Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

LUẬN văn LUẬT tư PHÁP CHẾ ĐỊNH điều TRA lại TRONG LUẬT tố TỤNG HÌNH sự VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.17 KB, 74 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
----------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NIÊN KHÓA 2009 - 2013
Đề tài

CHẾ ĐỊNH ĐIỀU TRA LẠI
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM

Giáo viên hướng dẫn:
ThS. MẠC GIÁNG CHÂU
Bộ môn: Luật Tư pháp

Sinh viên thực hiện:
VÕ THỊ KIỀU
MSSV: 5095336
Lớp: Luật Tư Pháp 2 – Khóa 35

Cần Thơ, tháng 11/2012


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

LỜI CÁM ƠN
Trãi qua bốn năm học tập dưới mái trường Đại học Cần Thơ đã trang bị
cho tôi những vốn kiến thức, những trãi nghiệm và bài học quý báu làm hành
trang bước vào tương lai. Năm cuối của bậc học Cử nhân luật tôi lựa chọn đề
tài “Chế định điều tra lại trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận


văn tốt nghiệp. Để hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp này tôi xin gửi lời cám
ơn chân thành và sâu sắc nhất đến:
Cha mẹ - người đã sinh ra, nuôi dưỡng và tạo điều kiện cho tôi bước lên
thềm tri thức. Cám ơn cha mẹ đã luôn động viên, ủng hộ tôi để tôi có thêm
niềm tin vượt qua mọi khó khăn.
Tiếp theo, tôi xin cám ơn toàn thể quý thầy cô Khoa luật đã tận tình
truyền đạt và giúp tôi tiếp thêm những vốn kiến thức quý giá trong suốt quá
trình học tập tại trường Đại học Cần Thơ.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cám ơn sâu sắc đến cô Mạc Giáng Châu, cô đã
luôn hết lòng, nhiệt tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn
thành tốt luận văn tốt nghiệp. Cô đã giúp tôi có những định hướng nghiên cứu,
phương pháp tiếp cận và giải quyết vấn đề một cách hoàn chỉnh.
Cuối lời tôi xin kính chúc mọi người nhiều sức khỏe, nhiều thành công.
Tôi xin hứa sẽ bảo vệ tốt luận văn tốt nghiệp để đền đáp sự giúp đỡ ân cần mà
mọi người đã giành cho tôi.
Trân trọng kính chào./.
Cần Thơ, ngày 24 tháng 11 năm 2012
Người viết

Võ Thị Kiều

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

2

SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN


..................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
Cần Thơ, ngày 24 tháng 11 năm 2012
Cán bộ hướng dẫn

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

3


SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN


..................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
Cần Thơ, ngày 24 tháng 11 năm 2012
Cán bộ phản biện

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu


4

SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐIỀU TRA LẠI .........................................4
1.1 Khái quát chung về điều tra lại.......................................................................4
1.1.1 Khái niệm điều tra lại ..................................................................................4
1.1.2 Đặc điểm của điều tra lại .............................................................................6
1.1.3 So sánh điều tra lại với điều tra bổ sung .....................................................8
1.2 Cơ sở lý luận về điều tra lại...........................................................................11
1.2.1 Nguyên nhân dẫn đến điều tra lại .............................................................11
1.2.1.1 Nguyên nhân khách quan.......................................................................11
1.2.1.2 Nguyên nhân chủ quan...........................................................................12
1.2.2 Mục đích của điều tra lại ...........................................................................16
1.2.3 Ý nghĩa của điều tra lại..............................................................................17
CHƯƠNG 2. NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU TRA LẠI TRONG
BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ......................................................20
2.1 Thẩm quyền yêu cầu điều tra lại...................................................................20
2.1.1 Hội đồng xét xử phúc thẩm .......................................................................20
2.1.2 Hội đồng giám đốc thẩm............................................................................23
2.1.3 Hội đồng tái thẩm ......................................................................................26
2.2 Căn cứ yêu cầu điều tra lại............................................................................26
2.2.1 Căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm yêu cầu điều tra lại ......................26
2.2.2 Căn cứ để Hội đồng giám đốc thẩm yêu cầu điều tra lại...........................29
2.2.2.1 Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết

khách quan của vụ án .............................................................................................. 30
2.2.2.2 Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi điều tra, truy tố ..31
2.2.2.3 Có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật hình sự ......34
2.2.3 Căn cứ để Hội đồng tái thẩm yêu cầu điều tra lại .....................................37
2.2.3.1 Lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, lời dịch của người
phiên dịch có những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật ...........37

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

5

SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
2.2.3.2 Điều tra viên, Kiểm sát viên đã có kết luận không đúng làm cho vụ án bị
xét xử sai .................................................................................................................39
2.2.3.3 Vật chứng, biên bản điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng khác hoặc
những tài liệu khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật.......................40
2.2.3.4 Những tình tiết khác làm cho việc giải quyết vụ án không đúng sự thật..40
2.3 Thời hạn và gia hạn thời hạn điều tra lại .....................................................41
2.3.1 Thời hạn điều tra lại ..................................................................................41
2.3.2 Gia hạn thời hạn điều tra lại .....................................................................42
CHƯƠNG 3 MỘT SỐ TỒN TẠI VÀ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT ............................44
3.1 Về mặt pháp lý ...............................................................................................44
3.1.1 Thẩm quyền yêu cầu điều tra lại................................................................ 44
3.1.1.1 Thẩm quyền yêu cầu điều tra lại của Hội đồng xét xử phúc thẩm...........44
3.1.1.2 Thẩm quyền yêu cầu điều tra lại của Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng
tái thẩm ...................................................................................................................46
3.1.2 Phạm vi yêu cầu điều tra lại ......................................................................47

3.1.2.1 Phạm vi yêu cầu điều tra lại của Hội đồng xét xử phúc thẩm.................47
3.1.2.2 Phạm vi yêu cầu điều tra lại của Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái
thẩm.........................................................................................................................48
3.1.3 Căn cứ để yêu cầu điều tra lại ...................................................................49
3.1.3.1 Căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm yêu cầu điều tra lại ....................49
3.1.3.1 Căn cứ để Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm yêu cầu điều tra
lại ............................................................................................................................51
3.1.4 Thời hạn yêu cầu điều tra lại.....................................................................54
3.2 Về mặt thực tiễn.............................................................................................55
3.2.1 Đảm bảo làm rõ các vấn đề yêu cầu điều tra lại........................................55
3.2.1.1 Tồn tại .....................................................................................................55
3.2.1.2 Giải pháp.................................................................................................56
3.2.2 Đảm bảo lực lượng, cơ sở vật chất để tiến hành điều tra lại .....................57
3.2.2.1 Tồn tại .....................................................................................................57
3.2.2.2 Giải pháp.................................................................................................58
3.2.3 Đảm bảo sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng........................58

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

6

SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
3.2.3.1 Tồn tại .....................................................................................................58
3.2.3.2 Giải pháp.................................................................................................59
3.2.4 Vấn đề chứng cứ trong các vụ án điều tra lại............................................60
3.2.4.1 Tồn tại .....................................................................................................60
3.2.4.2 Giải pháp.................................................................................................60

KẾT LUẬN ............................................................................................................62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

7

SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Điều tra vụ án hình sự là chức năng quan trọng trong hoạt động tư pháp hình
sự của cơ quan (người) tiến hành có thẩm quyền đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm
trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội và người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm
thông qua các chứng cứ đã thu thập được, đồng thời cũng là một trong những phương
tiện cơ bản để thực hiện tốt nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm trong thực tiễn
áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, tránh bỏ lọt tội phạm. Điều tra vụ án hình sự có vai
trò rất quan trọng trong tố tụng hình sự, không có kết quả trong giai đoạn điều tra thì
không có cơ sở cho việc ra quyết định truy tố của Viện kiểm sát, Tòa án cũng không
thể tiến hành xét xử vụ án hình sự. Đây là một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và
quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong
giai đoạn trước khi truy tố của Viện kiểm sát và xét xử của Tòa án, cùng với các giai
đoạn tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống
tội phạm trong toàn xã hội.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS) đã quy định những biện pháp để
đảm bảo cho quá trình điều tra có thể thu thập được những chứng cứ chứng minh tội
phạm, người thực hiện hành vi phạm tội, xác định tính chất, mức độ thực hiện hành vi
phạm tội gây ra; phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Mặc dù
vậy, do những nguyên nhân khách quan, chủ quan nên không loại trừ những trường
hợp vụ án cần phải được điều tra lại. Để đảm bảo việc xử lý công minh, kịp thời mọi
hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, BLTTHS đã có
những quy định cho phép Hội đồng xét xử phúc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm và
Hội đồng tái thẩm có quyền hủy bản án sơ thẩm, bản án quyết định đã có hiệu lực
pháp luật để trả hồ sơ điều tra lại vụ án hình sự. Tuy nhiên, các quy định về điều tra
lại trong BLTTHS nước ta chưa thể hiện được bản chất của điều tra lại, chưa đầy đủ,
nhiều điểm không rõ ràng và khó áp dụng. Mặt khác, việc giải thích hướng dẫn về thủ
tục điều tra lại chưa được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quan tâm, nên trong
thực tiễn công tác điều tra lại mỗi đơn vị có cách hiểu và thực hiện khác nhau làm
cho pháp chế xã hội chủ nghĩa bị vi phạm.
Trong nhiều năm qua, việc hủy bản án, quyết định trả hồ sơ điều tra lại được
các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện không ít, ngoài những dấu hiệu tích cực thể
hiện tính thận trọng trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, nhằm xử lý đúng người,
đúng tội và không bỏ lọt tội phạm, thì việc trả hồ sơ để điều tra lại ở một số địa

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

8

SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
phương đã phản ánh phần nào tinh thần trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức có thẩm
quyền trong việc giải quyết vụ án chưa cao, năng lực nghiệp vụ còn hạn chế, chưa

đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong
giai đoạn hiện nay. Nhiều vụ án ít nghiêm trọng, nhưng thời hạn điều tra kéo dài do
việc trả hồ sơ vụ án để điều tra lại mà thực chất các nội dung trả hồ sơ để điều tra lại
lẽ ra phải được xem xét kỹ ở các giai đoạn điều tra của quá trình giải quyết vụ án.
Quá trình giải quyết vụ án vì thế cũng gặp nhiều khó khăn hơn, đặc biệt khả năng xảy
ra oan sai là không ít.
Đứng trước các bất cập, tồn tại này các nhà làm luật nước ta đã có những
nghiên cứu và đưa ra các giải pháp nhằm chấn chỉnh nhưng vẫn còn một số vấn đề bỏ
ngõ, chưa được giải quyết một cách thích đáng. Nhìn chung, chưa đáp ứng được đòi
hỏi của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong việc giải quyết
vụ án hình sự. Để hiểu rõ hơn về vai trò và thực tiễn áp dụng các quy định về điều tra
lại trong tố tụng hình sự, từ đó phát hiện ra những ưu, nhược điểm và đề xuất những
giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định về điều tra lại theo yêu cầu của
tình hình mới thì việc tìm hiểu, giải thích, làm sáng tỏ thủ tục điều tra lại về mặt lý
luận và thực tiễn có ý nghĩa rất quan trọng. Chính vì vậy, tác giả đã quyết định chọn
đề tài “Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” để nghiên cứu và
tìm hiểu.
2.

Phạm vi nghiên cứu
Đề tài: “Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” là một đề

tài khá rộng. Song với kiến thức còn hạn chế, kinh nghiệm thực tiễn còn yếu kém,
thời gian còn hạn hẹp nên người viết chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận,
một số quy định cụ thể trong BLTTHS. Trong phạm vi đề tài người viết tập trung
nghiên cứu các vấn đề liên quan đến điều tra lại như khái niệm, đặc điểm, nguyên
nhân, mục đích, ý nghĩa, chủ thể có thẩm quyền yêu cầu điều tra lại, căn cứ trả hồ sơ
điều tra lại và thời hạn, gia hạn thời hạn điều tra lại. Thông qua đó, người viết đề cập
đến những tồn tại về mặt pháp lý và chỉ ra những bất cập, vướng mắc trong việc áp
dụng các quy định về điều tra lại trên thực tế. Từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị

cụ thể.
3.

Mục tiêu nghiên cứu

Điều tra lại là một hoạt động tố tụng quan trọng trong tố tụng hình sự Việt
Nam. Kết quả điều tra lại là một trong những yếu tố ảnh hưởng cơ bản đến kết quả
giải quyết vụ án. Vì thế nếu hoạt động điều tra lại không được quy định cụ thể, chặt

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

9

SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
chẽ sẽ dẫn đến việc thực hiện không nghiêm chỉnh và lợi dụng những sơ hở trong quy
định của pháp luật gây ảnh hưởng xấu đến quá trình giải quyết vụ án. Từ việc nghiên
cứu, tìm hiểu các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về điều tra lại và việc thi
hành các quy định này trong thực tế người viết mong muốn làm sáng tỏ về mặt lý
luận, chỉ ra những khiếm khuyết về mặt lập pháp, đồng thời tìm hiểu việc áp dụng các
quy định về điều tra lại trên thực tế để biết được những quy định nào của pháp luật
hiện hành là chưa phù hợp, chưa đầy đủ và chưa rõ ràng cần được sửa đổi, bổ sung.
Trên cơ sở đó, đề xuất những phương hướng khắc phục chung và một số giải pháp cụ
thể nhằm góp phần hoàn thiện các quy định về điều tra lại trong tố tụng hình sự Việt
Nam, phục vụ mục tiêu cải cách tư pháp.
4.

Phương pháp nghiên cứu


Bài viết được xem xét trên cơ sở Chủ Nghĩa Mác-Lênin về nhà nước và pháp
luật, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam, về cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, người viết còn kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu như: phương pháp phân tích luật, phân tích các tình huống thực tế, các sự
kiện pháp lý nảy sinh trên thực tế, so sánh, rút kết lại ý kiến của các luật gia, các nhà
bình luận khoa học nổi tiếng trong nước để nhận ra điểm chưa phù hợp trong những
quy định của BLTTHS về điều tra lại. Bên cạnh đó bài làm còn tham khảo những văn
bản pháp luật và một số tài liệu có liên quan khác. Từ đó, người viết vận dụng thực
tiễn để nghiên cứu đề tài này.
5.

Bố cục đề tài

Nội dung chính của đề tài được bố cục làm ba phần: Lời nói đầu, Phần nội
dung và Kết luận.
Trong đó, phần nội dung được cấu trúc thành ba Chương, cụ thể:
Trong chương 1, người viết sẽ khái quát chung về điều tra lại
Tiếp theo, trong chương 2 người viết đi sâu phân tích, làm rõ những quy định
của luật thực định về điều tra lại.
Cuối cùng, ở chương 3 người viết sẽ trình bày những hạn chế về mặt pháp lý,
cũng như hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định về điều tra lại và đề ra một số
phương hướng giải quyết, biện pháp khắc phục những hạn chế đó.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

10


SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐIỀU TRA LẠI
1.1 Khái quát chung về điều tra lại
1.1.1 Khái niệm điều tra lại
Nhằm khắc phục những tồn tại và thiếu sót trong quá trình điều tra vụ án hình
sự, BLTTHS đã có những quy định để Hội đồng xét xử phúc thẩm, Hội đồng giám
đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm có thẩm quyền hủy bản án, quyết định để điều tra lại vụ
án hình sự (khoản 1 Điều 250, Điều 285, khoản 2 Điều 298).
Về mặt luật thực định, ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa có một khái niệm pháp
lý về điều tra lại và cũng chưa được giải thích chính thức bởi các cơ quan có thẩm
quyền. Trong tất cả các Bộ luật tố tụng hình sự, chưa có điều luật nào giải thích hoặc
định nghĩa về điều tra lại. Theo cách hiểu thông thường, điều tra lại là tiến hành lại
việc điều tra. Vì vậy, để làm rõ bản chất của điều tra lại cần đặt nó trong mối quan hệ
với bản chất của điều tra vụ án.
Trong khoa học pháp lý Việt Nam tồn tại các quan điểm khác nhau về điều tra
vụ án hình sự. Cách hiểu phổ biến ở Việt Nam hiện nay cho rằng điều tra là hoạt động
của Cơ quan điều tra trong điều tra vụ án hình sự. Ví dụ, có một nhóm tác giả thống
nhất giải thích rằng “Điều tra là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự, trong
đó Cơ quan điều tra áp dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để xác
định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, Viện kiểm sát kiểm sát hoạt động
điều tra, quyết định truy tố bị can làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án”1; hoặc
“Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự, trong giai đoạn này Cơ
quan điều tra áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định
tội phạm và người phạm tội”2. Cách hiểu này xác định điều tra là tổng hợp tất cả các
hành vi thực hiện trong giai đoạn điều tra và do Cơ quan điều tra thực hiện. Theo

cách hiểu này thì điều tra lại là việc tiến hành lại các hành vi trong giai đoạn điều tra
của Cơ quan điều tra.
Từ điển Luật học giải thích rằng, “Điều tra là công tác trong tố tụng hình sự
được tiến hành nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và
đầy đủ”3. Từ cách giải thích này đã có quan điểm cho rằng “Hoạt động điều tra được
1

Xem: Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Khổng Hà, Trần Minh Hưởng, Tìm hiểu Luật Tố tụng hình sự, Nxb Văn hóa
dân tộc, năm 2000, tr.226.
2
Xem: Nguyễn Ngọc Điệp, Những điều cần biết về thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, Nxb
Công an nhân dân, năm 2001, tr.19.
3
Xem: Viện khoa học pháp lý, Từ điển Luật học, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2006, tr102.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

11

SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
tiến hành trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự, điều tra, truy tố và xét xử vụ án
hình sự với những mục đích khác nhau để xác định sự thật khách quan của vụ án”4.
Quan điểm này coi điều tra là hoạt động của cả Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Tòa án nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Điểm khác biệt lớn nhất của
quan điểm này so với quan điểm phổ biến hiện nay về điều tra là đã nhìn nhận chủ thể
của hoạt động điều tra rộng hơn. Theo quan điểm này thì hoạt động điều tra lại ngoài
tiến hành lại việc điều tra của Cơ quan điều tra còn có các hoạt động của Viện kiểm

sát và Tòa án nhằm tìm ra sự thật khách quan của vụ án.
Căn cứ theo Điều 252 BLTTHS, sau khi hủy bản án để điều tra lại thì Cơ quan
điều tra tiến hành điều tra lại, Viện kiểm sát tiến hành truy tố lại và Tòa án cấp sơ
thẩm xét xử lại vụ án. Quy định này xác định việc tiến hành điều tra lại thuộc thẩm
quyền của Cơ quan điều tra. Do đó, nếu hiểu điều tra lại ngoài tiến hành lại việc điều
tra của Cơ quan điều tra còn có các hoạt động của Viện kiểm sát và Tòa án thì không
phù hợp với quy định này. Tuy nhiên, nếu hiểu điều tra lại chỉ là việc tiến hành lại
các hành vi trong giai đoạn điều tra của Cơ quan điều tra thì cũng chưa thể khái quát
được bản chất của hoạt động điều tra lại. Bởi lẽ, khi hủy bản án, quyết định để điều
tra lại thì giai đoạn điều tra ban đầu đã có sai phạm hoặc thiếu sót các vấn đề cần làm
rõ trong vụ án nên nếu hoạt động điều tra lại chỉ tiến hành lại các hành vi trong giai
đoạn điều tra của Cơ quan điều tra thì không thể khắc phục được những sai phạm
hoặc thiếu sót trong việc điều tra ban đầu. Vì vậy, bản chất của điều tra lại cần được
hiểu là việc tiến hành lại hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra. Việc tiến hành lại
hoạt động điều tra bao gồm cả một số hành vi như điều tra ban đầu và cả những hành
vi điều tra mới nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Ví dụ: Trong giai đoạn
điều tra ban đầu Cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động điều tra như hỏi cung bị
can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, khám xét, xem xét dấu vết trên thân
thể thì khi tiến hành điều tra lại Cơ quan điều tra vẫn có thể tiến hành lại các hoạt
động điều tra đã tiến hành trong giai đoạn điều tra ban đầu như lấy lời khai người làm
chứng, người bị hại, đồng thời có thể tiến hành thêm các hoạt động điều tra khác như
thực nghiệm điều tra, đối chất.
Hoạt động điều tra lại bắt đầu từ khi Cơ quan điều tra nhận lại toàn bộ hồ sơ
vụ án để điều tra lại và kết thúc khi Cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra lại và đề
nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra lại và quyết định đình chỉ điều tra (khoản 2,
Điều 162 BLTTHS).
4

Xem: Nguyễn Viết Hoạt, Bản chất của hoat động điều tra trong tố tụng hình sự, tạp chí Khoa học pháp lý số
3, năm 2007, tr.40.


GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

12

SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Trong quá trình điều tra lại, Cơ quan điều tra được tiến các hoạt động điều tra
theo quy định của BLTTHS để thu thập chứng cứ, làm rõ những vấn đề cần điều tra
lại. Nếu như giai đoạn điều tra giữ vai trò thành bại đối với quá trình giải quyết vụ án
thì khi vụ án được điều tra lại, hoạt động điều tra lại cũng có vai trò như vậy. Kết quả
của hoạt động điều tra lại là cơ sở để Viện kiểm sát truy tố lại người phạm tội ra trước
Tòa án, để Tòa án xét xử lại đúng người, đúng tội. Những sai phạm, thiếu sót trong
hoạt động điều tra lại đều có thể dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội…
Do vậy, đòi hỏi hoạt động điều tra lại phải được thực hiện nghiêm túc, chính xác theo
đúng quy định của pháp luật để đảm bảo hiệu quả của quá trình điều tra lại nói riêng
và giải quyết vụ án nói chung.
1.1.2 Đặc điểm của điều tra lại
Mỗi một thủ tục tố tụng hình sự đều có những đặc điểm riêng đặc trưng, phản
ánh đầy đủ bản chất của từng thủ tục. Đối với thủ tục điều tra lại cũng vậy. Thủ tục
điều tra lại có những đặc điểm phân biệt với các thủ tục tố tụng khác.
Điều tra lại là việc tiến hành lại quá trình tố tụng từ giai đoạn điều tra. Về
cơ bản, quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành năm giai đoạn, bao gồm:
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án5. Các giai đoạn này được tiến hành liên
tục nhau. Trong đó, giai đoạn điều tra vụ án hình sự có chức năng quan trọng trong
việc tìm ra sự thật vụ án, chứng minh hành vi phạm tội đã xảy ra trên thực tế, trả lại
sự công bằng và không làm oan người vô tội. Với chức năng nhiệm vụ này, đòi hỏi
quá trình điều tra phải được tiến hành toàn diện, đầy đủ, theo đúng các quy định của

pháp luật, làm rõ được các yêu cầu điều tra đối với một vụ án hình sự. Chính vì vậy,
sau khi bản án, quyết định được Tòa án ban hành nếu phát hiện những sai phạm, thiếu
sót trong giai đoạn điều tra làm ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án thì tùy từng
trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm hoặc Hội đồng tái
thẩm sẽ hủy bản án, quyết định để trả hồ sơ điều tra lại (khoản 1 Điều 250, Điều 287,
khoản 2 Điều 298 BLTTHS). Khi vụ án được trả hồ sơ để điều tra lại thì quá trình
giải quyết vụ án sẽ trở về giai đoạn điều tra để điều tra lại và việc truy tố, xét xử cũng
sẽ được tiến hành lại. Do vậy, điều tra lại là việc tiến hành lại quá trình tố tụng từ giai
đoạn điều tra.
5

Trong thực tế có nhiều quan điểm khác nhau về sự phân chia các giai đoạn tố tụng hình sự. Ví dụ: Theo quan
điểm của giáo trình luật tố tụng hình sự trường Đại học luật Hà Nội (Nxb Công An nhân dân, năm 2008, tr. 10)
thì có 7 giai đoạn là khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, thi hành án và giai đoạn giám
đốc thẩm, tái thẩm. Theo PGS.TS Lê Cảm thì có năm giai đoạn, đó là khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án (Tạp chí kiểm sát số 2/2004, tr. 26). Trong đề tài này, người viết dựa trên quan điểm phân chia làm
năm giai đoạn tố tụng hình sự.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

13

SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Chỉ Hội đồng xét xử phúc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm hoặc Hội đồng tái
thẩm mới có thẩm quyền yêu cầu điều tra lại. Ở cấp xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét
xử phúc thẩm có nhiệm vụ kiểm tra lại tính hợp pháp của bản án, quyết định sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật (Điều 230 BLTTHS). Vì vậy, khi phát hiện đã có những

sai phạm, thiếu sót trong giai đoạn điều tra có thể ảnh hưởng đến kết quả của bản án,
quyết định sơ thẩm thì Hội đồng xét xử phúc thẩm được quyền hủy bản án, quyết
định sơ thẩm đó để điều tra lại (khoản 1 Điều 250 BLTTHS) nhằm đảm bảo việc ban
hành một bản án, quyết định hợp pháp. Khác với cấp xét xử phúc thẩm, thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm nhằm xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật (Điều
272, Điều 290 BLTTHS). Tuy nhiên, khi có căn cứ xác định những bản án, quyết
định này đã có sai phạm, thiếu sót ở giai đoạn điều tra có thể ảnh hưởng đến kết quả
giải quyết vụ án thì Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm cũng có quyền hủy
bản án, quyết định để điều tra lại (Điều 287, khoản 2 Điều 298 BLTTHS). Việc quy
định cho Hội đồng xét xử phúc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm có
thẩm quyền hủy bản án, quyết định để điều tra lại đã góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ
của tố tụng hình sự là phát hiện nhanh chóng, xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức và công dân, góp phần làm tăng lòng tin của quần chúng nhân
dân đối với pháp luật.
Khi điều tra lại, thời hạn điều tra và gia hạn thời hạn điều tra được thực
hiện theo thủ tục chung về điều tra (khoản 3, Điều 121 BLTTHS). Để đảm bảo
việc điều tra lại được thực hiện nhanh chóng, kịp thời, vì lợi ích của người bị hại cũng
như của bị can và những người tham gia tố tụng khác, BLTTHS quy định về thời hạn
điều tra và gia hạn thời hạn điều tra tại Điều 119. Việc điều tra lại nhằm tiến hành lại
hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra để tìm ra sự thật của vụ án nên thời hạn và
gia hạn thời hạn trong điều tra lại cũng được thực hiện như quy định chung về điều
tra. Sở dĩ luật tố tụng hình sự quy định thời hạn và việc gia hạn trong điều tra lại như
quy định chung về điều tra vì khi điều tra lại vụ án đã trải qua một khoảng thời gian
khá dài kể từ khi xảy ra nên nếu thời hạn và việc gia hạn thời hạn trong điều tra lại rút
ngắn hơn so với quy định chung về điều tra thì hoạt động điều tra lại khó có thể đảm
bảo việc thu thập đầy đủ chứng cứ để làm rõ các vấn đề yêu cầu điều tra lại. Tuy
nhiên, nếu thời hạn và việc gia hạn thời hạn trong điều tra lại kéo dài hơn so với quy
định chung về điều tra thì không đảm bảo được yếu tố nhanh chóng, kịp thời trong
điều tra lại. Vì vậy, thời hạn điều tra lại được quy định như thủ tục chung trong điều

tra là hoàn toàn phù hợp với tiến trình điều tra để xác định sự thật của vụ án.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

14

SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Điều tra lại không có nghĩa là phủ nhận toàn bộ kết quả điều tra trước đó.
Vụ án được điều tra lại khi có sai phạm, thiếu sót ở giai đoạn điều tra ảnh hưởng đến
kết quả giải quyết vụ án. Mặc dù điều tra lại là việc tiến hành lại hoạt động điều tra,
tuy nhiên Cơ quan điều tra không phủ nhận mọi kết quả điều tra ở giai đoạn điều tra
trước đó vì không phải lúc nào những sai phạm, thiếu sót cũng làm toàn bộ kết quả
điều tra của giai đoạn điều tra trở nên không hợp pháp. Do đó, đối với những sai
phạm thiếu sót trong giai đoạn điều tra ban đầu chỉ làm một phần kết quả điều tra
không còn hợp pháp thì để việc điều tra lại được tiến hành nhanh chóng và hiệu quả
những phần kết quả điều tra hợp pháp, cần thiết cho việc giải quyết vụ án trong giai
đoạn điều tra trước đó vẫn được giữ lại và Cơ quan điều tra chỉ tiến hành bổ sung
hoặc tiến hành lại một số hoạt động điều tra để làm rõ sự thật của vụ án. Vì vậy, việc
điều tra lại không phải là phủ nhận những kết quả điều tra trong gia đoạn điều tra ban
đầu mà đối với những kết quả điều tra hợp pháp, cần thiết cho việc giải quyết vụ án
vẫn được giữ lại để phục vụ cho quá trình giải quyết vụ án.
1.1.3 So sánh điều tra lại với điều tra bổ sung
Trước khi bản án, quyết định sơ thẩm được ban hành việc yêu cầu Cơ quan
điều tra bổ sung chứng cứ hoặc làm rõ một số vấn đề được thực hiện thông qua thủ
tục điều tra bổ sung. “Điều tra bổ sung là việc điều tra thêm khi có yêu cầu của Viện
kiểm sát hoặc Tòa án cấp sơ thẩm do còn thiếu những chứng cứ quan trọng mà Viện
kiểm sát hoặc Tòa án không thể tự mình bổ sung được; bị can, bị cáo phạm tội khác

hoặc có người đồng phạm khác hoặc có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng”6.
Tương tự như điều tra bổ sung điều tra lại cũng thực hiện các hoạt động điều
tra để thu thập chứng cứ chứng minh các vấn đề cần làm rõ trong vụ án hình sự
nhưng khác nhau ở nhiều điểm mà chủ yếu là khác nhau về chủ thể yêu cầu; thời
điểm yêu cầu; căn cứ yêu cầu; thủ tục trả hồ sơ; thời hạn điều tra và giới hạn số lần
trả hồ sơ.
Chủ thể có thẩm quyền yêu cầu điều tra bổ sung là Viện kiểm sát, Thẩm phán
được phân công chủ tọa phiên tòa cấp sơ thẩm, hoặc Hội đồng xét xử sơ thẩm (Điều
168, Điều 176, khoản 2 Điều 199 BLTTHS); còn chủ thể có thẩm quyền yêu cầu điều
tra lại là Hội đồng xét xử phúc thẩm hoặc Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái
thẩm.7

6

Xem: Mai Văn Hiếu, Nguyễn Chí Công, Trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự, Nxb Lao động – Xã hội,
năm 2008, tr.51.
7
Xem: phần 1.1.2 Đặc điểm của điều tra lại, trang 6 của Luận văn.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

15

SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Thời điểm yêu cầu điều tra bổ sung theo Điều 168, khoản 2 Điều 176 và khoản
2 Điều 199 BLTTHS là trong giai đoạn truy tố, khi Viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ
vụ án, phát hiện thấy căn cứ cần điều tra bổ sung và ra quyết định yêu cầu điều tra bổ

sung; hoặc Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa sơ thẩm ra quyết định trả hồ
sơ điều tra bổ sung trong thời hạn chuẩn bị xét xử hoặc Hội đồng xét xử sơ thẩm ra
quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung khi xét xử sơ thẩm. Trong khi đó, thời điểm yêu
cầu điều tra lại theo Điều 250, Điều 285 và Điều 287 BLTTHS là khi Hội đồng xét xử
phúc thẩm ra quyết định hủy bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
để điều tra lại, hoặc Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm ra quyết định hủy
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại.
Đối với căn cứ để yêu cầu điều tra bổ sung và điều tra lại cũng có nhiều điểm
khác biệt. Căn cứ để viện kiểm sát và thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa sơ
thẩm và Hội đồng xét xử sơ thẩm yêu cầu điều tra bổ sung theo Điều 168 và Điều 179
BLTTHS là khi cần có những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà viện kiểm sát
hoặc tòa án không thể bổ sung được, khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội
khác hoặc có đồng phạm khác hoặc khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng. Căn cứ để yêu cầu điều tra lại chưa được quy định thống nhất cho các chủ thể
có thẩm quyền yêu cầu. Đối với căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm yêu cầu điều
lại được BLTTHS quy định là khi nhận thấy việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ
mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được (Điều 250 BLTTHS). Tuy nhiên, căn cứ
để Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm yêu cầu điều tra lại được pháp luật tố
tụng hình sự quy định lại là những căn cứ khác chẳng hạn kết luận trong bản án,
quyết định không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án; lời khai của người làm
chứng, kết luận giám định, lời dịch của người phiên dịch có những điểm quan trọng
được xác định là không đúng sự thật;… và chung cho cả trường hợp xét xử lại (Điều
273, Điều 291 BLTTHS).
Đối với thủ tục trả hồ sơ, trong điều tra bổ sung theo Điều 168 BLTTHS
trường hợp Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung, hồ sơ vụ án được trả lại cho
cơ quan điều tra đã ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố; theo khoản 1 Điều 168
BLTTHS trường hợp Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa sơ thẩm, Hội
đồng xét xử sơ thẩm trả hồ sơ điều tra bổ sung hồ sơ vụ án được trả lại Viện kiểm sát
cùng cấp với Tòa án sơ thẩm xem xét và bổ sung các vấn đề chưa được làm rõ, nếu
Viện kiểm không thể bổ sung được thì hồ sơ được chuyển đến Cơ quan điều tra đã

tiến hành việc điều tra để điều tra bổ sung. Trong điều tra lại, thủ tục trả hồ sơ có sự
khác biệt với điều tra bổ sung. Nếu Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án, quyết

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

16

SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
định chưa có hiệu lực pháp luật để điều tra lại thì hồ sơ vụ án được trả lại cho Viện
kiểm sát cùng cấp với Tòa án phúc thẩm để xem xét tính hợp pháp của việc hủy bản
án quyết định để điều tra lại và bổ sung các vấn đề chưa được làm rõ, nếu Viện kiểm
không thể bổ sung được thì hồ sơ được chuyển đến Cơ quan điều tra đã tiến hành
điều tra vụ án để điều tra lại (khoản 5, Điều 250 BLTTHS). Nếu Hội đồng giám đốc
thẩm hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại thì hồ sơ vụ án
được trả lại cho Viện kiểm sát cùng cấp với Hội đồng giám đốc thẩm xem xét và điều
tra lại các vấn đề chưa được làm rõ, hồ sơ vụ án sẽ trả lại cho Cơ quan điều tra đã tiến
hành việc điều tra nếu Viện kiểm sát cùng cấp với Hội đồng giám đốc thẩm không thể
điều tra lại các vấn đề chưa được làm rõ (Điều 289 BLTTHS). Trường hợp Hội đồng
tái thẩm ra quyết định hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại
thì hồ sơ vụ án được trả lại cho Viện kiểm sát cấp có thẩm quyền điều tra lại để xem
xét và tiến hành điều tra lại các vấn đề chưa được làm rõ, và hồ sơ cũng sẽ trả lại cho
Cơ quan điều tra có thẩm quyền khi Viện kiểm sát không thể điều tra lại (khoản 1,
Điều 300 BLTTHS).
Thời hạn điều tra, theo khoản 2, Điều 121 BLTTHS trong trường hợp vụ án do
Viện kiểm sát trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá
hai tháng; nếu do Tòa án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung
không quá một tháng; thời hạn điều tra bổ sung không thể gia hạn được. Trong

trường hợp vụ án được trả lại để điều tra lại thì theo khoản 3, Điều 121 BLTTHS thời
hạn điều tra lại và gia hạn trong điều tra lại vẫn được tiến hành theo thủ tục chung về
điều tra.
Về số lần trả hồ sơ, đối với điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ
được trả hồ sơ điều tra bổ sung không quá hai lần (khoản 2, Điều 121 BLTTHS). Đối
với điều tra lại, BLTTHS vẫn chưa có quy định giới hạn số lần điều tra lại.
Tóm lại, điều tra lại và điều tra bổ sung đều là những hoạt động điều tra nhằm
làm rõ sự thật của vụ án. Tuy nhiên, so với điều tra lại thì các quy định về điều tra bổ
sung được quy định cụ thể hơn từ căn cứ yêu cầu, thủ tục trả hồ sơ đến số lần trả hồ
sơ. Điều bổ sung và điều tra lại thể hiện sự thận trọng trong quá trình giải quyết vụ án
nhưng việc điều tra bổ sung và điều tra lại sẽ làm chậm quá trình giải quyết vụ án.
Chính vì vậy, việc nâng cao tính chính xác trong quá trình điều tra vụ án là việc phải
tiến hành thường xuyên và phải coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của quá
trình giải quyết một vụ án hình sự.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

17

SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
1.2 Cơ sở lý luận về điều tra lại
1.2.1 Nguyên nhân dẫn đến điều tra lại
Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005
của Bộ chính trị về cải cách tư pháp đến năm 2020, hoạt động điều tra vụ án hình sự
đã có những chuyển biến rất tích cực. Số lượng án bị hủy để điều tra lại cũng giảm
dần.8 Tuy nhiên, trong hoạt động điều tra vẫn hiện hữu những trường hợp sai phạm,
thiếu sót làm ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án. Điều này xuất phát từ nhiều

nguyên nhân và các nguyên nhân này thường mang yếu tố chủ quan và yếu tố khách
quan xen lẫn nhau. Việc phòng ngừa, hạn chế, ngăn chặn các nguyên nhân dẫn đến
điều tra lại vụ án là một trong những nhiệm vụ hàng đầu đặt ra đối với các cơ quan
tiến hành tố tụng, đặc biệt là trong công tác điều tra của Cơ quan điều tra.
1.2.1.1 Nguyên nhân khách quan
Tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, quy mô, tính chất, mức độ và thủ
đoạn phạm tội ngày càng tinh vi. Nhiều vụ án phạm tội có tổ chức với nhiều đối
tượng tham gia, phạm tội trên nhiều địa bàn, việc điều tra, xác minh tội phạm vì thế
cũng gặp nhiều khó khăn. Cùng với sự phát triển của xã hội, nhiều loại tội phạm mới
cũng bắt đầu nảy sinh như tội phạm công nghệ cao, trộm cắp cáp viễn thông, tội
phạm có yếu tố người nước ngoài… Theo báo cáo của Bộ trưởng Bộ công an Trần
Đại Quang về đấu tranh phòng chống tội phạm tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIII,
năm 2012 thì so với các nước trên thế giới tình hình tội phạm ở nước ta ở mức trung
bình, mỗi tháng xảy ra khoảng 68 vụ án/100.000 dân nhưng con số này là không nhỏ
và đang có xu hướng gia tăng.9 Trước sự phức tạp của tình hình tội phạm mà những
công cụ pháp luật, cơ quan bảo vệ pháp luật và người công tác bảo vệ pháp luật chưa
ngang tầm, nên đôi khi khó tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót trong quá trình điều
tra vụ án. Vì vậy, việc trả hồ sơ để yêu cầu điều tra lại nhằm tìm ra sự thật của vụ án,
tránh bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội là cần thiết và đúng quy định của pháp
luật.
Một số quy định của Bộ luật Hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành
vẫn còn một số điểm chưa cụ thể, nên việc nhận thức và thực hiện chưa thống
nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Pháp luật hình
sự và tố tụng hình sự nước ta đã qua nhiều lần sửa đổi và đến nay thì hệ thống các
quy định về hình sự và tố tụng hình sự đã tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, không một
8

Xem: Tổng kết công tác ngành toà án nhiệm kì Quốc hội khoá XII, năm 2010.
Xem:
/>9


GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

18

SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
văn bản pháp luật nào không có những khiếm khuyết nhất định. Mặt khác, dù quy
định của pháp luật đã rõ ràng và nguyên tắc pháp chế là thống nhất khi áp dụng pháp
luật, song không phải mọi người, mọi nơi, mọi cấp đều nhận thức và áp dụng các
giống nhau, đặc biệt đối với các quy định chưa được hướng dẫn cụ thể. Quá trình giải
quyết vụ án hình sự vì thế càng khó khăn và dễ xảy ra vi phạm pháp luật hơn. Chẳng
hạn, đối với lĩnh vực hình sự thì dấu hiệu phân biệt tội phạm với không phải tội phạm
ở một số tội thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu chưa thật sự rõ ràng, nên dễ xảy ra tình
trạng hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế. Đối với lĩnh vực tố tụng hình sự, một
số vụ án do tính chất nghiêm trọng của tội phạm phải chuyển thẩm quyền để điều tra,
truy tố, xét xử (chủ yếu là cấp huyện chuyển cấp tỉnh), khi vụ án được chuyển đến
cấp có thẩm quyền thì thời hạn điều tra đã hết, hồ sơ thụ lý ban đầu sơ sài không bảo
đảm thủ tục về tố tụng, chứng cứ, trong khi đó cấp được uỷ quyền không nghiên cứu
kỹ hồ sơ, nên không phát hiện kịp thời những tồn tại, thiếu sót trong điều tra để đề ra
yêu cầu điều tra.
Dù chỉ là những nguyên nhân khách quan nhưng các nguyên nhân này vẫn là
những nhân tố có khả năng dẫn đến điều tra lại vụ án. Trong đó, những quy định chưa
đầy đủ, chưa chặt chẽ và chưa hoàn thiện của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự,
đặc biệt là trong tố tụng hình sự là nguyên nhân hàng đầu, cơ bản đầu dẫn đến việc
điều tra lại vụ án. Bởi nếu những chủ thể tiến hành tố tụng hoặc những người tham
gia tố tụng cố ý lách luật, lợi dụng những kẽ hở trong pháp luật tố gây nên việc bỏ lọt
tội phạm hay làm oan người vô tội thì rất khó để phát hiện được. Vì vậy, việc hoàn

thiện các quy định trong luật tố tụng hình sự, cũng như các quy định trong luật hình
sự cần được xem là nhiệm vụ trọng tâm trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay.
1.2.1.2 Nguyên nhân chủ quan
Các nguyên nhân khách quan đã phân tích ở trên có ý nghĩa là những nhân tố
ảnh hưởng. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến điều tra lại là những nguyên nhân thuộc về
yếu tố chủ quan:
Thứ nhất, do trình độ pháp luật, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ
làm công tác bảo vệ pháp luật chưa ngang tầm nhiệm vụ. Trong bối cảnh hiện nay,
tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, quy mô, tính chất, mức độ và thủ đoạn phạm
tội ngày càng tinh vi. Yêu cầu đặt ra đối với người làm công tác bảo vệ pháp luật là
phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để ứng phó kịp thời với
từng loại tội phạm trong mỗi vụ án. Cùng với công cuộc cải cách tư pháp, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ của các cán bộ trong ngành đã và đang được nâng cao đáng

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

19

SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
kể. Tuy nhiên, hiện tại vẫn còn một số Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán năng
lực nghiệp vụ chưa đáp ứng được với yêu cầu chuyên môn, còn lúng túng trong áp
dụng pháp luật hoặc có biểu hiện chủ quan, thoả mãn với các tài liệu đã có, phiến
diện trong đánh giá chứng cứ, chưa xem xét đầy đủ toàn diện vụ án.10 Theo báo cáo
về kết quả công tác đào tạo, bồi dưỡng điều tra viên trong lực lượng công an nhân
dân, tại phiên điều trần về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có chức danh tư pháp
do Ủy ban Tư pháp của Quốc hội tổ chức năm 2011, Trung tướng Phạm Quý Ngọ,
Thứ trưởng Bộ Công an đã thừa nhận “Số lượng đào tạo, bồi dưỡng tạo nguồn bổ

nhiệm điều tra viên lớn, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu sử dụng”.11 Những trường hợp
việc đánh giá chứng cứ, viện dẫn, giải thích, áp dụng pháp luật của Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử (vai trò chủ yếu là Thẩm phán) ở các bản kết luận
điều tra, bản luận tội, bản án thiếu căn cứ đã phần nào bộc lộ tình trạng nắm không
vững kiến thức pháp luật. Vì thế, mặc dù không vì lý do tiêu cực nào nhưng khi vụ án
được điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm những thiếu sót, sai phạm trong giai đoạn điều
tra làm ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án vẫn không được phát hiện để khắc
phục kịp thời.
Thứ hai, do một số cán bộ thiếu tinh thần, trách nhiệm; sự phối hợp giữa
các cơ quan chưa chặt chẽ; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra còn
chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Một bộ phận Điều tra viên, Kiểm sát viên và
Thẩm phán chưa phát huy đúng mức ý thức đối với công việc được giao, nhiều
trường hợp không thực hiện đầy đủ các quy trình nghiệp vụ cũng như quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự từ việc nghiên cứu hồ sơ, báo cáo nghiệp vụ, đến việc điều
tra, thu thập, bảo quản, đánh giá chứng cứ...12 dẫn đến vi phạm về thủ tục tố tụng
trong giai đoạn điều tra nhưng chưa được phát hiện khắc phục kịp thời. Ví dụ: Vụ
Điều tra viên Bùi Vũ Trọng Quốc khi điều tra đã không thực hiện các bước tố tụng.
Đến khi thời hạn điều tra kết thúc, Quốc tự viết biên bản hỏi cung bị can Kim Văn
Anh, ký giả chữ ký của bị can vào bản cung làm thay đổi bản chất của vụ án và tội
danh đối với bị can.13
Do đặc thù công việc, tâm lý nóng vội muốn giải quyết nhanh vụ án một số
cán bộ đã thiếu thận trọng với một số vụ án, nhiều trường hợp hồ sơ vụ án không
được nghiên cứu kỹ, nên không phát hiện được hồ sơ cần điều tra thêm những vấn đề
10

Xem: Nguyễn Hải Phong, Tạp chí kiểm sát, số tháng 4/2011, tr.38.
Xem:
/>12
Xem: Nguyễn Hải Phong, Tạp chí kiểm sát, số tháng 4/2011, tr.38.
13

Xem: />11

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

20

SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
gì để bổ sung về chứng cứ, cần bổ sung thêm thủ tục gì về tố tụng,14 vì vậy đã không
có yêu cầu điều tra để Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thực hiện bổ sung, dẫn đến khi
ra bản án, quyết định không bảo đảm chứng cứ buộc tội hoặc còn bỏ lọt tội phạm, bỏ
lọt hành vi phạm tội,…
Việc phối hợp công tác ở các cơ quan là một yếu tố quan trọng trong quá trình
giải quyết vụ án. Tuy nhiên, trong một số trường hợp công tác này vẫn chưa được
thực hiện tốt. Chẳng hạn, Kiểm sát viên chưa được tạo điều kiện để nghiên cứu hồ sơ
ngay khi vụ án được khởi tố, nhiều tài liệu điều tra không được điều tra viên cung cấp
kịp thời cho Kiểm sát viên nghiên cứu. Một số cán bộ, Kiểm sát viên khi được phân
công kiểm sát điều tra còn thụ động chờ việc, chưa chủ động trong quan hệ phối hợp
với Điều tra viên để sắp xếp thời gian nghiên cứu hồ sơ; khi phát hiện những vấn đề
cần thiết phải bổ sung vào hồ sơ vụ án (như thiếu chứng cứ, lý lịch tư pháp, bổ sung
hoặc thay đổi tội danh...) thì không đề ra yêu cầu điều tra bằng văn bản, mà chỉ trao
đổi bằng miệng với Điều tra viên, nên tính pháp lý chưa cao, có những vấn đề bị bỏ
ngõ. Bên cạnh đó, lãnh đạo liên ngành chưa thực sự dành nhiều thời gian để quan tâm
kiểm tra và chỉ đạo, nắm bắt tiến độ điều tra, chưa đánh giá kịp thời những diễn biến,
khó khăn, thuận lợi của vụ án, để bố trí cán bộ một cách hợp lý, vừa phát huy được
năng lực, trách nhiệm của cán bộ, vừa hoàn thành tốt nghiệp vụ chuyên môn.15 Vì
vậy, trong công tác điều tra, truy tố đã không phát hiện kịp thời những sai phạm, thiếu
sót trong việc đánh giá chứng cứ, tội danh, diện truy tố, đến khi bản án, quyết định

được ban hành những sai phạm, thiếu sót này mới được phát hiện, dẫn đến việc hủy
bản án, quyết định để điều tra lại.
Thứ ba, do một số cán bộ trong Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc ở
những ngành khác có mối quan hệ và khả năng tác động nhất định đã lợi dụng
chức quyền để vụ lợi, làm sai lệch kết quả giải quyết vụ án. Quá trình giải quyết vụ
án hình sự đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng phải thực sự khách quan, công bằng để
bảo vệ được quyền lợi chính đáng của mọi người dân trong đó có cả quyền lợi của cả
người đang là bị can, bị cáo. Song, trên thực tế vẫn có một số cán bộ trong Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát hoặc ở những ngành khác có mối quan hệ và khả năng tác
động nhất định đã lợi dụng chức quyền để vụ lợi, làm sai lệch kết quả giải quyết vụ
án. Hành vi này có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Có những cán bộ
bị các thế lực tội phạm điều khiển hoặc vì vật chất, quyền lợi được mua chuộc đã làm
14

Xem: Nguyễn Thị Kim Chung, Vi phạm pháp luật trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, Nxb Tư
pháp, năm 2006, tr.153.
15
Xem: Nguyễn Thị Kim Chung, Vi phạm pháp luật trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, Nxb Tư
pháp, năm 2006, tr.154.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

21

SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
sai lệch đi sự thật vụ án. Cũng có thể họ vì những mối quan hệ cá nhân nào đó mà can
thiệp để làm giảm tội, khép tội cho người thân. Những hành vi vi phạm trong trường

hợp này do những cán bộ có chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan tố tụng thực hiện vì
vậy thường tạo nên nhiều khó khăn cho quá trình điều tra lại vụ án. Những trường
hợp cán bộ trong Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc một số ngành khác lợi
dụng chức vụ, quyền hạn làm sai lệch kết quả điều tra vụ án thường dẫn đến những vi
phạm pháp luật nghiêm trọng, làm lũng đoạn quá trình giải quyết vụ án. Ví dụ: Vụ
Điều tra viên Khúc Văn Toản đã cố lý làm sai lệch quyết định thu giữ tang vật dẫn
đến việc anh Đức Anh đã bị án oan về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản16, hay vụ Kiểm
sát viên Vi Thị Hồng Nhung đã trực tiếp hướng dẫn cho bị hại ký khống vào biên bản
lời khai. Sau đó, Nhung hướng dẫn cho bị hại, bị can khai trái với bản chất của vụ án,
qua đó đình chỉ điều tra đối với bị can, nên đã bỏ lọt hành vi phạm tội của bị can
trong quá trình giải quyết vụ án.17 Vì vậy, ngoài việc nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ các cán bộ có thẩm quyền trong quá trình giải quyết vụ án cần có tình thần,
trách nhiệm, không vì mục đích cá nhân mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm sai lệch
đi kết quả giải quyết vụ án.
Thứ tư, chủ thể tham gia tố tụng vi phạm pháp luật gây khó khăn cho hoạt
động giải quyết vụ án. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, sự có mặt của những
người tham gia tố tụng có những ý nghĩa nhất định, góp phần giúp vụ án nhanh chóng
được làm sáng tỏ. Tuy nhiên, dù ở vị trí nào nếu người tham gia tố tụng không thành
thật và chấp hành tốt các quy định của pháp luật thì đều có thể gây khó khăn, làm sai
lệnh kết quả trong công tác điều tra, làm cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự trở
nên sai lệch. Chẳng hạn, người làm chứng vì sợ phiền hà, sợ bị trả thù nên thường
không khai hết những gì họ biết hoặc khai không trung thực; bị can, bị cáo đỗ tội cho
người khác, nhận tội thay cho người khác, hay thông đồng khai gian người làm chứng
đưa ra lời khai không đúng sự thật. Ví dụ: Vụ Võ Văn Thiếu nhận tội thay anh trai là
Võ Văn Trung18, hay vụ Hoàng “lựu đạn” đã hai lần đỗ tội cho Thái Bảo Điền và
được Thái Bảo Điền thế thân ngồi tù19. Do đó, để nâng cao hiệu quả trong quá trình
giải quyết vụ án việc xác định chính xác tư cách chủ thể, cũng như lời khai của từng
chủ thể tham gia tố tụng cần được chú trọng quan tâm trong quá trình giải quyết vụ
án.


16

Xem: />Xem: />18
Xem: />19
Xem: />17

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

22

SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
1.2.2 Mục đích của điều tra lại
Điều tra lại nhằm làm rõ các vấn đề được yêu cầu điều tra lại. Những vấn đề
yêu cầu điều tra lại là những vấn đề cần được làm sáng tỏ khi giải quyết vụ án hình sự
nhưng do những sai phạm, thiếu sót của Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra mà
những vấn đề này vẫn chưa được làm rõ. Khi hủy bản án, quyết định để điều tra lại
Cơ quan có thẩm quyền sẽ nêu lý do hủy bản án, quyết định. Trong quá trình điều tra
lại Cơ quan điều tra phải khắc phục được lý do dẫn đến bản án, quyết định bị hủy.
Khi tiến hành điều tra lại, những kết quả điều tra hợp pháp trong giai đoạn điều tra
ban đầu vẫn có giá trị. Vì vậy, Cơ quan điều tra chỉ cần tập trung làm rõ các vấn đề
được yêu cầu điều tra lại. Các vấn đề được yêu cầu điều tra lại là những vấn đề cần
phải chứng minh trong vụ hình sự nhưng do những sai phạm, thiếu sót nhất định mà
Cơ quan điều tra ban đầu đã không làm sáng tỏ khi tiến hành điều tra, các vấn đề yêu
cầu điều tra lại có thể là các vấn đề như: có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời
gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện
hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm
hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết tăng nặng, tình tiết

giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của
bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; nếu là vụ án
đồng phạm phải xác định rõ hành vi, vai trò của từng người để làm cơ sở giải quyết
một cách chính xác vụ án.
Ngoài việc làm sáng tỏ các chứng cứ, tình tiết yêu cầu điều tra lại, trong quá
trình tiến hành điều tra lại khi cần thiết Cơ quan điều tra vẫn có thể tìm kiếm thêm
những chứng cứ mới và làm sáng tỏ thêm những tình tiết khác với yêu cầu điều tra lại
nhằm làm rõ sự thật của vụ án. Ví dụ: Yêu cầu điều tra lại là làm rõ bị cáo có phạm
thêm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không nhưng khi điều tra lại Cơ quan điều tra
phát hiện còn có đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp
này Cơ quan điều tra sẽ tiến hành cả những hoạt dộng điều tra để làm rõ yếu tố đồng
phạm.
Điều tra lại nhằm khắc phục những sai phạm trong quá trình điều tra trước
đó. Khi phát hiện những sai phạm nghiêm trọng trong quá trình điều tra vụ án Hội
đồng xét xử phúc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm sẽ hủy bản án,
quyết định để điều tra lại. Trong quá trình điều tra lại vụ án những sai phạm trong quá
trình điều tra ban đầu cần phải được Cơ quan điều tra nhanh chóng khắc phục để đảm
bảo việc xác định sự thật của vụ án, tránh xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của
người tham gia tố tụng. Chẳng hạn, trong trường hợp phải có người bào chữa mà các

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

23

SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
giai đoạn tố tụng trước khi xét xử sơ thẩm chưa có sự tham gia của người bào chữa
(trừ trường hợp bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối) thì hủy bản án sơ

thẩm để điều tra lại20; hoặc trong trường hợp hoạt động khám nghiệm, khám xét được
tiến hành không đúng thủ tục pháp luật quy định, không kịp thời, không đầy đủ, thiếu
nhạy bén, thiếu quan sát, phiến diện dẫn đến kết quả điều tra không phản ánh đúng sự
thật khách quan hay không trưng cầu giám định khi cần thiết… thì vụ án cũng phải
được điều tra lại.
1.2.3 Ý nghĩa của điều tra lại
Điều tra lại là một trong những biện pháp để bảo vệ quyền lợi cho người
tham gia tố tụng. Theo quy định của BLTTHS trách nhiệm chứng minh tội phạm
thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong quá trình điều tra, những người tiến
hành tố tụng có quyền tiến hành những hoạt động tố tụng và ra những quyết định tố
tụng có tính chất bắt buộc đối với cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân có liên quan. Do
đó, trong quá trình điều tra vụ án hình sự Cơ quan điều tra phải áp dụng mọi biện
pháp hợp pháp để xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ,
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có
trường hợp Cơ quan điều tra không thực hiện đúng các quy định của pháp luật gây
tổn hại đến quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự. Vì vậy, pháp luật đã có
những quy định nhằm xem xét để tiến hành điều tra lại vụ án. Như vậy, mục đích đặt
ra đối với điều tra lại là tiến hành điều tra lại vụ án một cách đầy đủ và chuẩn xác để
đảm bảo quyền và lợi ích của các đương sự trong vụ án được pháp luật bảo vệ kịp
thời.
Điều tra lại có ý nghĩa bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm pháp
chế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo
công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm được kiên quyết, triệt để, kịp thời, ngăn
chặn việc làm oan người vô tội và ngăn ngừa việc hạn chế các quyền dân chủ cơ bản
của công dân một cách trái pháp luật. Do đó, trong giai đoạn điều tra vụ án việc tuân
thủ các quy định của pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong của Cơ
quan điều tra. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà một số quy định của
pháp luật đã không được Cơ quan điều tra tuân thủ trong quá trình điều tra vụ án làm
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm
hoặc gây ra oan sai trong quá trình giải quyết vụ án. Vì vậy, trên cơ sở thực hiện việc

điều tra lại vụ án những sai phạm thiếu sót trong việc thực hiện các quy định của
20

Xem: Công văn số 26/KHXX ngày 28/01/2007 của Tòa án nhân dân tối cao về việc quán triệt nội dung Công
văn số 45/C16 của Bộ Công an, yêu cầu các Cơ quan điều tra thực hiện nghiêm BLTTHS.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

24

SVTH: Võ Thị Kiều


Đề tài: Chế định điều tra lại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
pháp luật của cơ quan điều tra đã được khắc phục, đảm bảo thực hiện đúng các quy
định của pháp luật. Suy rộng ra, thủ tục điều tra lại là một cơ chế bảo vệ công lý và lẽ
phải, hiện thực hóa nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Điều tra lại giúp cơ quan điều tra phát hiện và khắc phục những sai lầm
trong quá trình điều tra trước đó. Thông qua việc kiểm tra tính hợp pháp của bản án,
quyết định ở cấp xét xử phúc thẩm hoặc xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm hay tái
thẩm những sai phạm, thiếu sót trong công tác điều tra sẽ được phát hiện và khắc
phục, sữa chữa lại. Việc phát hiện sớm những sai phạm, thiếu sót và sữa chữa lại có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng. Đối với các bản án, quyết định sơ thẩm lúc phúc thẩm vẫn
chưa có hiệu lực pháp luật, bị cáo chưa phải thi hành nên hậu quả do sai phạm, thiếu
sót của cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa xảy ra và sẽ không xảy ra nếu kịp thời giải
quyết lại một cách đúng đắn. Đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật việc
phát hiện ra các sai phạm, thiếu sót tuy có phần trễ hơn so với các bản án, quyết định
chưa có hiệu lực pháp luật nhưng cũng đã kịp thời phát hiện ra những sai phạm của
cơ quan có thẩm quyền để đảm bảo hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại đối với người
phải chấp hành bản án, quyết định đó. Điều này giúp cơ quan có thẩm quyền thực

hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình đồng thời cũng đảm bảo công bằng xã hội,
cũng như uy tín trong ngành của mỗi cơ quan.
Thông qua hoạt động điều tra lại các cơ quan có thẩm quyền có thể chỉ đạo
áp dụng pháp luật thống nhất đối với cơ quan điều tra ở các địa phương. Trong
quá trình kiểm tra các bản án, quyết định cơ quan có thẩm quyền cấp trên có thể phát
hiện ra những vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật của cơ quan cấp dưới. Các cơ
quan cấp dưới thường vi phạm ở những khâu nào hoặc có cách áp dụng luật không
thống nhất ở phần nào… Qua đó, các cơ quan cấp trên có thể thu thập thêm kinh
nghiệm kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan điều tra ở địa phương áp dụng thống
nhất pháp luật trong hoạt động của mình, hạn chế các trường hợp sai phạm thiếu sót
trong giai đoạn điều tra dẫn đến việc điều tra lại vụ án. Đồng thời, trên cơ sở phát
hiện ra những quy định không phù hợp với thực tiễn giải quyết vụ án các cơ quan có
thẩm quyền sẽ đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật với Quốc hội, góp
phần hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật Việt Nam.
Nhìn chung việc tìm hiểu khái niệm, đặc điểm, nguyên nhân, mục đích, ý nghĩa
của thủ tục điều tra lại vụ án đã góp phần làm rõ bản chất, cũng như vai trò, vị trí
của thủ tục này trong tố tụng hình sự. Qua đó càng thấy rõ tầm quan trọng của thủ
tục điều tra lại vụ án trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Nghiêm cứu
thủ tục điều tra lại không những chỉ dừng lại ở việc áp dụng về mặt thủ tục tố tụng

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

25

SVTH: Võ Thị Kiều


×