Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

LUẬN văn LUẬT tư PHÁP BIỆN PHÁP xử lý NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VI PHẠM HÀNH CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (690.29 KB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

@ &?

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 32 ( 2006 – 2010)

ĐỀ TÀI

BIỆN PHÁP XỬ LÝ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VI
PHẠM HÀNH CHÍNH

Giáo viên hướng dẫn:
Võ Duy Nam

Cần Thơ, tháng 4/ 2010

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Kiến Thức
Lớp: Tư pháp 3 K32


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG BẢO VỆ
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................


....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
.................................................................................................................................... `
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................

....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................


MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU …..…………………………………………………………… ............1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VI
PHẠM PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH..……………………………………................4
1.1. Khái niệm và đặc điểm người chưa thành niên…………………………..…...........4
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên…………….………………..…............4
1.1.2. Đặc điểm người chưa thành niên……………….……………...….……...5
1.1.3. Ảnh hưởng của những đặc điểm của người chưa thành niên đối với……..8
1.2. Vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa…………..12
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính……………………….............12
1.2.2. Những trường hợp có hành vi vi phạm hành chính……………………...16
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN……………………………………………………..….…….......……18
2.1. Quá trình hình thành các quy định pháp luật về biện pháp xử lý ……………..…18
2.2. Các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với người ………………...…...…..20
2.2.1. Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính……………………..…..…..21
2.2.2. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp cưỡng……25
2.2.3. Các biện pháp khắc phục hậu quả, ngăn chặn vi phạm hành chính….….31
2.3. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và thẩm quyền quyết định áp…….…..33
2.3.1. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính …………………………...….33
2.3.2. Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác...34
2.4. Một số vấn đề phát sinh từ thực tiễn áp dụng ………………………………..…..34

2.4.1. Về biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn……………………...…..34
2.4.2. Về biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng……………………….............35
2.4.3. Về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh…………………...37
2.5. Hạn chế của hệ thống tư pháp xử lí người chưa thành niên vi phạm……………..38
CHƯƠNG 3. NHỮNG GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA VÀ BÀI HỌC RÚT RA TỪ
CÔNG TÁC PHÒNG NGỪA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VI PHẠM HÀNH
CHÍNH ….……............................................................................................................40
3.1.Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về biện pháp xử lý vi phạm……...........40
3.1.1. Các biện pháp xử phạt chính……………………………………….........40
3.1.2. Đối với các biện pháp xử lý hành chính khác…......………….…………42
3.2. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện…………………...…………………...........46


3.2.1. Phương hướng hoàn thiện quy định pháp luật………………….…….....46
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật……………….………..……...48
3.3. Bài học rút ra từ công tác phòng ngừa người chưa thành niên………...………....52
3.4. Khuyến nghị hoàn thiện luật pháp, chính sách xử lý đối với...………..………….53
KẾT LUẬN………………………………………………………………………........56
TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI NÓI ĐẦU
***
Lịch sử của dân tộc Việt Nam cho thấy lực lượng thanh thiếu niên đã có những
đóng góp làm nên những chiến công vẻ vang cho non sông Việt Nam. Sinh thời Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang sánh vai các
cường quốc năm châu hay không đấy là nhờ một phần lớn ở công học tập của các
cháu”.
Ngày nay, bên cạnh những thiếu niên chăm ngoan học giỏi thì vẫn còn một bộ
phận thiếu niên hư hỏng, suy thoái về đạo đức, sống theo lối sống thực dụng, vi phạm

pháp luật. Họ đã thực hiện những hành vi gần như nguy hiểm cho xã hội, làm tổn hại
đến lợi ích của Nhà nước, tính mạng, tài sản của nhân dân, gây mối lo lắng và nhức
nhối đối với từng gia đình và đối với toàn xã hội. Nguy hiểm hơn là tình trạng ấy đang
có xu hướng gia tăng, trở thành hiện tượng phổ biến trong đời sống xã hội, đe doạ sự
tồn vong hưng thịnh của quốc gia, của dân tộc vì không ai khác, họ chính là những chủ
nhân tương lai của đất nước, là thế hệ kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tình trạng ấy đang gây nên mối lo ngại cho toàn xã hội.
Do vậy, để đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của thế hệ trẻ, sự phát triển bền
vững của xã hội tương lai thì điều không thể khác là phải kịp thời có các giải pháp
ngăn chặn sự gia tăng, tiến tới đẩy lùi và loại bỏ những biểu hiện lệch lạc, tiêu cực nêu
trên ra khỏi đời sống cộng đồng.
Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với việc bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục thế hệ trẻ với phương châm: “Vì lợi ích trăm năm trồng người”. Thế hệ
trẻ chính là thế hệ tương lai của đất nước, là chủ nhân của xã hội mai sau. Vì vậy đấu
tranh phòng ngừa người chưa thành niên vi phạm hành chính, giai đoạn bình minh của
một tội phạm là một bộ phận cấu thành của sự nghiệp chăm sóc, giáo dục và bảo vệ thế
hệ trẻ, là sự nghiệp của tất cả các cấp, các ngành các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể,
tổ chức và của mọi gia đình cũng như chính bản thân người chưa thành niên tự giác
ngộ.
Vì thế hệ tương lai của đất nước nhằm thực hiện di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và cần
thiết”1. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương và biện pháp thích hợp. Và riêng đối
với thế hệ trẻ, với người chưa thành niên là đối tượng được Đảng và Nhà nước ta đặc
1

Di chúc của Hồ Chí Minh


biệt quan tâm. Vì lẽ đó mà nhiệm vụ đấu tranh phòng chống người chưa thành niên vi
phạm pháp luật được xác định là một nhiệm vụ cấp thiết.

Sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đổi mới trong nền kinh tế thị trường, trong tiến
trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, trước xu hướng hội nhập và mở cửa, toàn
cầu hoá, song song với những cơ hội, chúng ta còn phải đối mặt với nhiều khó khăn,
thách thức tiềm ẩn, người chưa thành niên Việt Nam ngày nay đang đứng trước trước
nhiều vấn đề mới mẽ, phức tạp, những thuận lợi và khó khăn, những nguy cơ và thách
thức, người chưa thành niên cần phải làm gì để có nhận thức, thái độ và hành vi đúng
đắn, phát huy được khả năng và trí tuệ của mình đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và để trở thành những chủ nhân thực sự của tương lai đất nước.
Nhưng trong tiến trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, trước xu hướng hội
nhập và mở cửa, toàn cầu hoá, song song với những cơ hội, chúng ta còn phải đối mặt
với nhiều khó khăn, thách thức tiềm ẩn.
Trong những năm qua, tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật ngày
càng tăng đòi hỏi cần có một cơ sở pháp lý rõ ràng, chặt chẽ để vừa bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, vừa nhằm mục đích phòng ngừa, ngăn
chặn và đấu tranh có hiệu quả chống lại những hành vi vi phạm pháp luật do người
chưa thành niên thực hiện. Tuy nhiên cho đến nay, các quy định riêng, cụ thể về xử lý
vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên không nhiều. Do đó em chọn đề tài
“ Biện pháp xử lý người chưa thành niên vi phạm hành chính - Lý luận và thực tiễn”
với mong muốn góp phần hoàn thiện các quy định các quy định của pháp luật, nâng
cao hiệu quả áp dụng các quy định đó trong thực tiễn.
Vị thành niên một giai đoạn ngắn ngủi nhưng lại hết sức quan trọng đối với cuộc
đời của mỗi con người. Đó là giai đoạn chuyển tiếp giữa con người với tư cách là trẻ
thơ cần được bảo vệ chăm sóc và giáo dục sang con người với tư cách là những công
dân trưởng thành có thể chịu trách nhiệm trước xã hội và luật pháp về mọi hành vi của
mình.
Đối tượng nghiện cứu của đề tài là người chưa thành niên bị áp dụng các biện
pháp xử lý vi phạm hành chính và các quy định về xử lý vi phạm hành chính đối với họ
được quy định chủ yếu trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 ( sửa đổi
và bổ sung năm 2008) và các nghị định, thông tư, quyết định quy định, hướng dẫn áp
dụng, thi hành về các biện pháp xử phạt cũng như áp dụng các biện pháp xử lý hành

chính khác đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính.


Phương pháp nghiên cứu thu thập tài liệu, thông tin trên báo chí, internet, và phân
tích những quy định của pháp luật về người chưa thành niên, phương pháp thống kê,
phương pháp tổng hợp, phương pháp mô tả, giải thích.
Trong phạm vi và giới hạn cho phép, đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề
sau. Về kết cấu nội dung đề tài bao gồm 3 chương :
Chương 1. Cơ sở lý luận về xử lý người chưa thành niên vi phạm pháp luật hành
chính
Chương 2. Cơ sở pháp lý về các biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa
thành niên
Chương 3. Những giải pháp phòng ngừa và bài học rút ra từ công tác phòng ngừa
người chưa thành niên vi phạm hành chính
Đề tài có ý nghĩa là những nghiên cứu cơ bản, bước đầu, xuất phát từ thực trạng
quy định và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về xử lý người chưa thành niên vi
phạm hành chính. Trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng và giải pháp cụ thể để hoàn
thiện các quy định của pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả công tác áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành niên.
Trước sự đóng góp to lớn như thế của việc áp dụng pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính. Vậy pháp luật về biện pháp xử lý vi phạm hành chính đã được áp
dụng như thế nào và đã để lại những ưu nhược điểm nào. Có phù hợp với thực tế cuộc
sống không, phải trả lời được câu đó người viết mới đưa ra được những giải pháp hữu
hiệu để ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống về xử phạt vi
phạm hành chính nói riêng.
Do khả năng nhận thức cũng như kiến thức về thực tế còn hạn chế người viết
xin góp một bài viết nhỏ bàn về các biện pháp xử lý vi phạm hành chính áp dụng đối
với người chưa thành niên vi phạm hành chính. Bài viết sẽ không tránh khỏi những sai
sót. Mong quý thầy cô và các bạn giúp đỡ để bài viết được tốt hơn.



CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
VI PHẠM PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niêm và đặc điểm người chưa thành niên
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên
“ Người chưa thành niên” không phải là một khái niệm mới, nó được sử dụng phổ
biến, đặc biệt là trong các văn bản pháp luật. Bên cạnh khái niệm này chúng ta còn bắt
gặp các khái niệm “vị thành niên” hoặc “trẻ em”. Vậy các khái niệm này có giống và
khác nhau. Những người ở độ tuổi nào thì được coi là người chưa thành niên.
Theo Từ điển Tiếng Việt(Viện ngôn ngữ học, năm 2004) thì “thanh niên” là đến
tuổi được pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ; “vị thành
niên” là chưa đến tuổi được pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ.
Trong tiếng Hán “vị” được hiểu là “chưa tới”. Như vậy khái niệm “chưa thành
niên” cũng chính là khái niệm “vị thành niên”. Cá nhân khi đạt đến một độ tuổi nhất
định sẽ được coi là người thành niên và ngược lại được coi là người chưa thành niên,
tuy nhiên là người chưa thành niên không có nghĩa là được hưởng tất cả mọi quyền và
phải thực hiện mọi nghĩa vụ. Vào ngày 20/02/1990, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước
của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em 1989, trở thành quốc gia đầu tiên của châu Á và
thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước này. Ngay tại Điều l, Công ước quy định khái
niệm ''Trẻ em được xác định là người dưới 18 tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia quy định
tuổi thành niên sớm hơn''.Như vậy, việc tham gia Công ước về Quyền Trẻ em đã góp
phần quan trọng vào sự điều chỉnh của pháp luật về Quyền Trẻ em. Sự điều chỉnh của
Công ước cùng với sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia đã tạo nên một khung pháp
luật về trẻ em tương đối hoàn thiện và trên phương diện rộng. Trong khoa học pháp lý
Việt Nam, chỉ thấy một số ngành luật nhắc đến các khái niệm trẻ em, người chưa thành
niên và các quy định này không thống nhất giữa tất cả các ngành luật.
Trong khi đó, Bộ luật Hình sự 1999 lại quy định người chưa thành niên phạm tội
là người từ đủ 14 tuổi đến dưới l 8 tuổi. Như vậy, có thể ngầm hiểu rằng khái niệm trẻ

em bao gồm cả người chưa thành niên hay cũng có thể hiểu rằng người chưa thành niên
cũng bao gồm cả trẻ em và đều là những người ở độ tuổi dưới thành niên (dưới 18
tuổi). Cách hiểu này cũng phù hợp với khái niệm trẻ em của Công ước về Quyền Trẻ
em đã nêu ở trên.


Từ điển Luật học đưa ra định nghĩa cụ thể hơn, theo đó “người chưa thành niên”
là người dưới 18 tuổi, tuy nhiên theo định nghĩa này thì khi chưa thành niên sẽ không
được pháp luật coi là có đủ khả năng để sử dụng quyền, làm nghĩa vụ và chịu trách
nhiệm. Nhưng mỗi ngành luật lại có những quy định khác nhau căn cứ vào đặc điểm
tâm sinh lý của người chưa thành niên, ý thức của họ khi tham gia vào các quan hệ xã
hội bị điều chỉnh bởi những quy phạm của ngành luật đó.
Ví dụ, Điều 68 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: “Người chưa thành niên từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịa trách nhiệm hình sự…”, tuy chưa đủ 18
tuổi (chưa coi là thành niên) họ vẩn bị pháp luật quy định là phải chịu trách nhiệm hình
sự ; Điều 18 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người
thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên”. Cũng theo quy định của
Bộ luật Dân sự năm 2005 người chưa thành niên vẫn được tham gia vào các quan hệ
dân sự, mà khi đó họ phải được pháp luật công nhận là có khả năng “sử dụng quyền,
làm nghĩa vụ và chịa trách nhiệm”; Điều 119 Bộ luật Lao động 2002 quy định: “Người
lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”, theo đó Bộ luật lao động
cũng quy định các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người lao động chưa thành niên.
Tóm lại, có thể đưa ra một khái niệm của pháp luật quốc gia về trẻ em như sau:
“Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 18 tuổi”. Khái niệm này phần nào có thể bao hàm
được cả khái niệm trẻ em của Công ước và của các ngành luật thuộc hệ thống pháp luật
quốc gia.Xét dưới khía cạnh Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, trẻ em là một
chủ thể pháp luật. Cũng như các chủ thể pháp luật khác (như các cá nhân là công dân
Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch, các tổ chức như Nhà nước và các
tổ chức có tư cách chủ thể khác), “trẻ em có khả năng trở thành các bên tham gia quan
hệ pháp luật, có được những quyền và nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở những quy phạm

pháp luật. Điều 54 Hiến pháp năm 1992 quy định công dân Việt Nam từ đủ 21 tuổi có
quyền ứng cử đại biểu Quốc hội, một người vừa đủ 20 tuổi tuy là người đã thành niên
nhưng không thể đòi hỏi các quyền ứng cử trên, nhưng cũng không vì thế mà coi họ là
người chưa thành niên. Định nghĩa này không xác định độ tuổi cụ thể.
Nhìn chung các ý kiến đều thống nhất cho rằng giới hạn độ tuổi cao nhất của
người chưa thành niên là dưới 18 tuổi. Hợp lý nhất đó là những người ở độ tuổi từ 12
đến dưới 18 tuổi, bởi đây là giai đoạn mà theo tâm sinh lí của người chưa thành niên
được thể hiện rỏ nhất. Mặt khác, khi nghiên cứu về các biện pháp xử lý vi phạm hành
chính thì bị áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Điều 12 của
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, và người chưa thành niên từ đủ 12 tuổi
có thể bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành


chính cũng không có một điều nào quy định cụ thể người chưa thành niên là người ở
độ tuổi nào nhưng có thể thấy đối tượng người chưa thành niên bị áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính là những người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Như vậy, có thể kết luận người chưa thành niên là người từ đủ 12 tuổi đến dưới
18 tuổi.
1.1.2. Đặc điểm người chưa thành niên
Dưới góc độ tâm lí học, con người phải trải qua rất nhiều giai đoạn phát triển
khác nhau, mà mỗi giai đoạn lại có đặc điểm tâm sinh lí riêng, đặc trưng cùng với tác
động bên ngoài làm hình thành những hành vi ứng xử khác nhau. Giai đoạn chưa thành
niên là giai đoạn có vị trí đặc biệt quan trọng trong cả quá trình phát triển và hoàn thiện
ấy. Nghiên cứu người chưa thành niên qua các đặc điểm về tâm lí, sinh lí sẽ giúp chúng
ta lí giải được cơ sở khoa học của những quy định pháp luật nói chung và của Pháp
lệnh xử lí vi phạm hành chính nói riêng đối với đối tượng này. Sau đây là một vài đặc
điểm đặc trưng về tâm sinh lí của người chưa thành niên.
Người chưa thành niên gồm những người ở độ tuổi từ đủ 12 đến dưới 18 tuổi. Cần
phải nói rằng, tuổi chỉ có ý nghĩa là yếu tố thời gian trong quá trình phát triển của con
người. Với người chưa thành niên, họ cần có thời gian chuẩn bị về mọi mặt để chuyển

sang một giai đoạn trưởng thành (để lớn lên về cơ thể, mở rộng quan hệ xã hội, tích lũy
tri thức, phương thức hoạt động…).Tuổi không quy định trực tiếp sự phát triển nhân
cách. Tuổi có thể phù hợp với trình độ phát triển tâm lí của con người, tuổi cũng có thể
đi chậm hơn hoặc đi nhanh hơn là còn phụ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh xung quanh.
Tuy nhiên người chưa thành niên sống trong hoàn cảnh nào cũng có những đặc điểm
chung, đặc trưng cho lứa tuổi. Đó là đặc điểm của một giai đoạn mà cách gọi thôi cũng
cho thấy tính phức tạp và tầm quan trọng của nó: “Thời kì quá độ” (chưa phải là người
lớn cũng không còn là trẻ con), “tuổi khủng hoảng” (cả về sinh lí lẫn tâm lí), “tuổi khó
bảo” (các em ở độ tuổi này trở nên bướng bỉnh và khó bảo), “tuổi bất trị”…
1.1.2.1. Đặc điểm sinh lí của người chưa thành niên2
Thời kì này, cơ thể phát triển mạnh mẽ nhưng không đồng đều, biểu hiện bên
ngoài là các em lớn lên trông thấy. Tùy thuộc vào độ tuổi, ngay trong cùng giai đoạn
mà sự phát triển giữa nam và nữ là khác nhau, như cùng trong giai đoạn chưa thành
niên nhưng ở độ tuổi 12-13, các em nữ phát triển hơn các em nam về hình dáng thì ở
độ tuổi 14-15, cơ thể các em nam lại phát triển hơn. Tuy nhiên ở cả nam và nữ đều có
những đặc điểm chung của lứa tuổi
2

Tham khảo tác phẩm vị thành niên và chính sách đối với vị thành niên của tác giả Đặng Vũ Cảnh Linh nhà xuất
bản Lao động – xã hội năm 2002


Sự phát triển của hệ xương mà chủ yếu là sự phát triển của xương tay, xương
chân rất nhanh nhưng xương ngón tay, ngón chân lại phát triển chậm. Do đó, cơ thể
phát triển không cân đối khiến các em trở nên long ngóng, vụng về và hay làm đổ vỡ
đồ đat.
Sự phát triển của hệ thống tim mạch không cân đối khiến các em dễ rơi vào tình
trạng rối loạn tạm thời với những biểu hiện như: mệt mỏi, chóng mặt, nhức đầu. Những
biểu hiện này diễn ra không lâu nhưng lại thường xuyên, làm ảnh hưởng không nhỏ
đến đời sống sinh hoạt hằng ngày cũng như tâm lí của người chưa thành niên.

Tuyến nội tiết bắt đầu hoạt động mạnh thường dẫn đến sự rối loạn của hoạt động
thần kinh làm cho các em dể xúc động, hay bực tức hay nổi nóng, do đó các em hay có
những phản ứng mạnh mẽ và gay gắt về những người xung quanh, về những việc mà
các em cảm thấy không hài lòng.
Hệ thần kinh chưa có khả năng chịu được những kích thích mạnh và kép dài, dẩn
đến cảm giác ức chế, uể oải, thờ ơ, lãnh đạm, tản mạn khiến các em đôi khi cư xử
không đúng với bản chất của mình, nghiêm trọng hơn là có những hành vi vi phạm đạo
đức xã hội và đặc biệt là hành vi phạm pháp luật.
Một đặc điểm sinh lí đặc trưng nữa của người chưa thành niên đó là sự phát dục,
đây là dấu hiệu cho thấy rõ ràng nhất sự lớn lên của các em. Điều này làm xuất hiện ở
các em nhiều biểu hiện mới như nhu cầu giao tiếp với bạn bè, đặc biệt là với bạn bè
khác giới. Các em trưởng thành hơn về mặt cơ thể, nhưng nhận thức vẩn còn hạn chế.
Chính những đặc điểm về sinh lí ảnh hưởng đến những đặc điểm về tâm lí, từ đó
quyết định đến hành vi của người chưa thành niên.
1.1.2.2. Đặc điểm tâm lí của người chưa thành niên3
Song song với sự phát triển về sinh lí, ở người chưa thành niên đã bắt đầu hình
thành sự “tự ý thức” với các câu hỏi: Mình như thế nào, mình đang làm gì. Có những ai
quan tâm đến mình. Quá trình này diễn ra dần dần, cùng với diễn biến tâm lí phức tạp,
dễ xúc động, dễ bị kích động, chợt vui, chợt buồn, tình cảm bồng bột, hăng say, hoạt
động thần kinh không cân bằng, quá trình hưng phấn mạnh hơn quá trình ức chế, do đó
khiến các em không thể tự kìm chế nổi bản thân khi gặp tình huống bất ngờ. Điều này
sẽ dẫn đến những lỗi không đáng mắc phải, kể cả việc vi phạm pháp luật.
Do có thể tự ý thức về bản thân, các em cũng có thể nhận thấy sự thay đổi về sinh
lí của mình và đôi khi các em có thái độ, tâm lí khó chịu với chính những thay đổi đó.
Các em những việc nào thì được phép làm, những việc nào không nhưng vẫn làm theo
3

Tham khảo tác phẩm vị thành niên và chính sách đối với vị thành niên của tác giả Đặng Vũ Cảnh Linh nhà xuất
bản Lao động – xã hội năm 2002



cách của mình với những lí do rất riêng. Do đó, khi mắc lỗi, thay vì nhìn nhận thẳng
vào vấn đề để sửa chữa khắc phục thì các em lại cố che dấu, thể hiện ra cử chỉ điệu bộ
ở bên ngoài không tự nhiên, tỏ ra mạnh dạn, can đảm để người khác không chú ý đến
mình; hay chỉ vì một hành động chế giễu, mỉa mai về hình thể dáng vẻ đi lại bên ngoài
cũng gây cho các em những phản ứng mạnh mẽ.
Các em luôn muốn bộc lộ cá tính, tự khẳng định mình, muốn nhanh chóng được
trở thành người lớn và cố gắng để được đối xử như người lớn, do đó hay phóng đại
năng lực bản thân mình. Nhưng thực chất kết thúc giai đoạn chưa thành niên các em
mới chỉ phát triển khá hoàn thiện về mặt sinh lí, còn quá trình nhận thức vẩn chưa đầy
đủ. Nhận thức về xã hội, đạo đức, pháp luật… còn hạn chế, đặc biệt là nhận thức về
pháp luật. Đôi khi những nhận thức quan điểm về pháp luật không được hình thành
hoặc có nhưng bị lệch lạc theo cách hiểu chủ quan của các em.
Mặc dù sống độc lập hơn và muốn tỏ ra mình là người lớn nhưng các em ở độ tuổi
này vẫn cần có sự quan tâm, chăm sóc của cha mẹ, bởi những khó khăn, rắc rối về mặc
tâm lí, sinh lí là không tránh khỏi. Cha mẹ phải là người hiểu rõ điều đó để quan tâm
cho đúng mức, sao cho các em vẫn có thể phát huy được tính độc lập của mình nhưng
không thể tách rời sự quản lí chặt chẽ cần thiết của cha mẹ.
Khi trở thành đối tượng áp dụng các biện pháp xử lý hành chính thì những đặc
điểm tâm sinh lí trên phải được xem xét để pháp luật có những quy định phù hợp, đảm
bảo việc bảo vệ hiệu quả nhất quyền lợi của đối tượng “đặc biệt” này.
1.1.3. Ảnh hưởng của những đặc điểm của người chưa thành niên đối với việc quy
định các biện pháp xử lý vi phạm hành chính.
Pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói riêng
có những quy định rất đặc thù với đối tượng là người chưa thành niên vi phạm pháp
luật.
Tiêu biểu phải kể đến Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, là một đạo luật
chỉ quy định những vấn đề liên quan đến trẻ em, trong đó có cả người chưa thành niên,
gồm những quy định chung. Những quy định về quyền và nghĩa vụ của trẻ em cũng
như của những đối tượng liên quan đảm bảo mạng lại cho trẻ em những điều tốt đẹp

nhất: “Các quyền của trẻ em phải được tôn trọng và thực hiện”4, “Gia đình, Nhà nước
và xã hội có trách nhiệm bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự của trẻ em;
thực hiện các biện pháp phòng ngừa tai nạn cho trẻ em”5.

4
5

Khoản 1, Điều 6 Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em năm 2005
Khoản 1, Điều 26 Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em năm 2005


Trong Bộ luật hình sự 1999, chương X là chương quy định riêng với người chưa
thành niên, gồm các quy định về nguyên tắc xử lý đối vói người chưa thành niên phạm
tội: “Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng các
hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào
tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc
phòng ngừa tội phạm” (khoản 2 Điều 69), hoặc “không xử phạt tù chung thân hoặc tử
hình với người chưa thành niên phạm tội” (khoản 5 Điều 69); hay quy định về hình
phạt tiền: “mức phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần
hai mức tiền phạt mà điều luật quy định”.
Trong Bộ Luật động, khi quy định về thời giờ làm việc của người lao động chưa
thành niên thì “Thời giờ làm việc của người lao động chưa thành niên không được quá
bảy giờ một ngày hoặc 42 giờ một tuần” (khoản 1 Điều 122), trong khi đối với người
lao động đã thành niên thời gian đó là “không quá 8 giờ trong một ngày hoặc 48 giờ
trong một tuần” (khoản 1 Điều 68), quy định như vậy để đảm bảo tránh ảnh hưởng xấu
đến sự phát triển về thể lực và trí lực của người chưa thành niên, tránh tình trạng người
chưa thành niên bị lạm dụng sức lao động.
Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi
khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý”
(khoản 1 Điều 20).

Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cũng có những quy định riêng đối với người
chưa thành niên vi phạm hành chính, không phải bất kì người chưa thành niên nào
cũng bị áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính, họ chỉ có thể bị áp dụng các
biện pháp đó khi thỏa mãn một số điều kiện nhất định, gồm: thứ nhất, phải đạt đến một
độ tuổi nhất định; thứ hai, có khả năng nhận thức và có khả năng điều khiển hành vi;
thứ ba, họ phải thực hiện hành vi trái pháp luật mà theo quy định bị áp dụng cưỡng chế
hành chính. Khi họ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính thì việc áp dụng
cũng có những đặc điểm khác biệt với việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế này đối
với người đã thành niên.
Phần lớn người chưa thành niên còn sống phụ thuộc vào gia đình, họ không có tài
sản riêng, quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính phải phù hợp với những đặc
điểm đó để đảm bảo tính khả thi khi áp dụng. Khoản 1 Điều 7 Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính 2002 quy định người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính thì
bị phạt cảnh cáo, khác với trước đây quy định là phạt tiền đến 50.000 đồng, người từ
đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính mà bị áp dụng hình thức phạt tiền thì
mức phạt đối với họ không được quá một phần hai mức phạt đối với người thành niên.


Biện pháp xử phạt với người chưa thành niên chỉ mang tính chất răn đe, giáo dục là
chính, ở độ tuổi đủ 14 đến dưới 16, việc quy định hình thức phạt tiền là không cần
thiết, bởi những người chưa thành niên không có khả năng để chấp hành biện pháp xử
phạt này, thường thì cha mẹ họ là những người có trách nhiệm nộp thay. Điều đó sẽ
không có tác dụng nhiều đến nhận thức của họ, bởi vốn có nhận thức chưa đầy đủ và
sâu sắc, họ được cha mẹ thực hiện thay sẽ không thể hiểu được mục đích chính của
việc áp dụng xử phạt vi phạm hành chính đối với họ là răn đe, giáo dục. còn ở độ tuổi
từ đủ 16 đến dưới 18, các em đã có thể có nhận thức đầy đủ hơn, việc phạt cảnh cáo
với các em đôi khi lại chưa đủ, cần phải áp dụng hình thức xử phạt cao hơn là phạt tiền.
Chỉ riêng những đặc điểm tâm sinh lí chưa đủ để dẫn đến những hành vi vi phạm
pháp luật, chính những yếu tố bên ngoài từ phía gia đình, bạn bè và xã hội khi có tác
động tiêu cực đến khả năng nhận thức của các em khiến các em thực hiện những hành

vi vi phạm pháp luật. Pháp luật cũng tính đến cả những yếu tố này khi quy định biện
pháp cưỡng chế đối với người chưa thành niên.
Trong mối quan hệ với gia đình mà cụ thể là mối quan hệ với cha mẹ, sự hiểu biết
của cha mẹ về những thay đổi tâm sinh lí của con chưa thành niên có ý nghĩa rất quan
trọng. Tuy nhiên, sự hiểu biết này chỉ mới dừng lại ở những thay đổi bên ngoài, được
thể hiện rõ nét trong một thời gian dài; còn những thay đổi tâm sinh lí có tính chất bên
trong thì cha mẹ ít quan tâm hơn. Do đó khi ý thức của người chưa thành niên bị lệch
lạc dẫn đến vi phạm pháp luật, cha mẹ họ thường cho rằng nguyên nhân là do chính
bản thân chúng gây ra, họ không hề phải chịu trách nhiệm về điều đó, rất nhiều trong
số đó bỏ mặc và không quan tâm đến đời sống của con ở lứa tuổi này. Khi thiếu vắng
tình cảm của cha mẹ, người chưa thành niên chỉ còn tìm thấy sự cân bằng, an ủi của
những người thân khác trong gia đình, họ hàng và bạn bè. Tuy nhiên điều đó không
phải lúc nào cũng có thể mang lại cảm giác thanh thản, yên ổn thật sự và có thể thay
thế tình cảm giữa cha mẹ và con cái trong gia đình. Khi đó, người chưa thành niên
nhanh chóng tìm đến sự giải tỏa tâm lí bằng những hành động thể hiện sự nông nổi,
bồng bột của người chưa thành niên.
Bạn bè và những tác động xấu bên ngoài xã hội cũng là những yếu tố ảnh hưởng
không nhỏ đến người chưa thành niên, họ rất dể bị bạn bè lôi kéo, kích động, bất kì
điều gì mới lạ diễn ra xung quanh cũng khiến họ thấy tò mò tìm hiểu trong khi nhận
thức đúng đắn chưa được hình thành một cách vững chắc. Những lúc đó các em thậm
chí không thể nhận thức được hành vi của mình là đúng hay sai.
Ví dụ: đầu tháng 3/2010, công trình đường dẫn cầu Cần Thơ chuẩn bị cho thông
xe, khu vực đoạn phường Thường Thạnh, quận Cái Răng. Mọi người tập trung về khu


vực này thả diều rất đông. Bên cạnh đó có những em nhỏ chạy xe lên tụ tập đua xe,
đánh võng và có những vụ tai nạn xảy ra thương tâm. Đây là một hồi chuông cảnh báo
cho mọi người cũng như các bậc làm cha làm me phải quan tâm đến các con, phải hiểu
được tâm trạng tuổi trẻ của các em giúp các em sống hoàn thiện mình và giúp ích cho
xã hội.

Người chưa thành niên luôn cần được sự giúp đỡ về mọi mặt, ngay cả khi họ đã vi
phạm pháp luật. Đôi khi họ cũng là người bị tổn thương khi họ thực hiện hành vi vi
phạm. Hay trong trường hợp người chưa thành niên bán dâm do bị ép buộc hành hạ,
hay do bị lừa gạt. Họ rất khổ, đôi khi họ cảm thấy ngay cả họ cũng xấu xa nhưng họ
không còn con đường nào khác, họ muốn quay đầu lại nhưng mặc cảm, mĩa mai, không
định hướng được, sợ xã hội không dung nạp, không cho họ đủ nghị lực để sống thế rồi
họ là đối tượng mà Pháp lệnh quy định phải đưa vào cơ sở chữa bệnh. Ngoài ra Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 còn quy định riêng cho nhóm đối tượng này,
xem họ là đối tượng đặc biệt cần phải chăm sóc đặc biệt. Ở cơ sở giáo dục người chưa
thành niên được lao động, học tập, học nghề và cả chữa bệnh. Nếu trong thời gian bán
dâm, các em có bị bệnh thì cơ sở cũng tạo điều kiện chữa bệnh cho các em.
Cũng do đặc điểm riêng về tâm sinh lý, những nhận thức hạn chế của người chưa
thành niên, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 quy định không áp dụng
một số các biện pháp cưỡng chế đối với họ. Chẳng hạn như: không đưa người chưa đủ
18 tuổi vào cơ sở giáo dục quy định tại Điều 25 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính năm 2002.
Qua phân tích trên ta thấy những đặc điểm về tâm sinh lí của người chưa thành
niên có ảnh hưởng rất quan trọng đến quy định của pháp luật nói chung và Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính nói riêng. Trong tương lai không xa chúng ta phải dựa vào
những đặc điểm này để hoàn thiện hệ thống pháp luật, cũng như xây dựng Bộ luật xử
lý vi phạm hành chính, cũng giống như Bộ luật hình sự có những quy định riêng để xử
lý người chưa thành niên vi phạm hành chính. Vì như nghiên cứu cho thấy ngăn ngừa,
giáo dục, phòng chống người chưa thành niên vi phạm hành chính cũng góp phần
phòng chống tội phạm, đồng thời bên cạnh đó cũng góp phần bảo vệ quyền lợi của
người chưa thành niên.


1.2. Vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành
niên
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính

1.2.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là một loại vi phạm pháp luật xảy ra thường xuyên trong đời
sống xã hội. Tuy nhiên mức độ nguy hiểm cho xã hội của nó thấp hơn so với tội phạm
hình sự, nhưng vi phạm hành chính cũng gây thiệt hại cho lợi ích nhà nước, của nhân
dân, lợi ích của toàn xã hội cho nên cần phải ngăn chặn và xử lí kịp thời. Chính vì lẽ
đó, công tác đấu tranh phòng chống vi phạm hành chính luôn là vấn đề được xã hội
quan tâm. Để xác định rõ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của loại vi phạm
này, đặc biệt là việc xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm hình sự,
tạo cơ sở pháp lí cần thiết cho việc xử lí cũng như đấu tranh phòng chống một cách có
hiệu quả đối với các vi phạm hành chính, cần thiết phải đưa ra một định nghĩa chính
thức về vi phạm hành chính. Về phương diện pháp lí cũng như thực tiễn, định nghĩa vi
phạm hành chính phải phản ánh đầy đủ những dấu hiệu đặc trưng của loại vi phạm này,
trong đó thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của chúng, đồng thời cũng phải thể
hiện được sự khác biệt giữa loại vi phạm này với tội phạm hình sự.
Định nghĩa vi phạm hành chính lần đầu tiên xuất hiện được nêu ra trong Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính 1989 quy định tại Điều 1, sau đó Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính 1995 không trực tiếp nêu ra định nghĩa vi phạm hành chính nhưng tại
khoản 2 Điều 1 của Pháp lệnh này quy định “ xử phạt vi phạm hành chính được áp
dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy tắc quản lí
nhà nước mà chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của
pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. Và đến khi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
2002 ban hành cũng kế thừa quan điểm quy định tại khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh 1995.
Tuy có sự khác nhau về cách diễn đạt, nhưng quan niệm về vi phạm hành chính trong
các văn bản pháp luật nêu trên đều thống nhất với nhau dấu hiệu bản chất của loại vi
phạm này. Trên cơ sở nội dung đã được nêu ra trong các văn bản trên, có thể đưa ra
định nghĩa về vi phạm hành chính như sau:
Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.



1.2.1.2. Đặc điểm cơ bản và các dấu hiệu pháp lí của vi phạm hành chính
1.2.1.2.1. Vi phạm hành chính có những đặc điểm cơ bản sau
Vi phạm pháp luật hành chính à hành vi trái pháp luật xâm phạm các quy tắc
quản lý nhà nước, do cá nhân hay tổ chức thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý.
Vi phạm hành chính có mức độ, tính chất nguy hiểm thấp hơn tội phạm.
Đa số vi phạm hành chính có cấu thành hình thức, nghĩa là chỉ cần xét đến hành
vi vi phạm hành chính xảy ra mà không cần đến hậu quả.
Vi phạm hành chính được quy định cụ thể trong các văn bản dưới luật. Trong đó
Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 là quy định cơ bản có tính luật, định ra
các nguyên tắc chung trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lí vi phạm hành chính.
Vi phạm hành chính là hành vi được pháp luật quy định là phải xử phạt vi phạm
hành chính.
1.2.1.2.2. Các dấu hiệu pháp lý của vi phạm hành chính
Cũng như tội phạm vi phạm hành chính cũng có bốn dấu hiệu pháp lí6.
+ Dấu hiệu trong mặt khách quan
Mặt khách quan của vi phạm hành chính là những biểu hiện ra bên ngoài của hành
vi vi phạm hành chính, bao gồm các yếu tố sau: hành vi, thời gian, công cụ, địa điểm,
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, trong đó yếu tố hành vi là yếu tố bắt
buộc, thể hiện như sau:
Hành vi vi phạm hành chính: là những biểu hiện của con người hoặc tổ chức tác
động váo thế giới quan dưới những hình thức bên ngoài cụ thể gây tác hại đến sự tồn
tại và phát triển bình thường đến trật tự quản lý nhà nước. Những biểu hiện này thể
hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động bởi ý thức của chủ thể vi phạm hành
chính.
Hành vi vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật, chủ thể vi phạm hành chính
bằng hành động hay không hành động thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm hoặc
không thực hiện những hành vi mà pháp luật quy định. Tính chất trái pháp luật của
hành vi xét về mặt hình thức nó thể hiện ở các dạng sau đây:
· Làm một việc ( hành động) mà pháp luật cấm không được làm.

· Không làm một việc mà pháp luật đòi hỏi phải làm.
· Sử dụng quyền hạn vượt quá giới hạn cho phép.
Hậu quả của hành vi trái pháp luật: là trật tự quản lí của nhà nước bị hành vi vi
phạm hành chính tác động, xâm hại. Tuy nhiên do đa số hành vi vi phạm hành chính là
6

Giáo trình Luật hành chính của Khoa Luật trường Đại học Cần Thơ


hành vi có cấu thành hình thức nên hậu quả phải được xem là trật tự đã vi phạm, chứ
không cần có hậu quả nhất định nào đó trên thực tế.
Quan hệ nhân quả: là mối quan hệ giữa hành vi vi phạm hành chính và hậu quả
của vi phạm hành chính, trong đó hậu quả của vi phạm hành chính có tiền đề xuất hiện
của nó là hành vi khách quan của vi phạm hành chính. Việc xác định mối quan hệ nhân
quả cần phải có căn cứ nhất định. Cụ thể như sau:
· Hành vi trái pháp luật phải xảy ra trước hậu quả xâm hại của quan hệ xã hội về
mặt thời gian;
· Hành vi trái pháp luật phải chứa đựng được khả năng thực tế làm phát sinh hậu
quả xâm hại quy tắc quản lí nhà nước;
· Hậu quả xâm hại đã xảy ra phải chính là sự hiện thực hóa khả năng thực tế làm
phát sinh hậu quả của hành vi trái pháp luật.
Ngoài ra còn có một số dấu hiệu khác như: địa điểm, thời gian, phương tiện công
cụ của vi phạm hành chính. Đây không phải là những dấu hiệu có ý nghĩa quyết định
treong mọi cấu thành vi phạm. Tuy nhiên trong một số trường hợp cụ thể chúng sẽ trở
thành dấu hiệu bắt buộc, có ý nghĩa, làm tăng hoặc giảm mức độ của hành vi vi phạm
hành chính.
+ Dấu hiệu trong mặt chủ quan
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính là quan hệ tâm lí bên trong, bao gồm các
yếu tố như: lỗi, mục đích, động cơ của vi phạm hành chính.
Lỗi là trạng thái tâm lí của một người khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính,

biểu hiện thái độ của người đó đối với hành vi của mình.
Lỗi trong vi phạm hành chính bao gồm: lỗi cố ý và lỗi vô ý.
· Lỗi cố ý trong vi phạm hành chính: là thái độ tâm lí của một người khi thực hiện
hành vi trái pháp luật hành chính nhận thức được nghĩa vụ pháp lý bắt buộc
nhưng lại có ý thức xem thường mặc dù họ hoàn toàn có khả năng xử sự đúng
theo nghĩa vụ đó.
· Lỗi vô ý trong vi phạm hành chính là lỗi của một người khi thực hiện hành vi vi
phạm hành chính do vô tình hoặc thiếu thận trọng mà đã không nhân thức được
nghĩa vụ pháp lý bắt buộc, mặc dù họ có khả năng và điều kiện xử sự theo đúng
nghĩa vụ này.
Trong đó lỗi là một dấu hiệu cơ bản bắt buộc phải hiện diện trong mọi cấu thành
của hành vi vi phạm pháp luật, có ý nghĩa quyết định đến các yếu tố khác trong mặt


chủ quan của vi phạm hành chính. Vì vậy, các trường hợp loại trừ yếu tố lỗi sẽ không
đủ các dấu hiệu cần thiết để xác định là hành vi vi phạm pháp luật.
Ví dụ: sự kiện bất ngờ, tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng, hoặc vi phạm
hành chính trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mắc khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
Tuy nhiên mức độ của lỗi thì tùy trường hợp để xem xét. Thậm chí trong nhiều
loại cấu thành của vi phạm hành chính, khi truy cứu cũng không nhất thiết phải xem
xét lỗi cố ý hay lỗi vô ý.
Ví dụ như: hành vi vượt đèn đỏ của chủ thể vi phạm hành chính.
+ Dấu hiệu trong mặt chủ thể
Chủ thể của vi phạm hành chính là cá nhân( công dân Việt Nam, người nước
ngoài và người không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú trên lãnh thổ Việt Nam) và tổ
chức( bao gồm tổ chức nước ngoài hoạt động tại Việt Nam).
Tất cả các chủ thể trên phải đủ năng lực chủ thể, tức là phải có năng lực pháp luật
và năng lực hành vi. Tổ chức thì năng lực chủ thể có từ khi có quyết định thành lập và
công nhận hoạt động hợp pháp.

Đối với cá nhân năng lực pháp luật có từ khi sinh ra, còn năng lực hành vi có từ
khi cá nhân tự mình nhận thức được hành vi bản thân. Theo Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính năm 2002, thì độ tuổi để cá nhân có năng lực hành vi là:
Ngườì từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hành chính về mọi vi phạm
hành chính do mình gây ra:
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ bị xử phạt hành chính đối với những vi
phạm hành chính được thực hiện với lỗi cố ý.
Riêng đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài được hưởng các quyền ưu đãi về ngoại
giao về lãnh sự, nếu họ có vi phạm hành chính thì giải quyết bằng con đường ngoại
giao.
+ Dấu hiệu trong mặt khách thể
Khách thể của vi phạm hành chính là các quy tắc quản lý nhà nước có nội dung xã
hội là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý nhà nước được pháp luật quy
định bảo vệ. Còn hình thức pháp lý của chúng là các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc
chung, bao gồm:
- Khách thể chung; là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý nhà
nước hay nói cách khác là trât tự quản lý của nhà nước nói chung, được thể hiện trong
các quy phạm tổng quát, có tính quy luật.


- Khách thể loại là những quan hệ xã hội có cùng hoặc gần tính chất với nhau
trong từng lĩnh vực nhất định của quản lý nhà nước. Đây chính là trật tự quản lý nhà
nước chuyên ngành hoặc từng lĩnh vực cụ thể.
- Khách thể trực tiếp là quan hệ xã hội cụ thể quy định và bảo vệ bị chính hành vi
vi phạm hành chính xâm hại tới.
Vi dụ: các quyết định hành chính
1.2.2. Những trường hợp có hành vi vi phạm hành chính nhưng không chịu trách
nhiệm hành chính
+ Miễn trừ tư pháp được quy định cụ thể trong Pháp lệnh Quyền miễn trừ, ưu đãi
danh cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức

quốc tế tại Việt Nam7.
+ Hành vi vi phạm hành chính đã chuyển hóa thành tội phạm hình sự đươc quy
định tại Điều 62 của Pháp lênh xử lý vi phạm hành chính năm 2002. Khi xem xét vụ vi
phạm để quyết định xử phạt, nếu xét thấy hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm, thì
người có thẩm quyền phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có
thẩm quyền.Nghiêm cấm việc giữ lại các vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để xử phạt
hành chính. Đối với trường hợp đã ra quyết định xử phạt, nếu sau đó phát hiện hành vi
vi phạm có dấu hiệu tội phạm mà chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì
người đã ra quyết định xử phạt phải hủy quyết định đó và trong thời hạn ba ngày, kể từ
ngày hủy quyết định xử phạt, phải chuyển hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố
tụng hình sự có thẩm quyền.
+ Quá thời hiệu truy cứu trách nhiệm hành chính.. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hành chính được quy định cụ thể tại Điều 10 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 2002.
Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là một năm, kể từ ngày vi phạm hành
chính được thực hiện; đối với vi phạm hành chính trong các lĩnh vực tài chính, chứng
khoán, sở hữu trí tuệ, xây dựng, môi trường, an toàn và kiểm soát bức xạ, nhà ở, đất
đai, đê điều, xuất bản, xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh hoặc vi phạm hành
chính là hành vi buôn lậu, sản xuất, buôn bán hàng giả thì thời hiệu là hai năm; nếu
quá các thời hạn nói trên thì không xử phạt nhưng vẫn bị áp dụng các biện pháp khắc
phục hậu quả được quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 3 Điều 12 của Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chinh năm 2002. Người có thẩm quyền xử phạt nếu có lỗi trong

7

Lệnh của Chủ tịch nước số 25-L/CTN ngày 07/9/1993 công bố Pháp lệnh quyền miễn trừ, ưu đãi cho cơ quan
đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam


việc để quá thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính thì bị xử lý theo quy định tại Điều

121 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002.
Đối với cá nhân đã bị khởi tố, truy tố hoặc đã có quyết định đưa ra xét xử theo thủ
tục tố tụng hình sự, nhưng sau đó có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án
mà hành vi vi phạm có dấu hiệu vi phạm hành chính thì bị xử phạt hành chính; trong
thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, người đã ra
quyết định phải gửi quyết định cho người có thẩm quyền xử phạt; trong trường hợp
này, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là ba tháng, kể từ ngày người có thẩm quyền
xử phạt nhận được quyết định đình chỉ và hồ sơ vụ vi phạm.
Trong thời hạn được quy định trên mà cá nhân, tổ chức lại thực hiện vi phạm
hành chính mới trong cùng lĩnh vực trước đây đã vi phạm hoặc cố tình trốn tránh, cản
trở việc xử phạt thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được tính lại kể từ thời điểm
thực hiện vi phạm hành chính mới hoặc thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở
việc xử phạt.Thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính khác được quy định tại các
điều 23, 24, 25 và 26 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002.


CHƯƠNG 2
CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN
2.1. Quá trình hình thành các quy định pháp luật về biện pháp xử lý hành chính
đối với người chưa thành niên
Trải qua hơn bốn mươi năm từ khi những quy định đầu tiên về xử lý vi phạm
hành chính ra đời, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đã và đang được xây dựng
ngày càng hoàn thiện hơn.
Từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định các biện pháp xử lí
hành chính như: Sắc lệnh 175/SL ngày 18/8/1953 của Chủ tịch nước về quản chế hành
chính, quyết định 217/TTg – NC ngày 18/12/1967 của Thủ tướng về việc tổ chức lại
trường giáo dục thiếu niên hư, Quyết định số 201/CP ngày 30/8/1974 của Hội đồng
Chính phủ về sắp xếp việc làm cho những người có khả năng làm việc, Pháp lệnh xử lí

vi phạm hành chính năm 1989. Những văn bản trên có quy định về thẩm quyền, thủ tục
áp dung và biện pháp cải tạo, quản chế, cải tạo, đưa vào trường để giáo dục những
thiếu niên hư hỏng. qua nghiên cứu ta thấy rằng có nhiều biện pháp, hình thức để giáo
dục, xử lí, tạo điều kiện thuận lợi cho những người có thẩm quyền xử lí dể dàng lựa
chọn hình thức áp dụng cho từng loại đối tượng vi phạm pháp luật. Trong khi đó, giai
đoạn này các nhà làm luật không soạn thảo, ban hành quy định người vi phạm pháp
luật mà theo quy định vi phạm như thế nào là có tính chất thường xuyên và những đối
tượng có hành vi vi phạm trật tự xã hội, an ninh nhưng chưa đến mức phải chịu trách
nhiệm hình sự để áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác, để đưa vào trường giáo
dưỡng, đưa vào trung tâm giáo dục giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Các quy định về này được áp dụng trong một thời gian dài và đã một phần nào
phát huy tác dụng tích cực trong việc giữ gìn trật tự xã hội, an toàn xã hội. Tuy nhiên,
đến những năm 90 thì những quy định nêu trên không còn phù hợp áp dụng không còn
phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước và xã hội đòi hỏi phải có những quy
định phù hợp. Chính vì thế, ngày 20/4/1993 Ủy ban thường vụ Quốc hội ( UBTVQH)
đã ra thông báo số 51/UBTVQH và ngày 11/5/1993 giao cho Bộ nội vụ phối hợp với
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan hữu quan khác
soạn thảo Pháp lệnh về những biện pháp hành chính cần thiết, các cơ quan đã tiến hành


xây dựng bản dự thảo. Những biện pháp đó là: Tập trung lao động bắt buộc, quản chế,
đưa vào trường giáo dục người chưa thành niên vi phạm pháp luật.
Đồng thời, Quốc hội đã đưa vào chương trình xây dựng pháp luật năm 1994 việc
sửa đổi Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995. Và Chính phủ đã thống nhất đề
xuất các biện pháp vào trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính..
Ngày 06/7/1995 Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính năm, theo đó xử lí vi phạm hành chính được xác định bao gồm xử phạt
hành chính và các biện pháp xử lí hành chính khác. Pháp lệnh này có hiệu lực ngày
01/8/1995.
Theo quy định tại Điều 20 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 thì

các biện pháp xử lý hành chính khác đối với người chưa thành niên bao gồm:
· Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
· Đưa vào trường giáo dưỡng;
· Đưa vào cơ sở chữa bệnh;
· Quản chế hành chính.
Trong đó biện pháp quản chế hành chính sau này thống nhất xóa bỏ8. Các biện
pháp trên đây chỉ áp dụng cho công dân Việt Nam có hành vi vi phạm pháp luật nhưng
chưa đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự.
Sau 7 năm có hiệu lực, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 được thay
thế bởi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 thông qua ngày 02/7/2002 có
hiệu lực ngày 01/10/2002. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 vẫn bao gồm các
biện pháp xử lí giống Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 1995, nhưng có những thay
đổi chủ yếu liên quan đến thẩm quyền, thủ tục và đối tượng áp dụng. Pháp lệnh 2002
quy định các biện pháp xử lí hành chính từ Điều 22 đến Điều 27 và thủ tục áp dụng các
biện pháp xử lí hành chính khác từ Điều 70 đến Điều 113. Những quy định trên được
cụ thể hóa trong Nghị định 163/2003/ NĐ- CP ngày 19/12/2003 quy định chi tiết thi
hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; nghị định 142/2003/ NĐ- CP của
Chính phủ ngày 24/11/2003 quy định việc áp dụng biện pháp xử lí hành chính đưa vào
trường giáo dưỡng; và nghị định 76/2003/ NĐ- CP của Chính phủ quy định và hướng
dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sử giáo dục; và Nghị định 135/
2004/NĐ- CP của Chính phủ ngày 10/6/2004 quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa
vào cơ sử chữa bệnh; Nghị định số 43/2005/ NĐ- CP quy định việc đưa người bán

8

Theo quy định của Pháp lệnh số 31/2007/Pl- Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 08/ 03/ 2007 sửa đổi bổ sung
một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002


dâm, người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định vào tạm trú vào cơ sở chữa

bệnh.
Trong các quy định về thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lí hành
chính khác đã thể hiện rõ trong cách phân cấp trong quản lí hành chính nhà nước, cả ba
cấp chính quyền đều được trao thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lí hành
chính khác. Khẳng định tính đúng đắn của quy định, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính năm 2002 quy đinh biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn cho Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã. Hiện nay, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính có nhiều nghị định
hướng dẫn thi hành cho nên đã bộc ;ộ những bất cập, thiếu thống nhất, vì vậy nhu cầu
xây dựng một văn bản có giá trị pháp lí cao trở nên cấp thiết.
Thực hiện Nghị quyết số 35/2004/NQ-QH11 Ngày 25/11/2004 của Quốc hội về
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh 2005, Chính phủ đã giao cho Bộ tư pháp chủ trì
việc xây dựng Bộ luật xử lí vi phạm hành chính. Trong quá trình dự thảo có nhiều ý
kiến cho rằng có nên duy trì các biện pháp xử lí vi phạm hành chính khác hay không,
nên ban hành một văn bản riêng biệt với xử lí vi phạm hành chính hay không.
2.2. Các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên theo
pháp luật hiện hành
Biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên theo pháp luật
hiện hành được quy định trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 và các văn
bản có liên quan.
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 là kết quả của một quá trình lâu dài
không ngừng hoàn thiện các quy định của pháp luật, với mục đích “ để đấu tranh phòng
ngừa và chống vi phạm hành chính, góp phần giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực quản lí Nhà nước”. Pháp lệnh có 10 chương 124
điều. Từ khi Pháp lệnh 2002 ra đời còn có rất nhiều văn bản hướng dẫn chi tiết việc
thực hiện những quy định của Pháp lệnh, trong đó có các Nghị định 134/2003/NĐ-CP
quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ban
hành ngày 24/11/2003; Nghị định số 163/2003/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành biện
pháp giáo dục tại, xã, phường, thị trấn ban hành ngày 19/12/2003; nghị định
135/2004/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức

hoạt động của cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và
chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên, người tự nguyện vào cơ sở chữa bệnh
ban hành ngày 10/06/2004.


Khoản 1, Điều 1 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 quy định “ xử lý vi
phạm hành chính bao gồm xử phạt hành chính và các biện pháp xử lý hành chính
khác”. Tuy nhiên không phải mọi biện pháp xử lý vi phạm hành chính đều được áp
dụng đối với người chưa thành niên, tùy từng trường hợp áp dụng.
2.2.1. Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính
Theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính thì tùy theo tính chất, mức
độ vi phạm mà người chưa thành niên vi phạm hành chính bị xử phạt vi phạm hành
chính hay áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác. Việc xử phạt hành chính đối
với người chưa thành niên được quy định tại Điều 6,7 của Pháp lệnh. Theo đó người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ bị xử phạt hành chính do lỗi cố ý và hình thức phạt áp
dụng đối với đối tượng này là cảnh cáo. Người chưa thành niên từ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi bị xử phạt về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra và hình phạt áp dụng là cảnh
cáo hoặc phạt tiền. Xử phạt vi phạt hành chính là hành động của các chủ thể có thẩm
quyền, căn cứ vào các quy phạm pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính,
quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt và các biện pháp cưỡng chế hành chính
khác( trong trường hợp cần thiết) đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính.
Hoạt động xử phạt hành chính có những đặc điểm sau đây:
Xử phạt hành chính được áp dụng đối với người chưa thành niên vi phạm hành
chính theo quy định của pháp luật. Chính phủ quy định hành vi vi phạm hành chính,
hình thức, biện pháp xử phạt vi phạm hành chính áp dụng đối với người chưa thành
niên vi phạm cụ thể trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002.
Xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành theo nguyên tắc, trình tự thủ tục được
quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính do cơ quan nhà
nước có thẩm quyên ban hành.
Kết quả của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính thể hiện ở các quyết định xử

phạt vi phạm hành chính.
Xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyên theo
quy định của pháp luật. Các chủ thể này được quy định rõ trong Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính năm 2002 và các văn bản có quy định về xử phạt hành chính.
Xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên là hoạt động của các
chủ thể có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành về xử phạt vi
phạm hành chính, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với
người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật.


×