, dễ gặp rủi ro.
Như vậy, luật pháp sẽ không nên trừng phạt họ, mà trái lại, còn nên đối sử nhân
đạo với các doanh nghiệp không may đó.

Hiện tại, Việt Nam đã thực hiện các chính sách như:
+ Không bỏ tù những chủ doanh nghiệp phải tuyên bố phá sản.
+ Ngăn cấm các chủ nợ có các hành vi xúc phạm thể xác và tinh thần của
con nợ.
+ Bằng mọi cách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mắc nợ khắc phục
tình trạng khó khăn, khôi phục lại sản xuất mà không phải tuyên bố phá sản ngay.
Đồng thời giảm bớt gánh nặng tài chính (bằng việc ấn định thời điểm ngừng trả
nợ, tạo điều kiện cho con nợ thương lượng với chủ nợ để xoá nợ, giảm nợ, mua
nợ . . .), hạn chế những hành vi pháp lý chống lại con nợ từ phía các chủ nợ, buộc
các chủ nợ vào một khuôn khổ chung trong quá trình đòi nợ. Con nợ được tạo cơ
chế khôi phục được, pháp luật phá sản còn đưa ra cơ chế giúp cho việc thanh lý
tài sản của con nợ được nhanh nhất và giải phóng con nợ khỏi trách nhiệm thanh
toán đối với các chủ nợ.

GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân

Trang 13

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

Ngoài ra, Luật phá sản còn có quy định đến việc xử lý các khoản nợ chưa đến
hạn của con nợ. Đó là, trong trường hợp Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục
thanh lý đối với doanh nghiệp, hợp tác xã thì các khoản nợ chưa đến hạn vào thời
điểm mở thủ tục thanh lý được xử lý như các khoản nợ đến hạn, nhưng không
được tính lãi đối với thời gian chưa đến hạn.
1.3.2 Bảo vệ lợi ích của người lao động
Khi một doanh nghiệp phá sản, bên cạnh sự thiệt hại của chủ nợ và con nợ,

mà nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến những người lao động. Trước những sự khó
khăn đó, luật phá sản đã cho phép những người làm công được hưởng một số
quyền lợi đặc biệt.
Theo quy đinh của hầu hết các nước trên thế giới, trong quá trình giải quyết
yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, người lao động có quyền cử đại diện
tham gia để bảo vệ lợi ích của mình, tiền lương và các khoản lợi ích chính đáng
khác của họ bao giờ cũng thuộc diện ưu tiên trong thứ tự phân chia tài sản của
doanh nghiệp và những người lao động trong doanh nghiệp bị phá sản thường
được tạo cơ hội tìm việc làm mới.
Theo Điều 14 Luật phá sản năm 2004 quy định: "trong trường hợp doanh
nghiệp, hợp tác xã không trả được lương, các khoản nợ khác cho người lao động
và nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì người lao
động cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó". Trong trường hợp này người
lao động sẽ được miễn phí phá sản (Khoản 2 – Điều 21).
Pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích của người lao động còn được thể hiện đặc
biệt trong việc phân chia tài sản thì người lao động được ưu tiên thanh toán trước
chỉ sau phí phá sản (Điều 37). Như vậy, pháp luật về phá sản xác định cơ sở pháp
lý cho việc bảo vệ lợi ích hợp pháp và hạn chế thiệt thòi vật chất mà sự phá sản
đem lại cho người lao động.
Ngoài ra, vai trò của Luật phá sản hiện hành ngày nay còn thể hiện rõ nét qua
giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh (thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh) nhằm cứu giúp con nợ vượt ra khỏi tình trạng phá sản. Nếu doanh nghiệp,
hợp tác xã thực hiện xong phương án phục hồi hoạt động kinh doanh thì Thẩm
phán sẽ đình chỉ thủ tục phục hồi họat động kinh doanh và khi đó doanh nghiệp,
hợp tác xã đó được coi không còn lâm vào tình trạng phá sản. Trong trường hợp
này Luật phá sản cùng lúc bảo vệ được ba mục tiêu: bảo vệ quyền lợi ích của các
chủ nợ (các chủ nợ sẽ được thanh toán hết nợ); bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp
mắc nợ (doanh nghiệp không bị đào thải khỏi nền kinh tế thị trường); bảo vệ
quyền lợi người lao động (người lao động không bị mất công ăn, việc làm).

GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân

Trang 14

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

1.3.4. Bảo vệ trật tự kỉ cương xã hội và cơ cấu lại nền kinh tế
Luật phá sản doanh nghiệp được đưa ra nhằm đảm bảo lợi ích cho mọi thành
phần tham gia doanh nghiệp, nó làm tránh được tình trạng hỗn loạn của nền kinh
tế khi một, hay nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Bên cạnh đó, phá
sản không hoàn toàn là tiêu cực, trên một khía cạnh nào đó, nó thậm chí là một
hành động tích cực đối với nền kinh tế, giúp thúc đẩy hoạt động kinh doanh có
hiệu quả hơn.
Khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì khả năng thanh toán các
khoản nợ là rất thấp. Cho nên các chủ nợ sẽ có các hành vi chống lại con nợ.
Những hành vi đó có thể là hợp pháp cũng có thể là bất hợp pháp. Nếu không có
sự can thiệp kịp thời và có hiệu quả của luật phá sản thì những hành vi bất hợp
pháp sẽ diễn ra, gây ra bất ổn cho xã hội. Vì vậy, pháp luật phá sản sẽ quy định
tách bạch và hài hòa lợi ích giữa các nhóm chủ nợ với nhau tạo sự công bằng
trong việc thanh toán cho các chủ nợ. Nhìn chung pháp luật phá sản quy định một
cách công bằng và minh bạch lợi ích giữa chủ nợ và con nợ cũng như các chủ nợ
với nhau. Cho nên có thể khẳng định rằng pháp luật phá sản đã hạn chế được
những mâu thuẫn và căng thẳng có thể xảy ra giữa họ góp phần bảo vệ trật tự kỉ
cương xã hội.
Chúng ta cũng không thể phủ nhận rằng mặc dù phá sản để lại những hệ lụy
tiêu cực nhưng bên cạnh đó phá sản cũng góp phần không nhỏ vào việc cơ cấu lại
nền kinh tế và loại bỏ doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Đồng thời luật phá sản

là biện pháp cưỡng chế buộc các doanh nghiệp phải luôn năng động, sáng tạo
nhưng không được liều lĩnh. Luật phá sản là cơ sở pháp lý tạo môi trường kinh
doanh lành mạnh. Vì nó đã xử lí kịp thời những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu
quả lâm vào tình trạng phá sản.
1.4. Các cơ quan tham gia quá trình giải quyết phá sản
1.4.1. Vai trò trung tâm của Tòa án nhân dân (TAND) trong việc giải
quyết phá sản
Pháp luật của hầu hết các nước đều trao cho Tòa án có thẩm quyền tuyên bố
phá sản, song vai trò cụ thể của cơ quan này trong quá trình giải quyết việc phá
sản ở các nước khác nhau là không giống nhau,
Bởi vì phá sản là hiện tượng gây hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt và cho
nhiều người, do đó cơ quan nào có quyền tuyên bố phá sản là vấn đề được pháp
luật nhiều nước quan tâm.
Theo quy định của Điều 7 Luật phá sản năm 2004, thẩm quyền giải quyết phá
sản được phân cấp cho Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân dân cấp tỉnh

GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân

Trang 15

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

căn cứ vào việc cơ quan cấp nào (tỉnh hay huyện) đã cấp giấy chứng nhận đăng
kí kinh doanh cho doanh nghiệp, hợp tác xã cụ thể đó.
Tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết phá sản đối với các hợp tác xã đăng kí
kinh doanh tại cơ quan cấp huyện đó. Tòa án nhân dân cấp tỉnh cụ thể là Tòa
kinh tế giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đã đăng kí kinh

doanh tại cơ quan đăng kí kinh doanh cấp tỉnh đó.
Tùy vào tính chất của việc phá sản, quy mô của hợp tác xã, TAND tỉnh sẽ lấy
lên để tiến hành thủ tục giải quyết phá sản đối với hợp tác xã thuộc thẩm quyền
của TAND cấp huyện. Việc giải quyết phá sản tại Tòa án cấp huyện do một
Thẩm phán phụ trách, tại Tòa án cấp tỉnh do một hoặc ba Thẩm phán phụ trách.
Do đó, nếu như Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 quy định việc giải quyết
phá sản tập trung tại TAND tỉnh thì Luật phá sản năm 2004 đã mở rộng thẩm
quyền giải quyết phá sản cho Tòa án huyện, điều này có thể được lý giải bởi sự
không ngừng nâng cao về trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của đội ngũ Thẩm
phán.
Quy định như vậy là phù hợp với tính chất và hoạt động của Tòa án các cấp
theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ chính trị, theo đó tăng thẩm
quyền cho Tòa án cấp huyện, TAND tối cao chủ yếu thực hiện việc xét xử giám
đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
nhân dân cấp dưới bị kháng nghị, tập trung vào việc tổng kết thực tiễn, hướng
dẫn việc xét xử của Tòa án các cấp . . .5
Có thể thấy, phá sản về bản chất là một hiện tượng kinh tế, song do tính chất
phức tạp của nó mà Việt Nam cũng như hầu hết các nước trên thế giới đều giao
thẩm quyền giải quyết cho hệ thống Tòa án, Tòa án là nhân vật trung tâm, giữ vị trí
quyết định đối với việc giải quyết một vụ phá sản, vì trong quá trình giải quyết một
vụ phá sản thường liên quan đến lợi ích của các bên khác nhau mà Tòa án là cơ quan
độc lập, có tính chất khách quan, nguyên tắc "Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật" đã trở thành nguyên tắc hiến định.
Tham gia vào quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã Tòa án có
vị trí trung tâm, có vai trò chủ đạo và là người trực tiếp giải quyết loại công việc
này của xã hội. Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản được mở đầu bằng
việc Tòa án nhận, thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; Toà án quyết định việc
mở hay không mở thủ tục phá sản. Vai trò của Tòa án không chỉ dừng lại ở việc
quyết định những vấn đề thuộc về tố tụng phá sản mà nó còn can thiệp vào cả
5


Theo Ths. Vũ Hồng Vân, quy định của luật phá sản năm 2004 về nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản,
Tạp chí TAND tháng 11-2005 (Số 21), tr 16.

GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân

Trang 16

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tòa án giám sát hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quá trình giải quyết phá sản, quyết định
việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo đảm tài sản của doanh
nghiệp.
Khi tiến hành giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
Tòa án cùng với các bên phải phân tích, đánh giá khả năng phục hồi của doanh
nghiệp để trên cơ sở đó mà ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hay thủ tục
thanh lý đối với doanh nghiệp. Thủ tục phục hồi chỉ được tiến hành khi có yêu
cầu của chủ nợ hoặc doanh nghiệp mắc nợ. Đối với những doanh nghiệp mắc nợ
mà rõ ràng là không thể phục hồi được khả năng thanh toán thì pháp luật cho
phép Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản và tiến hành ngay thủ tục thanh lý
doanh nghiệp mà không cần làm thêm bất cứ một thủ tục pháp lý nào khác.
Khác với thông lệ chung đó, pháp luật phá sản Việt Nam mà cụ thể là Luật
Phá sản doanh nghiệp lần đầu tiên được ban hành năm 1993 lại quy định mà theo
đó bất cứ một doanh nghiệp nào bị Tòa án ra quyết định mở thủ tục giải quyết
yêu cầu tuyên bố phá sản đều phải trải qua giai đoạn xây dựng phương án hòa
giải và giải pháp lại hoạt động sản xuất, kinh doanh, họp Hội nghị chủ nợ để bàn

bạc, xem xét phương án này và sau đó nếu không được sự chấp nhận của Hội
nghị chủ nợ thì Tòa án mới được ra quyết định tuyên bố phá sản đối với doanh
nghiệp đó. Quy định này dẫn tới hậu quả là, mặc dù tài sản của doanh nghiệp
mắc nợ trên thực tế đã không còn gì đáng kể, bản thân chủ doanh nghiệp hoặc
người quản lý doanh nghiệp và các chủ nợ không muốn phục hồi nhưng doanh
nghiệp đó vẫn bắt buộc thực hiên đầy đủ các bước như trên. Như thế, việc tổ
chức lại doanh nghiệp trong trường hợp này rõ ràng là không chỉ không có kết
quả mà còn trái ý muốn của các đương sự. Việc quy định áp đặt như vậy là
không phù hợp với thực tế, dẫn đến việc tổ chức lại doanh nghiệp mắc nợ, cả các
chủ nợ, cả Tòa án và các chủ thể khác có liên quan, Thực tế đã cho thấy nhiều
Tòa án địa phương đã rất lúng túng khi gặp phải những trường hợp doanh nghiệp
bị yêu cầu tuyên bố phá sản đã hoàn toàn rơi vào tình trạng không còn tài sản gì
đáng kể, nếu thụ lý để giải quyết thì phải tiến hành đầy đủ các giai đoạn theo quy
định của Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 với những chi phí không nhỏ.
Ngược lại, nếu không thực hiện đầy đủ các thủ tục này thì Tòa án lại bị coi là vi
phạm pháp luật.
Để khắc phục tình trạng này, Luật phá sản năm 2004 đã đi theo hướng quy
định nhiều thủ tục khác nhau trong thủ tục phá sản (Điều 5) bao gồm: thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã; thủ tục thanh lý tài
sản; thủ tục tuyên bố phá sản. Sau khi quyết định mở thủ tục phá sản, căn cứ vào
GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân

Trang 17

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

tình trạng thực tế của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, Tòa

án sẽ quyết định áp dụng thủ tục nào cho phù hợp, đối với những doanh nghiệp,
hợp tác xã không còn khả năng phục hồi, Tòa án sẽ áp dụng ngay thủ tục thanh lý
tài sản, nếu xác định tài sản còn lại của doanh nghiệp không đủ để thanh toán chi
phí phá sản thì Tòa án có thể tuyên bố phá sản ngay. Trong quá trình áp dụng thủ
tục phục hồi nếu doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện không đúng, không đầy đủ
hoặc không thực hiện được phương án phục hồi hoạt đông kinh doanh thì Tòa án
cũng có thể quyết định chuyển từ thủ tục phục hồi sang áp dụng thủ tục thanh lý
tài sản.
Quy định như trên tạo điều kiện vừa chấm dứt nhanh chóng sự tồn tại của
những doanh nghiệp không còn đủ khả năng phục hồi, giảm thiểu đến mức tối đa
cho việc tiến hành thủ tục phá sản, bảo vệ quyền lời của các chủ nợ.
1.4.2. Sự giám sát của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) trong quá trình
giải quyết phá sản
Với tư cách là cơ quan giám sát, VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tất cả các giai đoạn của thủ tục giải quyết phá sản, đối với các chủ thể tiến
hành giải quyết việc phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã nhằm đảm bảo thực hiện
đúng đắn Luật phá sản, đạt được những mục tiêu mà Luật đã đề ra.
Điều 12 Luật phá sản quy định: “Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản theo quy định của Luật
này và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ".
Đối với VKSND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và cấp tương
đương có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật việc giải quyết phá sản của
TAND cấp huyện đối với hợp tác xã đã đăng kí kinh doanh tại cơ quan đăng kí
kinh doanh cấp huyện đó.
Đối với VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương
(nơi doanh nghiệp, hợp tác xã đăng ký kinh doanh) có nhiệm vụ kiểm sát việc
tuân theo pháp luật việc giải quyết phá sản của TAND cấp tỉnh đối với doanh
nghiệp, hợp tác xã đã đăng kí kinh doanh tại cơ quan đăng kí kinh doanh cấp tỉnh
đó hoặc đối với trường hợp TAND cấp tỉnh lấy lên để tiến hành thủ tục phá sản
đối với hợp tác xã thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện.

Riêng đối với việc giải quyết phá sản doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
thì VKSND cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính có nhiệm vụ kiểm sát việc
tuân theo pháp luật việc giải quyết phá sản của TAND cấp tỉnh nơi đặt trụ sở
chính của doanh nghiệp có đầu tư nước ngoài đó.

GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân

Trang 18

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

Ngoài các chủ thể trên, tham gia vào quá trình giải quyết phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã còn có sự tham gia của cơ quan Thi hành án và một số cơ
quan chuyên môn khác (Điều 9 - Luật phá sản).
Tóm lại, mặc dù Luật phá sản quy định có sự tham gia của nhiều cơ quan
khác nhau vào quá trình giải quyết phá sản nhưng Tòa án là chủ thể giữ vai trò
trung tâm, quyết đinh. Cơ quan Viện kiểm sát, Thi hành án và một số cơ quan
chuyên môn khác tham gia vào quá trình giải quyết phá sản là để đảm bảo cho
Tòa án thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.

GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân

Trang 19

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung



Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản
CHƯƠNG 2

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ NỢ VÀ CON NỢ
TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN
2.1. Giai đoạn nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
2.1.1. Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ
 Quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản
Mục tiêu hàng đầu của pháp luật phá sản là nhằm bảo vệ quyền tài sản của
chủ nợ. Vì thế, pháp luật phá sản tất cả các nước trên thế giới đều dành cho chủ
nợ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với con nợ. Nhưng lại có sự
khác nhau trong việc qui định phạm vi các chủ nợ có quyền nộp đơn. Chẳng hạn
như luật phá sản của Trung Quốc và Hungari cho phép cả chủ nợ có bảo đảm có
quyền nộp đơn. Một số nước khác lại qui định chỉ có chủ nợ không có bảo đảm
mới có quyền này hoặc cả chủ nợ có bảo đảm nhưng phải kèm theo những điều
kiện nhất định như phải từ bỏ quyền được bảo đảm như luật phá sản Malaysia.
Trong giai đoạn này Luật phá sản năm 2004 đã dành cả chương II để quy
định về việc nộp đơn và thụ lý đơn yều cầu mở thủ tục phá sản. Chương này co
12 điều, từ Điều 13 đến Điều 32, tăng 12 điều so với Luật phá sản doanh nghiệp
năm 1993.
Luật phá sản năm 2004 quy định thành phần những người có quyền nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản. Cũng như Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993, Luật
phá sản năm 2004 quy định quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ
và người lao động. Khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá
sản thì các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần đều có quyền nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó (khoản 1 Điều
13). Quy định này hoàn toàn hợp lí vì chủ nợ có bảo đảm một phần vẫn có quyền
yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã trả hết phần nợ không có bảo đảm. Trong trường
hợp này luật phá sản đã không cho chủ nợ có bảo đảm quyền nộp đơn, bởi vì bản
thân chủ nợ này đã được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc

của người thứ ba. Có thể nói rằng quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm đã được bảo vệ
một cách tuyệt đối, nên việc qui định cho họ có quyền nộp đơn là không cần thiết.6
Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 quy định muốn mở thủ tục phá sản đối
với một doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì thủ tục bắt buộc
đầu tiên là vấn đề nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Tòa án ra quyết định mở
6

Theo Ths. Vũ Hồng Vân, quy định của luật phá sản năm 2004 về nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản,
tạp chí Tòa án nhân dân tháng 11-2005(số 21), tr9.

GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân

Trang 20

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã trên cơ sở đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản. Cụ thể theo Điều 7 Luật phá sản năm 1993 và khoản 3 Điều 10 Nghị
định 189 thì các chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, phải gửi
kèm theo các tài liệu chứng minh các khoản nợ. Quy định này gây khó khăn khá
lớn đối với chủ nợ nếu muốn nộp đơn yêu cầu giải quyết phá sản.
Vì muốn chứng minh một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì phải
có đầy đủ giấy tờ về tổng số nợ đến hạn của doanh nghiệp, giá trị tài sản còn lại,
tình hình kinh doanh…trong khi chủ nợ nộp đơn chỉ có giấy tờ liên quan đến các
khoản nợ của mình, việc tiếp cận và có được các giấy tờ liên quan đến tình hình
tài chính của doanh nghiệp mắc nợ là rất khó khăn vì chế độ kê khai sổ sách kế
toán, kiểm toán … còn chưa công khai, nhiều doanh nghiệp còn làm ba loại sổ kế

toán, một cho doanh nghiệp, một cho chủ doanh nghiệp và một cho kế toán nên
việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh như trong Luật phá sản doanh nghiệp năm
1993 là không khả thi.
Những quy định trên gây khó khăn khá lớn cho các chủ nợ trong việc nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản. Vì thế Luật phá sản 2004 đã khắc phục những hạn
chế trên, chủ nợ không cần phải cung cấp cho tòa án các giấy tờ, tài liệu chứng
minh doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Đơn phải được nộp
cho tòa án có thầm quyền và bao gồm các nội dung quy định tại Điều 13 Luật
phá sản năm 2004. Một chủ thể khá đặc biệt nữa có quyền nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản là người lao động. Trong trường hợp này người lao động đứng
trên cương vị một người chủ nợ không có bảo đảm. Cái duy nhất họ có là sức lao
động đem ra trao đổi với doanh nghiệp và nhận về một khoản tiền lương để nuôi
sống bản thân và gia đình. Do đó, người lao động là người bị thiệt hại nhiều nhất
nhưng lại là chủ thể “thấp cổ bé họng” 7 trong việc đòi quyền lợi cho bản thân
mình khi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Cho nên tại Điều
14 Luật phá sản năm 2004 đã quy định cho người lao động có quyền nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản thông qua người đại diện hoặc đại diện công đoàn. Cụ thể
như sau: “Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không trả được lương, các
khoản nợ khác cho người lao động và nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản thì người lao động cử người đại diện hoặc thông qua đại diện
công đoàn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã
đó”.
Còn theo Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 tại Điều 8 quy định : Người lao
động chỉ được nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp đó không trả
7

Theo Ths. Vũ Hồng Vân, quy định của luật phá sản năm 2004 về nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản,
tạp chí Tòa án nhân dân tháng 11-2005(số 21), tr9.

GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân


Trang 21

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

được lương trong ba tháng liên tiếp. Đây là một quy định quá cứng nhắc gây khó
khăn cho người lao động. Vì vậy, đến Luật phá sản năm 2004 quy định này đã
không còn đặt ra. Đây là điểm tiến bộ của Luật phá sản năm 2004 làm tăng quyền
lợi cho người lao động.

 Quyền được thông báo nếu như chủ nợ không phải là chủ thể nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản
Cụ thể tại Điều 23 Luật phá sản năm 2004 quy định: “Trong trường hợp người
nộp đơn không phải là chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì trong thời hạn năm ngày , kể từ
ngày thụ lý đơn, Tòa án phải thông báo cho doanh nghiệp hợp tác xã đó biết”. Quy
định này được đặt ra nhằm tạo sự công bằng đối với các chủ nợ. Nếu như người
nộp đơn không phải là doanh nghiệp, hợp tác xã đó thì họ vẫn biết việc lâm vào
tình trạng phá sản của con nợ va và đã có chủ thể khác nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản. Việc thông báo này tạo điều kiện cho chủ nợ có thể kịp thời bảo vệ được
quyền lợi hợp pháp của mình cũng như có các biện pháp hợp lí để bảo vệ tài sản
còn lại của con nợ, tránh tình trạng tẩu tán tài sản.
 Quyền khiếu nại việc trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có quyền khiếu nại với Chánh án
Tòa án về việc trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong thời hạn mười ngày, kể
từ ngày nhận được quyết định của Tòa án nếu thấy việc trả lại đơn của Tòa án là
thiếu căn cứ. Luật phá sản quy định cho chủ nợ quyền này nhằm tối đa hóa việc

thu hồi các khoản nợ của họ. Vì rất có thể trong một số trường hợp việc trả lại đơn
của Tòa án là thiếu khách quan.
 Nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng phí phá sản
Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải nộp tiền tạm ứng phí phá sản
theo quyết định của Tòa án, trừ trường hợp người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản là người lao động. Quy định này hoàn toàn hợp lí vì phí phá sản dùng để tiến
hành thủ tục phá sản, tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án có những quy định về
phí và lệ phí phá sản theo quy định của pháp luật. Đặc biệt nếu như chủ thể nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là người lao động thì không phải nộp tiền tạm ứng
phí phá sản. Luật phá sản trong trường hợp này đã dành cho người lao động một
quyền lợi hết sức thực tế vì một khi con nợ đã lâm vào tình trạng phá sản thì rất có
thể đã không trả được lương cho người lao động. Cho nên người lao động được
hưởng quyền này mà các chủ thể nộp đơn khác không có là hoàn toàn phù hợp.
Thêm vào đó, người lao động là những người khó khăn về mặt vật chất, nếu bắt họ
phải nộp tiền tạm ứng phí phá sản khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì họ
sẽ ngần ngại.
GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân

Trang 22

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

 Nghĩa vụ xuất trình các loại giấy tờ và tài liệu theo yêu cầu của Tòa án
Đồng hành với quy định quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản là quy định nghĩa vụ nộp cung cấp cho tòa án các giấy tờ, tài liệu chứng
minh một cách đầy đủ và kịp thời. Quy định này nhằm mục đích nâng cao trách
nhiệm của người nộp yêu cầu mở thủ tục phá sản cũng như tạo điều kiện thuận

lợi cho tòa án có thể ra quyết định thụ lý hay trả đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản. Mặt khác những giấy tờ, tài liệu này cũng là căn cứ để tòa án có thể ra
quyết định mở thủ tục phá sản đối với con nợ sau này.
 Nghĩa vụ chịu trách nhiệm về tính chính xác và khách quan của việc nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Theo khoản 2 Điều 19 Luật phá sản năm 2004 quy định: “Nếu người nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không khách quan gây ảnh hưởng xấu đến danh
dự, uy tín, hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc có sự gian dối trong
việc yêu cầu mở thủ tục phá sản thì tùy theo tính chất mức độ mà bị xử lí kĩ
luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại
thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”. Với quy định này Luật phá
sản đã đặt nặng hơn trách nhiệm cũng như tính chính xác của người nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản. Tức là doanh nghiệp, hợp tác xã đó phải thực sự
lâm vào tình trạng phá sản thì người có quyền mới được nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản. Tránh tình trạng người nộp đơn xuyên tạc gây ảnh hưởng xấu
đến danh dự và uy tín của doanh nghiệp, hợp tác xã đó. Trong trường hợp nếu
người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có sự gian dối thì tùy theo tính chất,
mức độ mà bị xử lí theo quy định của pháp luật.
2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của con nợ
 Quyền chứng minh không lâm vào tình trạng phá sản của con nợ
Khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì doanh
nghiệp, hợp tác xã đó có quyền chứng minh mình không lâm vào tình trạng phá
sản để phản bác lại nhằm mục đích yêu cầu Tòa án ra quyết định trả lại đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản đối với mình.
 Quyền được khiếu nại việc trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Không chỉ có chủ nợ mà con nợ cũng có quyền khiếu nại việc trả lại đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản. Cụ thể tại khoản 1 Điều 25 Luật phá sản năm 2004 quy
định: “Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được quyết định của Tòa án trả
lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, người làm đơn có quyền khiếu nại với Chánh
án Tòa án đó”.


GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân

Trang 23

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

Kết thúc giai đoạn này, theo Điều 24 Luật phá sản năm 2004 Tòa án ra quyết
định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong những trường hợp sau đây:
+ Người nộp đơn không nộp tiền tạm ứng phí phá sản trong thời hạn do
Toà án ấn định;
+ Người nộp đơn không có quyền nộp đơn;
+ Có Toà án khác đã mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã
lâm vào tình trạng phá sản;
+ Có căn cứ rõ ràng cho thấy việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản do
không khách quan gây ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín, hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc có sự gian dối trong việc yêu cầu mở thủ
tục phá sản;
+ Doanh nghiệp, hợp tác xã chứng minh được mình không lâm vào tình
trạng phá sản.
Nếu không thuộc các trường hợp trả lại đơn yêu cầu theo Điều 24 Luật phá
sản năm 2004 thì Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, kể từ ngày người
nộp đơn xuất trình biên lai nộp tiền tam ứng phí phá sản. Trường hợp người nộp
đơn không phải nộp tiền tạm ứng phí phá sản thì ngày thụ lý đơn là ngày Tòa án
nhận được đơn.
 Nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Song song với quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ là nghĩa

vụ của con nợ. Hơn ai hết con nợ là người rõ nhất tình trạng tài chính của bản thân.
Vì vậy, Luật phá sản 2004 qui định bắt buộc con nợ phải có nghĩa vụ nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản để bảo vệ kịp thời và trực tiếp quyền lợi chính đáng của
chủ nợ.8 Điều 15 Luật phá sản 2004 quy định: “khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp
tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp
của doanh nghiệp, hợp tác xã có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó".
Tuy nhiên không phải lúc nào phá sản cũng là phá sản trung thực. Nhiều
trường hợp doanh nghiệp lợi dụng cơ chế này để chiếm đoạt tài sản của chủ nợ
hoặc trốn tránh nghĩa vụ thanh toán nợ. Chẳng hạn, con nợ gian lận trong việc
kí kết các hợp đồng chuyển giao tài sản, báo cáo sai hoặc đưa ra những thông
tin không trung thực để tạo lí do phá sản.
Bên cạnh đó, có không ít doanh nghiệp đã thực sự đứng trước bờ vực phá
sản, song vẫn không làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Bởi vì họ sợ trước
hết là mất uy tín, mất khách hàng và đáng sợ hơn là vi phạm pháp luật phá sản
8

Theo PGS-TS. Dương Đăng Huệ, tạp chí TAND, đặc san chuyên đề về Luật phá sản tháng 8-2004, nhà
xuất bản Tư pháp năm 2005, tr107.

GVHD: TH.S Nguyễn Mai Hân

Trang 24

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Nhung


×