Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.46 KB, 18 trang )

I. KHÁI NIỆM VỀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VÀ ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN.
1. Người chưa thành niên
Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân
cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật ở mỗi quốc gia
quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên.
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông
qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người
dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên
sớm hơn”.
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến
Pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật
Lao động, Bộ luật Dân sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm
pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành
niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành
niên trong từng lĩnh vực cụ thể.
Khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em. Theo Điều 1 Luật
Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16
tuổi”.
Như vậy, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển
về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn độ tuổi trong
các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định những quyền và
nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên.
Tóm lại, có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa
phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ
pháp lý như người đã thành niên.
2. Đặc điểm tâm lí của người chưa thành niên
Thực tế cho thấy, lối sống, đạo đức và nhân cách của mỗi người được hình thành
từ tuổi ấu thơ và định hình rõ nét từ tuổi vị thành niên. Tuổi vị thành niên hàm chứa trong
mình nó rất nhiều những yếu tố vừa ghi nhận, vừa loại bỏ, vừa định dạng vừa biến động
trong nhận thức, tâm lý, tình cảm, suy nghĩ của con người trong giai đoạn này rồi trở


thành khuôn mẫu nhân cách của chính con người đó trong cuộc đời sau này. Đặc trưng cơ
bản của nhóm vị thành niên có thể được xác định bởi những biến đổi thường xuyên ,liên
tục của ba mặt cơ bản: mặt thể chất, mặt tâm lý, tình cảm, nhận thức và sau đó là mặt
hành vi, cụ thể là :
Thứ nhất, vị thành niên là nhóm tuổi có những sự thay đổi mạnh mẽ nhất về thể
chất trong cuộc đời của mỗi người. Trên bình diện y - sinh học, nó là giai đoạn chuyển
biến từ một đứa trẻ non nớt thành một người lớn khoẻ mạnh. Sự trưởng thành nhanh
chóng gần như đột biến ấy không chỉ gây sự ngạc nhiên cho những người xung quanh mà
còn cho chính cả những đứa trẻ ở vào lứa tuổi này. “Tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu” là
câu tục ngữ hoàn toàn đúng mà người xưa đã dùng để nói về tuổi vị thành niên.
Thứ hai, vị thành niên cũng là giai đoạn thay đổi nhanh chóng nhất về tâm lý,
tình cảm, nhận thức, mà trong nhiều trường hợp, chính sự thay đổi còn có thể gây “sốc”
cho bản thân lứa tuổi này. Các nhà tâm lý học đều đã viết và nói nhiều về sự đa dạng và
phức tạp trong tình cảm, tâm lý trầm tư, u uất, sự khép mình vào thế giới nội tâm của
nhiều bạn gái trẻ, hoặc thái độ ngang bướng thậm chí phá phách, muốn khẳng định mình
ở các bạn trai, khi ở vào tuổi vị thành niên. Do vậy, có thể nói rằng, tuổi vị thành niên
cũng là giai đoạn có nhiều biến động nhất trong sự hình thành các giá trị đạo đức, lối
sống và nhân cách của mỗi người. Để rồi, sau khi vuợt qua lứa tuổi này, con người có thể
bước vào đời như những công dân tương lai với tất cả những gì được tạo dựng từ đó,
những tốt và xấu, trắng và đen, những đúng đắn và sai lệch đan xen nhau, đấu tranh với
nhau trong suốt quãng đường còn lại của đời người.
Thứ ba, từ sự thay đổi về thể chất và nhận thức, vị thành niên cũng là nhóm nhân
khẩu xã hội có những biến đổi mạnh mẽ nhất trong hành vi. Nó khiến cho bao giờ cũng
vậy, rất nhiều hành vi của nhóm tuổi này luôn là khó hiểu và khó lường trước được đối
với những thế hệ khác, đặc biệt là những người lớn tuổi. Ở vào tuổi vị thành niên, người
ta dễ dàng hành động mà không cần có sự cân nhắc, tính toán chín chắn. Trẻ vị thành
niên có thể là những người vị tha, độ lượng có thể hy sinh thân mình để làm những điều
tốt đẹp, nhưng cũng có thể ngay sau đó lại bị lôi kéo vào những hành vi xấu mà không
nhận biết được. Người ta cũng rất dễ bị lây nhiễm những tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu
chè, trộm cắp, đánh nhau khi ở vào tuổi vị thành niên để rôi khi trưởng thành đã không

thể dễ dàng từ bỏ những tệ nạn này.
II. BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM
TỘI.
1. Khái niệm và các đặc điểm của biện pháp tư pháp đối với người chưa thành
niên phạm tội
1.1. Khái niệm biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội
Hiện nay chưa có một khái niệm chính thức nào định nghĩa về biện pháp tư pháp.
Theo giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội, biện pháp tư
pháp được hiểu là "các biện pháp hình sự được Bộ luật Hình sự quy định, do các cơ quan
tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc
thay thế hình phạt".
Theo TSKH. GS Lê Cảm, biện pháp tư pháp được hiểu đầy đủ hơn, đó là: "Biện pháp
cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt do pháp luật hình sự
quy định và được cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào giai đoạn tố tụng
hình sự tương ứng cụ thể áp dụng đối với người phạm tội nhằm hạn chế quyền, tự do của
người đó hoặc hỗ trợ hay thay thế cho hình phạt". Như vậy, qua khái niệm trên có thể
hiểu một cách tương đối cụ thể về biện pháp tư pháp với những dấu hiệu sau:
1. Đây là biện pháp thể hiện trách nhiệm hình sự của một cá nhân khi người đó có
hành vi phạm tội.
2. Là một chế tài ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt, do pháp luật hình sự quy định;
là kết quả của sự phân hóa trách nhiệm hình sự nhìn từ góc độ hình phạt.
3. Có thể được áp dụng trong những giai đoạn tố tụng hình sự khác nhau.
4. Là biện pháp mang tính thay thế hoặc hỗ trợ cho hình phạt.
Từ khái niệm khoa học trên về biện pháp tư pháp, ta có thể hiểu một cách đơn giản
biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội như sau: "Biện pháp tư pháp
áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội là biện pháp cưỡng chế về hình sự của
Nhà nước áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, ít nghiêm khắc hơn hình
phạt, được cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền áp dụng nhằm hỗ trợ hay thay thế cho
hình phạt".
1.2. Đặc điểm của biện pháp tư pháp

- Biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trước hết là một
biện pháp của pháp luật hình sự và chỉ có thể được áp dụng khi có hành vi phạm tội do
người chưa thành niên thực hiện.
- Biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên là biện pháp cưỡng chế về
hình sự ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt và việc áp dụng biện pháp tư pháp thay thế
hình phạt không để lại án tích.
- Biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên là biện pháp tư pháp
nhằm thay thế hoặc hỗ trợ hình phạt do cơ quan có thẩm quyền áp dụng.
Giữa biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên và hình phạt có điểm
khác nhau như sau:
Về mức độ nghiêm khắc trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế về hình sự: Hình
phạt được coi là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của hình sự, do đó, các loại chế
tài khác đều có mức độ ít nghiêm khắc hơn, trong đó có biện pháp tư pháp.
Về chủ thể có thẩm quyền áp dụng và đối tượng bị áp dụng: Hình phạt do Tòa án áp
dụng đối với chủ thể phạm tội. Nhưng biện pháp tư pháp có thể do cơ quan tố tụng khác
ngoài Tòa án và các chủ thể khác ngoài chủ thể phạm tội cùng tham gia thực hiện biện
pháp tư pháp.
Về điều kiện áp dụng (ranh giới giữa áp dụng hình phạt và áp dụng biện pháp tư
pháp): Khi xét thấy trong trường hợp không cần thiết phải áp dụng hình phạt thì Tòa
quyết định áp dụng các biện pháp tư pháp thay thế.
Về hậu quả pháp lý của việc áp dụng: Người phạm tội khi bị áp dụng hình phạt thì
chắc chắn sẽ chịu án tích. Nhưng nếu áp dụng biện pháp tư pháp quy định tại Điều 70 Bộ
luật hình sự thì người phạm tội không phải chịu án tích.
1.3. Nguyên tắc trong xử lý người chưa thành niên phạm tội.
+ Nguyên tắc thứ nhất, việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm
giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích
cho xã hội.
+ Nguyên tắc thứ hai, người chưa thành niên có thể được miễn trách nhiệm hình sự,
nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có
nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.

+ Nguyên tắc thứ ba, việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên
phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết
và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và
yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
+ Nguyên tắc thứ tư, ưu tiên áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng thay thế cho hình phạt trong trường hợp không cần
thiết
+ Nguyên tắc thứ năm là Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người
chưa thành niên phạm tội.
Khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cần hạn chế áp dụng
hình phạt tù. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được
hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng.
Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội
+ Nguyên tắc cuối cùng, án đã tuyên đối với người chưa thành niên khi chưa đủ 16
tuổi, thì không để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. người chưa thành niên
phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên.
2. Biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên quy định trong
BLHS 1999.
Theo quy định Bộ luật Hình sự 1999, biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa
thành niên bao gồm:
+ Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
+ Đưa vào trường giáo dưỡng.
Bên cạnh đó, trong một số trường hợp nếu không trái với quy định tại Chương X Bộ
luật Hình sự 1999, người chưa thành niên phạm tội còn có thể bị áp dụng các biện pháp
tư pháp quy định tại phần chung của Bộ luật.
2.1. Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là biện pháp tư pháp áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng trong thời gian từ

một năm đến hai năm.
Xét theo Điều 12 Bộ luật Hình sự quy định trách nhiệm hình sự thì người từ đủ 14
tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm về mọi tội phạm. Từ sự phân tích trên ta thấy, nếu căn cứ theo loại tội phạm
thì điều kiện áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn được áp dụng
khi người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng. Và nếu
căn cứ theo đối tượng bị áp dụng thì biện pháp này được áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Biện pháp này còn được quyết định trên cơ sở cân nhắc các yếu tố khác như tình tiết
giảm nhẹ, nhân thân của người thực hiện hành vi phạm tội, thái độ ăn năn, hối cải sau khi
phạm tội hoặc điều kiện có nơi thường trú ổn định và môi trường sống của họ thuận lợi
cho việc giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự cũng quy định trách nhiệm của người chưa thành
niên khi chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Người chưa thành niên
phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, lao động, tuân theo pháp luật dưới sự
giám sát, giáo dục của chính quyền xã, phường, thị trấn và tổ chức xã hội được Tòa án
giao trách nhiệm. Và để cụ thể những quy định này năm 2000 Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 59/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 quy định việc thi hành biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội.
Nghị định số 59/2000/NĐ-CP đã quy định một cách cụ thể trách nhiệm và quyền của
người chưa thành niên phạm tội cũng như trách nhiệm của gia đình, Ủy ban nhân dân và
người trực tiếp giám sát trong khi các em chấp hành biện pháp.
Người chưa thành niên phải có trách nhiệm sau:
- Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước, tích cực thực hiện nghĩa vụ công
dân và quy ước của thôn, làng, ấp, bản, cụm dân cư nơi mình cư trú.
- Làm bản cam kết với Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc tổ chức xã hội
được giao giám sát, giáo dục, trong đó nêu rõ các biện pháp tích cực sửa chữa lỗi lầm của
mình.
- Thực hiện nghiêm chỉnh bản cam kết của mình, tích cực sửa chữa lỗi lầm, học tập,

làm ăn lương thiện và tham gia chung của cộng đồng dân cư nơi mình cư trú.
Ngoài ra, người chưa thành niên còn có nghĩa vụ:
- Làm bản tự kiểm điểm về quá trình rèn luyện, tu dưỡng của mình gửi Chủ tịch Ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc người đứng đầu tổ chức được giao giám sát, giáo
dục khi đã chấp hành một phần hai thời gian thử thách;
- Hàng tháng phải báo cáo bằng văn bản với người được giao giám sát, giáo dục về
kết quả rèn luyện, tu dưỡng của mình, trong trường hợp đi khỏi nơi cư trú trên 30 ngày,
thì báo cáo và trong thời gian tạm trú phải có nhận xét của cảnh sát khu vực hoặc công an
xã nơi người chưa thành niên phạm tội đến cư trú".
2.2. Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
Biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên phạm
tội (sau đây gọi tắt là biện pháp giáo dưỡng) được quy định trong Bộ luật hình sự, là biện
pháp do Tòa án quyết định, áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới
18 tuổi phạm tội, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với họ, nhưng do
tính chất của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần
phải đưa người đó vào trường giáo dưỡng.
So với biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thì biện pháp giáo dưỡng nghiêm
khắc hơn. Tính nghiêm khắc của biện pháp này thể hiện ở chỗ người chưa thành niên
phạm tội khi chấp hành biện pháp này sẽ bị cách ly khỏi môi trường xã hội trong một thời
hạn nhất định để vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ. Biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng nhằm giúp các em phạm tội có môi trường tốt hơn để khắc phục những sai
lầm của mình, tách họ khỏi những điều kiện xấu tác động đến việc phạm tội của họ.
Biện pháp giáo dưỡng được áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi. Biện pháp giáo dưỡng có tính nghiêm khắc hơn so với biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn nên áp dụng khi tội phạm mang tính nguy hiểm hơn vì người từ
đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng.
Để áp dụng biện pháp giáo dưỡng, ngày 23/8/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 52/2001/NĐ-CP hướng dẫn thi hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
Theo đó, người chưa thành niên đang chấp hành biện pháp giáo dưỡng (sau đây gọi là

học sinh) phải chịu sự giám sát, quản lý, giáo dục, phân công lao động của cán bộ, giáo
viên nhà trường và chấp hành nghiêm chỉnh nội quy của nhà trường.
3. Một số biện pháp tư pháp khác có thể được áp dụng với người chưa thành
niên phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự.
Trong một số trường hợp nếu không trái với quy định tại Chương X Bộ luật Hình sự
1999, người chưa thành niên phạm tội còn có thể bị áp dụng các biện pháp tư pháp quy
định tại phần chung của Bộ luật, bao gồm các biện pháp sau:
3.1. Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm
Biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm mang tính hỗ trợ cho
hình phạt, nhằm ngăn chặn nguy cơ phạm tội của người bị áp dụng biện pháp tư pháp
này. Biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm được áp dụng trong các
trường hợp sau:
+ Trường hợp thứ nhất, tịch thu công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội.
+ Trường hợp thứ hai, vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những
thứ ấy mà có.
+ Trường hợp thứ ba, vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành Biện pháp này được áp
dụng mang tính hỗ trợ cho hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
3.2. Biện pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công
khai xin lỗi.
Với tính chất là biện pháp hỗ trợ hình phạt, hai biện pháp trả lại tài sản, sửa chữa
hoặc bồi thýờng thiệt hại và buộc công khai xin lỗi nhằm bảo vệ quyền của ngýời bị hại.
Biện pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thýờng thiệt hại ðýợc áp dụng khi chứng minh
ðýợc ngýời phạm tội ðã chiếm đoạt tài sản của người khác và người chủ sơ hữu những tài
sản trên đã xác định. Trong trường hợp tài sản bị chiếm đoạt không còn thì người thực
hiện hành vi phạm tội phải có nghĩa vụ bồi thường các thiệt hại gây ra. Nếu tài sản đó bị
hư hỏng thì người đó phải có nghĩa vụ sửa chữa, nếu sửa chữa không được thì phải bồi
thường. Ngoài ra, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại còn được thực hiện thực hiện trong
những vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác.
Việc áp dụng biện pháp tư pháp bồi thường thiệt hại đối với người chưa thành niên
cần lưu ý một số quy định của Bộ luật Dân sự 2005.

Biện pháp buộc người phạm tội công khai xin lỗi người bị hại được áp dụng trên cơ
sở tự nguyện của người phạm tội và sự đồng ý của người bị hại.
3.2. Biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
Bắt buộc chữa bệnh là biện pháp tư pháp được bộ luật Hình sự quy định, do Tòa án
hoặc Viện kiểm sát áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong
khi mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình.
Biện pháp bắt buộc chữa bệnh được áp dụng tùy trong trường hợp khác nhau:
+ Trong trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang
mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình, thì tùy từng giai đoạn Tòa án, Viện Kiểm sát nhân dân căn cứ
theo giám định pháp y để đưa họ vào cơ sở điều trị chuyên khoa chữa bệnh bắt buộc hoặc
giao cho gia đình, người quản lý trong nom, giám sát dưới sự quản lý của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền. Trường hợp này người phạm tội không phải chịu TNHS.
+ Trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi có năng lực TNHS,
nhưng khi kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi của mình, thì căn cứ vào kết luận của hội đồng giám định, Tòa án ra quyết định
đưa họ đi điều trị bệnh. Sau khi khỏi bệnh người đó có thể phải chịu TNHS.
+ Trường hợp cuối là người đang chấp hành hình phạt bị mắc bênh tới mức mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, căn cứ vào kết quả giám định pháp y,
Tòa án ra quyết định đưa họ vào một cơ sở chữa trị. Sau khi khỏi bệnh, người này phải
tiếp tục chấp hành hình phạt nếu không có lý do miễn chấp hành hình phạt.
III. BIỆN PHÁP XỬ LÝ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VI PHẠM
HÀNH CHÍNH.
1. Một số khái niệm về vi phạm hành chính.
- Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy
định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của
pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
- Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình
thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi

phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.
- Biện pháp xử lý hành chính là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân vi phạm
pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm, bao gồm biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo
dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính là biện pháp mang tính giáo dục được
áp dụng để thay thế cho hình thức xử phạt vi phạm hành chính hoặc biện pháp xử lý hành
chính đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính, bao gồm biện pháp nhắc nhở và
biện pháp quản lý tại gia đình.
2. Biện pháp xử lý đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính.
Việc xử lý đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính được thực hiện theo
quy định tại phần thứ năm và các quy định khác có liên quan của Luật xử lý vi phạm
hành chính. Bao gồm:
- Các hình thức xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả;
- Các biện pháp xử lý hành chính;
- Các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính.
2.1. Các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả áp dụng đối với
người chưa thành niên
a. Các hình thức xử phạt
- Cảnh cáo:
Là hình thức phạt chính, áp dụng độc lập đối với vi phạm hành chính do người chưa
thành niên từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện với lỗi cố ý. Cảnh cáo được quyết định
bằng văn bản.
- Phạt tiền:
Là hình thức phạt chính được áp dụng độc lập đối với mọi vi phạm hành chính do
người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện. Người chưa thành niên
bị áp dụng hình thức phạt tiền thì mức phạt tối đa chỉ bằng ½ mức tiền phạt áp dụng đối
với người thành niên (từ 25.000đ đến 500.000.000đ).
Nếu người chưa thành niên không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc người giám hộ
phải nộp phạt thay.

- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính:
Là việc sung vào ngân sách nhà nước vật, tiền, hàng hóa, phương tiện có liên quan
trực tiếp đến vi phạm hành chính, được áp dụng đối với vi phạm hành chính nghiêm
trọng do người chưa thành niên thực hiện, với lỗi cố ý.
Hình thức này có thể là hình thức phạt chính nếu được áp dụng độc lập, hình thức này
cũng có thể là hình thức phạt bổ sung nếu áp dụng kèm theo hình thức phạt chính.
b. Các biện pháp khắc phục hậu quả
- Buộc khôi phục lại hiện trạng ban đầu: Người chưa thành niên vi phạm hành chính
phải khôi phục lại hiện trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính của mình gây
ra, nếu họ không thực hiện thì sẽ bị cưỡng chế thực hiện; nếu họ không có khả năng thực
hiện thì cha mẹ hoặc người giám hộ thực hiện thay, hoặc bị cưỡng chế thực hiện.
- Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch
bệnh: Người chưa thành niên vi phạm hành chính phải thực hiện biện pháp để khắc phục
tình trạng ô nhiễm môi trường lây lan dịch bệnh; nếu người chưa thành niên vi phạm
hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện, nếu họ không có khả
năng thực hiện thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải thực hiện thay hoặc bị cưỡng chế
thực hiện.
- Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây
trồng và môi trường; văn hóa phẩm độc hại: Người chưa thành niên vi phạm hành chính
phải tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và
môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại hoặc tang vật khác thuộc đối tượng bị tiêu
hủy theo quy định của pháp luật. Nếu người chưa thành niên không tự nguyện thực hiện
thì bị cưỡng chế thực hiện; nếu họ không có khả năng thực hiện thì cha mẹ hoặc người
giám hộ phải thực hiện thay hoặc bị cưỡng chế thực hiện.
- Buộc nộp lại khoản thu bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm hoặc
buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái
với quy định của pháp luật: Người chưa thành niên vi phạm phải nộp lại số lợi bất hợp
pháp là tiền, tài sản, giấy tờ và vật có giá có được từ vi phạm hành chính mà người chưa
thành niên đó đã thực hiện để sung vào ngân sách nhà nước hoặc hoàn trả cho đối tượng
bị chiếm đoạt; phải nộp lại số tiền bằng với giá trị tang vật, phương tiện vi phạm hành

chính nếu tang vật, phương tiện đó đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp
luật; nếu người chưa thành niên vi phạm hành chính không tự ngyện thực hiện thì bị
cưỡng chế thực hiện, nếu họ không có khả năng thực hiện thì cha mẹ hoặc người giám hộ
phải thực hiện thay hoặc bị cưỡng chế thực hiện.
2. Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành niên
Biện pháp xử lý hành chính là biện pháp được áp dụng đối với người chưa thành
niên vi phạm phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội
phạm, bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng.
Người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính nếu trong thời hạn 1
năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử lý hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành
quyết định xử lý mà không tái phạm thì được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành
chính.
a. Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn: được áp dụng đối với người
chưa thành niên trong các trường hợp sau:
- Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội
phạm rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự .
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội
phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại bộ luật hình sự.
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi 2 lần trở lên trong 6 tháng có hành vi trộm
cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng nhưng chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp này phải được cha, mẹ hoặc người
giám hộ quản lý, trường hợp không có nơi cư cư trú ổn định thì phải ở tại cơ sở bảo trợ
xã hội hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em; được đi học hoặc tham gia các chương trình học tập
hoặc dạy nghề khác; tham gia các chương trình tham vấn, phát triển kỹ năng sống tại
cộng đồng.
Thẩm quyền áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thuộc về Chủ tịch
UBND cấp xã; thời hạn áp dụng biện pháp này từ 3 tháng đến 6 tháng.
b. Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng: được áp dụng đối với người chưa
thành niên trong các trường hợp sau :

- Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự.
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội
phạm rất nghiêm trọng do vô ý quy định tại Bộ luật hình sự.
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội
phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại bộ luật hình sự mà trước đó đã bị áp dụng biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi 2 lần trở lên trong 6 tháng thực hiện hành vi
trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng mà chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự và trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng. Thời hạn áp dụng biện pháp này từ 6 tháng đến 24 tháng.
3. Các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
Các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
được thực hiện khi có đủ điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật. Bao gồm biện
pháp nhắc nhở và quản lý tại gia đình.
a. Biện pháp nhắc nhở
Nhắc nhở là biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính để chỉ ra những vi phạm
hành chính do người chưa thành niên thực hiện, được thực hiện đối với người chưa thành
niên vi phạm hành chính mà theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành
chính khi có đủ các điều kiện sau:
- Vi phạm hành chính theo quy định bị phạt cảnh cáo;
- Người chưa thành niên vi phạm đã tự nguyện khai báo, thành thật, hối lỗi về hành
vi vi phạm của mình.
Biện pháp nhắc nhở được thực hiện bằng lời nói, ngay tại chỗ, do người có thẩm
quyền xử phạt quyết định.
b. Biện pháp quản lý tại gia đình
Quản lý tại gia đình là biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính áp dụng đối với
người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi 2 lần trở lên trong 6 tháng có hành
vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng mà chưa đến mức truy cứu trách

nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau:
- Người chưa thành niên đã tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi về hành vi vi
phạm của mình;
- Có môi trường thuận lợi cho việc thực hiện biện pháp này;
- Cha mẹ hoặc người giám hộ có đủ điều kiện thực hiện việc quản lý và tự nguyện
nhận trách nhiệm quản lý tại gia đình.
Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã quyết định biện pháp quản lý tại gia đình trong thời
hạn từ 3 tháng đến 6 tháng.
Trong thời gian quản lý tại gia đình, người chưa thành niên được đi học, hoặc tham
gia các chương trình học tập hoặc dạy nghề khác; tham gia các chương trình tham vấn,
phát triển kỹ năng sống tại cộng đồng. Nếu người chưa thành niên tiếp tục vi phạm pháp
luật thì chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã quyết định chấm dứt việc áp dụng biện pháp này
và xử lý theo quy định của pháp luật.
Để bảo đảm áp dụng đồng bộ, thống nhất các quy định pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính nói chung, xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên nói riêng,
Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Luật xử lý vi phạm hành
chính, đặc biệt là các quy định hướng dẫn xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa
thành niên. Làm tốt công tác này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý hành chính nhà
nước, tăng cường pháp chế XHCN, phòng ngừa người chưa thành niên vi phạm hành
chính.
C. Phân biệt biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và biện pháp
đưa vào trường giáo dưỡng với biện pháp xử lý vi phạm hành chính giáo dục tại xã,
phường, thị trấn và biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
1. Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Hành vi phạm tội Hành vi vi phạm hành chính
Đối tượng
áp dụng
- Người chưa thành niên phạm tội
từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
- Người từ đủ 12 tuổi đến

dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có
dấu hiệu của một tội phạm rất
nghiêm trọng do cố ý quy định tại
Bộ luật hình sự .
- Người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có
dấu hiệu của một tội phạm nghiêm
trọng do cố ý quy định tại Bộ luật
hình sự.
- Người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi 2 lần trở lên trong 6
tháng có hành vi trộm cắp, lừa
đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công
cộng nhưng chưa đến mức truy
Loại tội
phạm áp
dụng
- Tội ít nghiêm trọng
- Hoặc tội nghiêm trọng
cứu trách nhiệm hình sự.
Thẩm
quyền
quyết
định áp
dụng
- Tòa án
- Chủ tịch UBND cấp xã
Thời hạn
áp dụng
- Từ một năm đến hai năm - Từ 3 tháng đến 6 tháng.

2. Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
Hành vi phạm tội Hành vi vi phạm hành chính
Các
trường
hợp áp
dụng
- Người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi thực hiện hành
vi của một tội phạm rất
nghiệm trọng do cố ý hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng.
- Người từ đủ 16 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi thực hiện
mọi hành vi tội phạm.( tội
phạm ít nghiêm trong, tội
phạm nghiêm trọng, tội
phạm rất nghiêm trong và tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng)
- Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14
tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của
một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do
cố ý quy định tại Bộ luật hình sự.
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của
một tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý
quy định tại Bộ luật hình sự.
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của
một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy

định tại bộ luật hình sự mà trước đó đã
bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn.
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18
tuổi 2 lần trở lên trong 6 tháng thực hiện
hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây
rối trật tự công cộng mà chưa đến mức
truy cứu trách nhiệm hình sự và trước đó
đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn.
Thẩm
quyền áp
dụng
- Tòa án - Tòa án nhân dân cấp huyện
Thời hạn
áp dụng
- Từ một năm đến hai năm - Từ 6 tháng đến 24 tháng

×