Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

LUẬN văn LUẬT tư PHÁP CHÍNH SÁCH và PHÁP LUẬT về hỗ TRỢ KHI GIẢI PHÓNG mặt BẰNG lý LUẬN và THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.94 MB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 32 (2006 -2010)
Đề tài:

CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỖ
TRỢ KHI GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG - LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Giáo viên hướng dẫn:
TS Phan Trung Hiền

Sinh viên thực hiện:
Phan Quốc Kiệt
MSSV: 5062257
Lớp: Luật Tư Pháp K32

CẦN THƠ, 04/ 2010


Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quy hoạch xây dựng là một nhân tố quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế
đất nước. Đặc biệt với sự ra đời của hiến pháp 1992 với việc thực hiện chính sách
kinh tế mở cửa với sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
trong những năm gần đây đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể về phát
triển kinh tế xã hội. Nền kinh tế có nhiều khởi sắc, tăng trưởng kinh tế cao, đời


sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Bên cạnh việc khuyến khích kêu
gọi đầu tư, các công trình kiến trúc xây dựng rầm rộ, cơ sở hạ tầng được mở rộng
chỉnh tu, thì Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng đề ra đường lối chủ trương
chính sách và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý làm nền
tảng cho việc tạo ra môi trường lành mạnh để phát triển kinh tế xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì đất đai luôn là vấn đề được quan tâm.
Trong đó nhà nước đặc biệt quan tâm đến các đối tượng bị thu hồi đất, qua đó đã
đưa ra những chính sách tiến bộ trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Tuy
nhiên những chính sách về hỗ trợ đối với người có đất bị thu hồi trong quy hoạch
xây dựng là những vấn đề gặp rất nhiều bất cập và khó khăn hiện nay. Từ thực tế đó
ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình đẩy nhanh phát triển nền kinh tế đất nước. Cho
nên việc giải quyết rốt ráo các bức xúc, vướng mắc trong các chính sách hỗ trợ cho
người có đất bị thu hồi là một nhu cầu cấp thiết và rất thực tế. Chính vì lẽ đó mà
trong những năm gần đây ở nước ta các quy định của pháp luật về chính sách về hỗ
trợ cho người có đất bị thu hồi khi giải phóng mặt bằng ngày càng được quy định
hoàn thiện hơn và phù hợp hơn với yêu cầu của thực tế cũng như quy luật kinh tế.
Có thực hiện tốt chính sách hỗ trợ cho người bị thu hồi đất, kết hợp hài hòa giữa
quyền lợi và nghĩa vụ đối với người có đất bị thu hồi sẽ góp phần thúc đẩy quá
trình phát triển kinh tế thuận lợi hơn, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, bằng không sẽ có tác dụng ngược lại. Do đó việc nghiên cứu chính
sách hỗ trợ cho người bị thu hồi đất và thực tiễn áp dụng, là một nhu cầu cấp thiết,
thể hiện sự quan tâm đặc biệt của người viết đối với vấn đề mang tính thực tế này.
Đó là lý do mà người viết chọn: “Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải
phóng mặt bằng- lý luận và thực tiễn” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt
nghiệp của mình.

GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
-1-



Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn
2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được giới hạn trong phạm vi chính sách hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất vì mục đích công cộng, phát triển kinh tế để thực hiện quy hoạch xây
dựng căn cứ theo Nghị định 69/2009/NĐ-CP được ban hành ngày 13/8/2009 quy
định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư. Đề tài đi vào tìm hiểu những quy định hiện hành của pháp luật về chính
sách hỗ trợ cho người bị thu hồi đất, cũng như thực tiễn của chính sách này.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Việc nghiên cứu và thực hiện luận văn này là cơ hội để người viết hiểu rỏ hơn
về chính sách hỗ trợ cho người bị thu hồi đất và thực tiễn áp dụng của chính sách
này. Qua đó người viết đưa ra những nhận xét, đánh giá, cũng như những quan
điểm của mình nhằm mong muốn tìm ra những giải pháp cho việc thực thi của
chính sách hỗ trợ được triễn khai tốt hơn, nhằm đảm bảo tối ưu quyền và lợi ích cho
người có đất bị thu hồi, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của người viết trước vấn đề
mang tính thực tế này. Tuy nhiên do nghiên cứu dưới góc độ pháp lý nên những
quan quan điểm mà người viết đưa ra sẽ không tránh khỏi những sai sót và mang
tính chủ quan. Do đó người viết rất mong sự đóng góp và chỉ dẫn của quý thầy cô
và các bạn để đề tài có thể hoàn thiện hơn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài, người viết sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên
cứu Chủ nghĩa duy vật biện chứng sử dụng như là cơ sở của phương pháp luận để
xem xét toàn bộ các vấn đề của đề tài, phương pháp sưu tầm và tổng hợp những bài
nghiên cứu, ý kiến của các luật gia, văn bản quy phạm pháp luật…Kết hợp với
phương pháp so sánh, đối chiếu đánh giá các quy định của pháp luật nhằm thấy
được những điểm mới cũng như những hạn chế của các quy định về chính sách hỗ
trợ khi thu hồi đất .Đồng thời kết hợp dẫn chứng để làm sáng tỏ nội dung những
chính sách hỗ trợ của nhà nước khi thu hồi đất giải phóng mặt bằng.

5. Kết cấu đề tài
Đề tài bao gồm các chương nghiên cứu lý luận và thực tiễn như sau:
Chương 1: Lý luận chung về chính sách hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng.
Ở chương một này người viết tập trung nghiên cứu các khái niệm cơ bản như
khái niệm thu hồi đất, khái niệm bồi thường, và khái niệm hỗ trợ. Qua đó, làm rỏ
mối quan hệ giữa thiệt hại, bồi thường và hỗ trợ, để từ đó thấy được vai trò của
chính sách hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng. Đồng thời người viết còn nghiên cứu
lược sử phát triển của chính sách hỗ trợ qua các giai đoạn, đối tượng được hưởng
chính sách hỗ trợ, cũng như thẩm quyền quyết định chính sách hỗ trợ.
GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
-2-


Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn
Chương 2: Quy định của pháp luật về chính sách hỗ trợ khi giải phóng mặt
bằng.
Trong chương này người viết tập trung nghiên cứu những quy định cụ thể của
pháp luật về chính sách hỗ trợ. Xem trong từng trường hợp thu hồi đất, đối tượng
được nhận hỗ trợ sẽ được nhận các khoản hỗ trợ gì, hỗ trợ như thế nào và mức hỗ
trợ là bao nhiêu, để qua đó thấy được những thay đổi ngày càng hợp lý hơn của
pháp luật về chính sách hỗ trợ và đánh giá về khả năng áp dụng của các quy định
này vào thực tiễn. Từ đó có thể đưa ra giải pháp nhằm hoàn hoàn thiện hơn đối với
chính sách hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng.
Chương 3: Thực trạng, vướng mắc về việc thực thi của chính sách hỗ trợ khi
giải phóng mặt bằng, những biện pháp tháo gỡ.
Chương này người viết tập trung nghiên cứu thực trạng của chính sách hỗ trợ
khi thu hồi đất giải phóng mặt bằng và thực tiễn áp dụng tại một số địa phương như
Hậu Giang, Hà Nội. Qua đó, thấy được những vướng mắc ảnh hưởng đến việc thực

thi của chính sách hỗ trợ, đồng thời người viết đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn
thiện hơn về chính sách hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng.
Có thể nói những vấn đề liên quan đến đất đai bao giờ cũng là vấn đền khá
phức tạp và nhạy cảm. Tuy nhiên khi nghiên cứu dưới góc độ pháp lý chắc chắn
không tránh khỏi hạn chế, thiếu sót. Những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn
sẽ là những đóng góp quí báo để đề tài thêm hoàn thiện hơn.

GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
-3-


Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn
CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ KHI GIẢI
PHÓNG MẶT BẰNG
Chương này người viết giới thiệu khái quát về chính sách hỗ trợ khi giải phóng
mặt bằng bao gồm các khái niệm cơ bản về chính sách hỗ trợ, phân tích vai trò của
chính sách hỗ trợ khi thu hồi đất giải phóng mặt bằng. Đồng thời còn phân tích lược
sử phát triển của chính sách hỗ trợ qua các giai đoạn, đối tượng được hưởng chính
sách hỗ trợ, cũng như thẩm quyền quyết định chính sách hỗ trợ.
1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Thu hồi đất
Khi hàng loạt các công trình công cộng, công trình quốc gia, các khu kinh tế,
khu công nghiệp được triển khai hiển nhiên cần phải có những diện tích đất lớn để
thực hiện các dự án này. Thế nhưng đất đai thuộc sở hữu toàn dân, với tư cách là
người quản lý, nhằm bảo đảm lợi ích nhà nước, lợi ích nhân dân, khi đó Nhà nước
sẽ ra quyết định thu hồi quyền sử dụng đất của người dân hoặc đất được nhà nước

giao để quản sử dụng.
Thu hồi đất là việc chuyển quyền sử dụng đất từ một chủ thể sử dụng đất sang
một chủ thể khác. Việc thu hồi đất có thể có nhiếu lý do, chẳng hạn như người sử
dụng đất vi phạm luật đất đai về các quy tắc quản lý và sử dụng đất, hay thu hồi đất
do thiên tai, địch họa, hoặc thu hồi đất vì mục đích công cộng, phát triển kinh tế để
thực hiện quy hoạch xây dựng…
Như vậy thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền
sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã phường, thị
trấn quản ký theo quy định của luật đất đai
1.1.2. Bồi thường
Bồi thường được hiểu là sự “trả lại” tất cả những thiệt hại một cách “tương
xứng” với những thiệt hại đã gây ra của chủ thể thu hồi đất. Căn cứ vào giá trị
quyền sử dụng đất để xác định thiệt hại tính bồi thường. Giá trị quyền sử dụng đất
là giá trị bằng tiền của quyền sử dụng đất đó đối với diện tích đất xác định trong
thời hạn sử dụng đất nhất định. Trong quy hoạch xây dựng thiệt hại gây ra có thể là
thiệt hại vật chất hoặc thiệt hại phi vật chất. Trong giải phóng mặt bằng cùng với
các quy định về bồi thường là các quy định về hỗ trợ và tái định cư, nhằm trợ giúp
thêm cho người bị thu hồi đất tái lập cuộc sống mới, để chuyển đổi nghề nghiệp, để
giải quyết khó khăn về mặt kinh tế…Khác với khái niệm bồi hoàn (khái niệm gắn
GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
-4-


Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn
với mốc lịch sử của thời bao cấp) khái niệm bồi thường đòi hỏi mức độ chính xác
tuyệt đối giữa “tài sản lấy đi” và “tài sản được trả lại”. Khi chính sách đền bù thật
sự là vấn đề được đặt ra trên thực tế thì quan niệm về bồi thường ngày càng được
quan tâm hơn khi đó bồi thường đòi hỏi phải trả lại đúng “giá trị thực tế” của tài sản

bị lấy đi và tài sản được trả lại.
Như vậy bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị
quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất.
1.1.3. Hỗ trợ
Theo luật đất đai hiện hành thì hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất là việc nhà
nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới,
cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới.
Hỗ trợ được hiểu là Nhà nước thực hiện chính sách trợ cấp đối với các đối
tượng bị thu hồi đất nhằm giúp đỡ người dân bị thu hồi đất ổn định cuộc sống mới,
để chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm và giải quyết khó khăn mà những khó
khăn này có nguồn gốc trực tiếp hoặc gián tiếp từ việc thu hồi đất.
Do mang nặng bản chất của sự “giúp đỡ” nên hỗ trợ mang nặng tính “chính
sách”. Để chăm lo cho đời sống của nhân dân, nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách; chẳng hạn
chính sách đền ơn đáp nghĩa đối với người có công với cách mạng nhằm giúp họ bù
đắp phần nào những mất mát vượt qua khó khăn để ổn định cuộc sống; hay chính
sách xóa đói giảm nghèo nhằm trợ cấp, giúp đỡ những hộ nghèo theo tiêu chí hộ
nghèo của Bộ lao động thương binh xã hội vượt qua những khó khăn, thoát nghèo v
v…Mỗi chính sách đều có đối tượng riêng, chính sách hỗ trợ khi giải phóng mặt
bằng cũng không là ngoại lệ, đối tượng hướng đến của chính sách này là những
người có đất bị thu hồi đất nhằm giúp đỡ thêm cho họ để tái lập cuộc sống mới,
chuyển đổi nghề nghiệp, ổn định cuộc sống, giải quyết các khó khăn về mặt kinh tế
vv…Chính sách này ngày càng được quan tâm và quy định rạch ròi hơn.
Như vậy ta thấy giữa bồi thường và hỗ trợ có sự khác nhau về bản chất. Bồi
thường là sự đền trả lại giá trị của những thiệt hại mà chủ thể đã gây ra do việc thu
hồi đất, còn hỗ trợ là hình thức trợ cấp với mục đích trợ giúp cho người có đất bị
thu hồi vươt qua những khó khăn để ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế...
1.2. Mục đích, ý nghĩa của chính sách hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng
1.2.1. Mục đích
Khi nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng ngoài việc bồi thường cho

những đối tượng có đất bị thu hồi nhằm đến trả lại những thiệt hại mà mình đã gây
ra thì Nhà nước còn hướng đến việc hỗ trợ cho người dân có đất bị thu hồi nhằm
gúp họ có thêm một phần chi phí để tạo điều kiện cho họ ổn định cuộc sống, yên
GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
-5-


Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn
tâm lao động sản xuất, góp phần cùng họ khắc phục phần nào những khó khăn, mà
những khó khăn này do việc thu hồi đất mà ra. Chính từ thực tế đó mà việc thực
hiện chính sách hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi là một nhu cầu thực tế và mang
một ý nghĩa rất quan trọng.
Đối với người có đất bị thu hồi, mà phải di chuyển chỗ ở thì chắc rằng họ sẽ
gặp rất nhiều khó khăn, mất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc, đời sống sẽ gặp
nhiều sáo trộn. Với chính sách hỗ trợ di chuyển của Nhà nước sẽ tạo ra tâm lý an
tâm hơn khi phải di chuyển chổ ở, đồng thời thích nghi với ng cho họ ổn định đời
sống và phát triển kinh tế sau này. cuộc sống mới nhằm giảm bớt những khó khăn
mà họ phải gánh chịu, tạo nền tả
Khi nhà nước thu hồi đất giải phóng mặt bằng người có đất bị thu hồi không
những bị mất đất mà còn mất cả các nguồn lợi trên đất, những nguồn lợi này được
xem như là những nguồn thu nhập chính của họ vì vậy những nguồn lợi này bị mất
đi ảnh sẽ hưởng không nhỏ đến cuộc sống của họ trước và sau khi tái định cư vì
vậy nhà nước quan tâm đến các đối tượng này bằng các chính sách hỗ trợ nhằm
giúp họ cải thiện cuộc sống, tạo tâm lý phấn khởi giúp họ yên tâm lao động, tăng
gia sản xuất. Chính sách này không những giảm bớt khó khăn cho người có đất bị
thu hồi mà còn đáp ứng được nhu cầu và đảm bảo quyền và lợi ích cho người có đất
bị thu hồi; chủ thể mà từ trước đến nay luôn phải gánh chịu nhiều thiệt thòi.
Một vấn cũng được đặt ra khi thu hồi đất đó là vấn đề việc làm cho người có đất

bị thu hồi. Bởi vì khi thu hồi đất ít nhiều cũng ảnh hưỡng đến cuộc sống hiện tại
của người dân, đặc biệt là những người đang lao động, những người này thường là
trụ cột là lao động chính trong gia đình, vì vậy họ có thể sẽ bị xáo trộn trong công
việc đang làm khi di chuyển đến nơi mới. Điều này sẽ ảnh hưỡng đáng kể đến thu
của cá nhân cũng như của gia đình. Vấn đề được đặt ra là không chỉ bị mất việc làm
hiện tại mà còn là khi bị di dời vào chỗ mới do điều kiện nơi ở mới mà họ không
thể sử dụng tay nghề hoặc những kỷ năng có sẵn để làm việc như trước kia và như
vậy họ sẽ bị mất công ăn việc làm tại nơi ở mới. Chính từ thực tế đó nhằm giúp
người lao động vượt qua những khó khăn, trở ngại Nhà nước thực hiện chính sách
hỗ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm mới cho các đối tượng này. Việc hỗ trợ
cho các đối tượng này là một nhu cầu rất thực tế không chỉ giúp cho người lao động
vượt qua khó khăn có được việc làm nuôi sống bản thân và gia đình mà còn giúp
cho người lao động chuyển đổi nghề nghiệp phù hợp hơn với nơi sinh sống mới và
còn tránh được tình trạng “nghèo đi” vì bị thu hồi đất.
Như vậy qua phân tích trên có thể thấy chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất có mục đích quan trọng. Chính sách này đã phần nào tháo gỡ những khó khăn
cho người dân có đất bị thu hồi,giúp người dân tái tạo lại cuộc sống mới, chuyển
GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
-6-


Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn
đổi nghề nghiệp ổn định việc làm, yên tâm lao động sản xuất nhằm giải quyết khó
khăn về mặt kinh tế.
1.2.2. Ý nghĩa của sách hỗ trợ
Qua phân tích ý mục đích của chính sách hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng trên ta
thấy chính sách hỗ trợ có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với quy hoạch xây dựng
nói chung và người dân có đất bị thu hồi nói riêng.

Khi đạt được mục đích thì chính chính sách hỗ trợ sẽ phát huy được hiệu quả
thiết thực, cho thấy Đảng và nhà nước ta ngày càng quan tâm đến các đối tượng có
đất bị thu hồi, để chính sách và pháp luật của Nhà nước thật sự đi vào đời sống của
nhân dân, phục vụ cho lợi ích nhân dân. Qua đó thể hiện được tinh thần đổi mới của
Đảng, Nhà nước trong công tác giải phóng mặt bằng. Với ý nghĩa thực thực tế đó
chính sách hỗ trợ giúp cho người dân thêm tin tưởng vào đường lối chính sách cuả
Đảng.
Thu hồi đất phục vụ cho các dự án qui hoạch là yêu cầu của quá trình xây
dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên trong những năm qua việc thu hồi đất còn
rất nhiều bất cập xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Do công
tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chưa phù hợp và thỏa đáng từ đó dẫn đến tình
trạng khiếu nại, khiếu kiện tràng lang kéo dài trong nhiều năm liên quan đến việc
thu hồi đất ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của các dự án qui hoạch. Vì thế
chính sách hỗ trợ được thực hiện tốt và triển khai hợp lý thì sẽ góp phần giải quyết
được những vướng mắc trong công tác thu hồi đất, và giảm được tình trạng khiếu
nạy, khiếu kiện kéo dài liên quan đến việc thu hồi đất từ đó hiệu quả của các dự án
qui hoạch được đảm bảo hơn.
Bên cạnh đó chính sách hỗ trợ còn còn có một vai trò quan trọng, giúp cho
công tác đền bù khi thu hồi đất được thuận lợi hơn, đẩy nhanh tiến độ của các dự
án, góp phần làm giảm sức ép cho các cơ quan hành chính khi thu hồi đất. Đất đai
thuộc sỡ hữu toàn dân, nhà nước thống nhất quản lý bằng quy hoạch và kế hoach sử
dụng đất. Khi có nhu cầu vào mục đích an ninh, quốc phòng, phát triển kinh tế v.v..
thì nhà nước ra quyết định hành chính để thu hồi đất. Công tác thu hồi đất thường
gặp rất nhiều khó khăn, cùng với việc giải quyết rốt ráo những bức xúc của người
dân về việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là vấn đề không đơn giản. Vì vậy mà áp
lực của các cơ quan hành chính trong công tác thu hồi đất sẽ gặp nhiều áp lực, do
đó công tác hỗ trợ được đảm bảo thì sẽ góp phần không nhỏ giúp cho công tác thu
hồi đất diễn ra thuận lợi hơn, và sức ép đối với các cơ quan hành chính cũng được
giảm xuống.
Mặt khác chính sách hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng còn có một vai trò vai trò

quan trọng, chính sách này ngày càng đi vào đời sống nhân dân nói chung và đối
GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
-7-


Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn
tượng người có đất bị thu hồi nói riêng. Chính sách hỗ trợ đã góp phần nâng cao
điều kiện sống cho người dân, và góp phần cho sự vận hành của thị trường bất động
sản ở nước ta theo hướng tích cực hơn. Nhờ những quy định của pháp luật về chính
sách hỗ trợ ngày càng hợp lý hơn, mức hỗ trợ ngày càng cao hơn giúp cho người
dân có thể khôi phục lại những tài sản bị mất do việc thu hồi đất, tháo gỡ được
những khó khăn cho người dân từ đó nhân dân chấp hành tốt chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước.
Ngoài ra chính sách hỗ trợ còn có một vai trò chiến lược trong quy hoạch xây
dựng, gúp cho các dự án được triển khai nhanh hơn, tiến độ của các dự án được
đảm bảo giúp cho đất nước ta xây dựng được những cơ sở vật chất kỉ thuật, phát
triển kết cấu hạ tầng, xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ
cao từ đó góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế xây dựng đất nước ngày càng phát
triển.
Tóm lại chính sách hỗ trợ được thực hiện tốt đúng theo mục đích và ý nghĩa của
nó sẽ góp phần giúp cho công tác quản lý của nhà nước trên các lĩnh vực nói chung
và lĩnh vực đất đai nói riêng được tốt hơn. Kết hợp hài hòa giữa lợi ích của nhân
dân và lợi ích của Nhà nước, nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân, xây
dựng đất nước ngày càng phát triển.
1.3. Quan hệ giữa thiệt hại, bồi thường, và hỗ trợ
Qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về bồi thường, cũng như phân tích
khái niệm, đặc điểm, vai trò của chính sách hỗ trợ ta thấy giữa thiệt hại, bồi thường
hỗ trợ có mối quan hệ thống nhất với nhau có thể nhận thấy qua một số điểm sau:

Điểm thứ nhất: Việc bồi thường, hỗ trợ được đặt ra khi Nhà nước gây ra những
thiệt hại và chỉ xuất hiện khi có cơ sở nhất định đó là khi nhà nước thu hồi đất giải
phóng mặt bằng.
Điểm thư hai: Chúng chỉ được áp dụng đối với một đối tượng nhất định đó là người
có đất bị thu hồi
Điểm thứ ba: Chúng đều do cơ quan có thẩm quyền quyết định và áp dụng theo một
số trình tự thủ tục nhất định được quy định trong pháp luật về đất đai Việt Nam.
Việc xác định những thiệt hại để áp dụng chính sách đền bù, hỗ trợ mang một ý
nghĩa rất thực tế nhằm đảm bảo quyền lợi cho người dân có đất bị thu hồi, giúp họ
vượt qua những khó khăn do hậu quả của việc thu hồi đất, ổn định đời sống và sản
xuất nhằm tạo điều kiện cho người dân khôi phục lại những tài sản đã bị mất. Bồi
thường là sự đền trả tất cả những thiệt hại một cách tương xứng khi nhà nước gây
thiệt hại. Còn hỗ trợ được áp dụng trong những trường hợp không đủ điều kiện để
bồi thường, hoặc trong những trường hợp cần thiết ngoài việc bồi thường cơ quan
GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
-8-


Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn
có thẩm quyền quyết định thêm các khoản hỗ trợ nhằm giúp đỡ người dân vượt qua
khó khăn, ổn định đời sống, sản xuất, chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm.
Khi nhà nước thu hồi đất sẽ gây ra nhiều thiệt hại khác nhau, ứng với mỗi loại
thiệt hại mà có những chính sách bồi thường, hỗ trợ phù hợp. Chẳng hạn thiệt hại
về kinh tế thì phải áp dụng hình thức bồi thường- thiệt hại đến đâu thì bồi thường
đến đó, thiệt hại về điều kiện sống, hay thiệt hại về nghề nghiệp thì cần phải áp
dụng chính sách hỗ trợ giúp cho người dân ổn định cuộc sống, có cơ hội học nghề
và chuyển đổi nghề và tạo việc làm chứ không phải chỉ bồi thường thôi là đủ.
Tóm lại qua phân tích trên ta thấy giữa thiệt hại gây ra và mức bồi thường, hỗ

trợ có mối quan hệ với nhau. Cần đặt chúng trong nhiều mối quan hệ với nhau
nhằm đảm bảo tối ưu quyền và lợi ích hợp pháp cho người có đất bị thu hồi.
1.4. Lược sử của chính sách hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng qua các giai đoạn
Vấn đề đền bù, hỗ trợ và tái định cư chỉ thật sự là vấn đề trên thực tế khi Nhà
nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường. Mặc dù luật đất đai phát triển qua nhiều
giai đoạn, song lược sử của chính sách hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng có thể tạm
chia thành các giai đoạn cụ thể như sau:
1.4.1 Giai đoạn trước luật đất đai 1993
Nhìn chung trong giai đoạn này công tác giải phóng mặt bằng còn đơn giản
chưa được quan tâm do ảnh hưởng của chế độ bao cấp trước đó, lợi ích của xã hội,
của công cộng được đặt lên trên lợi ích cá nhân một cách mạnh mẽ. Hơn nữa quyền
hạn của người sử dụng đất trước năm 1993 còn rất hạn chế, đất đai trong giai đoạn
này không được xem là một loại tài sản lưu thông trên thị trường. Nếu có việc thu
hồi đất cho những dự án công cộng thì tài sản trên đất được bồi hoàn cho chủ sở
hữu tài sản, nhưng đất đai chủ yếu là hoán đổi chứ không được bồi hoàn. Do đất đai
trong thời kỳ này không được xem là tài sản “có giá” nên sự hoán đổi chỉ mang tính
chất tượng trưng với những điều kiện mà người bị thu hồi đất có thể chấp nhận
được. Điều này dựa trên cơ sở lý luận: Đất đai thuộc sở hữu của toàn dân, do nhà
nước quản lý; người sử dụng đất được nhà nước giao, nên khi cần thì nhà nước có
thể lấy lại và giao lại một thửa đất khác.
Vì vậy mà trong giai đoạn này công tác hỗ trợ cho người bị thu hồi chưa được
quan tâm. Khi nhà nước có nhu cầu sử dụng đất thì có thể lấy lại và giao lại cho
người sử dụng đất một thửa khác chỉ mang tính chất tượng trưng. Còn vấn đề “bồi
hoàn” đối với những tài sản khác cũng chỉ mang một ý nghĩa tượng trưng chưa
tương xứng, không đòi hỏi mức độ chính xác về giá trị của tài sản bị lấy đi và tài
sản được hoàn lại.

GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.

-9-


Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn
1.4.2. Giai đoạn từ luật đất đai 1993 đến 2003
Giai đoạn này chính sách hỗ trợ đã bắt đầu được quan tâm nhưng chưa đúng
mức. Triển khai nghị quyết VI (1986) của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, trên
cơ sở Hiến pháp 1992 . Với sự ra đời của Luật đất đai năm 1993 thì những quyền
năng của người sử dụng đất trong nề kinh tế thị trường đã bắt đầu được ghi nhận.
Đất đai lúc này đã được xem là tài sản có giá, và vì vậy khi nhà nước thu hồi đất
vào mục đích công cộng hay quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia thì ngoài việc bồi
thường tương xứng với giá trị quyền sử dụng đất thì vấn đề hỗ trợ khi thu hồi đất
giải phóng mặt bằng cũng đã được đặt ra. Sau khi luật đất đai 1993 có hiệu lực,
Chính phủ ban hành Nghị định 90/CP năm 1994 cụ thể hóa chính sách bồi thường.
Tuy nhiên chính sách bồi thường quy định trong Nghị định này nghị còn rất hạn
chế, chưa bù đắp được một cách tương xứng những thiệt hại đã gây ra do việc thu
hồi đất. Người bị thu hồi đất trong giai đoạn này gặp rất nhiều khó khăn không đủ
khả năng tái tạo cuộc sống so với trước khi bị thu hồi, quyền lợi của họ chưa được
quan tâm đầy đủ.
Nghị định số 22/1998/NĐ-CP năm 1998 (thay thế cho nghị định 90/CP năm
1994) là văn bản pháp quy cụ thể hóa các quy phạm liên quan đến thu hồi đất, đền
bù hỗ trợ và tái định cư. Lúc này nhiều vấn đề căn cơ về chính sách hỗ trợ đã được
đặt ra, điều kiện, đối tượng được hưỡng chính sách hỗ trợ, cũng như mức hỗ trợ.
Tuy nhiên đây cũng là thời kỳ mà đền bù, hỗ trợ và tái định cư khi giải phóng
mặt bằng thành một vấn đề nóng trong xã hội. Sự chuyển biến mạnh mẽ về giá đất
trong quy định so với thực tế, cùng vói nhận thức chưa đầy đủ của một bộ phận cán
bộ thực thi công tác này, đã dẫn đến hệ quả đền bù, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi
đất giải phóng mặt bằng gặp nhiều vướng mắc và trở thành vấn đề khiếu nại, khiếu
kiện với số lượng nhiều nhất, với mức độ gay gắt và kéo dài trong nhiều năm.
1.4.3. Giai đoạn từ Luật đất đai 2003 đến nay

Cụ thể hóa luật đất đai năm 2003 với phương chăm là phải tạo điều kiện tốt
hơn cho người bị thu hồi đất ổn định cuộc sống với khả năng tái tạo cuộc sống bằng
hoặc tốt hơn nơi cũ Nghị định số 97/2004/NĐ-CP ngày 3/12/ 2004 ra đời để khắc
phục những điểm còn hạn chế và bổ sung cho Nghị định 22/1998/NĐ-CP, khẳng
định thêm về các khái niệm thi trường bất động sản, về giá đất. Nghị định
197/2004/NĐ-CP ra đời nhằm “bổ khuyết” những hạn chế, thiếu xót của Nghị định
22/1998/NĐ-CP về chính sách hỗ trợ khi thu hồi đất giải phóng mặt bằng, song
song đó nghị định còn ghi nhận mục đích thu hồi đất vì mục đích phát triển kinh tế,
Nghị định 197 và đã quy định chi tiết hơn về các loại hỗ trợ cụ, hình thức hỗ trợ và
đối tượng được hỗ trợ, cũng như thẩm quyền quyết định chính sách hỗ trợ. Cho nên
đây được xem là bước tiến quan trọng trong chính sách về đất đai khi đó vấn đề bồi
GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
- 10 -


Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn
thường và hỗ trợ đã được quy định tách bạch riêng biệt. Tuy nhiên việc thực thi
chính sách hỗ trợ trên thực tế vẫn còn nhiều vướng mắc nên tình trạng khiếu nại,
khiếu kiện vẫn còn nhiều. Tiếp theo đó Nghị định số 84/2007/NĐ-CP cũng dành
nhiều quy phạm để hướng dẫn trình tự, thủ tục thu hồi đất, thực hiện việc hỗ trợ,
bồi thường và tái định cư.
Trong năm 2009 Chính phủ vừa ban hành Nghị định 69/2009/NĐ-CP quy định
bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 2009. Trên tổng thể, Nghị định bổ
sung nhiều điểm mới, tích cực, theo hướng tăng quyền lợi cho người bị thu hồi đất
– đối tượng lâu nay được đánh giá là chịu nhiều thiệt thòi, Nghị định này tăng mức
hỗ trợ cho người dân có đất bị thu hồi. Mức hỗ trợ tăng lên nhiều lần so với trước,
ngoài ra nghị định 69/2009/NĐ-CP còn quy định thêm nhiều hình thức hỗ trợ khác.

Với việc sửa đổi bổ sung luật đất đai năm 2009 cùng với sự ra đời của nghị định
này đã cho thấy quy định của pháp luật về lĩnh vực đất đai và chính sách hỗ trợ khi
thu hồi đất ngày càng hoàn thiện hơn theo hướng tích cực hơn nhằm bảo đảm quyền
lợi cho người sử dụng đất nói chung và người có đất bị thu hối nói riêng.
Như vậy qua các giai đoạn thì quy định của pháp luật về chính sách hỗ trợ khi
thu hồi đất ngày càng được hoàn thiện và phù hợp hơn với nhu cầu thực tế cũng
như quy luật kinh tế. Nghị định 69/2009/NĐ-CP là văn bản pháp quy hiện hành có
nhiều điều khoản quy định cụ thể về chính sách hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng,
Nghị định này đã tạo ra bước tiến quan trọng trong các chính sách về đất đai của
Nhà nước. Chính sách hỗ trợ cho người dân có đất bị thu hồi, so với các giai đoạn
trước được quy định tách bạch và cụ thể hơn theo hướng ngày càng có lợi hơn cho
người dân thể hiện tinh thần đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đối với những chính
sách về đất đai nói chung và chính sách hỗ trợ khi thu hồi đất giải phóng mặt bằng
nói riêng.
1.5. Đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ
Đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng đó là người
sử dụng đất có đất bị thu hồi. Người sử dụng đất bao gồm rất nhiều đối tượng khác
nhau chẳng hạn như: các tổ, hộ gia đình cá nhân, các cộng đồng dân cư, các cơ sơ
tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước v.v... Các đối tượng này sử dụng đất dưới
các hình thức được nhà nước giao đất cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng
đất.
Do đặc điểm của nước ta là nước Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN) với những đặc
trưng cơ bản là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Đất đai chính là tư liệu sản
xuất vô cùng quan trọng và chính vì lý do đó mà ở nước ta đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do nhà nước đứng ra thống nhất quản lý. Từ đó cho thấy rằng người sử
GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
- 11 -



Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn
dụng đất ở Việt Nam chỉ là chủ sở hữu của quyền sử dụng đất có nghĩa là chỉ có
quyền sử dụng và chiếm hữu chứ không có quyền định đoạt đối với đất đai. Nhìn
chung nước ta là nước nông nghiệp do đó khi thu hồi đất đối tượng được hưởng
chính sách hỗ trợ phần nhiều là những người nông dân lao động nông nghiệp.
Chính vì vậy mà chính sách hỗ trợ khi thu hồi đất cần được quy định những gì mà
có lợi cho người nông dân, vì đây là một lực lượng sản xuất vô cùng quan trong
rtrong xã hội. Tầm quan trọng của mối quan hệ với nông dân đã được V.I. Lênin
chỉ ra khi áp dụng chính sách kinh tế mới ở Liên Xô (cũ) với phương châm “bắt đầu
từ nông dân”. V.I. Lê nin viết: “10 - 20 năm quan hệ đúng đắn với nông dân thì
thắng lợi được đảm bảo… nếu không thì là 20 - 40 năm đau khổ với sự khủng bố
của bạch vệ”. (V.I.Lênin Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tập 43, trang
459).
Người sử dụng đất có thể được xác định dựa trên hai tiêu chí:
Tiêu chi thứ nhất: Căn cứ vào vào căn cứ pháp lý làm phát sinh quyền sử dụng đất
(tiêu chí pháp lý) điều đó có nghĩa là hộ gia đình, cá nhân, tổ chức để được xác định
là người sử dụng đất khi được Nhà nước cho phép sử dụng đất thông qua một trong
các hình thức theo quy định của pháp luật dất đai như: Được Nhà nước giao đất,
được nhà nước cho thuê đất hay được nhà nước cho phép nhận chuyển quyền sử
dụng đất thông qua các giao dịch chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế quyền sử
dụng đất.
Tiêu chí thứ hai: Căn cứ vào thực tế sử dụng đất (tiêu chí thực tế) người sử dụng
đất được xác định là người đang sử dụng đất trên thực tế.
Dựa mục đích sử dụng có thể phân loại nhóm các đối tượng được hưởng chính
sách hỗ trợ như sau: hộ gia đình cá nhân có đất bị thu hồi; các tổ chức được nhà
nước giao đất, cho thuê đất hoặc đang sử dụng đất mà bị thu hồi, và các tổ chức
kinh tế, hộ sản xuất kinh doanh có đăng ký kinh doanh.
1.5.1 Hộ gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi
Trong xã hội các hình thức sử dụng đất rất đa dạng và luôn gắn với hoạt động

của nhiều chủ thể. Do đó việc quản lý trong lĩnh vực đất đai cũng hết sức phức tạp.
Luật đất đai 1993 đã đặt nền tảng cho việc xác lập địa vị pháp lý của hộ gia
đình. Với tư cách là một đơn vị kinh tế chủ yếu, trực tiếp sản xuất nông nghiệp, hộ
gia đình trở thành chủ thể độc lập trong quan hệ pháp luật đất đai. Việc xác định hộ
gia đình là một đơn vị kinh tế đã chi phối đến đời sống pháp luật của chủ thể này.
Điều này dẫn đến quan niệm về hộ gia đình không chỉ hiểu theo nghĩa quan hệ gia
đình là nơi cư trú, bao gồm cả những cá nhân có mối quan hệ với nhau như ông, bà,
cha, mẹ, anh, chị, em, vợ chồng…cùng sinh sống trong một gia đình, hoặc hộ gia
đình là người được ghi tên trong hộ.
GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
- 12 -


Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn
Hộ gia đình là một chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai gồm những thành
viên gắn bó với nhau do quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân cùng có tên
trong hộ khẩu, có hoạt động kinh tế chung và có tài sản chung. (Theo giáo trình luật
đất đai 2007 của trường Đại học luật Hà Nội)
Đối với cá nhân sử dụng đất là những chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai
được nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất hoặc chuyển
quyền sử dụng đất. Nếu so sánh với thành viên trong hộ gia đình ta có thể thấy sự
khác biệt giữa hai chủ thể. Khi nhà nước giao đất cho hộ gia đình thì các thành viên
trong hộ là đồng sử dụng đối với quyền sử dụng đất đó. Từng thành viên không trực
tiếp thực hiện trách nhiệm của người sử dụng đất đối với Nhà nước hoặc thực hiện
các giao dịch về quyền sử dụng đất mà phải thông qua người đại diện hợp pháp cho
hộ gia đình gọi là chủ hộ. Còn cá nhân người sử dụng đất là chủ thể được nhà nước
cho phép trực tiếp sử dụng đất và chủ thể này sẽ độc lập chịu trách nhiệm bằng
chính các hành vi của mình trong quá trình thực hiện các quyền và nghĩa vụ khi

tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai.
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất vào mục đích nông nghiệp, phi nông
nghiệp, đối với từng trường hợp cụ thể khi bị thu hồi đất sẽ được hưởng chính sách
hỗ trợ theo quy định của pháp luật. Đây là đối tượng chiếm đa số trong công tác
thực hiện chính sách hỗ trợ của Nhà nước, bởi lẽ nước ta là nước nông nghiệp, phần
lớn diện tích đất nước ta là đất nông nghiệp do đó khi thu hồi đất đối tượng chịu
ảnh hưởng nhiều nhất là hộ gia đình, cá nhân đang trực tiếp sản xuất nông nghiệp.
Qua đó có thể nói rằng hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp hợp pháp, hợp
lệ phù hợp với quy định của pháp luật dưới các hình thức là được nhà nước giao,
cho thuê hoặc thuê quyền sử dụng đất, hoặc nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế
hoặc được tặng cho khi bị thu hồi thì sẽ được hưởng chính sách hỗ trợ.
Như vậy đối tượng được hỗ trợ ở đây chính là hộ gia đình, cá nhân sống trong
khu vực giải tỏa (khu vực có đất bị thu hồi) có nhà ở, đất ở, đất nông nghiệp đang
sử dụng hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các đối tượng này nếu được quan
tâm đúng mức thì sẽ khẳng định được vai trò của chính sách hỗ trợ, giúp cho hộ gia
đình, cá nhân có đất bị thu hội vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống tạo, điều kiện
để phát triển hòa cùng với sự phát triển của đất nước. Qua đó cho thấy rằng Nhà
nước đã ngày càng quan tâm hơn đối với các chính sách về đất đai nói chung và
chính sách hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi nói riêng nhằm đảm bảo quyền lợi tối
ưu cho người, để thực hiện công bằng xã hội, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước.

GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
- 13 -


Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn
1.5.2. Tổ chức được nhà nước giao đất, cho thuê đất, hoặc đang sử dụng đất mà

bị thu hồi
Các tổ chức đang sử dụng đất ở nước ta bao gồm: các cơ quan nhà nước; tổ chức
chính trị; tổ chức chính trị- xã hội; tổ chức chính trị xã hội- nghề nghiệp; tổ chức xã
hội; tổ chức xã hội- nghề nghiệp,v.v..Như vậy có thể hiểu tổ chức trong nước sử
dụng đất là tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật. Cá tổ chức này có
quyền sử dụng đất dưới các hình thức: Được nhà nước giao đất, cho thuê đất, công
nhận quyền sử dụng đất hoặc công nhận chuyển quyền sử dụng đất. Các tổ chức
thường có đặc điểm là thường sử dụng đất với quy mô diện tích lớn, sử dụng vào
nhiều mục đích khác nhau như sử dụng đất để xây trụ sở cơ quan, công trình sự
nghiệp, sử dụng đất vào mục đích quốc phòng an ninh, đất xây dựng làm mặt bằng
cơ sở sản xuất kinh doanh…Đại hội đảng toàn quốc lần thứ IX xác định: “ Thị
trường bất động sản trong đó có thị trường quyền sử dụng đất mở rộng cơ hội cho
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế dễ dàng có đất và sử dụng đất lâu
đai cho sản xuất kinh doanh, đồng thời phải công khai hóa và thực hiện đúng trách
nhiệm, quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong quan hệ với doanh nghiệp. Kiên
quyết xóa bỏ những quy định và thủ tục hành chính quan liêu và bao cấp kiềm hãm
sự phát triển của lực lượng sản xuất gây phiền hà sách nhiễu cho doanh nghiệp.”
Qua đó cho thấy Nhà nước ngày càng tạo sự thông thoáng hơn cho các tổ chức dễ
dàng có cơ hội sử dụng đất. Khi nhà nước thu hồi đất, mà các tổ chức phải di
chuyển cơ sở đến nơi khác thì được hỗ trợ. Hỗ trợ cho tổ chức trong trường hợp này
thường là hỗ trợ chi phí di chuyển khi phải chuyển đến cơ sở mới, hay chi phí về
tháo dỡ và lắp đặt cơ sở.
Việc hỗ trợ cho các tổ chức khi bị thu hồi đất có ý nghĩa quan trọng, tạo điều
kiện cho các tổ chức có thể nhanh chóng đi vào hoạt động vì các tổ chức này có vai
trò quan trọng trong bộ máy nhà nước cũng như trong phát triển kinh tế của nước
ta. Có như vậy mới có thể làm giảm bớt gánh nặng mà các tổ chức phải gánh chịu
khi di dời cơ sở mới và thấy được sự linh hoạt trong chính sách hỗ trợ của nhà nước
đối với các đối tượng này.
Như vậy tùy từng trường hợp cụ thể, các tổ chức được nhà nước giao đất, cho
thuê đất hoặc đang sử dụng đất là đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ khi nhà

nước thu hồi đất.
1.5.3. Các tổ chức kinh tế, hộ sản xuất kinh doanh có đăng ký kinh doanh
Ngoài các đối tượng trên, pháp luật còn quan tâm đến các trường hợp của các tổ
chức kinh tế, hộ sản xuất kinh doanh khi bị thu hồi đất. Vì vậy các tổ chức kinh tế,
hộ sản xuất kinh doanh có đất bị thu hồi cũng được hưởng chính sách hỗ trợ. Trong
trường hợp này chính sách hỗ trợ được đặt ra khi việc thu hồi đất gây ảnh hưởng
GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
- 14 -


Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn
cho các tổ chức kinh tế, hộ sản xuất kinh doanh. Tổ chức kinh tế, hộ sản xuất kinh
doanh ở đây được hiểu là phải có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
thương mại về đăng ký kinh doanh.
Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất giải phóng mặt bằng còn được đặt ra
với đối tượng các tổ tổ chức kinh tế, hộ sản xuất kinh doanh có đăng ký kinh doanh.
Với những hỗ trợ này sẽ phần nào giảm bớt đi những khó khăn cho các đối tượng
này. Một mặt còn thể hiện sự thông thoáng trong các chính sách về đất đai để từ đó
hướng đến mục tiêu chung là xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên
chính sách hỗ trợ đối với các tổ chức kinh tế, hộ sản xuất kinh doanh là vấn đề rất
nhạy cảm mang ý nghĩa về mặt tinh thần, là động lực giúp cho họ an tâm hơn khi
kinh doanh sản xuất ở nơi mới. Qua đó thể hiện sự khuyến khích của nhà nước đối
với các tổ chức kinh tế, hộ sản xuất kinh doanh về các lĩnh vực sản xuất kinh
doanh, nhằm đưa đất có nền kinh tế ngày một phát triển và năng dộng hơn theo cơ
chế thị trường. Trong đó sự đóng góp của các tổ chức kinh tế, hộ sản xuất kinh
doanh là nhân tố quan trọng không thể thiếu đối với sự phát triển của đất nước.
1.6 Thẩm quyền quyết định chính sách hỗ trợ
Xét về chủ thể có thẩm quyền áp dụng thì chính sách hỗ trợ khi giải phóng mặt

bằng sẽ do cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương đó là Ủy ban Nhân Dân cấp tỉnh
quyết định. Căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương UBND sẽ tổ chức, chỉ đạo
và quyết định mức hỗ trợ, hình thức hỗ trợ, thời gian hỗ trợ, tỉ lệ hỗ trợ, định kỳ chi
trả hỗ trợ.v.v.. Tình hình thực tế ở địa phương phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhau như điều kiện kinh tế-xã hội ở địa phương đó, cơ sở vật chất kỉ thuật cũng như
điều kiện sống của người dân nơi có đất bị thu hồi. Việc giao cho UBND cấp tỉnh
có thẩm quyền quyết định chính sách hỗ trợ thể hiện sự linh hoạt trong công tác
thực hiện chính sách hỗ trợ khẳng định được đúng nhiệm vụ và quyền hạn của
UBND khi quyết định các vấn đề quan trọng ở địa phương
Tuy nhiên, một vấn đề được đặt ra là so với trước đây thì trong việc thực hiện
chính sách hỗ trợ UBND cấp tỉnh được giao nhiều quyền hơn vì vậy kèm theo đó là
có có rất nhiều công việc phải làm. Trong khi một chính sách tích cực được triển
khai trên thực tế đạt hiệu quả, hay có tác dụng ngược lại sẽ phụ thuộc rất nhiều vào
khả năng tổ chức cũng như tinh thần và thái độ làm việc của các cán bộ thực thi
công tác hỗ trợ. Có thể làm cho tình trạng khiếu nại khiếu kiện giảm xuống hoặc
gia tăng thêm, đây thật sự là vấn nạn luôn tồn tại với chính sách thu hồi đất trong
nhiều năm qua. Để thực thi chính sách hỗ trợ thì UBND cấp tỉnh còn có thể thành
lập hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cấp quận, huyện (cấp huyện) để giao
nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Quy định phân cấp này là để dể quản lý
hơn, giúp chính sách có điều kiện đi sát với tình hình thực tế của mỗi địa phương,
GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
- 15 -


Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn
nhưng càng phân cấp sâu thì đồng nghĩa với việc càng khó kiểm soát. Do vậy, để
một chính sách tiến bộ phát huy được hiệu quả thiết nghĩ UBND cấp tỉnh cần xác
lập cơ chế quản lý, kiểm tra, giám sát đặc biệt là phải chú trọng vào khâu triển khai

thực hiện và quy trách nhiệm cho con người cụ thể trong công việc, đặc biệt là đối
với vấn đề thu hồi đất nói chung và chính sách hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi
nói riêng.
Tóm lại hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng là sự trợ giúp của Nhà nước cho người
bị thu hồi đất thông qua các hình thức như trợ cấp tiền, đào tạo nghề mới, bố trí
việc làm mới, cấp phát kinh phí để di dời nhằm giúp giúp họ vượt qua khó khăn,
yên tâm hơn trong lao động sản xuất để ổn dịnh cuộc sống. Khác với bồi thường là
phải trả lại thiệt hại gây ra một cách tương xứng, hỗ trợ là sự trợ giúp của Nhà cho
các đối tượng bị thu hồi đất nên mang tính chính sách. Chính sách hỗ trợ nếu được
thực hiện tốt sẽ có một vai trò quan trong trọng công tác giải phóng mặt bằng nói
riêng và trong các chính sách về đất đai của Nhà nước nói chung. Qua các giai đoạn
thì chính sách hỗ trợ ngày càng được quan tâm hơn, và được quy định cụ thể hơn.
Về đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ cũng như hình thức và mức hỗ trợ thì
cũng được xác định đầy đủ hơn phù hợp với thực tế và quy luật kinh tế. Việc giao
cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định chính sách hỗ trợ cho thấy sự linh hoạt
trong chính sách hỗ trợ, giúp cho công tác hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng có điều
kiện đi sát với thực tế tại địa phương. Qua đó cho thấy Đảng và Nhà nước ta ngày
càng quan tâm hơn đối với các chính sách về đất đai nói chung và chính sách hỗ trợ
khi thu hồi đất nói riêng nhằm đảm bảo tối ưu quyền và lợi ích hợp pháp cho người
sử dụng đất ở việt Nam.

GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
- 16 -


Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn

CHƯƠNG 2


QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHÍNH
SÁCH HỖ TRỢ KHI GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG

Trong chương này người viết tập trung đi sâu phân tích, những quy định cụ
thể của pháp luật về chính sách hỗ trợ. Xem trong từng trường hợp người được hỗ
trợ sẽ được hỗ trợ gì, hỗ trợ như thế nào và mức hỗ trợ là bao nhiêu, để qua đó thấy
được những thay đổi ngày càng hợp lý hơn của pháp luật về chính sách hỗ trợ và
đánh giá về khả năng áp dụng của các quy định này vào thực tiễn. Từ đó có thể đưa
ra giải pháp nhằm hoàn hoàn thiện hơn đối với chính sách hỗ trợ khi giải phóng
mặt bằng.
2.1. Các nguyên tắc trong hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng
Nguyên tắc đó là những tư tưởng pháp lý chủ đạo toàn bộ các quy phạm pháp
luật, các chế định pháp luật cũng như hệ thống các ngành luật cụ thể. Việc hỗ trợ
cho những người có đất bị thu hồi cũng có những nguyên tắc chủ đạo và xuyên suốt
bao gồm hai nhóm: nhóm nguyên tắc chung và nhóm nguyên tắc điều chỉnh riêng
biệt của việc hỗ trợ khi thu hối đất.
 Nhóm các nguyên tắc chung.
- Nguyên tắc dân chủ, công bằng, công khai.
Dân chủ: Có sự tham gia của đại diện chủ đầu tư, đại diện những người có đất bị
thu hồi trong việc kiểm tra xét duyệt các phương án về bồi thường, hỗ trợ.
Công bằng: Trong cùng một thời điểm, yêu cầu tiến độ giải phóng mặt bằng, diện
tích đất có mục đích và diện tích giống nhau thì mức hỗ trợ như nhau.
Công khai: Các phương án về bồi thường, hỗ trợ và taí định cư được niêm yết công
khai trụ sở Ủy Ban Nhân Dân cấp xã, các điểm sinh hoạt khu dân cư có người bị
thu hồi đất và người có liên quan tham gia ý kiến.
- Nguyên tắc đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người có đất bị thu
hồi và lợi ích của nhà đầu tư.
Nhà nước vừa là người quyết định chính sách hỗ trợ, vừa là người đưa ra các biện
pháp xử lý hài hòa lợi ích của người đang sử dụng đất với lợi ích của nhà đầu tư.

Người sử dụng đất hợp pháp: khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào các mục
đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế thì
phải đảm bảo lợi ích cho người có đất bị thu hồi một cách tối ưu theo quy định của
pháp luật.
GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
- 17 -


Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn
Nhà đầu tư: Đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư để khuyến khích các nhà đầu tư
bỏ vốn vào đầu tư các dự án, công trình quốc gia.
 Nhóm các nguyên tắc điều chỉnh riêng.
Nguyên tắc này đòi hỏi người bị thu hồi đất phải đáp ứng các điều kiện về bồi
thường, hỗ trợ theo quy định của pháp luật đất đai. Có nghĩa là vấn đề hỗ trợ được
đặt ra khi có những cơ sở nhất định.
Cơ sở để xác định bồi thường, hỗ trợ căn cứ vào Điều 14 NĐ 69/2009/NĐ-CP
cụ thể như sau:
“Điều 14. Nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ.
1. Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng có đủ điều kiện quy định tại các
khoản 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9, 10 và 11 Điều 8 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03
tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất (sau đây gọi là Nghị định số 197/2004/NĐ-CP) và các Điều 44,
45 và 46 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ
quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất,
thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai (sau đây gọi là Nghị định
số 84/2007/NĐ-CP) thì được bồi thường; trường hợp không đủ điều kiện được
bồi thường thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét để hỗ trợ.

2. Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng vào mục đích nào thì được bồi
thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để
bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất
tại thời điểm quyết định thu hồi đất; trường hợp bồi thường bằng việc giao đất
mới hoặc giao đất ở tái định cư hoặc nhà ở tái định cư, nếu có chênh lệch về giá
trị thì phần chênh lệch đó được thanh toán bằng tiền theo quy định sau:
a) Trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ lớn hơn tiền sử dụng đất ở hoặc tiền mua
nhà ở tại khu tái định cư thì người tái định cư được nhận phần chênh lệch;
b) Trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ nhỏ hơn tiền sử dụng đất ở hoặc tiền mua
nhà ở tái định cư thì người tái định cư phải nộp phần chênh lệch, trừ trường hợp
quy định tại khoản 1 Điều 19 Nghị định này.
3. Trường hợp người sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mà
chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với Nhà nước theo quy định của
pháp luật thì phải trừ đi khoản tiền phải thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền
được bồi thường, hỗ trợ để hoàn trả ngân sách nhà nước.
4. Nhà nước điều tiết một phần lợi ích từ việc thu hồi, chuyển mục đích sử dụng
đất để thực hiện các khoản hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi quy định tại Điều
17 Nghị định này.”

GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
- 18 -


Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn
Như vậy ta thấy chính sách hỗ trợ khi thu hồi đất luôn gắn liền với chính sách
bồi thường. Vấn đề hỗ trợ được đặt ra ngay cả trong trường hợp người bị thu hồi
đất được bồi thường hay không được bồi thường.
2.2. Cơ sở pháp lý liên quan đến chính sách hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng

Mặc dù Hiến pháp có quy định “Đất đai cùng các tài sản khác mà pháp luật
quy định là của nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân” “Nhà nước giao đất cho các
tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài” (Điều 18), tuy nhiên không có quy định
nào về thu hồi đất trong quy hoạch xây dựng và do đó cũng không có quy định nào
liên quan đến chính sách hỗ trợ khi thu hồi đất. Thậm chí ngay cả luật đất đai cũng
không có quy định nào điều chỉnh vấn đề này. Cơ sở pháp lý hiện hành cao nhất
của chính sách hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng là Điều 17 Nghị định 69/2009 và
được cụ thể hóa từ điều 18 đến điều 23 của nghị đinh này. Quá trình xây dựng nghị
định, Bộ TN-MT đã vận dụng tất cả những gì có lợi nhất cho người dân bị thu hồi
đất, nghị định 69/2009/NĐ-CP đã chú trọng phần hỗ trợ ổn định đời sống và ổn
định sản xuất, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm cho những hộ gia
đình, cá nhân trực tiếp sản xuất khi bị Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
2.3. Phương thức áp dụng
Tùy theo từng trường hợp thu hồi đất mà áp dụng các phương thức hỗ trợ
khác nhau. Đối với trường hợp thu hồi đất ở thì áp dụng phương thức hỗ trợ di
chuyển và hỗ trợ tái định cư. Đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp thì áp
dụng phương thức hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi
nghề và tạo việc làm. Bên cạnh đó vấn đề hỗ trợ cũng được đặt ra khi thu hồi đất
nông nghiệp trong khu dân cư, đất vườn, ao không được công nhận là đất ở. Tùy
từng trường hợp hình thức hỗ trợ áp dụng cho các phương thức này là khác nhau.
Hình thức hỗ trợ thường là hỗ trợ bằng tiền, hoặc đất ở, hoặc căn hộ chung cư, hoặc
đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp. Phương thức hỗ trợ được quy định cụ thể
tại điều 17 NĐ 69/CP cụ thể như sau:
“Điều 17 Hỗ trợ
Các khoản hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất bao gồm:
1. Hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở;
2. Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tạo
việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp;
3. Hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp trong khu dân cư; đất vườn, ao không
được công nhận là đất ở;

4. Hỗ trợ khác.”

GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
- 19 -


Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn
2.4. Các khoản hỗ trợ khi thu hồi đất ở
Đất ở là đất phi nông nghiệp bao gồm đất ở tại nông thôn và đất ở tại đô thị.
Khi thu hồi đất ở thì người có đất bị thu hồi sẽ được nhận được các khoản hỗ trợ đó
là hỗ trợ di chuyển và hỗ trợ tái định cư.
2.4.1. Hỗ trợ di chuyển
Việc di chuyển là nhu cầu tất yếu trong quá trình thu hồi đất nó là hoạt động
bắt buộc người có đất bị thu hồi mà phải di chuyển chổ ở đến nơi mới. Tất nhiên
việc di chuyển sẽ gặp không ít khó khăn như: điều kiện nơi mới, mất cả thời gian,
công sức thu dọn đồ đạt, thu xếp công ăn việc làm…điều sẽ không tránh khỏi
những tốn kém cần thiết cho người bị di chuyển chổ ở. Người bị di chuyển có thể
sẽ gặp nhiều hoang mang, mất cả thời gian, tiền bạc và thậm chí mất cả tinh thần
cho việc di chuyển đến nơi mới. Cho nên việc đưa ra những quy định về hỗ trợ di
chuyển là một nhu cầu rất thực tế đi sát với quá trình thu hồi đất thể hiện sự quan
tâm của Nhà nước đối với người có đất bị thu hồi. Ngày nay với sự diễn ra mạnh
mẽ của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cùng với các chính sách
khuyến khích kêu gọi đầu tư, các công trình kiến trúc được xây dựng rầm rộ, cơ sở
hạ tầng ngày càng được chỉnh tu thì nhu cầu về đất để thực hiện các dự án quy
hoạch xây dựng là vô cùng cần thiết. Vì vậy, đã có một bộ phận không nhỏ hộ gia
đình, cá nhân, tổ chức bị thu hồi đất phải di chuyển đến nơi khác. Với chính sách
hỗ trợ về di chuyển sẽ giúp cho các đối tượng này an tâm hơn trong cuộc sống mới,
thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đồi với nhân dân nói chung và người bị thu hồi

đất nói riêng. Cụ thể về vấn đề hỗ trợ di chuyển được quy định tại Điều 18 của
Nghị định số 69/2009/NĐ-CP như sau:
“ Điều 18 Hỗ trợ di chuyển:
1. Hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở thì
được hỗ trợ kinh phí để di chuyển.
2. Tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc đang sử dụng đất hợp
pháp khi Nhà nước thu hồi mà phải di chuyển cơ sở sản xuất, kinh doanh thì
được hỗ trợ kinh phí để tháo dỡ, di chuyển và lắp đặt.
3. Người bị thu hồi đất ở mà không còn chỗ ở khác thì trong thời gian chờ
tạo lập chỗ ở mới (bố trí vào khu tái định cư) được bố trí vào nhà ở tạm hoặc
hỗ trợ tiền thuê nhà ở.
4. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định mức hỗ trợ cụ thể quy định tại các
khoản 1, 2 và 3 Điều này.”

Như vậy với quy định trên thì việc hỗ trợ di chuyển sẽ được thực hiện tùy theo
đối tượng cũng như từng trường hợp cụ thể mức hỗ trợ trợ sẽ do Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh quy định căn cứ vào thực tế tại địa phương.
GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
- 20 -


Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn
Khoản 1: Quy định quy định hỗ trợ di chuyển đối với hộ gia đình cá nhân. Đối
tượng được hỗ trợ đó là hộ gia đình, cá nhân, khi Nhà nước thu hồi đất ở mà phải di
chuyển đến nơi ở khác. Điều kiện được hỗ trợ: Khi nhà nước thu hồi đất ở, hộ gia
đình, cá nhân không còn chổ ở phải di chuyển đến nơi ở mới, việc di chuyển đến
nơi ở mới đó sẽ được hỗ trợ về khoản kinh phí để di chuyển. Hình thưc hỗ trợ: Hỗ
trợ bằng tiền. Mức hỗ trợ cụ thể sẽ được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định.

Tuy nhiên khác với quy định lúc trước, Điều 27 của Nghị định197/2004/NĐCP quy định mức hỗ trợ với hai trường hợp đó là: Di chuyển chổ ở đến nơi khác
trong phạm vi tỉnh, thành phố nơi thu hồi đất thì được hỗ trợ cao nhất là 3.000.000
đồng, nếu phải di chuyển sang tỉnh khác nơi thu hồi đất thì được hỗ trợ cao nhất là
5.000.000 đồng thì tại khoản 1 Điều 18 NĐ 69/2009/NĐ-CP lại không quy định
mức hỗ trợ cụ thể như hai trường hợp trên. Mức hỗ trợ cụ thể sẽ do Ủy ban nhân
cấp tỉnh căn cứ quy định. Từ thực tế đó thiết nghĩ mức hỗ trợ di chuyển đối với hộ
gia đình cá nhân được quy định linh hoạt và phù hợp với tình hình thực tế hơn, bởi
lẽ ví như hộ gia đình phải di chuyển chổ ở là hộ gia đình có nhiều thành viên và tài
sản phải di dời là rất nhiều, khi đó chi phí cho việc di chuyển là rất tốn kém. Cho
nên mức hỗ trợ cao nhất là 3.000.000 đồng (trong phạm vi tỉnh, thành phố) và
5.000.000 đồng (sang tỉnh khác) có lẽ sẽ không phù hợp với thực tế, vì phạm vi di
chuyển trong đơn vị hành chính của một tỉnh có thể xa hơn so với di chuyển sang
tỉnh khác.
Vì vậy, Nghị định không quy định mức hỗ trợ cụ thể mà giao trách nhiệm cho
UBND cấp tỉnh căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương quy định mức hỗ trợ cụ
thể. Căn cứ này có thể dựa vào số lượng thành viên, và số tài sản phải di chuyển
đến nơi mới, và những chi phí thực tế cho việc di chuyển đó. Có như vậy thì mức
hỗ trợ sẽ cụ thể hơn, phù hợp hơn, là giảm gánh nặng về di chuyển cho hộ gia đình,
cá nhân, đẩy nhanh chính sách thu hồi đất và làm cho hộ gia đình, cá nhân an tâm
hơn về kinh phí khi di chuyển đến nơi ở mới.
Khoản 2: quy định hỗ trợ di chuyển đối với tổ chức. Đối tượng được hỗ trợ đó
là tổ chức, khi Nhà nước thu hồi đất phải di chuyển cơ sở đến nơi khác. Điều kiện
được hỗ trợ: Tổ chức sẽ nhận được hỗ trợ nếu tổ chức đang sử dụng đất hợp pháp
dưới các hình thức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất bị thu hồi đất phải di
chuyển cơ sở sản xuất kinh doanh đến nơi khác. Các hỗ trợ đó là: hỗ trợ kinh phí
để tháo dỡ, di chuyển và lắp đặt. Hình thức hỗ trợ: hỗ trợ bằng tiền. Với việc giao
cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào tình hình thực tế mà quyết định mức hỗ
trợ cụ thể đã góp phần giải quyết được những bất cập về chính sách hỗ trợ, và nó
đáp ứng được nguyện vọng mà tổ chưc phải di chuyển cơ sở. Di chuyển cơ sở đến
nơi mới tổ chức sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Thứ nhất: Khi di chuyển đến nơi khác

GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
- 21 -


Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn
thì toàn bộ hoạt động của cơ sở phải tạm ngừng lại, mặc dù vậy thì tổ chức vẫn phải
chi một khoản để trả tiền lương cho nhân viên. Đây là một trở ngại cho tổ chức phải
di dời cơ sở. Thứ hai: khi tạm dừng hoạt động thì thì đồng thời cơ sở phải chi một
khoản tiền bù lỗ cho những ngày ngừng hoạt động kinh doanh đó, đây cũng là vấn
đề khá nhạy cảm đối với tổ chức phải di chuyển cơ sở. Thứ ba: chi phí cho việc di
chuyển thường rất nhiều vì các các cơ sở, tổ chức sản xuất kinh doanh thường có
quy mô lớn. Cho nên, ngoài việc hỗ trợ chi phí thực tế ngoài di chuyển, tháo dỡ và
lắp đặt thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần căn cứ các chi phí phát sinh mà đưa ra
mức hỗ trợ cho phù hợp hơn cho các tổ chức phải di chuyển cơ sở. Có như vậy mới
có thể làm giảm được gánh nặng mà tổ chức phải di dời cơ sở, cho họ thấy được sự
linh hoạt trong chính sách hỗ trợ mà thực hiện tốt việc di dời, giảm đi những thiệt
hại mà tổ chức phải gánh chịu khi di chuyển cơ sở đến nơi mới để hoạt động của
các tổ chức có hiệu quả hơn.
Ngoài việc hỗ trợ cho hộ gia đình, tổ chức thì chính sách hỗ trợ di chuyển cũng
được đặt ra đối với các cá nhân trong trường hợp chờ tạo lập chỗ mới (khoản 3).
Điều kiện hỗ trợ là trong thời gian chờ tạo lập chổ ở mới, không còn chổ ở khác thì
được hỗ trợ với hai hình thức là bố trí vào nhà ở tạm hoặc hỗ trợ tiền thuê nhà. Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh sẽ căn cứ vào thực tế quy định cụ thể về thời gian và mức hỗ
trợ cho phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương.
2.4.2. Hỗ trợ tái định cư
Tái định cư là một nhu cầu rất tất yếu đối với người bị thu hồi đất mà không
còn chổ ở nào khác, giúp cho họ có thể tái tạo lại cuộc sống mới với mức sống tốt
hơn. Trên thực tế thì tái định cư gồm có ba trường. Thứ nhất là bố trí tái định cư đối

với những người thuộc diên tái định cư. Thứ hai là hỗ trợ tái định khi thu hồi đất ở.
Thứ ba là xét tái định cư cho các đối tượng có nhu cầu. Tuy nhiên trong phạm vi đề
tài chỉ nghiên cứu đến trường hợp thứ hai đó là hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất ở. Trước đây tái định cư được quy định riêng biệt trong phương án tổng thể
về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thì bây giờ tái định cư được luật quy định là
một hình thức hỗ trợ cụ thể khi thu hồi đất ở. Mặc dù pháp lệnh hiện hành chưa quy
định cụ thể về việc phải xây dựng đa dạng loại nhà ở, mức đất ở trong khu tái định
cư cho phù hợp với nhu cầu, khả năng và tập quán sinh hoạt của người có đất bị thu
hồi, nhưng để tháo gỡ những vướng mắc như không đủ tiền vào khu tái định cư,
tình trạng tái định cư bất hợp pháp, Nghị định 69/2009/NĐ-CP đã quy định địa
phương phải xây dựng đa dạng loại nhà ở tái định cư, bố trí nhiều mức đất ở, có
suất tái định cư tối thiểu cho phù hợp với nhu cầu và khả năng của người bị thu hồi
đất. Quy định này được cụ thể tại điều 19 NĐ69/2009/NĐ- CP cụ thể như sau:
“Điều 19 Hỗ trợ tái định cư.

GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
- 22 -


Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn
1. Nhà ở, đất ở tái định cư được thực hiện theo nhiều cấp nhà, nhiều mức diện
tích khác nhau phù hợp với mức bồi thường và khả năng chi trả của người
được tái định cư.
Đối với hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất ở mà không có chỗ
ở nào khác thì được giao đất ở hoặc nhà ở tái định cư được tái định cư
Hộ gia đình, cá nhân nhận đất ở, nhà ở tái định cư mà số tiền được bồi
thường, hỗ trợ nhỏ hơn giá trị một suất tái định cư tối thiểu thì được hỗ trợ
khoản chênh lệch đó; trường hợp không nhận đất ở, nhà ở tại khu tái định cư

thì được nhận tiền tương đương với khoản chênh lệch đó.
2.Hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất ở phải di chuyển chỗ ở mà tự
lo chỗ ở thì được hỗ trợ một khoản tiền bằng suất đầu tư hạ tầng tính cho một
hộ gia đình tại khu tái định cư tập trung trường hợp đã được nhận khoản tiền
hỗ trợ tái định cư quy định tại khoản 1 Điều này.
3.Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào điều kiện cụ thể tại địa phương quy
định về suất tái định cư tối thiểu và mức hỗ trợ theo quy định tại khoản 1 và
khoản 2 Điều này.”

Khoản 1: Quy định hỗ trợ tái định cư đối với hộ gia đình cá nhân. Đối tượng
được hỗ trợ đó là hộ gia đình cá nhân bị nhà nước thu hồi đất ở. Điều kiện để được
hỗ trợ đó phải thuộc các trường hợp được bố trí tái định cư. Các trường hợp được
bố trí tái định cư theo thông tư số 14/2009/TT-BTNMT (ngày 01/10/2009 quy định
chi tiết về bồi thường hỗ trợ, tái định cư và trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất,
cho thuê đất) có bốn trường hợp: Thứ nhất: Hộ gia đình, cá nhân phải di chuyển
chỗ ở do bị thu hồi hết đất ở mà không có chỗ ở nào khác trong địa bàn xã, phường,
thị trấn nơi có đất bị thu hồi (trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân không có nhu cầu
tái định cư).Thứ hai: Hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất mà phần diện tích đất ở
còn lại sau thu hồi không đủ điều kiện để ở theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh mà không có chỗ ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất bị
thu hồi.Thứ ba: Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở nằm trong hành lang an toàn khi
xây dựng công trình công cộng có hành lang bảo vệ an toàn phải di chuyển chỗ ở
mà không có chỗ ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu
hồi. Thứ tư: Trường hợp trong hộ gia đình có nhiều thế hệ (nhiều cặp vợ chồng)
cùng chung sống đủ điều kiện tách hộ hoặc có nhiều hộ gia đình có chung quyền sử
dụng một (01) thửa đất ở bị thu hồi thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào điều
kiện thực tế tại địa phương để quy định diện tích đất, diện tích nhà ở để bố trí tái
định cư. Hình thức hỗ trợ: giao đất ở, nhà ở tái định cư, hoặc bằng tiền. Trước đây,
đối tượng bị thu hồi đất sau khi được cấp đất tái định cư mà diện tích đất được cấp
chênh lệch so với diện tích bị thu hồi thì đối tượng được cấp đất sẽ phải trả chi phí

cho phần chênh lệch; nhưng bây giờ, khi được cấp đất có diện tích tối thiểu theo
GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
- 23 -


Chính sách và pháp luật về hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng - lý luận và thực tiễn
quy định của Nhà nước, đối tượng được cấp đất không phải chi trả chi phí cho phần
chênh lệch mà được hỗ trợ cả phần chênh lệch này. Ngoài ra nếu hộ gia đình cá
nhân không nhận đất ở, nhà ở tại khu tái định cư thì cũng được nhận tiền tương
đương với khoản chênh lệch đó. Đây có thể được xem là điểm nổi bật trong hỗ trợ
tái định cư, qua đó cho thấy Nhà nước khi thực hiện chính sách hỗ trợ đều tính đến
nhu cầu và nguyện vọng của người dân có đất bị thu hồi nhằm đảm bảo tối đa
quyền và lợi ích cho họ, từ đó giúp cho công tác tái định cư được triễn khai nhanh
hơn, và đồng bộ hơn đảm bảo yêu cầu cho tiến độ của các dự án.
Khoản 2: Quy định trường hợp mà hộ gia đình, cá nhân khi bị thu hồi đất mà
tự lo được chổ ở thì được hỗ trợ một khoản tiền bằng suất đầu tư hạ tầng tính cho
một hộ gia đình tại khu tái định cư tập trung nếu đối tượng được cấp đất không có
nguyện vọng đất tái định cư thì vẫn được hưởng tiền trong phần chênh lệch khi
được cấp đất. Qua đó cho thấy quyền của người được tái định cư ngày càng được
mở rộng hơn, họ có quyền lựa chọn giữa nhận đất ở tái định cư hoặc là nhận tiền
tương đương.
Với việc quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ căn cứ vào điều kiện cụ thể tại
địa phương quy định suất tái định cư tối thiểu và mức hỗ trợ cho phù hợp. Trước
đây căn cứ vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; căn cứ vào quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất được cấp có thẩm quyền xét duyệt, Uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh có trách nhiệm lập và thực hiện các dự án tái định cư để bảo đảm phục vụ
tái định cư cho người bị thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở, thì nay luật quy định cho
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào điều kiện cụ thể tại địa phương có quyền quy

định suất tái định cư tối thiểu và mức hỗ trợ cho phù hợp với địa phương đó. Quy
định này cho thấy ủy ban nhân dân cấp tỉnh có nhiều quyền hạn hơn trong việc hỗ
trợ tái định cư, vì thế mà áp lực không hề nhỏ.
Do vậy, chính sách hỗ trợ tái định cư phát huy được hiệu quả thiết nghĩ UBND
cấp tỉnh cần xác lập cơ chế quản lý, kiểm tra, giám sát đặc biệt là phải chú trọng
vào khâu triển khai thực hiện.
2.5 Các khoản hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân
Khi thu hồi đất nông nghiệp hộ gia đình cá nhân có đất bị thu hồi được
hưởng các khoản hỗ trợ sau: hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất, hỗ trợ đào tạo
chuyển đổi nghề và tạo việc làm.
2.5.1 Hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất
2.5.1.1 Hỗ trợ ổn định đời sống
Bên cạnh việc hỗ trợ di chuyển và hỗ trợ tái định cư thì chính sách hỗ trợ
cũng đưa ra một hình thức hỗ trợ nhằm làm giảm bớt khó khăn cho người có đất bị
thu hồi (đất nông nghiệp) đó là hỗ trợ ổn định đời sống. Với chính sách hỗ trợ này
GVHD: TS Phan Trung Hiền

SVTH: Phan Quốc Kiệt.
- 24 -


×