Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại TRỌNG tài THƯƠNG mại lý LUẬN và THỰC TIỄN áp DỤNG tại VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (944.06 KB, 69 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN THƯƠNG MẠI

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 30- NIÊN KHÓA ( 2004- 2008 )
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI- LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM


Giáo viên hướng dẫn:
PHẠM MAI PHƯƠNG

Sinh viên thực hiện:
TRẦN VŨ TÍNH
MSSV: 5044141
Lớp: Luật thương mại

CẦN THƠ 04/ 2008


Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu


Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu


MỤC LỤC


LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................ Trang 1
Chương 1: Một số vấn dề lý luận về Trọng Tài thương mại
1.1. Khái quát chung về Trọng Tài thương mại ...............................................4
1.1.1 Khái niệm và phân loại Trọng Tài thương mại ...............................4
1.1.2 Đặc điểm của Trọng Tài thương mại...............................................7
1.1.3 Vai trò của Trọng Tài thương mại ...................................................8
1.2 . Lịch sử hình thành và phát triển của Trọng Tài thương mại Việt Nam....9
1.2.1 Sự cần thiết phải thành lập Trọng Tài ở Việt Nam..........................9
1.2.2 Lịch sử hình thành Trọng Tài thương mại Việt Nam ....................12
1.3 . Sơ lược Trọng Tài thương mại so với các hình thức giải quyết tranh
chấp ...................................................................................................................16
1.3.1 Thương lượng trực tiếp ..................................................................17
1.3.2 Hoà giải..........................................................................................18
1.3.3 Toà án ............................................................................................19
1.3.4 Trọng Tài .......................................................................................20
Chương 2: Thực tiễn áp dụng Trọng Tài thương mại tại Việt Nam
2.1. Thực trạng việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng Tài thương mại........24
Trung 2.2.
tâmCơHọc
liệu
ĐHtranh
Cần
Thơ
TàiTài
liệu
họcmại......................26
tập và nghiên
chế giải
quyết
chấp

bằng@
Trọng
thương
2.2.1 Về thoả thuận Trọng Tài ..................................................................27
2.2.2 Luật áp dụng để giải quyết tranh chấp .............................................30
2.2.3 Tuyên quyết định Trọng Tài ............................................................35
2.3. Hiệu lực quyết định của Trọng Tài thương mại ......................................38
2.3.1 Công nhận và thi hành quyết định của Trọng Tài thương mại ........38
2.3.2 Huỷ quyết định Trọng Tài thương mại ............................................44
Chương 3: Kiến nghị giải pháp cho vấn đề hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng
Trọng Tài thương mại tại Việt Nam
3.1. Trọng Tài viên .........................................................................................58
3.2. Thoả thuận Trọng Tài..............................................................................59
3.3. Thẩm quyền giả quyết tranh chấp của Trọng Tài....................................60
3.4. Ra quyết định và thực thi quyết định Trọng Tài .....................................61
KẾT LUẬN..........................................................................................................64

cứu


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................

.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
Trung .............................................................................................................................
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................


cứu


Trọng Tài thương mại- Lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU
1. Sự cần thiết của chuyên đề nghiên cứu:
Từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 năm 1986, Việt Nam đã thực hiện đường lối
đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Đường
lối đổi mới đó của Đảng và Nhà Nước ta đã tác động sâu sắc tới đời sống, kinh tế, xã
hội và Pháp Luật. Sự chuyển hướng của nền kinh tế sang cơ chế thị trường khiến
cho các tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế ngày càng đa dạng và cần được giải quyết
theo các phương thức mới phù hợp. Các tranh chấp này có thể được giải quyết bằng
thương lượng, hòa giải giữa các bên, bằng Tòa án hoặc bằng Trọng Tài. Phần lớn
các tranh chấp thương mại, đầu tư trên thế giới (trong đó có các tranh chấp thương
mại quốc tế và đầu tư nước ngoài) được giải quyết theo con đường Trọng Tài nếu
các bên thương lượng hoặc hòa giải không thành. Điều này xuất phát từ những ưu
việt của hình thức giải quyết bằng Trọng Tài, so với Tòa án: nhanh chóng, mềm dẻo,
đỡ tốn kém, đảm bảo uy tín và đảm bảo bí mật kinh doanh.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng con đường Trọng Tài ở Việt Nam hiện
nay là một vấn đề được lưu tâm không những trong khoa học pháp lý mà còn cả

Trung tâm
Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
trong thực tiễn hoạt động kinh doanh. Việc hoàn thiện phương thức Trọng Tài
thương mại sẽ là một yếu tố góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế.
Pháp Lệnh Trọng Tài thương mại 2003 ra đời trên quan điểm chung của các nhà
lập pháp Việt Nam xây dựng một Pháp lệnh trên cơ sở phù hợp, hài hòa với luật
Trọng Tài quốc tế và luật Trọng Tài nhiều nước phát triển trên thế giới. Bên cạnh

đó, sự ra đời của Pháp Lệnh cũng đã giải quyết được trình trạng thiếu một văn bản
Pháp Luật thống nhất về Trọng Tài trong những năm qua.
Tuy nhiên, do là một nền kinh tế đang hướng tới thị trường cùng với xu hướng
toàn cầu, hội nhập mà Pháp Luật nước ta vẫn là một hệ thống Pháp Luật đang hướng
tới thị trường. Hiện nay, trong môi trường kinh tế toàn cầu hóa, đa dạng về chủ thể
kinh doanh, lợi nhuận trở thành mục đích hàng đầu mà các nhà kinh doanh hướng
tới, nhu cầu giải quyết tranh chấp kinh doanh cũng ngày càng phong phú và phức
tạp, đặc biệt trong quá trình hội nhập. Việc áp dụng Trọng Tài thương mại ở Việt
Nam vì thế bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn tồn tại một số yếu kém và vướng
mắc. Từ những lý do trên, người viết phải chọn đề tài: “Trọng Tài thương mại: lý
luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu nhằm góp phần đề ra

SVTH: Trần Vũ Tính

Trang 1


Trọng Tài thương mại- Lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

giải pháp hoàn thiện Pháp Luật Trọng Tài trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay
của Việt Nam.
2. Ý nghĩa mục đích nghiên cứu:
Mục đích, yêu cầu đặt ra đối với chuyên đề là tìm ra được các luận cứ khoa học,
thực tiễn của việc áp dụng Trọng Tài thương mại tại Việt Nam để đưa ra những đề
xuất, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của phương thức giải quyết tranh chấp bằng
Trọng Tài. Chuyên đề đã đặt ra các mục tiêu như sau:
- Làm rõ các vấn đề lý luận về Trọng Tài làm cơ sở cho việc nghiên cứu, áp
dụng.
- Đánh giá chung, sát hợp thực trạng áp dụng Trọng Tài thương mại tại Việt
Nam, làm rõ những mặt được, mặt hạn chế, bất cập trong thực tiễn, tiến hành phân

tích nguyên nhân của những tồn tại và đưa ra những giải pháp khắc phục.
- Xác định rõ yêu cầu đặt ra trong tình hình mới, đề xuất các vấn đề cơ sở lý
luận về việc hoàn thiện nâng cao hoạt động của Trọng Tài thương mại.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Đây là một đề tài khá rộng, vì thế trong nội dung trình bày luận văn chỉ nêu một

Trung

số điểm bất cập trong “lý luận và thực tiễn áp dụng Trọng Tài thương mại tại Việt
Nam” (Về: thực trạng việc giải quyết tranh chấp thông qua Trọng Tài, cơ chế giải
tâm
Học
liệu
liệuđịnh
học
vàTài)
nghiên
quyết
tranh
chấpĐH
bằngCần
Trọng Thơ
Tài và @
hiệuTài
lực quyết
củatập
Trọng
không đicứu
sâu
vào tìm hiểu các quy định của Pháp Luật về vấn đề trình tự, thủ tục của việc áp dụng

Trọng Tài.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình tiếp cận đề tài, người viết chủ yếu sử dụng các phương pháp cụ
thể sau: phân tích tổng hợp, so sánh, phương pháp lịch sử …, trên cơ sở thực tiễn
việc áp dụng các quy định của luật và hoạt động của Trọng Tài trong thực tế, để giải
quyết những vấn đề đặt ra trong luận văn. Luận văn còn đưa ra những giải pháp và
kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng Trọng Tài thương mại tại Việt Nam.
5. Kết cấu luận văn:
Mục lục.
Lời nói đầu.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Trọng Tài thương mại.
Chương 2: Những vấn đề đặt ra trong thực tiễn áp dụng Trọng Tài thương mại tại
Việt Nam.
Chương 3: Kiến nghị giải pháp cho vấn đề hoàn thiện nâng cao hiệu quả áp
dụng Trọng Tài thương mại tại Việt Nam.

SVTH: Trần Vũ Tính

Trang 2


Trọng Tài thương mại- Lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

Kết luận.
Tài liệu tham khảo.

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

SVTH: Trần Vũ Tính


Trang 3


Trọng Tài thương mại- Lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát chung về Trọng Tài thương mại:
1.1.1 Khái niệm và phân loại Trọng Tài thương mại:
1.1.1.1 Khái niệm:
+ Khái niệm về Trọng Tài:
Trọng Tài theo định nghĩa của từ điển tiếng Việt, là người trung gian điều khiển,
phân xử trong các cuộc thi đấu thể thao (Trọng Tài bóng đá); là người phân xử, giải
quyết những cuộc tranh chấp (Trọng Tài kinh tế).
Theo từ điển tiếng Việt của nhà xuất bản văn hóa thông tin Hà Nội năm 1999,
Trọng Tài được coi là: “người được các bên đối lập (tư nhân, thương gia, …) công
nhận là có thẩm quyền xử một vụ tranh chấp; là người được cử ra để điều khiển thể
thao trong khuôn khổ điều lệ của bộ môn và công nhận các kết quả của từng phần và
cuối cùng.
Ở tất cả các nước trên thế giới, các tranh chấp dân sự dù có hay không có yếu tố

Trung

nước ngoài đều được giải quyết không chỉ bằng Tòa án mà bằng cả Trọng Tài và
mặc dù có cách hiểu và định nghĩa khác nhau về Trọng Tài, tuy nhiên các nước
tâm
Họccóliệu
ĐHthống
Cầnnhất
Thơ

@ Tài
liệu
tập thức
và giải
nghiên
cứu
quyết tranh
thường
xu hướng
với nhau:
Trọng
Tài học
là phương
chấp dựa trên sự thoả thuận giữa các bên đối lập ủy thác cho một người hoặc một số
người làm trung gian giải quyết sự xung đột trên cơ sở công bằng và khách quan.
+ Khái niệm về thương mại:
Khái niệm thương mại có rất nhiều cách hiểu khác nhau và là một vấn đề gây
nhiều tranh cãi trong quá trình xây dựng Pháp Luật của quốc gia.
Khi khởi thủy, hoạt động thương mại chủ yếu là các hoạt động mua đi bán lại để
kiếm lời, vì thế khái niệm thương mại trong thời kỳ này cũng chỉ được hiểu theo một
nghĩa hẹp là mua hàng hóa để bán với mục đích tìm kiếm một ít lợi nhuận. Cùng với
quá trình phát triển của kinh tế, khái niệm thương mại ngày càng được mở rộng, nó
không chỉ là quan hệ mua đi bán lại mà nó còn là các hoạt động sản xuất công
nghiệp, bảo hiểm, ngân hàng, chuyển giao công nghệ, đầu tư, … và lúc này hoạt
động thương mại được điều chỉnh bởi nhiều lĩnh vực Pháp Luật khác nhau, đã làm
nảy sinh nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm thương mại trong hoạt động mua
bán kinh doanh1.
Xem: Nguyễn Am Hiểu- Khái niệm Trọng Tài thương mại và vấn đề áp dụng công ước Newyork
1958 tại Việt Nam- Tạp chí nhà nước và pháp luật số 05 năm 1999- trang 25- 30.
1


SVTH: Trần Vũ Tính

Trang 4


Trọng Tài thương mại- Lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

Theo luật mẫu của Ủy Ban Liên Hiệp Quốc về Trọng Tài thương mại quốc tế
(uncitral) thì khái niệm thương mại được hiểu theo một nghĩa rộng liên quan đến tất
cả các mối quan hệ có bản chất thương mại, dù là quan hệ hợp đồng hoặc không
phải quan hệ hợp đồng nhưng không giới hạn bởi các giao dịch: giao dịch mua bán
để cung cấp trao đổi hàng hóa, dịch vụ; thỏa thuận phân phối, đại diện hoặc đại lý
thương mại; tư vấn; kỹ thuật; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận
hoặc thăm dò khai thác; liên doanh hoặc các hình thức hợp tác công nghiệp hoặc
kinh doanh khác; vận tải hàng hóa hoặc hành khách bằng đường hàng không, đường
biển, đường sắt, hoặc đường bộ.
Ở Việt Nam trong quá trình đổi mới, thuật ngữ “thương mại” được sử dụng khá
phổ biến trong hoạt động kinh tế, nhưng nó không được hiểu thống nhất với nhau.
Trong quá trình xây dựng Pháp Luật thương mại, Luật công ty và Luật doanh nghiệp
tư nhân năm 1990 không đưa ra khái niệm “thương mại”, nhưng đã đưa ra khái niệm
kinh doanh. Theo đạo luật này, thì kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất
cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực
hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi, đây là một khái niệm rộng và

Trung

tương đồng với khái niệm thương mại được sử dụng phổ biến trên thế giới.
Tuy nhiên, đến khi Luật thương mại ra đời vào năm 1997 thì khái niệm thương
tâm

Học
liệuhiểu
ĐH
Cần
Thơvi@nhỏTài
vàmại
nghiên
cứu
mại chỉ được
theo
một phạm
hẹp.liệu
“Hoạthọc
độngtập
thương
là việc thực
hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân bao gồm việc mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm
mục đích thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội” (khoản 2, điều 5 luật thương
mại Việt Nam năm 1997). Khái niệm “thương mại” ở đây chỉ bao gồm 3 nhóm hành
vi: thứ nhất, là việc mua bán hàng hóa; thứ 2 là các dịch vụ gắn liền với hàng hóa;
và hoạt động thứ 3 là xúc tiến thương mại. Luật thương mại 2005 ra đời đã đưa ra
một định nghĩa mới về thương mại “hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ đầu tư , xúc tiến thương
mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Như vậy, so với Luật thương
mại năm 1997 Luật thương mại 2005 đã đưa ra một khái niệm rộng hơn.
Cho đến ngày nay, với những cách hiểu khác nhau về “thương mại” đã tạo nên
trình trạng khó xác định được vị trí của các quan hệ Pháp Luật thương mại cũng như
việc chọn luật áp dụng trong hoạt động kinh tế.
Hiện nay, trong xu thế phát triển và hội nhập quốc tế, Pháp Luật Việt Nam đã

từng bước tiếp cận với Pháp Luật quốc tế mà khái niệm thương mại đã được hiểu
một cách rộng rãi và khái quát trong Pháp Lệnh Trọng Tài thương mại Việt Nam.

SVTH: Trần Vũ Tính

Trang 5


Trọng Tài thương mại- Lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

Tại khoản 3, điều 2 Pháp Lệnh Trọng Tài thương mại Việt Nam đã quy định “Hoạt
động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ
chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện;
đại lý thương mại; ký gởi; thuê; cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; lixăng; đầu tư, tài chính; ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò; khai thác; vận chuyển hàng
hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các
hành vi thương mại khác theo quy định của Pháp Luật.
+ Khái niệm về Trọng Tài thương mại:
Theo bảng tổng hợp của luật sư Didie Xcooachki, luật sư tòa thượng thẩm Paris
thì: Trọng Tài là Tòa án tư, do ý chí đôi bên tranh chấp. Vì vậy, Trọng Tài là Tòa án
tư, cạnh tranh với Tòa án nhà nước2
Theo Nguyễn Ngọc Điệp, trong 1200 thuật ngữ pháp lý Việt Nam thì: Trọng Tài
quốc tế là cơ quan xét xử do các bên lập ra trên cơ sở thỏa thuận (hiệp định về Trọng
Tài) để giải quyết tranh chấp. Trọng Tài chỉ là một cá nhân hoặc một hội đồng.
Quyết định của Trọng Tài có giá trị pháp lý bắt buộc đối với các bên tranh chấp.
Trọng Tài thương mại là một tổ chức xã hội nghề nghiệp được tổ chức dưới hai

Trung

hình thức: Trọng Tài thường trực và Trọng Tài vụ việc.Trọng Tài là quá trình giải
quyết tranh chấp do các bên tự nguyện lựa chọn, trong đó bên thứ ba trung lập

tâm
HọcTàiliệu
Cần
Thơ
@ trình
Tài bày,
liệusẽhọc
vàđịnh
nghiên
(Trọng
viên)ĐH
sau khi
nghe
các bên
ra mộttập
quyết
có tính cứu
chất
bắt buộc đối với các bên tranh chấp3.
Như vậy, Trọng Tài thương mại là cơ quan xét xử do các bên đương sự thỏa
thuận thành lập để giải quyết tranh chấp giữa các bên đương sự đó. Trong quá trình
giải quyết tranh chấp, các bên phải tôn trọng quy tắc tố tụng và phán quyết của
Trọng Tài. Về cơ bản, phán quyết của Trọng Tài vẫn đầy đủ thủ tục như một bản án
và có giá trị bắt buộc thi hành.
1.1.1.2. Phân loại:
Ở Việt Nam, Trọng Tài chỉ được thừa nhận dưới hình thức phi Chính phủ. Trọng
Tài phi Chính phủ gồm 2 loại: Trọng Tài đơn vụ (Trọng Tài ad- hoc) và Trọng Tài
thường trực (hay còn gọi là Trọng Tài quy chế)4. Trọng Tài đơn vụ là Trọng Tài
được các bên đương sự thỏa thuận thành lập để giải quyết một vụ việc cụ thể có
tranh chấp; Trọng Tài viên là bất kỳ, người nào mà các bên chấp nhận và có đủ các

2

Xem: Trọng Tài thương mại quốc tế- Nhà lập pháp Việt Nam năm 1989- trang 72.

3

Xem: Black’s Law Dictionary- West Pub. Co. 1991.

4

Xem: Điều 4 Pháp Lệnh Trọng Tài thương mại năm 2003.

SVTH: Trần Vũ Tính

Trang 6


Trọng Tài thương mại- Lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

điều kiện do các bên chấp nhận và có đủ các điều kiện do Pháp Luật quy định,
không phụ thuộc vào danh sách Trọng Tài viên của các tổ chức Trọng Tài, không có
sẳn quy tắc tố tụng cụ thể. Các bên đương sự tự quyết định thể thức thành lập Trọng
Tài đơn vụ và thủ tục giải quyết tranh chấp phù hợp với các quy định của Pháp Luật
quốc gia về Trọng Tài. Thông thường Trọng Tài đơn vụ gồm từ một đến ba loại
Trọng Tài viên. Sau khi giải quyết xong tranh chấp, Trọng Tài ad- hoc tự giải thể.
Khác với Trọng Tài đơn vụ, Trọng Tài thường trực được tổ chức dưới hình thức
trung tâm Trọng Tài, một tổ chức xã hội nghề nghiệp, theo trình tự, thủ tục do Pháp
Luật quốc gia quy định, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có điều lệ tổ chức và hoạt động,
có danh sách Trọng Tài viên và bản quy tắc tố tụng định sẳn của mình. Các trung
tâm Trọng Tài có thể đứng riêng, hoàn toàn độc lập, nhưng cũng có thể nằm bên

cạnh các tổ chức khác như các hiệp hội nghề nghiệp, các phòng thương mại, các
phòng thương mại và công nghiệp quốc gia.
Hiện nay trên thế giới cả Trọng Tài ad- hoc và Trọng Tài thường trực đều được
sử dụng rộng rãi trong việc giải quyết các tranh chấp trong sản xuất, kinh doanh. Ở
Việt Nam, Pháp Luật hiện hành không quy định việc chấp nhận hay không chấp
nhận Trọng Tài ad- hoc. Trên thực tế các nhà kinh doanh Việt Nam cũng chưa bao
giờ sử dụng loại Trọng Tài này để giải quyết tranh chấp.

Trung tâm Học
liệuđiểm
ĐHcủa
Cần
Thơ
@ Tàimại:
liệu học tập và nghiên cứu
1.1.2. Đặc
Trọng
Tài thương
Trọng Tài thương mại là biện pháp lựa chọn rất phổ biến để giải quyết tranh chấp
trong nền kinh tế hiện nay ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Ở những nước khác
nhau có những đặc điểm kinh tế xã hội và tập quán Pháp Luật khác nhau, do đó, việc
tổ chức Trọng Tài thương mại ở các nước cũng rất khác nhau. Tuy nhiên, dù được tổ
chức dưới nhiều hình thức, tên gọi khác nhau nhưng nhìn chung các tổ chức Trọng
Tài thương mại đều có những đặc điểm chung như sau:
Thứ nhất, các tổ chức Trọng Tài thương mại đều là một tổ chức phi Chính phủ,
hoạt động mang tính nghề nghiệp. Nó không nằm trong bộ máy nhà nước, chính vì
thế Trọng Tài thương mại không mang tính quyền lực nhà nước.
Thứ hai, các tổ chức Trọng Tài thương mại thường được lập trên sáng kiến và sự
tự nguyện của các Trọng Tài viên. Như vậy có nghĩa là, chỉ những Trọng Tài viên
mới có thể là thành viên của tổ chức Trọng Tài thương mại. Các Trọng Tài viên khi

có đầy đủ các điều kiện theo quy định của Pháp Luật, trên cơ sở tự nguyện họ tham
gia thành lập một tổ chức Trọng Tài thương mại. Hoạt động của tổ chức Trọng Tài
dựa trên cơ sở tự cân đối thu chi, áp dụng nguyên tắc tự hạch toán, dựa trên uy tín là
chủ yếu.

SVTH: Trần Vũ Tính

Trang 7


Trọng Tài thương mại- Lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

Thứ ba, tuy là một tổ chức phi Chính phủ nhưng hoạt động của Trọng Tài có sự
quản lý của nhà nước. Có nghĩa là, trong quá trình giải quyết tranh chấp của mình
Trọng Tài cần có sự hỗ trợ rất lớn từ phía Tòa án để Trọng Tài có thể thực hiện chức
năng giải quyết tranh chấp của mình một cách tốt nhất. Ngoài ra, một trong những
nội dung quan trọng của việc quản lý nhà nước đối với hoạt động Trọng Tài là việc
phê chuẩn điều lệ của tổ chức, hoạt động Trọng Tài cũng như quy định về tiêu chuẩn
của Trọng Tài viên.
Thứ tư, các Trọng Tài viên chủ yếu là các luật gia. Có thể nói ngoài bộ phận chủ
yếu là các luật gia thì thành phần thương gia là cơ sở cho việc hình thành và hoạt
động của các tổ chức Trọng Tài. Nhiều tổ chức Trọng Tài trên thế giới được thành
lập là dựa trên sáng kiến của các thương gia.
1.1.3. Vai trò của Trọng Tài thương mại:
Trong quá trình phát triển kinh tế hiện nay, cùng với xu thế toàn cầu hóa thương
mại, Trọng Tài thương mại đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế
nói chung và thực tiễn giải quyết tranh chấp nói riêng. Vai trò của Trọng Tài thương
mại cụ thể là:

Trung


- Trong môi trường kinh tế thị trường, các nhà kinh doanh với mục đích tìm
kiếm lợi nhuận cao, cùng với sự đòi hỏi bí mật trong kinh doanh cũng như sự nhanh
tâm
Học
ĐHtranh
Cầnchấp
Thơ
@ Tài
tập
và nghiên
chóng
khiliệu
giải quyết
mà Trọng
Tài liệu
thươnghọc
mại là
phương
thức tối ưucứu

họ lựa chọn.
- Một vai trò không kém phần quan trọng nữa của Trọng Tài thương mại chính
là giảm bớt các gánh nặng cho các Tòa án kinh tế. Việc ra đời của các tổ chức Trọng
Tài thương mại cũng chính là tạo ra cơ chế thi đua giữa Tòa án và Trọng Tài thương
mại trong sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần cũng như đáp ứng
nhu cầu giải quyết tranh chấp trong kinh doanh ngày càng tăng cao.
- Đảm bảo cho các nhà kinh doanh thực hiện quyền tự do kinh doanh mà ở đây
cụ thể là quyền tự do lựa chọn cơ quan tài phán.
- Ngoài ra, việc hoàn thiện Pháp Luật Trọng Tài thương mại đóng vai trò quan

trọng và vô cùng to lớn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
tranh chấp. Trọng Tài thương mại ngày càng khẳng định vị thế ưu việt của mình
trong môi trường toàn cầu hóa kinh tế như hiện nay.
Tóm lại, Trọng Tài là cơ quan giải quyết tranh chấp rất ưa dùng đối với các nhà
sản xuất, kinh doanh, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, thương mại quốc tế. Trọng Tài
góp phần giải quyết nhanh gọn và hiệu quả các tranh chấp nhằm ổn định và thúc đẩy
sản xuất kinh doanh trong từng nước và cả trên phạm vi quốc tế. Ở nước ta, việc mở

SVTH: Trần Vũ Tính

Trang 8


Trọng Tài thương mại- Lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

rộng khả năng, cơ hội cho các nhà sản xuất, kinh doanh sử dụng Trọng Tài để giải
quyết các tranh chấp thương mại sẽ thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt Nam vào
cộng đồng quốc tế, tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh sự
phát triển kinh tế xã hội.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của Trọng Tài thương mại Việt Nam:
1.2.1. Sự cần thiết phải thành lập Trọng Tài ở Việt Nam:
Ở hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có nền kinh tế thị trường
phát triển, Trọng Tài là cơ quan xét xử có tính chất phi Chính phủ, là tổ chức xã hội
– nghề nghiệp, bởi lẽ, nếu biến thành cơ quan xét xử của nhà nước thì nó không còn
là Trọng Tài nữa.
Ở các nước xã hội trước khi Liên Xô tan rã, các tổ chức Trọng Tài phi chính phủ
như hội đồng Trọng Tài ngoại thương và hội đồng Trọng Tài hàng hải nằm bên cạnh
phòng thương mại và công nghiệp của mỗi nước được thành lập chỉ để giải quyết
các tranh chấp kinh tế đối ngoại. Để giải quyết các tranh chấp kinh tế trong nội bộ
quốc gia, các nước này thành lập hệ thống cơ quan được gọi là “Trọng Tài kinh tế

nhà nước”. Các cơ quan Trọng Tài kinh tế nhà nước này thực chất là các cơ quan xét

Trung

xử của nhà nước tồn tại song song với Tòa án.
Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp,
tâm
Học
ĐH trực
Cần
@ Tài
họckinh
tậpdoanh
và nghiên
cứu
động liệu
sản xuất,
của các doanh
nhà nước liệu
can thiệp
tiếpThơ
vào hoạt
nghiệp, thực hiện sự chỉ huy thống nhất cao độ từ trung ương thì sự ra đời và tồn tại
của Trọng Tài kinh tế nhà nước là cần thiết và tất yếu. Song một khi đã từ bỏ cơ chế
quản lý cũ, chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thì
Trọng Tài kinh tế nhà nước không còn lý do để tồn tại.
Bước ngoặc năm 1986, tại nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, nhà nước
ta đã vạch ra đường lối đổi mới chủ trương chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của nhà
nước. Sự chuyển hướng này được hiến pháp ghi nhận như là một nguyên tắc biến

định: “Nhà nước phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN” (Điều 15 hiến pháp 1992). Cùng với
sự mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, đã tạo nên một môi trường kinh tế đa dạng và
phức tạp.
Chính vì thế các quan hệ kinh tế cũng trở nên sống động và phức tạp, lợi nhuận
trở thành động lực thúc đẩy các bên tham gia quan hệ kinh tế. Lúc này, khi số lượng
các chủ thể quan hệ kinh tế tăng lên, sự tự do thương mại ngày càng phong phú thì
bất đồng, tranh chấp giữa các chủ thể tham gia quan hệ kinh tế là điều khó tránh

SVTH: Trần Vũ Tính

Trang 9


Trọng Tài thương mại- Lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

khỏi. Các tranh chấp kinh doanh vì thế ngày càng nhiều về số lượng, đa dạng về loại
hình và chủ thể. Từ những thực tế, việc cải cách Pháp Luật là cần thiết và cấp bách,
cần tạo một môi trường pháp lý dân chủ cho sự phát triển của tất cả các thành phần
kinh tế.
Thực tiễn của Việt Nam thời gian qua cũng như thực tiễn của các nước trên thế
giới cho thấy rằng, trong kinh tế thị trường không thể tồn tại một loại cơ quan xét xử
nửa Tòa án, nửa Trọng Tài; các nhà kinh doanh rất cần một cơ chế thật sự “thoáng
hơn” để xử lý nhanh và có hiệu quả các tranh chấp phát sinh trong kinh doanh nhằm
đáp ứng yêu cầu thu hồi vốn nhanh, để tiếp tục kinh doanh sớm ổn định các mối
quan hệ để phát triển khả năng kinh doanh sinh lợi của mình.
Với nhận thức đúng đắn về yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN trong quá trình tổ chức và hoạt động của Trọng Tài phi Chính phủ, nhà nước
ta đã quyết định giải thể hệ thống Trọng Tài kinh tế nhà nước từ trung ương đến địa
phương, tiến hành bổ sung, sửa đổi một số điều của Luật tòa án nhân dân; để thành

lập tòa kinh tế tại các Tòa án nhân dân.
Một lý đo đáng kể cho sự cần thiết phải có Trọng Tài phi Chính phủ là khi

Trung

chuyển sang một nền kinh tế thị trường mở cửa, tự do thương mại, Trọng Tài nhà
nước ngày càng bộc lộ nhiều nhược điểm cụ thể là:
tâm Học
CầnnhàThơ
liệunăng
học
vàtranh
nghiên
cứu
cơ quan
nước,@
tuyTài
có chức
xét tập
xử các
chấp nhưng
- Doliệu
là mộtĐH
tổ chức này không thể hoạt động khách quan và có hiệu quả, do tính chất “vừa đá
bóng, vừa thổi còi” cùng một lúc đảm đương hai chức năng vừa quản lý các doanh
nghiệp nhà nước vừa giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau.
- Bên cạnh đó, xét về thẩm quyền và thủ tục xét xử thì Trọng Tài nhà nước
hoạt động có vẻ giống như hoạt động của Tòa án. Giữa hai cơ quan này không có sự
phân biệt cơ bản giữa bản chất tự nguyện của Trọng Tài và tính bắt buộc của Tòa án.
Hơn thế nữa, giải quyết tranh chấp bằng Trọng Tài theo nguyên tắc cơ bản là dựa

trên sự thỏa thuận giữa các bên tranh chấp, nhưng đối với Trọng Tài kinh tế nhà
nước, mối quan hệ giữa Trọng Tài và các bên tranh chấp là dựa trên kế hoạch của
nhà nước. Có thể nói, Trọng Tài kinh tế nhà nước lúc này hoạt động vừa mang tính
chất của một tổ chức Trọng Tài vừa có chức năng của một Tòa án.
- Nhược điểm của Trọng Tài nhà nước còn ở khả năng thi hành các quyết định
Trọng Tài. Xét dưới góc độ lý luận, mục tiêu mà các bên tranh chấp khi lựa chọn
phương pháp Trọng Tài là mong muốn đạt được nhanh chóng một quyết định giải
quyết cũng như hiệu lực ràng buộc của các quyết định đối với các bên tranh chấp.
Bằng phương pháp này, các bên hy vọng quyền và lợi ích của họ được bảo vệ một

SVTH: Trần Vũ Tính

Trang 10


Trọng Tài thương mại- Lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

cách tốt nhất. Nhưng kết quả không theo ý muốn của họ, khi mà quyết định của
Trọng Tài không có hiệu lực thi hành, mục tiêu không đạt được đã tạo nên tâm lý
mất sự tin tưởng của các bên tranh chấp đối với phương pháp này.
- Nhược điểm đáng kể, do hệ quả của nền kinh tế bao cấp, thẩm quyền xét xử
của Trọng Tài thương mại nhà nước giới hạn trong phạm vi tranh chấp của các
doanh nghiệp nhà nước. Trong khi đó, do sự phát triển của nền kinh tế, doanh
nghiệp tư nhân ngày càng phát triển, nhu cầu giải quyết tranh chấp giữa các doanh
nghiệp này tăng nhanh. Vấn đề được đặt ra, tổ chức nào có thẩm quyền để giải quyết
các tranh chấp tư nhân này.
Qua thực tế nêu trên, Trọng Tài kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường
đã tỏ ra không phù hợp với nhiều nhược điểm. Có thể nói, tổ chức Trọng Tài như thế
chỉ phù hợp với nền kinh tế tập trung, mệnh lệnh và quan liêu. Với một nền kinh tế
tự do thương mại, đa dạng về loại hình kinh doanh cũng như chủ thể tham gia quan

hệ kinh tế thì đòi hỏi cần phải có một tổ chức phù hợp hơn, uyển chuyển và linh hoạt
trong phương thức giải quyết tranh chấp, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các
nhà kinh doanh trong giải quyết tranh chấp.

Trung

Thứ ba, việc ra đời của tổ chức Trọng Tài phi Chính phủ là rất cần thiết trong
việc san sẻ gánh nặng cho Tòa án kinh tế. Hơn thế nữa, do tính chất bí mật cũng như
tâm
liệu chóng
ĐH Cần
Thơdoanh
@ Tài
liệu học
vàkhông
nghiên
nhuHọc
cầu nhanh
trong kinh
mà phương
pháp tập
Tòa án
được cứu
giới
kinh doanh ưa chuộng. Từ thực tiễn của việc giải quyết tranh chấp, khi có tranh chấp
xãy ra, các bên tranh chấp thường tự thương lượng với nhau và đi đến thỏa hiệp.
Ngoài ra, thủ tục giải quyết bằng Tòa án còn quá phức tạp, rườm rà không thể đáp
ứng được đòi hỏi của các nhà kinh doanh. Trọng Tài phi Chính phủ vẫn là yêu cầu
thiết yếu trong nền kinh tế mới chuyển hướng của Việt Nam.
Cuối cùng, so với những phương thức giải quyết tranh chấp khác thì Trọng Tài

thương mại bộc lộ nhiều ưu điểm (như đã trình bày ở phần trước). Tuy hình thức
thương lượng và hoà giải là những phương thức giải quyết tranh chấp được nhà
nước khuyến khích sử dụng, nhưng nhìn chung giá trị của các phương thức này còn
chưa cao. Do là một phương thức không có quy định của Pháp Luật ràng buộc,
không có một thủ tục rõ ràng, nên có rất nhiều cách hiểu và cách vận dụng khác
nhau. Chính vì thế, chúng cũng không là phương pháp lựa chọn tối ưu của doanh
nghiệp khi phát sinh tranh chấp trong kinh doanh.
Rõ ràng, từ những điều trên, việc ra đời của một tổ chức Trọng Tài phi Chính
phủ ở Việt Nam là một thực tế khách quan đáp ứng được yêu cầu quan trọng của
nguyên tắc pháp chế XHCN, góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế xã hội, tạo

SVTH: Trần Vũ Tính

Trang 11


Trọng Tài thương mại- Lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

một môi trường pháp lý thông thoáng, tạo sự an tâm cho các doanh nghiệp kinh
doanh.
1.2.2. Lịch sử hình thành của Trọng Tài thương mại Việt Nam:
1.2.2.1. Trọng Tài trong nước:
So với lịch sử hình thành Trọng Tài thương mại ở một số nước trên thế giới thì
Trọng Tài thương mại ở Việt Nam là rất non trẻ. Do những điều kiện về kinh tế,
chính trị, xã hội rất đặc thù của nhà nước và Pháp Luật Việt Nam mà Trọng Tài
thương mại Việt Nam được thành lập khá muộn.
Điểm mốc cho sự ra đời của Trọng Tài thương mại có thể tính là mãi đến năm
1960 khi nhà nước ta cơ bản cải tạo xong nền kinh tế và bắt đầu xây dựng nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa với hai thành phần kinh tế là: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập
thể. Sự ra đời của Trọng Tài thương mại gắn liền với sự hình thành cơ chế hợp đồng

kinh tế, và chính cơ chế này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc thành lập một tổ chức
giải quyết tranh chấp đầu tiên ở Việt Nam, với tên gọi là Trọng Tài kinh tế nhà nước
theo tinh thần Nghị Định 04/TTg ngày 1/04/1960. Và 10 ngày sau, ngày 14/4/1960
Nghị Định 20/TTg về tổ chức ngành Trọng Tài kinh tế đã được ban hành. Nhìn

Trung

chung, các hoạt động Trọng Tài thời kỳ này được thành lập xuất phát từ nhu cầu
quản lý một nền kinh tế kế hoạch nói chung và cơ chế hợp đồng kinh tế nói riêng. Ở
tâm
ĐHhộiCần
liệu với
học
tập làvàcơnghiên
đồng Thơ
Trọng @
Tài Tài
hoạt động
tư cách
quan lâm cứu
thời
giaiHọc
đoạn liệu
này, các
hoạt động với quy chế tạm thời của nó.
Để đảm bảo cho hoạt động có hiệu quả của cơ quan Trọng Tài, Chính phủ đã ban
hành một loạt các Nghị Định như: Nghị Định số 23/CP ngày 23/2/1962, Nghị Định
số 47/CP ngày 13/3/1974 để giải quyết các nguyên tắc các hội đồng Trọng Tài kinh
tế ở trung ương, các Tỉnh và các Bộ, mở rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng Tài
trong việc giải quyết cả các tranh chấp phát sinh giữa các đơn vị kinh tế đóng trên

địa bàn phụ trách.
Do sự phát triển của nền kinh tế, cụ thể là nhu cầu cần phải hoàn thiện cơ chế của
hợp đồng kinh tế, Chính phủ ban hành Nghị Định số 75/CP ngày 14/4/1975 nhằm
đổi tên hội đồng Trọng Tài kinh tế nhà nước thành Trọng Tài kinh tế nhà nước với
nhiệm vụ và quyền hạn là giám sát việc thi hành các hợp đồng kinh tế được ký kết
giữa các doanh nghiệp nhà nước và giải quyết tranh chấp giữa họ với nhau. Tiếp đó,
Nghị Quyết số 24/HĐBT ngày 10/8/1981 và nghị định số 62/HĐBT ngày 14/4/1984
được ban hành về ngạch của Trọng Tài viên.
Cuối cùng, tổ chức Trọng Tài kinh tế nhà nước được hoàn thiện theo Pháp Lệnh
Trọng Tài kinh tế ban hành ngày 10/1/1990. Theo Pháp Lệnh này, Trọng Tài kinh tế

SVTH: Trần Vũ Tính

Trang 12


Trọng Tài thương mại- Lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

nhà nước được thành lập như là cơ quan nhà nước có chức năng giải quyết các tranh
chấp phát sinh từ hợp đồng kinh tế, ngoài ra kiêm luôn trách nhiệm giúp đỡ Chính
phủ trong công tác quản lý hoạt động kinh tế.
Tuy nhiên, do nhu cầu phát triển của nền kinh tế mà tháng 7/1994 tổ chức Trọng
Tài này bị giải thể, các chức năng của Trọng Tài kinh tế nhà nước được chuyển giao
cho Tòa kinh tế trong hệ thống Tòa án nhân dân. Và đánh dấu một bước phát triển
mới của nền kinh tế chuyển từ nền kinh tế tập trung, mệnh lệnh sang nền kinh tế thị
trường, sự ra đời của tổ chức Trọng Tài phi Chính phủ theo Nghị Định 116/CP ngày
5/9/1994 là một thực tế chứng minh. Theo Nghị Định này, các trung tâm Trọng Tài
kinh tế được tổ chức dưới hình thức là một tổ chức xã hội nghề nghiệp (tổ chức phi
Chính phủ). Đây là lần đầu tiên, Pháp Luật Việt Nam quy định cho một tổ chức
không phải nhà nước được giao thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo yêu cầu và

theo sự thỏa thuận của các bên tranh chấp (mà trước đây đều thuộc thẩm quyền của
các cơ quan nhà nước). Tổ chức Trọng Tài kinh tế theo tinh thần của Nghị Định này
được thành lập bởi các Trọng Tài viên tư nhân, họ sẽ tự thiết lập điều lệ và quy tắc
của mình trên cơ sở tuân theo quy định của Pháp Luật.

Trung

Nhìn chung, so với sự phát triển chung của các tổ chức Trọng Tài trên thế giới và
quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam trong những năm gần đây thì các trung tâm
tâm
Học
ĐH
Cần
@ Tài
liệuviệchọc
Tàiliệu
kinh tế
không
thể Thơ
đảm đương
nổi cho
giải tập
quyếtvà
các nghiên
tranh chấp cứu
cho
Trọng
nhu cầu phát triển kinh tế của Việt Nam, và do nhiều nguyên nhân mà Pháp Luật
Trọng Tài ở Việt Nam cần có sự thay đổi cho phù hợp.
Và hiện nay, việc ra đời của Pháp Lệnh Trọng Tài thương mại năm 2003 là rất

phù hợp và cần thiết trong quá trình phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam,
Pháp Lệnh đã khắc phục được những điểm bất cập, chồng chéo, mâu thuẫn về Trọng
Tài đồng thời đáp ứng được yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới.
1.2.2.2. Trọng Tài quốc tế Việt Nam:
Trước khi có Quyết Định 204/TTg ngày 28/4/1993, các tranh chấp thương mại
quốc tế ở Việt Nam do hội đồng Trọng Tài ngoại thương và hội đồng Trọng Tài
hàng hải giải quyết. Đây là hai tổ chức được thành lập bên cạnh phòng thương mại
và công nghiệp Việt Nam. Nhìn tổng thể quá trình phát triển của Trọng Tài thương
mại quốc tế Việt Nam, ta có thể chia thành hai giai đoạn mà trong đó nhà nước đã có
những chủ trương khác nhau giữa hai thời kỳ.

SVTH: Trần Vũ Tính

Trang 13


Trọng Tài thương mại- Lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

+ Thời kỳ 1960 – 1993:
Đây là thời kỳ nhà nước kiểm soát mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, các
giao dịch thương mại quốc tế cũng nằm trong phạm vi kiểm soát chặt chẽ của nhà
nước. Trong thời kỳ này, phần lớn các hoạt động giao dịch thương mại quốc tế đều
do nhà nước tiến hành thông qua các doanh nghiệp, tổ chức nhà nước, chỉ có một ít
các hãng tư nhân được tham gia các hoạt động ngoại thương nhưng phải chịu sự
kiểm soát chặt chẽ của nhà nước. Nhìn chung, trong khoảng thời gian này giao dịch
ngoại thương của Việt Nam chủ yếu là với các nước xã hội chủ nghĩa trước đây.
Trong bối cảnh như thế, Trọng Tài thương mại quốc tế Việt Nam hình thành do
nhu cầu của việc giải quyết tranh chấp kinh tế quốc tế phát sinh từ các hoạt động
ngoại thương giữa Việt Nam và các nước trong hội đồng tương trợ kinh tế. Các chủ

thể tham gia hoạt động kinh tế chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước
Việt Nam lúc bấy giờ, theo sự phát triển chung của khối nhà nước xã hội chủ nghĩa,
xây dựng Trọng Tài thương mại quốc tế theo mô hình của Liên Xô cũ, thành lập hai
hội đồng Trọng Tài là hội đồng Trọng Tài ngoại thương ngày 30/4/1963 và hội đồng
Trọng Tài thương mại hàng hải ngày 5/10/1964 bên cạnh phòng thương mại và công

Trung

nghiệp Việt Nam.
+ Hội đồng Trọng Tài ngoại thương: là một tổ chức phi chính phủ được thành
tâm
Học
liệuĐịnh
ĐHsốCần
Tài liệu
họcnăng
tậpgiải
vàquyết
nghiên
cứu
59/CPThơ
ngày @
30/4/1963
với chức
tranh chấp
lập theo Nghị
phát sinh giữa một bên Việt Nam với một bên nước ngoài về hợp đồng giao dịch
ngoại thương. Đó là các tranh chấp liên quan đến thanh toán, trao đổi hàng hóa, vận
chuyển hàng hóa, bảo hiểm … khi có ít nhất một trong các bên đương sự cư trú
ngoài lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, đây là giai đoạn mà các giao dịch quốc tế chủ

yếu nằm trong phạm vi kiểm soát chặt chẽ của nhà nước và giao dịch chủ yếu là với
các nước xã hội chủ nghĩa (chiếm khoảng 75% kim ngạch ngoại thương). Nhìn
chung, thẩm quyền của hội đồng Trọng Tài ngoại thương chỉ hạn chế đối với các
giao dịch ngoại thương. Hoạt động xét xử của hội đồng Trọng Tài này chủ yếu đối
với các tranh chấp giữa các tổ chức, cá nhân kinh tế Việt Nam với tổ chức, cá nhân
kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa trong phạm vi thi hành hiệp định.
+ Hội đồng Trọng Tài hàng hải: là một tổ chức Trọng Tài phi Chính phủ ra đời
theo Quyết Định 135/CP của Chính phủ Việt Nam ngày 5/10/1964. Nhìn chung, hội
đồng Trọng Tài hàng hải có điều lệ và quy tắc hoạt động giống như hội đồng Trọng
Tài ngoại thương, sự khác nhau giữa hai hội đồng Trọng Tài này chỉ là ở thẩm
quyền. Theo diều 2 điều lệ của hội đồng Trọng Tài hàng hải, hội đồng Trọng Tài
hàng hải có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về các vấn đề giao thông vận tải

SVTH: Trần Vũ Tính

Trang 14


Trọng Tài thương mại- Lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

đường biển khi có ít nhất một bên chủ thể tham gia là nước ngoài như: Việc thuê
tàu, vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, công tác đại lý tàu biển, bảo hiểm hàng
hải, … Giống như hội đồng Trọng Tài ngoại thương. Hội đồng Trọng Tài hàng hải
không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh về hợp đồng dân sự hoặc
kinh tế do các cá nhân hoặc tổ chức Việt Nam ký kết cả về tranh chấp đầu tư.
Nhìn chung, thì phán quyết của hai hội đồng Trọng Tài đều có giá trị chung
thẩm, không thể bị kháng cáo tại Tòa án hay bất kỳ một tổ chức nào.
Qua thực tế, hoạt động Trọng Tài trong thời kỳ năm 1960 đến năm 1989 cả hai
hội đồng Trọng Tài có rất ít vụ việc để giải quyết. Hay nói cách khác, các tổ chức
này tồn tại với tư cách là một tổ chức Trọng Tài quốc tế xã hội chủ nghĩa. Chính vì

thế, các tranh chấp về ngoại thương và hàng hải là rất ít hoặc có tranh chấp thì các
bên đối tác thường giải quyết tranh chấp bằng thương lượng hoặc hòa giải nhân
nhượng lẫn nhau. Hơn thế nữa, tình hình kinh tế phát triển do chính sách đổi mới
của Đảng và nhà nước cùng với chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
những năm 80, hoạt động kinh tế Việt Nam phát triển, Việt Nam tiến hành mua bán,
quan hệ không còn giới hạn trong các nước xã hội chủ nghĩa và mở rộng ra nhiều

Trung

nước trên thế giới. Chính vì thế giao dịch ngoại thương tăng lên tất yếu sẽ làm gia
tăng số lượng tranh chấp giữa Việt Nam và các doanh nghiệp nước ngoài. Từ nhu
tâm
liệu
Cần
@ này
Tàiđược
liệuxem
học
tập và nghiên cứu
cầuHọc
như thế,
vấnĐH
đề hợp
nhất Thơ
lại tổ chức
xét đến.
+ Giai đoạn từ năm 1993 đến trước khi có Pháp Lệnh Trọng Tài thương mại
ra đời:
Kể từ năm 1980, sự gia tăng của đầu tư vào Việt Nam và nhu cầu giao dịch Việt
Nam tăng cao, đòi hỏi phải có một tổ chức thích hợp để giải quyết tranh chấp

thương mại quốc tế. Ngày 28/4/1993 Chính phủ đã ban hành Quyết Định 204/TTg
thành lập trung tâm Trọng Tài quốc tế Việt Nam (VIAC) đặt bên cạnh phòng thương
mại và công nghiệp Việt Nam trên cơ sở hợp nhất hội đồng Trọng Tài ngoại thương
và hội đồng Trọng Tài hàng hải. Đây là một bước phát triển của Trọng Tài thương
mại Việt Nam, được xem như là một sự chuyển đổi thực chất là một tổ chức Trọng
Tài chưa hẳn là phi Chính phủ sang một tổ chức phi Chính phủ.
Tuy nhiên, do nhu cầu phát triển và thu hút các doanh nghiệp mà trung tâm đã ra
Quyết Định số 114-TTg ngày 16/2/1992 cho phép trung tâm VIAC có thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh doanh trong nước. Và đây
chính là cơ sở mà Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam thông qua quy tắc tố
tụng Trọng Tài trong nước của trung tâm Trọng Tài thương mại quốc tế Việt Nam
ngày 25 và 26/3/1996. Tóm lại, Trọng Tài thương mại ở Việt Nam tuy xuất hiện khá

SVTH: Trần Vũ Tính

Trang 15


Trọng Tài thương mại- Lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

muộn nhưng vẫn mang bản chất của xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, ngay từ khi mới
thành lập, Trọng Tài thương mại Việt Nam đã thiếu một hệ thống các quy định
thống nhất về Trọng Tài hay một Luật quốc gia về Trọng Tài, và được nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan, các quy định Pháp Luật về Trọng Tài ở nước ta chưa
hoàn thiện.
Hiện nay, dưới góc độ của một nền kinh tế thị trường, Trọng Tài thương mại
Việt Nam đã bắt đầu thay đổi chiều hướng phù hợp với thông lệ quốc tế, pháp lệnh
Trọng Tài thương mại Việt Nam đã ra đời và có hiệu lực thi hành vào ngày 1/7/2003
sẽ tạo ra một bước phát triển mới trong giải quyết tranh chấp bằng Trọng Tài ở Việt
Nam.

1.3. Sơ lược Trọng Tài thương mại so với các hình thức giải quyết tranh
chấp:
Trong môi trường kinh tế đa dạng và phức tạp, các nhà kinh doanh khi tham gia
quan hệ thương mại trong mối quan hệ vừa cạnh tranh vừa hợp tác với mục đích thu
về lợi nhuận tối đa. Chính vì thế, việc tranh chấp trong quá trình kinh doanh là điều
không tránh khỏi, hơn thế nữa nó còn gay gắt hơn về mức độ tranh chấp cũng như

Trung

phức tạp hơn về nội dung. Việc có các phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh là một tất yếu khách quan, với mục đích bảo vệ quyền lợi của các bên tranh
tâm
Học
ĐH giữ
Cần
cũngliệu
như nhằm
vữngThơ
và ổn@
địnhTài
nền liệu
kinh tế.học tập và nghiên cứu
chấp
Tranh chấp được hiểu là sự bất đồng ý kiến của các bên cùng tham gia quan hệ
về một vấn đề cụ thể. Tranh chấp kinh tế có thể hiểu là sự bất đồng ý kiến của các
chủ thể cùng tham gia quan hệ kinh tế về quyền và lợi ích kinh tế.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh theo nghĩa chung nhất có thể được hiểu là cách
thức, phương pháp hay các hoạt động để điều chỉnh các bất đồng, các xung đột
nhằm khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát sinh, nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh, bảo vệ trật tự và kỷ cương của xã hội.

Nhìn chung, Pháp Luật thương mại trên thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay
đều đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các nhà kinh doanh mà trong đó cụ thể là
quyền tự do lựa chọn cơ quan tài phán khi có tranh chấp xãy ra. Nhà nước luôn chủ
trương khuyến khích các bên tranh chấp tự giải quyết với nhau, sau đó mới hướng
các bên đến phương thức tài phán để bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi có tranh
chấp xãy ra. Hiện nay, ở thế giới cũng như ở Việt Nam có nhiều phương thức có thể
áp dụng để giải quyết tranh chấp kinh tế, trong đó có các phương thức cơ bản
thường được áp dụng bao gồm: Thương lượng, hòa giải, giải quyết tranh chấp bằng
Trọng Tài và giải quyết tranh chấp bằng Tòa án.

SVTH: Trần Vũ Tính

Trang 16


Trọng Tài thương mại- Lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

1.3.1. Thương lượng trực tiếp:
Thương lượng trực tiếp là hình thức các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc và đi
đến thỏa thuận một các thức giải quyết tranh chấp mà không cần sự tác động hay
giúp đỡ của người thứ ba.
Đặc điểm cơ bản của thương lượng là các bên cùng nhau trình bày quan điểm,
tìm ra các biện pháp thích hợp, trên cơ sở đó đi đến thống nhất để giải quyết các bất
đồng.
Thông thường, khi bắt đầu phát sinh tranh chấp, các bên thường cố gắng tìm
cách thương lượng trực tiếp với nhau để giải quyết các bất đồng với mục đích là giữ
gìn mối quan hệ kinh doanh lâu dài và tốt đẹp giữa họ.
Xét về lịch sử, thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp có sớm nhất
trong lịch sử loài người, và hiện nay nó là phương pháp khá phổ biến được các nước
trên thế giới quan tâm, kể cả các nước có nền kinh tế phát triển hay các nước xã hội

chủ nghĩa trong đó có Việt Nam.
Xét về mặt bản chất, thương lượng là hình thức khá phổ biến và thích hợp cho
việc giải quyết các tranh chấp. Đây là hình thức có tính chất đơn giản, ít tốn kém,

Trung

không làm phương hại đến các quan hệ hợp tác vốn có giữa các bên, giữ được các bí
mật kinh doanh lại không bị ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý. Thương lượng đòi
tâm
liệu
Cầnchí,Thơ
Tài
liệutác,
học
và nghiên
các bên
phảiĐH
có thiện
trung@
thực
và hợp
phảitập
có những
kiến thứccứu
cần
hỏiHọc
thiết về chuyên môn và Pháp Luật. Đối với các vụ việc phức tạp, mỗi bên có thể chỉ
định những chuyên gia có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp thay
mặt mình để tiến hành thương lượng. Để thương lượng thành công cần phải có sự
tham gia của các chuyên gia kinh tế kỹ thuật và các chuyên gia Pháp Luật trong các

vụ tranh chấp. Kết quản thương lượng thường là cam kết thỏa thuận về những giải
pháp cụ thể nhằm tháo gỡ những bất đồng phát sinh trước đó. Tuy nhiên, hình thức
thương lượng vẫn còn có một số nhược điểm. Đó la, hoạt động thương lượng ở nước
ta hiện nay vẫn hoàn toàn mang bản chất tự phát theo truyền thống mà chưa được
nghiên cứu, đánh giá một các có hệ thống để tổng kết thành lý luận.
Theo Pháp Luật thương mại Việt Nam, thương lượng là hình thức giải quyết
tranh chấp được lựa chọn trước tiên, sau đó mới đến các phương thức khác. Thương
lượng được xem là hình thức hòa giải được nhà nước khuyến khích sử dụng. Trong
thực tế, thương lượng có thể được tiến hành độc lập hoặc tiến hành cùng với quá
trình tố tụng. Tuy nhiên, cho đến nay chúng ta vẫn chưa có văn bản cụ thể để quy
định về hình thức này. Vì vậy, biện pháp này được coi là không chính thức và không

SVTH: Trần Vũ Tính

Trang 17


Trọng Tài thương mại- Lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

loại trừ được các hiện tượng tiêu cực xãy ra nhất là khi các doanh nghiệp nhà nước
tự thương lượng để giải quyết tranh chấp.
1.3.2. Hòa giải:
Là phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại có sự tham
gia của bên thứ ban độc lập do hai bên cùng chấp nhận hay chỉ định, đóng vai trò
trung gian nhằm hỗ trợ các bên tìm kiếm những giải pháp tốt đẹp cho việc giải quyết
xung đột. Trong các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thì hòa giải là
một phương pháp được các nà kinh doanh quan tâm nghiên cứu và sử dụng trong
hoạt động thực tiễn kinh doanh bởi các ưu điểm của nó.
- Hòa giải có thể đảm bảo bí mật trong kinh doanh hay trong nghề nghiệp,
bằng hòa giải: để giải quyết tranh chấp một cách thân thiện, không nhằm xác định

lỗi của các bên tranh chấp mà nhằm tiếp tục giữ gìn và phát triển các mối quan hệ
kinh doanh.
- Bằng hòa giải có thể tập trung sự chú ý và quan tâm của các bên vào vấn đề
chính, cơ bản của nội dung tranh chấp, hạn chế tối đa sự hao phí thời gian và tiền
bạc vào các vấn đề mang tính chất hình thức tố tụng.

Trung

- Bằng hòa giải để tăng cường sự tham gia trực tiếp và khả năng kiểm soát của
các nhà kinh doanh đối với quá trình giải quyết cũng như đối với kết quả giải quyết
tâm
Học
tranh
chấp.liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Theo Pháp Luật Việt Nam, hòa giải là một biện pháp giải quyết tranh chấp không
mang tính chất nghi thức, hòa giải một mặt được xem là “cánh tay nối dài” của thẩm
quyền Tòa án, mặt khác thì thoát khỏi các phương pháp chặt chẽ của Pháp Luật. Nếu
hòa giải thành công sẽ đạt được giải pháp là sự tự thỏa thuận giữa các bên để giải
quyết tranh chấp. So với hình thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa
giải có điểm khác là sự có mặt của bên thứ ba với tư cách là người trung gian để
giúp đỡ các bên tìm ra giải pháp. Mặc dù hòa giải cũng là một biện pháp mang tính
hiệu quả và được các nhà kinh doanh ưa chuộng để giải quyết tranh chấp nhưng hạn
chế là đến nay vẫn còn thiếu văn bản Pháp Luật điều chỉnh về lĩnh vực này. Cụ thể
là quy định về vai trò và trách nhiệm của người hòa giải, thủ tục, hình thức hòa giải,
quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia quá trình hòa giải. Có hai hình thức hòa
giải chủ yếu là hòa giải trong thủ tục tố tụng và hòa giải ngoài thủ tục tố tụng.
- Hòa giải ngoài thủ tục tố tụng là hòa giải qua trung gian được các bên tiến hành
trước khi đưa vụ tranh chấp ra cơ quan tài phán. Khi thống nhất được các hình thức
giải quyết tranh chấp, các bên phải thực hiện theo phương án đã thỏa thuận. Đối với


SVTH: Trần Vũ Tính

Trang 18


Trọng Tài thương mại- Lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

hòa giải ngoài tố tụng, nhiều quốc gia cho đây là công việc riêng tư giữa các bên nên
không điều chỉnh trực tiếp và chi tiết.
- Hòa giải trong tố tụng là hòa giải được tiến hành tại Tòa án hay Trọng Tài khi
các cơ quan này giải quyết tranh chấp theo yêu cầu của các bên. Người trung gian
hòa giải trong trường hợp này có thể là thẩm phán hoặc Trọng Tài viên phụ trách vụ
việc. Hòa giải trong tố tụng được coi là một giai đoạn trong quá trình giải quyết
tranh chấp bằng Tòa án hay Trọng Tài và chỉ có thể được tiến hành khi một bên có
đơn kiện đến Tòa án hay Trọng Tài và đơn này đã được thụ lý. Trong quá trình hòa
giải, thẩm phán hoặc Tọng Tài viên phải tôn trọng tính tự nguyện, tự do ý chí của
các bên. Khi các đơn sự đạt được sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh
chấp thì thẩm phán hoặc Trọng Tài viên lập biên bản hòa giải thành và ra quyết định
công nhận sự thỏa thuận của các đơn sự. Quyết định này có hiệu lực và được thi
hành như một bản án của Tòa án hay phán quyết của Trọng Tài.
1.3.3. Tòa án:
Khi áp dụng phương pháp thương lượng, hòa giải để giải quyết tranh chấp không
có hiệu quả, và các bên tranh chấp không thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết

Trung

tại Trọng Tài thì việc giải quyết sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa án. Giải quyết tranh
chấp bằng Tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp do cơ quan tài phán của nhà
tâm
Học

nước
thựcliệu
hiện. ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Ở các nước có nền kinh tế phát triển, bên cạnh tổ chức Trọng Tài phi Chính phủ
thì tòa thương mại cũng góp phần đáng kể trong việc giải quyết tranh chấp thương
mại. Theo Pháp Luật của một số nước, Tòa thương mại có thể tồn tại một cách độc
lập như một Tòa chuyên trách. Ví dụ như ở Pháp, thì Tòa thương mại tồn tại độc lập
với các Tòa án thường về mặc tổ chức và chỉ có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, thẩm
phán hầu hết là các thương gia giàu kinh nghiệm làm việc tình nguyện và không
hưởng lương. Theo Pháp Luật của cộng hòa liên bang Đức, tòa thương mại được
thành lập với tư cách là một tòa chuyên trách, có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp mà đương sự là thương gia. Ngoài ra, ở một số nước khác thì thẩm quyền giải
quyết tranh chấp thương mại được trao cho tòa dân sự trên cơ sở không có sự phân
biệt giữa tranh chấp dân sự và tranh chấp kinh tế.
Việc giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng Tòa án theo quy định của Pháp Luật
Việt Nam được giải quyết theo một hệ thống Tòa án, được tổ chức theo nhiệm vụ,
quyền hạn và phân cấp thẩm quyền. Tòa thương mại Việt Nam được thành lập là
một Tòa chuyên trách trong hệ thống các cơ quan Tòa án nhân dân, song song với
tòa dân sự, tòa hình sự … Chức năng chủ yếu của Tòa thương mại là xét xử các vụ

SVTH: Trần Vũ Tính

Trang 19


Trọng Tài thương mại- Lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

án kinh doanh, thương mại… Với vị trí độc lập về mặt tổ chức so với hệ thống cơ
quan quản lý nhà nước Tòa án có đủ các thẩm quyền để thi hành các phán quyết của
mình trong các điều kiện cần thiết.

1.3.4. Trọng Tài:
Trọng Tài vừa là một tổ chức xã hội nghề nghiệp (phi Chính phủ) thường được
tổ chức dưới hai hình thức: Trọng Tài thường trực (Trọng Tài quy chế) và Trọng Tài
theo vụ việc, vừa là một thể thức giải quyết tranh chấp do sự thỏa thuận lựa chọn của
các bên đối kháng.
Trọng Tài là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại khá phổ biến, được
sự ưa chuộng của các nhà kinh doanh ở các nước trên thế giới, đặc biệt là ở các nước
có nền kinh tế phát triển. Có thể nói, phương thức Trọng Tài là phương thức giải
quyết tranh chấp của nền kinh tế thị trường. Không có nước nào có nền kinh tế thị
trường mà lại không thừa nhận phương thức Trọng Tài.
Ở một số nước như: Đức, Pháp tổ chức Trọng Tài có tên gọi là Trọng Tài thương
mại và nó xuất hiện gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế quốc gia.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây như: Liên Xô, Hungari… thì phương thức

Trung

giải quyết bằng Trọng Tài cũng được lựa chọn khá phổ biến dưới tên gọi là Trọng
Tài kinh tế nhà nước. Tuy nhiên, các tổ chức Trọng Tài này hoạt động kém hiệu quả
tâm
liệu“vừa
ĐHđáCần
@còi”
Tàimàliệu
tập
vàcòn
nghiên
vớiHọc
tính chất
bóng, Thơ
vừa thổi

hiện học
nay đã
không
phù hợpcứu

đang có sự thay đổi để theo kịp sự phát triển của nền kinh tế thị trường và nhu cầu
toàn cầu hóa nền kinh tế của thế giới hiện nay.
Phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng con đường Trọng Tài cũng
chiếm một vị thế quan trọng trong số các phương thức giải quyết tranh chấp kinh
doanh ở Việt Nam. Ngay từ thời bao cấp, nước ta đã có sự tồn tại của Trọng Tài
kinh tế nhà nước, hội đồng Trọng Tài ngoại thương và hội đồng Trọng Tài hàng hải.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhu cầu tự do thương mại, thấy được
khuyết điểm của Trọng Tài nhà nước mà các trung tâm Trọng Tài kinh tế đã được
thành lập theo Nghị Định 116/CP và Trọng Tài quốc tế Việt Nam đã được thành lập
trên cơ sở hợp nhất hội đồng Trọng Tài ngoại thương và hội đồng Trọng Tài hàng
hải theo Quyết Định 204/TTG. Và hiện nay, trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực,
cũng như hội nhập quốc tế, nhu cầu giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng Trọng
Tài ngày càng gia tăng, Pháp Lệnh Trọng Tài thương mại Việt Nam đã ra đời và có
hiệu lực thi hành vào ngày 01/7/2003 quy định về tổ chức và tố tụng Trọng Tài sẽ
giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại theo sự thỏa thuận
giữa các bên.

SVTH: Trần Vũ Tính

Trang 20


×