Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

LUẬN văn LUẬT tư PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT đảm bảo QUYỀN CON NGƯỜI của NGƯỜI bị hại TRONG tố TỤNG HÌNH sự VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 104 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2008 – 2012
ĐỀ TÀI

Giảng viên hướng dẫn:
CN: Nguyễn Chí Hiếu
Bộ môn: Luật Tư pháp

Sinh viên thực hiện:
Từ Đức Thắng
MSSV: 5085999
Lớp: Tư pháp 1 – K34

Cần Thơ, Tháng 5/2012


Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

……………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………


………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

SVTH: Từ Đức Thắng


Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN

……………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

SVTH: Từ Đức Thắng


Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ QUYỀN
CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM...........................................................................................................................4
1.1. Nhận thức chung về quyền con người ...........................................................4
1.1.1. Khái niệm quyền con người và quyền công dân .......................................4
1.1.1.1. Khái niệm quyền con người ............................................................4
1.1.1.2. Khái niệm quyền công dân ..............................................................8
1.1.1.3. Mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân ..................9
1.1.2. Nội dung chủ yếu của quyền con người, quyền công dân .......................10
1.1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu quyền con người ........................................11
1.2. Nhận thức chung về quyền con người của người bị hại trong tố tụng hình
sự Việt Nam .............................................................................................................13
1.2.1. Khái niệm người bị hại và quyền con người của người bị hại trong tố tụng
hình sự .....................................................................................................................13
1.2.1.1. Khái niệm người bị hại ....................................................................13
1.2.1.2. Quyền con người của người bị hại trong tố tụng hình sự ...............17

1.2.1.3. Ý nghĩa của việc đảm bảo quyền con người của người bị hại .......23
1.2.2. Vai trò của pháp luật tố tụng hình sự trong việc đảm bảo quyền con người
của người bị hại .......................................................................................................24
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT THỰC ĐỊNH VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN CON
NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ..27
2.1. Pháp luật thực định về đảm bảo quyền thực hiện chức năng buộc tội của
người bị hại .............................................................................................................27
2.1.1. Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu ......................................................27
2.1.2. Quyền được thông báo kết quả điều tra ...................................................30
2.1.3. Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
phiên dịch ................................................................................................................32
2.1.4. Quyền tham gia phiên toà, trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà ......38

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

SVTH: Từ Đức Thắng


Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

2.1.5. Quyền yêu cầu khởi tố vụ án và rút yêu cầu trước ngày mở phiên toà sơ
thẩm đối với những vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại ..................40
2.1.6. Quyền trình bày lời buộc tội tại phiên toà trong những vụ án khởi tố theo
yêu cầu của người bị hại ..........................................................................................45
2.1.7. Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà án ....................................47
2.2. Pháp luật thực định về đảm bảo quyền yêu cầu người gây ra thiệt hại bồi
thường, khắc phục thiệt hại ..................................................................................50
2.3. Pháp luật thực định về đảm bảo quyền có người đại diện hợp pháp và
người bảo vệ quyền lợi ..........................................................................................52

2.3.1. Quyền có người đại diện hợp pháp ..........................................................53
2.3.2. Quyền có người bảo vệ quyền lợi ............................................................57
2.4. Pháp luật thực định về đảm bảo quyền được bảo vệ an toàn danh dự, nhân
phẩm, tính mạng, sức khoẻ và tài sản ..................................................................59
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI CỦA
NGƯỜI BỊ HẠI ......................................................................................................62
3.1. Một số bất cập của pháp luật tố tụng hình sự về đảm bảo quyền con người
của người bị hại ......................................................................................................62
3.1.1. Bất cập về quyền thực hiện chức năng buộc tội ......................................63
3.1.1.1. Bất cập về quyền được thông báo về kết quả điều tra: “BLTTHS
2003 quy định chung chung, không rõ ràng về kết quả điều tra”............................63
3.1.1.2. Bất cập về quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch: “BLTTHS 2003 không quy định cho người bị hại được
quyền thông báo trước về những người này để họ có sự tìm hiểu” ........................66
3.1.1.3. Bất cập về chế định khởi tố theo yêu cầu của người bị hại:
“BLTTHS 2003 không quy định cụ thể về việc trình bày lời buộc tội của người bị
hại cũng như không đảm bảo cho họ các quyền năng trước giai đoạn xét xử trong
những vụ án khởi tố theo yêu cầu của họ” ..............................................................67
3.1.1.4. Bất cập về quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà án:
“BLTTHS 2003 có hai điều luật cùng quy định về quyền kháng cáo nhưng phạm vi
lại khác nhau nên áp dụng điều nào” .....................................................................69
3.1.2. Bất cập về quyền có người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi
.............................................................................................................................71
3.1.2.1. Về quyền có người đại diện hợp pháp: “BLTTHS 2003 chưa ghi
nhận cho người bị hại là người bị mất tích có được người đại diện hợp pháp tham
gia tố tụng, cũng như chưa quy định cụ thể về người đại diện hợp pháp” .............71
GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

SVTH: Từ Đức Thắng



Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

3.1.2.2. Về quyền có người bảo vệ quyền lợi: “BLTTHS 2003 chưa ghi
nhận cho người đại diện hợp pháp của người bị hại được quyền mời người bảo vệ
quyền lợi; chưa ghi nhận vấn đề cấp giấy chứng nhận người bảo vệ quyền lợi tại
Điều 59; chưa đảm bảo quyền được cử người bảo vệ quyền lợi cho người bị hại là
người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất trong
trường hợp họ và người đại diện hợp pháp có nhu cầu nhưng không có khả năng
mời”..........................................................................................................................73
3.1.3. Bất cập về quyền được bảo vệ an toàn danh dự, nhân phẩm, tính mạng,
sức khoẻ và tài sản: “BLTTHS 2003 không đảm bảo cho người bị hại có quyền yêu
cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản
và các quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng” .................76
3.1.4. Một số bất cập khác do BLTTHS 2003 không ghi nhận ......................... 77
3.1.4.1. BLTTHS 2003 không ghi nhận cho người bị hại quyền được giải
thích về quyền và nghĩa vụ ......................................................................................77
3.1.4.2. BLTTHS 2003 không ghi nhận cho người bị hại quyền được thanh
toán chi phí đi lại và các chi phí khác phát sinh khi phải tham gia tố tụng theo triệu
tập của Cơ quan tiến hành tố tụng ............................................................................79
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về đảm
bảo quyền con người của người bị hại .................................................................81
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện quyền thực hiện chức năng buộc tội của người bị hại
.............................................................................................................................81
3.2.1.1. Kiến nghị về quyền được thông báo kết quả điều tra.....................81
3.2.1.2. Kiến nghị về quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch.....................................................................................82
3.2.1.3. Kiến nghị về chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại ..

.....................................................................................................................83
3.2.1.4. Kiến nghị về quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà án ......85
3.2.2. Kiến nghị về quyền có người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi
.............................................................................................................................86
3.2.2.1. Về quyền có người đại diện hợp pháp............................................86
3.2.2.2. Về quyền có người bảo vệ quyền lợi..............................................88
3.2.3. Kiến nghị về quyền được bảo vệ an toàn danh dự, nhân phẩm, tính mạng,
sức khoẻ và tài sản....................................................................................................90
GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

SVTH: Từ Đức Thắng


Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

3.2.4. Một số kiến nghị hoàn thiện các bất cập do BLTTHS 2003 không ghi
nhận ....................................................................................................................91
3.2.4.1. Kiến nghị bổ sung quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ cho
người bị hại...............................................................................................................91
3.2.4.2. Kiến nghị bổ sung quyền được thanh toán chi phí đi lại và các chi
phí phát sinh khác khi phải tham gia tố tụng theo triệu tập của Cơ quan tiến hành tố
tụng cho người bị hại ................................................................................................91
KẾT LUẬN ............................................................................................................93
Danh mục tài liệu tham khảo

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

SVTH: Từ Đức Thắng



Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền con người trong tố tụng hình sự đã thu hút được sự quan tâm của khá
nhiều nhà nghiên cứu. Những đóng góp trong lĩnh vực nghiên cứu này góp phần
bảo vệ những người tham gia hoạt động tố tụng hình sự trước nguy cơ bị tổn
thương, đồng thời thúc đẩy tiến trình bảo vệ quyền con người nói chung. Vấn đề
này còn có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh thực hiện chủ trương cải cách tư pháp
và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Mục tiêu cải cách tư pháp suy cho
cùng cũng phải đáp ứng yêu cầu kiểm soát tội phạm và bảo vệ quyền con người
trong tố tụng hình sự.
Tố tụng hình sự là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước ở đó các
giá trị quyền con người của những chủ thể trong quan hệ tố tụng rất dễ dàng bị tổn
thương, xâm hại hơn so với các lĩnh vực khác bởi tính chất bất bình đẳng của quan
hệ pháp luật tố tụng hình sự, bởi khả năng người tham gia tố tụng bị áp dụng biện
pháp cưỡng chế, bởi xu hướng đề cao lợi ích chung khi giải quyết vụ án, … Con
người trong tố tụng hình sự bao gồm người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng, họ đều là những chủ thể có thể bị xâm hại các quyền con người. Tuy nhiên,
thời gian gần đây, các nhà khoa học pháp lý Việt Nam thường quan tâm, bàn cãi
nhiều về các quy định của pháp luật tố tụng hiện hành trong việc đảm bảo quyền
con người của người bị buộc tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) mà quên đi rằng
ngoài người bị buộc tội còn có rất nhiều chủ thể khác cũng cần được đảm bảo các
quyền con người khi họ tham gia vào quan hệ tố tụng hình sự trong đó đáng chú ý
nhất là chủ thể người bị hại.
Người bị hại là người bị tội phạm xâm hại, tổn thương và rất cần sự bảo vệ
kịp thời của pháp luật tố tụng hình sự. Với các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự hiện hành về việc đảm bảo các quyền của người bị hại khi họ tham gia vào quan

hệ tố tụng đã thấy được sự quan tâm, bảo vệ của pháp luật tố tụng. Tuy nhiên sự
quan tâm, bảo vệ này chưa thật sự tương xứng với yêu cầu, đòi hỏi thực tế của
người bị hại hiện nay. Bởi vì hiện tại các quy định đảm bảo quyền của người bị hại
trong tố tụng hình sự đang phát sinh một số điểm hạn chế khiến cho quyền lợi của
người bị hại không được bảo vệ kịp thời, an toàn. Đó là sự quy định không rõ ràng
trong các điều khoản của luật, mâu thuẫn, chồng chéo với nhau, luật không ghi nhận
một số vấn đề mà thực tiễn phát sinh. Nhận thức được vấn đề này, một số ít nhà
nghiên cứu đã bắt đầu quan tâm trở lại các quy định của pháp luật tố tụng về quyền

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

1

SVTH: Từ Đức Thắng


Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

con người của người bị hại trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, những nghiên cứu này
hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, chính vì thế, để có thể góp phần hoàn
thiện pháp luật bảo vệ các quyền của người bị hại người viết đã chọn đề tài nghiên
cứu là “Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam”.
2. Phạm vi nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của
người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam” được người viết tập trung nghiên cứu
trên ba phương diện: lý luận, pháp lý và thực tiễn. Trên phương diện lý luận người
viết chủ yếu nghiên cứu các vấn đề chung nhất về quyền con người, tìm hiểu về
người bị hại và vai trò của pháp luật tố tụng hình sự trong việc bảo đảm quyền con

người của người bị hại để từ đó hiểu rõ về quyền con người của người bị hại trong
tố tụng hình sự làm cơ sở cho việc nghiên cứu các vấn đề pháp lý. Trên phương
diện pháp lý, người viết tập trung phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự hiện hành về việc ghi nhận các quyền năng cho người bị hại, chủ yếu là tại Điều
51 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 (sau đây viết tắt là BLTTHS 2003) ngoài ra còn
một số điều luật khác. Cuối cùng dựa trên những vấn đề lý luận và pháp lý đó, trên
phương diện thực tiễn người viết sẽ làm rõ một số bất cập của pháp luật tố tụng hình
sự hiện hành về việc đảm bảo quyền con người của người bị hại, sau đó sẽ đưa ra
một số kiến nghị hoàn thiện các bất cập trên.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người
của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam” người viết hướng tới việc làm rõ
các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về vấn đề bảo vệ các quyền
con người của người bị hại khi họ tham gia tố tụng. Để từ đó có thể tìm ra những
điểm bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật và đưa ra kiến nghị hoàn
thiện chúng nhằm giúp cho quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại được bảo vệ
tốt hơn trong quá trình tố tụng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, người viết đã sử dụng một số phương pháp như:
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp phân tích, liệt
kê, đánh giá, so sánh, tổng hợp để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu. Cụ thể là phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng được người viết sử dụng để làm rõ các
quan điểm về quyền con người, bên cạnh đó, các phương pháp phân tích, liệt kê,
đánh giá, so sánh, tổng hợp được người viết sử dụng xuyên suốt trong quá trình
GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

2

SVTH: Từ Đức Thắng



Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

nghiên cứu để làm rõ các quy định của pháp luật, so sánh với quyền của bị cáo để
làm rõ hơn quyền của người bị hại, … từ đó có thể giúp người viết nghiên cứu sâu
hơn về đề tài.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài mục lục, lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm có ba chương, cụ thể là:
+ Chương 1: Lý luận chung về quyền con người và quyền con người của người
bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam.
+ Chương 2: Pháp luật thực định về đảm bảo quyền con người của người bị hại
trong tố tụng hình sự Việt Nam.
+ Chương 3: Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự
về đảm bảo quyền con người của người bị hại.
Mặc dù đã nỗ lực, cố gắng nhưng do trong quá trình nghiên cứu, xem xét, tham
khảo tài liệu người viết không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy,
người viết rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý Thầy, Cô và các bạn để
luận văn được hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cảm ơn!
SVTH: Từ Đức Thắng

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

3

SVTH: Từ Đức Thắng



Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ QUYỀN CON NGƯỜI
CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

BLTTHS 2003 ra đời thay thế Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đã đáp ứng
phần nào nhu cầu của xã hội về phòng chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của cá nhân
và xã hội. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề đáng bàn luận xoay quanh việc
đảm bảo quyền con người của các chủ thể trong quan hệ tố tụng hình sự, trong đó
đáng quan tâm là việc đảm bảo quyền con người của người bị hại. Để hiểu rõ việc
pháp luật tố tụng hình sự hiện hành đảm bảo quyền con người của người bị hại như
thế nào trước tiên chúng ta cần phải có sự nhận thức chung về quyền con người
cũng như các vấn đề liên quan đến quyền con người. Sau đó làm cơ sở cho việc tìm
hiểu quyền con người của người bị hại trong tố tụng hình sự.
1.1. Nhận thức chung về quyền con người
Để có cái nhìn tổng quát về quyền con người thì phải làm rõ các vấn đề là khái
niệm quyền con người và quyền công dân, mối quan hệ giữa quyền con người và
quyền công dân, nội dung của quyền con người và quyền công dân, từ những tìm
hiểu trên rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu quyền con người.
1.1.1. Khái niệm quyền con người và quyền công dân
1.1.1.1. Khái niệm quyền con người
Quyền con người là một phạm trù rất rộng, đa dạng và có thể được tiếp cận
dưới nhiều góc độ khác nhau. Để lý giải cho nguồn gốc và bản chất của quyền con
người, dưới góc độ luật học tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về quyền con người,
tiêu biểu là những quan niệm sau đây:
Quan niệm thứ nhất: Các nhà tư tưởng theo trường phái pháp luật tự nhiên
như Hobbes, Locke, Motesquieu, Jean.J. Rousseau cho rằng quyền con người là đặc

quyền tự nhiên, vốn có gắn liền với con người vì có luật tự nhiên1 đứng cao hơn
pháp luật thực định chứ không phải do vương quyền, thần quyền ban phát, tặng cho.
Locke nêu ra và lập luận các quyền cơ bản, tự nhiên của con người bao gồm quyền
được sống, quyền tự do và quyền có tài sản. Quan niệm này đã chỉ ra được bản chất
tự nhiên của quyền con người nhưng lại tuyệt đối hoá vị trí của cá nhân, coi con
người là bất biến không phụ thuộc vào không gian, thời gian, quốc gia, dân tộc, tôn

1

Xem: Montesquieu, Tinh thần pháp luật (Hoàng Thanh Đạm dịch năm 1996), NXB Giáo dục, Hà Nội, tr.44.

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

4

SVTH: Từ Đức Thắng


Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

giáo dẫn đến việc phủ nhận tính giai cấp, tính xã hội và tính đặc thù của quyền con
người.
Quan niệm thứ hai: Đối lập với quan niệm thứ nhất, quan niệm này xuất phát
từ việc xem xét con người trong tổng thể các quan hệ xã hội, Aristotle khẳng định:
“Con người là con vật chính trị”, Jacques Mourgon thì cho rằng: “Con người thuộc
về xã hội”2 nên quyền con người chỉ được xác định trong mối quan hệ giữa con
người với xã hội, ở từng thời kỳ phát triển của xã hội. Quan niệm này đã chỉ ra được
bản chất xã hội của quyền con người nhưng xem đó chỉ là một quyền lợi của con
người với tư cách là một thành viên xã hội, hoàn toàn phụ thuộc và định đoạt bởi

Nhà nước, bởi giai cấp cầm quyền nên đã dẫn đến tình trạng không thừa nhận tính
tự nhiên, tính phổ biến của quyền con người.
Quan niệm của Chủ nghĩa Mác – Lênin: Theo quan niệm Mác – Lênin thì
hai quan niệm trên đều có những hạt nhân hợp lý riêng nhưng lại tuyệt đối hoá một
trong hai thuộc tính căn bản của quyền con người nên không tránh khỏi chủ quan,
phiến diện khi nhận thức về bản chất quyền con người. Kế thừa và khắc phục hạn
chế của hai quan niệm trên, học thuyết Mác – Lênin đã đưa ra quan điểm rất biện
chứng về quyền con người khi xem xét con người với tư cách là một sản phẩm của
tự nhiên và xã hội: “Vì sự sinh đẻ chỉ đem lại cho con người sự tồn tại cá nhân, và
trước hết nó đem lại sự sống cho con người chỉ như là cá nhân tự nhiên, còn những
tính quy định nhà nước như quyền lập pháp v.v…, thì lại là những sản phẩm xã hội,
là con đẻ của xã hội, chứ không phải là những sản phẩm của cá nhân tự nhiên”3.
Trong mối quan hệ giữa tự nhiên, xã hội và con người, thì tự nhiên là cái có
trước con người nhưng con người không chỉ thích ứng với tự nhiên mà còn cải tạo
tự nhiên, đồng thời phát triển và tự hoàn thiện mình. F. Ăngghen nói: “Lao động
sáng tạo ra con người” là theo ý nghĩa đó. Khác với tự nhiên, xã hội không thể xuất
hiện trước con người, mà xuất hiện cùng lúc với con người, vì không thể có con
người sống ngoài xã hội. Nói cách khác, con người vừa là sản phẩm của tự nhiên,
vừa là sản phẩm của xã hội. Trong con người có hai mặt không thể tách rời nhau:
mặt tự nhiên và mặt xã hội. Con người chính là một thực thể sinh học – xã hội, bởi
vì nó vừa là một cơ thể sống, vừa mang bản chất xã hội, là sự thống nhất giữa mặt
tự nhiên và xã hội, cho nên con người vừa chịu sự tác động của các quy luật tự
nhiên vừa chịu sự tác động của các quy luật xã hội. Chính mặt xã hội của con người
đã làm cho mặt sinh học trong con người phát triển ở trình độ cao hơn so với các
2
3

Xem: Jacques Mourgon, Quyền con người (GS. Hoàng Văn Hảo dịch năm 1993), Hà Nội, tr.20.
Xem: C.Mác và Ph. Ănghen toàn tập (1995), T.1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.271.


GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

5

SVTH: Từ Đức Thắng


Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

động vật khác. Con người với tư cách là chủ thể của quyền cho nên quyền con
người ngay từ đầu đã được quy định bởi thuộc tính tự nhiên, bên cạnh đó, cùng với
quá trình tồn tại, biến đổi cùng cộng đồng xã hội, quyền con người còn mang đậm
bản tính xã hội. Giống như C.Mác nói: “Con người không phải là một sinh vật trừu
tượng, ẩn náu đâu đó ngoài thế giới. Con người chính là thế giới con người, là nhà
nước, là xã hội”4. Vì vậy, bên cạnh những bản tính tự nhiên, quyền con người còn
mang đậm bản tính xã hội.
Trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về quyền con người, ta thấy
rằng giữa bản tính tự nhiên và bản tính xã hội của quyền con người có mối quan hệ
biện chứng với nhau, vừa đối lập, vừa thống nhất trong một chỉnh thể thống nhất –
quyền con người. Do quá trình tồn tại và phát triển để thích nghi với các điều kiện
của tự nhiên và xã hội, hai thuộc tính của quyền con người tác động qua lại lẫn nhau
trong từng khu vực địa lý, hoàn cảnh lịch sử cụ thể tạo cho quyền con người có
thêm những đặc tính như tính nhân loại, tính đặc thù, tính phổ biến, tính giai cấp,
tính thống nhất với quyền dân tộc cơ bản. Cụ thể như sau:
Quyền con người mang tính nhân loại sâu sắc: Quyền con người vừa là một
giá trị bất biến gắn liền với sự ra đời và tồn tại của con người, vừa biến đổi cùng với
quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ phát triển kinh tế, xã hội của
mỗi quốc gia, dân tộc, vừa là kết quả cuộc đấu tranh của toàn thể nhân nhân lao
động nhằm đập tan ách thống trị trên toàn thế giới, giành lại quyền tự do chân chính

cho mình, là giá trị nhân văn cao quý mà xã hội loài người hướng tới. Muốn phát
triển con người một cách toàn diện thì không thể thực hiện ở một quốc gia, một dân
tộc riêng lẽ mà phải là sự giải phóng toàn nhân loại. Do đó, quyền con người mang
tính nhân loại sâu sắc.
Quyền con người vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù:
- Tính đặc thù: Quyền con người là một giá trị khách quan, vốn có của con
người mà bất cứ ai cũng có quyền được hưởng nên nó thúc đẩy Nhà nước tạo ra các
giá trị, chuẩn mực, các quy định, nguyên tắc về quyền con người để điều chỉnh cách
thức ứng xử của họ đối với những người là công dân và không phải công dân của họ
sao cho phù hợp với các điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của nước mình, và tất
nhiên tính đặc thù này không được trái với những giá trị chung của nền văn minh
nhân loại.

4

Xem: C.Mác và Ph. Ănghen toàn tập (1995), T.1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.569.

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

6

SVTH: Từ Đức Thắng


Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

- Tính phổ biến: Tính phổ biến của quyền con người có nghĩa là quyền con
người được áp dụng phổ biến ở mọi nơi, cho mọi đối tượng. Do con người không
chỉ tồn tại với tư cách là thành viên công dân của một quốc gia, mà còn là thành

viên, “công dân” của cộng đồng quốc tế5. Vì vậy, quyền con người là một hệ thống
giá trị chung được pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế thừa nhận, bảo hộ.
Quyền con người vừa mang tính giai cấp, vừa thống nhất với quyền dân tộc
cơ bản: Quyền con người là những đặc lợi tự nhiên vốn có gắn liền với con người,
tồn tại không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Nhưng lịch sử phát triển
của xã hội loài người là lịch sử của sự đấu tranh giai cấp và giải phóng con người,
dân tộc thoát khỏi áp bức, bóc lột và thành quả của cuộc đấu tranh này chính là
những nhu cầu sống, những khát vọng của con người, của các dân tộc bị nô dịch, cụ
thể đó chính là các quyền con người. Do đó, Chủ nghĩa Mác – Lê-nin và Đảng
Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Lịch sử đấu tranh giải phóng con người, cải tạo
xã hội trong xã hội có giai cấp là lịch sử các cuộc đấu tranh giai cấp. Quyền con
người là thành quả của các cuộc đấu tranh đó. Vì vậy, quyền con người không thể
không mang tính giai cấp”.
Ở Việt Nam, quyền con người mà người dân Việt Nam có được hôm nay là
thành quả của cuộc đấu tranh gian khổ, trường kỳ giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giải phóng con người
gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Chỉ dưới tiền đề độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội thì quyền con người mới có điều kiện được đảm bảo đầy đủ,
rộng rãi và trọn vẹn nhất. Nước Việt Nam được độc lập, tự do người dân Việt Nam
mới có được các quyền con người thật sự. Do đó, quyền con người thống nhất với
quyền dân tộc cơ bản, nói cách khác, quyền con người chỉ có trong độc lập dân tộc.
Ngoài bản tính tự nhiên và bản tính xã hội, cùng với các đặc tính đặc trưng,
với tư cách là một hệ giá trị cao quý của con người, quyền con người còn có những
đặc tính sau:
Quyền con người là một phạm trù chính trị, pháp lý: Mặc dù quyền con người
được thể hiện là những quyền tự nhiên vốn có gắn liền với mỗi con người nhưng tự
bản thân chúng, những quyền tự nhiên đó chưa phải là quyền mà nó phải được đặt
trong mối quan hệ với cộng đồng xã hội, với một quy chế pháp lý nhất định. Chỉ khi
trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật, tức là được pháp luật ghi nhận thì mới
trở thành các quyền của con người. Bởi vì chỉ có pháp luật mới là phương thức đảm

bảo quyền con người hữu hiệu nhất và cũng chỉ có pháp luật mới có thể chính thức
5

Xem: Đinh Văn Mậu (2003), Quyền lực nhà nước và quyền công dân, NXB. Tư pháp, Hà Nội, tr.324.

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

7

SVTH: Từ Đức Thắng


Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

hoá các giá trị xã hội của quyền con người, làm cho quyền con người trở thành
quyền pháp định, trở thành ý chí chung của xã hội, được xã hội thừa nhận và phục
tùng: “Khi quyền con người được ghi nhận trong hiến pháp và pháp luật thì nó sẽ
trở thành tối thượng, có giá trị bắt buộc đối với tất cả các thành viên trong xã hội,
kể cả Nhà nước”6. Vì vậy, quyền con người cần phải được bảo đảm thực hiện
nghiêm chỉnh thống nhất bằng Hiến pháp và pháp luật mà trước tiên và quan trọng
nhất là phải được ghi nhận trong Hiến pháp – đạo luật cơ bản của một quốc gia.
Quyền con người là những giá trị bất khả xâm phạm: Quyền con người là
những giá trị gắn liền với bản thân con người, có vị trí cao nhất trong thang bậc giá
trị xã hội và không thể đánh đổi bằng bất cứ thứ gì. Vì vậy, quyền con người không
thể bị tước đoạt, hạn chế một cách tuỳ tiện bởi bất kỳ chủ thể nào, kể cả Nhà nước
trừ một số trường hợp thật cần thiết và được Hiến pháp, Luật quy định.
Quyền con người là những giá trị không thể phân chia: Tất cả các quyền con
người đều có tầm quan trọng như nhau, không quyền nào được coi là có giá trị hơn
quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào cũng đều ảnh

hưởng đến những quyền con người còn lại. Tuy nhiên, tuỳ vào bối cảnh, lĩnh vực cụ
thể và đối với những đối tượng cụ thể thì có thể ưu tiên bảo đảm một số quyền nhất
định dựa trên những yêu cầu thực tế.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm quyền con người như sau:
“Quyền con người là những giá trị cao quý của nhân loại, là một chỉnh thể thống
nhất của các đặc tính trong mối quan hệ biện chứng với nhau, phản ánh những nhu
cầu, lợi ích tự nhiên vốn có và khách quan của con người, gắn liền với các điều kiện
kinh tế - chính trị - văn hoá – xã hội nhất định, được ghi nhận và bảo vệ trong pháp
luật quốc gia và các thoả thuận pháp lý quốc tế”.
1.1.1.2. Khái niệm quyền công dân
Để có thể đưa ra khái niệm quyền công dân, trước tiên chúng ta cần hiểu thế
nào là công dân của một quốc gia. Theo quy định của Luật quốc tịch năm 2008 của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì công dân Việt Nam là người có quốc
tịch Việt Nam, từ quy định trên có thể đưa ra định nghĩa công dân như sau: “Công
dân của một quốc gia là một cá nhân có mang quốc tịch của quốc gia đó”. Khi đã
có được quốc tịch của một quốc gia tức là đã trở thành công dân của quốc gia đó thì
lúc này vấn đề quyền công dân mới được đặt ra. Vậy quyền công dân là gì.

6

Xem: PGS. TS. Trần Ngọc Đường, Bàn về Quyền con người quyền công dân, NXB Chính trị quốc gia, tr.22.

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

8

SVTH: Từ Đức Thắng


Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố

tụng hình sự Việt Nam

Như đã biết, công dân của một quốc gia cũng là một con người, vì vậy công
dân sẽ có được các quyền của con người, nhưng do tính đặc thù của quyền con
người phụ thuộc vào điều kiện của từng quốc gia nên quyền con người của cá nhân
là công dân của một quốc gia được thể hiện dưới dạng một quyền cụ thể, xác định
hơn quyền con người đó chính là quyền công dân. Có thể khái quát quyền công dân
như sau: “Quyền công dân là quyền con người, là những giá trị gắn liền với một
nhà nước nhất định và được nhà nước đó bảo hộ bằng pháp luật của mình đối với
người mang quốc tịch của nước mình, thể hiện mối liên hệ pháp lý cơ bản giữa mỗi
cá nhân công dân với một nhà nước cụ thể”.
Hiện nay, ở mọi quốc gia trên thế giới, trong các văn bản pháp luật, đặc biệt
là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp đều có chế định quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân. Trong mỗi quốc gia, quyền công dân là nội dung cơ bản
của quyền con người, một cá nhân con người không thể vừa có quyền con người,
vừa có quyền công dân tách biệt hoàn toàn với nhau. Thể hiện quan điểm này, Điều
50 Hiến pháp 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Ở
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và
được quy định trong hiến pháp và luật”. Do đó, đảm bảo thực hiện tốt các quyền
công dân chính là thực hiện tốt nội dung cơ bản của quyền con người.
1.1.1.3. Mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân
Khi bàn về mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân thì có
nhiều quan niệm khác nhau, theo quan niệm khoa học pháp lý ở các nước xã hội
chủ nghĩa thường đồng nhất quyền con người với quyền công dân, cũng theo một
quan niệm khác của cách mạng tư sản cho rằng nên tách đôi quyền con người thành
quyền của cá nhân với tư cách là thành viên của xã hội công dân và quyền của cá
nhân với tư cách là thành viên của cộng đồng chính trị, nhưng quan niệm này đã bị
C.Mác phê phán, C.Mác cho rằng cá nhân con người còn tồn tại trong xã hội thì
không thể tách đôi như vậy. Và theo C.Mác, quyền con người và quyền công dân

luôn nằm trong một chỉnh thể thống nhất, trong mối quan hệ biện chứng với nhau.
Quyền công dân chính là quyền con người trong một xã hội cụ thể, trong một chế
độ xã hội – chính trị nhất định với một nền pháp luật cụ thể. Do chỗ đấu tranh
quyền con người bắt đầu từ lịch sử hình thành giai cấp, nhà nước và pháp luật nên
khi nói đến quyền con người trước hết phải nói về quyền công dân.
Kế thừa học thuyết của C.Mác, V.I.Lênin cũng khẳng định: “Quyền con
người và quyền công dân không thể tách rời một cách biệt lập”, mà sự thống nhất

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

9

SVTH: Từ Đức Thắng


Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

giữa quyền con người và quyền công dân còn thể hiện ở chỗ quyền con người luôn
gắn liền với độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia. Và quyền con người với tư cách là
công dân của một quốc gia chỉ có thể đảm bảo thực hiện khi đã giải phóng con
người khỏi sự áp bức, bóc lột và xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, các cá
nhân, dân tộc đều có quyền quyết định vận mệnh của mình.
Tuy giữa quyền con người và quyền công dân thống nhất biện chứng với
nhau và trong mối quan hệ này đều ghi nhận các quyền của cá nhân nhưng nếu xét ở
phương diện chủ thể và nội dung của quyền thì chúng hoàn toàn độc lập với nhau,
không thể đồng nhất hai khái niệm quyền con người và quyền công dân.
Ở khía cạnh nội dung của quyền ta thấy, quyền con người là khái niệm rộng
hơn, nó vừa ghi nhận trạng thái pháp lý về quyền cá nhân ở phạm vi quốc tế, vừa là
quyền công dân ở phạm vi từng quốc gia nhất định. Do đó, nội dung, số lượng và

chất lượng của quyền công dân ở mỗi quốc gia thường không giống nhau. Một mặt,
quyền con người không loại trừ khái niệm quyền công dân, bao hàm quyền công
dân như một bộ phận của quyền con người, tuy nhiên quyền con người cũng không
thể thay thế khái niệm quyền công dân.
Ở phương diện chủ thể của quyền ta thấy, chủ thể của quyền con người rộng
hơn quyền công dân, bởi vì quyền con người ngoài những cá nhân được xác định là
công dân, còn bao hàm những người không phải là công dân (người nước ngoài,
người không quốc tịch, người bị pháp luật tước quyền công dân); những người này
tuy không được hưởng các quyền công dân trên lãnh thổ một quốc gia nhưng họ vẫn
có các quyền con người với tính cách là một thực thể tự nhiên – xã hội.
Từ những phân tích trên, có thể kết luận rằng: “Quyền con người và quyền
công dân vừa mang tính độc lập, vừa có mối liên hệ lẫn nhau”. Ngày nay, cộng
đồng quốc tế ngày càng quan tâm nhiều hơn về vấn đề quyền con người, con người
không chỉ tồn tại với tư cách là một thành viên công dân của một quốc gia mà còn
là thành viên công dân của cộng đồng quốc tế.
1.1.2. Nội dung chủ yếu của quyền con người, quyền công dân
Khi xem xét nội dung quyền con người, quyền công dân, có nhiều cách phân
loại khác nhau, như phân loại theo quan điểm triết học, xã hội học. Nhưng sự phân
loại của khoa học pháp lý có nhiều yếu tố hợp lý hơn và được ghi nhận trong các
văn bản pháp lý quốc tế hiện đại.
Khoa học pháp lý chia nội dung quyền con người, quyền công dân thành các
nhóm chính sau:

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

10

SVTH: Từ Đức Thắng



Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

Các quyền tự do dân chủ về chính trị bao gồm: quyền tham gia quản lý nhà
nước và xã hội, quyền bầu cử, ứng cử, quyền bình đẳng nam nữ, quyền tự do ngôn
luận, quyền tự do báo chí, quyền được thông tin, quyền được lập hội,…
Các quyền dân sự (quyền tự do cá nhân) bao gồm: quyền bất khả xâm phạm
về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm,
quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, quyền được an toàn bí mật thư tín, điện thoại,
quyền tự do đi lại và cư trú trong nước, quyền đi ra nước ngoài và từ nước ngoài trở
về nước, …
Các quyền về kinh tế - xã hội bao gồm: quyền lao động, quyền tự do kinh
doanh, quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền thừa kế, quyền học tập, phát minh,
sáng chế, quyền được bảo vệ sức khoẻ, quyền được bảo hộ hôn nhân gia đình,
những quyền năng mang tính ưu tiên như quyền trẻ em, quyền người già, người cô
đơn không nơi nương tựa,…
Ở mỗi quốc gia, do có hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội, chế độ
chính trị khác nhau, … nên hệ thống các quyền không hoàn toàn giống nhau, nhưng
những quyền cơ bản nhất thì vẫn tương đồng. Ngày nay, việc ghi nhận và bảo đảm
quyền con người và quyền công dân đã có sự phối hợp rộng rãi giữa các quốc gia và
cộng đồng quốc tế. Nội dung quyền con người được xác định ngày càng đầy đủ và
cụ thể hơn. Đó là thành quả của quá trình nhận thức và đấu tranh cho quyền con
người của nhân loại tiến bộ, đồng thời góp phần thúc đẩy việc thưc hiện, bảo vệ
quyền con người ở các quốc gia.
1.1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu quyền con người
Quyền con người là vấn đề có lịch sử phát triển lâu dài và nội dung rộng lớn,
là vấn đề nhạy cảm, phức tạp, bởi nó gắn liền với các chế độ chính trị khác nhau.
Quyền con người là thành quả của sự nghiệp đấu tranh giải phóng, cải tạo xã hội và
cải tạo thiên nhiên của cả nhân loại. Hiện nay, vấn đề quyền con người đang là một
trong những chính sách đối ngoại quan trọng của các nước phương tây và cũng là

công cụ hữu hiệu để các thế lực thù địch chống phá các nước xã hội chủ nghĩa. Do
đó, nghiên cứu quyền con người không chỉ có ý nghĩa sâu sắc về mặt lý luận mà còn
có ý nghĩa về mặt thực tiễn.
Về mặt lý luận, nghiên cứu quyền con người nhằm để tôn vinh những giá trị
nhân văn, giúp nhận thức đúng đắn về quyền con người, giá trị thật sự của con
người trong thế giới này. Mặt khác, tuy quyền con người là những giá trị chung của
nhân loại nhưng do tính đặc thù của quyền con người phụ thuộc vào chế độ kinh tế,
thể chế chính trị, tôn giáo, dân tộc,… ở mỗi quốc gia nên quyền con người ở các
GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

11

SVTH: Từ Đức Thắng


Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

quốc gia này có những nét đặc trưng riêng. Vì thế, ở mỗi quốc gia sẽ có những quan
điểm, đường lối chính sách riêng để đảm bảo quyền con người của công dân mình.
Do đó, nghiên cứu tốt quyền con người sẽ giúp các quốc gia có được một đường lối
phát triển đúng đắn. Cụ thể ở Việt Nam, quan điểm về quyền con người của Đảng
và Nhà nước ta dựa trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, truyền thống văn hoá dân tộc và xem xét, chọn lọc những tiêu chuẩn
về quyền con người được thế giới thừa nhận rộng rãi. Đảng và Nhà nước ta khẳng
định quyền con người là thành quả và khát vọng chung của nhân loại. Đảng chỉ rõ:
“Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của
nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là cuộc đấu tranh
của loài người làm chủ thiên nhiên, qua đó, quyền con người trở thành giá trị
chung của nhân loại”7. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ

những giá trị cao quý về quyền con người được thế giới thừa nhận rộng rãi. Đảng
chỉ đạo “Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các
dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội
dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính về phẩm giá con người”8. Dựa trên quan
điểm bảo đảm quyền con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng
Việt Nam, nhiều năm qua Đảng và Nhà nước đã thực thi nhiều chính sách đảm bảo
quyền con người và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, đưa đất nước ta tiến
dần đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”,
góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì mục tiêu hoà bình và tiến bộ xã
hội.
Về mặt thực tiễn, hiện nay các thế lực thù địch đang lợi dụng vấn đề “dân
chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”, “dân tộc” để can thiệp vào công việc nội bộ của
nước ta. Chúng không thừa nhận tính đặc thù của quyền con người và cho rằng
quyền con người chỉ là giá trị chung không phụ thuộc vào pháp luật hay đạo đức
của bất kỳ xã hội nào và phải được áp dụng với những chuẩn mực và phương thức
đồng nhất ở mọi quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị, kinh tế, lịch sử và văn
hoá. Chúng rêu rao quan điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, tuyệt đối hoá
quyền tự do cá nhân, đặc quyền của cá nhân cao hơn chủ quyền của cộng đồng dân
tộc. Trước những âm mưu và hành động chống phá cũng như những quan điểm trái
với những giá trị chung của nhân loại trên, chúng ta thấy rằng, việc nghiên cứu
quyền con người thật sự đóng vai trò quan trọng giúp chúng ta nhận biết sớm và có
những biện pháp chống lại các âm mưu trên.
7
8

Xem: Chỉ thị 12/TW của Ban bí thư, ngày 12 tháng 7 năm 1992.
Xem: Cương lĩnh cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006, tr.113.

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu


12

SVTH: Từ Đức Thắng


Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

1.2. Nhận thức chung về quyền con người của người bị hại trong tố tụng hình
sự Việt Nam
Để có sự nhận thức chung về quyền con người của người bị hại trong tố tụng
hình sự chúng ta cần phải tìm hiểu các vấn đề là khái niệm người bị hại, sau đó dựa
trên những cơ sở lý luận về quyền con người đã phân tích để làm rõ quyền con
người của người bị hại trong tố tụng hình sự là gì, ý nghĩa của việc đảm bảo quyền
con người của người bị hại và từ đó làm rõ vai trò của pháp luật tố tụng hình sự
trong việc đảm bảo các quyền con người của người bị hại.
1.2.1. Khái niệm người bị hại và quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự
1.2.1.1. Khái niệm người bị hại
Người bị hại là một trong những người tham gia tố tụng theo quy định của
BLTTHS 2003. Việc tham gia tố tụng của người bị hại không chỉ nhằm bảo vệ và
khôi phục những quyền và lợi ích hợp pháp của họ đã bị hành vi phạm tội xâm hại
mà còn góp phần quan trọng vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Do đó,
tìm hiểu rõ khái niệm người bị hại là một trong những cơ sở lý luận quan trọng giúp
bảo vệ tốt quyền lợi của người bị hại cũng như đảm bảo sự chính xác, khách quan
trong quá trình giải quyết vụ án.
Theo pháp luật tố tụng hình sự của các nước trên thế giới thì không tìm thấy
sự thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ người bị hại. Chẳng hạn như luật Tố
tụng hình sự của Cộng hoà Pháp, Liên bang Nga hay Việt Nam sử dụng thuật ngữ
“Người bị hại”, trong khi đó luật Tố tụng hình sự của Cộng hoà nhân dân Trung

Hoa lại sử dụng thuật ngữ “Người tố cáo”. Ngoài ra, người bị hại còn được gọi là
“Người bị thiệt hại”, hay là “nạn nhân”, hay “dân sự nguyên cáo”9. Việc sử dụng
thuật ngữ này như thế nào đòi hỏi phải thể hiện được bản chất cũng như nội dung,
tính chặt chẽ của thuật ngữ, do vậy, việc sử dụng thuật ngữ người bị hại để chỉ
người bị tội phạm xâm hại là hợp lý hơn cả. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có
một cách hiểu rõ ràng về khái niệm người bị hại. Để có sự nhận thức đầy đủ và
thống nhất về khái niệm người bị hại, theo người viết cần phải tiếp cận ở các góc độ
sau:
Dưới góc độ ngôn ngữ: Người bị hại có thể hiểu là một con người cụ thể
trong xã hội, chịu sự tác động của sự việc, hành vi, hoặc bất kỳ sự tác động nào
9

Xem: Lê Tiến Châu, Người bị hại trong tố tụng hình sự, Tạp chí khoa học pháp lý số 1(38)/2007.

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

13

SVTH: Từ Đức Thắng


Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

khác dẫn đến những thiệt thòi, mất mát hay tổn thương cho chính họ, sự tác động
này phải trái với ý muốn của người bị hại và họ tiếp nhận một cách thụ động. Thiệt
hại gây ra cho người bị hại có thể là thiệt hại về vật chất hoặc là phi vật chất và
không cần phải giới hạn mức độ thiệt hại.
Dưới góc độ ngôn ngữ pháp lý: Theo Từ điển luật học, “Người bị hại là
người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần, hoặc về tài sản do tội phạm gây ra.

Người bị hại chỉ có thể là thể nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về
tinh thần hoặc về tài sản chứ không thể là pháp nhân”10.
Dưới góc độ của pháp luật thực định: Theo Điều 51 BLTTHS 2003 quy
định: “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm
gây ra”. Với quy định này, người bị hại thường được hiểu là “một con người cụ thể
bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại”. Thể chất, tinh thần, tài sản của họ phải là
đối tượng tác động của tội phạm. Đồng nhất với quan điểm này luật một số nước
cũng có quy định tương tự. Chẳng hạn, Điều 53 BLTTHS của Liên bang Nga quy
định: “Người bị hại là người bị tội phạm gây thiệt hại về tinh thần, thể chất hoặc tài
sản”. Còn Khoản 1, Điều 43 BLTTHS của Tiệp Khắc trước đây quy định: “Người
bị hại là người bị tội phạm gây thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản, tinh thần hoặc
những thiệt hại khác”11. Tuy nhiên, những quy định trên vẫn chưa làm rõ những
vấn đề quan trọng của khái niệm người bị hại như thiệt hại mà người bị hại phải
gánh chịu có bao gồm thiệt hại gián tiếp không; Thiệt hại đó có mối quan hệ nhân
quả với hành vi phạm tội không; Thiệt hại đó có phải do bất kỳ tội phạm nào gây ra
hay không; Và trong trường hợp hành vi phạm tội chưa gây thiệt hại cho một người
thì người đó có được xem là người bị hại không; Về vấn đề người bị hại có bao gồm
cả cơ quan, tổ chức hay không thì hiện nay cũng có rất nhiều quan điểm xoay quanh
vấn đề này nhưng do phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung vào người bị hại là thể nhân
nên vấn đề này người viết sẽ không phân tích cụ thể.
Để giải quyết các vấn đề trên thì chúng ta cần căn cứ vào các cấu thành tội
phạm và tính chất của sự thiệt hại để xác định người bị hại. Trong khoa học luật
Hình sự, tội phạm được chia thành hai loại cấu thành tội phạm cơ bản:
- Loại tội phạm có cấu thành vật chất: Loại cấu thành tội phạm này đòi hỏi
phải có hậu quả xảy ra, hậu quả thường là thiệt hại về vật chất hoặc thể chất, ví dụ
như tội giết người (Điều 93 Bộ luật Hình sự năm 1999) đòi hỏi phải có hậu quả chết
người xảy ra hoặc tội giết con mới đẻ (Điều 94 Bộ luật Hình sự năm 1999) bắt buộc
10

Xem: Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Trường ĐH Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 1999, tr.198.


11

Xem: Lê Tiến Châu, Người bị hại trong tố tụng hình sự, Tạp chí khoa học pháp lý số 1(38)/2007.

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

14

SVTH: Từ Đức Thắng


Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

phải có hậu quả đứa trẻ chết, … Những thiệt hại này phải cụ thể, có tính hiện tại và
xác định. Sự thiệt hại này không thể không cụ thể, chưa xác định, chưa hoặc sắp xảy
ra. Sự thiệt hại này phải là thiệt hại trực tiếp do chính tội phạm gây ra và nhất thiết
phải có mối quan hệ nhân quả với hành vi phạm tội. Một điều cơ bản khi xác định
thiệt hại của người bị hại đó là sự thiệt hại này phải do một tội phạm được quy định
trong luật Hình sự xâm hại đến khách thể được luật Hình sự bảo vệ. Đồng thời sự
thiệt hại mà người bị hại phải gánh chịu không có nguồn gốc từ hành vi vi phạm
pháp luật của người bị hại. Từ những phân tích trên, chúng ta không thể chấp nhận
quan điểm cho rằng thiệt hại của người bị hại là bao gồm cả thiệt hại gián tiếp và sự
thiệt hại này không có mối quan hệ nhân quả với hành vi phạm tội.
- Loại tội phạm có cấu thành hình thức: Thiệt hại gây ra cho người bị hại
trong loại cấu thành tội phạm này thường là thiệt hại về tinh thần, chủ yếu là các tội
phạm xâm phạm về sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người như tội hiếp dâm
(Điều 111 Bộ luật Hình sự năm 1999), tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 Bộ luật Hình
sự năm 1999), … Vì vậy thiệt hại đó không cụ thể, khó xác định và không thể định

lượng mức độ thiệt hại trên thực tế của người bị hại. Do đó, ngoài trường hợp tội
phạm đã hoàn thành, trong trường hợp phạm tội chưa đạt được do những nguyên
nhân khách quan ngoài ý chí của kẻ phạm tội thì người có nguy cơ bị xâm hại cũng
được xem là người bị hại trong trường hợp này mặc dù thiệt hại đối với họ là chưa
xảy ra12.
Mặt khác, trong khoa học pháp lý cũng có khá nhiều khái niệm tương đồng
với khái niệm người bị hại như nạn nhân của tội phạm, đối tượng tác động của tội
phạm. Do đó, để hiểu rõ hơn khái niệm người bị hại thì chúng ta cần phân biệt với
các khái niệm này. Cụ thể là:
• Nạn nhân của tội phạm là người bị hại: Về vấn đề này cũng có quan điểm
cho rằng nạn nhân của tội phạm chính là người bị hại, quan điểm này đúng nhưng
chưa đủ như bản chất của hai thuật ngữ. Trong văn kiện “Các nguyên tắc về tố tụng
và chứng cứ” được áp dụng cho tội phạm quốc tế khái niệm nạn nhân của tội phạm
được hiểu như sau: “Nạn nhân của tội phạm là những người phải gánh chịu những
thiệt hại do tội phạm gây ra”13. Từ khái niệm trên ta thấy những thiệt hại phát sinh
đối với nạn nhân của tội phạm có thể là thiệt hại trực tiếp hoặc là thiệt hại gián tiếp
còn đối với người bị hại như đã phân tích chỉ có thể là thiệt hại trực tiếp mà thôi. Do
đó, phạm vi người bị hại hẹp hơn rất nhiều so với nạn nhân của tội phạm. Hơn nữa,
12
13

Xem: Điều 18 BLHS 1999.
Xem: Giáo trình tội phạm học, NXB Giáo dục Việt Nam, tr.143.

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

15

SVTH: Từ Đức Thắng



Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

nạn nhân của tội phạm chỉ trở thành người bị hại khi đã tham gia vào quan hệ tố
tụng hình sự và được các Cơ quan tiến hành tố tụng công nhận.
Ví dụ: A dùng dao chém B tại quán của C làm B bị thương nặng. Trong quá
trình thực hiện hành vi chém B, A đã làm hư hỏng một số tài sản ở quán của C.
Trong ví dụ này ta thấy hành vi của A đã xâm phạm thiệt hại về tính mạng,
sức khoẻ của B và thiệt hại về tài sản của C. Ở góc độ khái niệm nạn nhân của tội
phạm thì cả B và C đều là nạn nhân từ hành vi phạm tội của A, bởi vì họ đều là
người bị hành vi phạm tội xâm hại lợi ích. Tuy nhiên, khi xem xét ai là người bị hại
trong tố tụng hình sự thì chỉ có B mới được xem là người bị hại mà thôi. Bởi vì,
hành vi của A đã trực tiếp xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ của B, mong muốn của
A khi thực hiện hành vi phạm tội là nhằm gây tổn hại tính mạng, sức khoẻ cho B,
do đó, B chính là người bị hại từ hành vi của A. Còn thiệt hại về tài sản đối với C là
thiệt hại không nằm trong mong muốn của A khi thực hiện hành vi phạm tội, và
trong trường hợp này nếu tham gia vào quan hệ tố tụng hình sự thì C chỉ có thể
tham gia với tư cách là nguyên đơn dân sự.
• Đối tượng tác động của tội phạm: Đây là một bộ phận hợp thành khách
thể của tội phạm, là cái mà tội phạm muốn tác động, xâm hại tới. Đối tượng tác
động của tội phạm không chỉ bao gồm con người mà còn bao gồm các đối tượng vật
chất khác như tiền, tài sản, … và các hoạt động bình thường của chủ thể. Trong khi
đó con người – nạn nhân bị tội phạm xâm hại về thể chất, tinh thần và các quyền tự
do dân chủ, đó chính là những đối tượng tác động mà tội phạm hướng tới.
Ví dụ: Nguyễn Văn M nhân lúc cả nhà của Anh N ngủ say nên đã lẻn vào
nhà Anh N để trộm tài sản và đã lấy đi một số tiền trị giá 20 triệu đồng.
Trong ví dụ trên ta thấy, hành vi của M đã xâm phạm đến khách thể là quyền
sở hữu của công dân được luật Hình sự bảo vệ. Ở góc độ người bị hại thì Anh N
được xem là người bị hại từ hành vi trộm tài sản của M bởi vì N bị “mất 20 triệu

đồng” còn ở góc độ là đối tượng của tội phạm thì số tiền 20 triệu đồng được xem là
đối tượng tác động của tội phạm – cái mà M muốn có được khi thực hiện hành vi
trộm tài sản và thông qua đó để gây thiệt hại cho N. Do đó ta thấy, giữa người bị hại
và đối tượng tác động của tội phạm có mối quan hệ mật thiết với nhau nhưng không
phải là một, tội phạm chỉ có thể gây phương hại cho người bị hại khi tác động tới
đối tượng này.

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

16

SVTH: Từ Đức Thắng


Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

Từ những phân tích trên có thể thấy rằng giữa các khái niệm người bị hại,
nạn nhân của tội phạm và đối tượng tác động của tội phạm tuy có nhiều điểm tương
đồng, đan xen với nhau nhưng không thể đồng nhất chúng với nhau.
Tóm lại chúng ta có thể rút ra khái niệm người bị hại như sau: “Người bị hại
là cá nhân bị thiệt hại về thể chất (bị giết chết, bị gây thương tích, …), về tinh thần
(bị vu khống, bị làm nhục, …), về tài sản (bị làm hư hỏng tài sản, bị chiếm đoạt tài
sản, …) do tội phạm gây ra”. Khái niệm này bao hàm các đặc điểm sau:
- Người bị hại chỉ có thể là cá nhân.
- Thiệt hại mà tội phạm gây ra cho người bị hại có thể là thiệt hại về thể chất,
thiệt hại về tinh thần hoặc thiệt hại về tài sản. Và sự thiệt hại này không phải là điều
kiện bắt buộc trong một số trường hợp.
- Thiệt hại của người bị hại phải là đối tượng tác động của tội phạm, tức là phải
có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho người bị hại.

Đây là điều kiện quan trọng để phân biệt với nguyên đơn dân sự trong vụ án hình
sự.
- Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra chỉ được tham gia tố tụng với tư cách là
người bị hại khi được các Cơ quan tiến hành tố tụng công nhận.
1.2.1.2. Quyền con người của người bị hại trong tố tụng hình sự
Cơ sở lý luận quyền con người của người bị hại trong tố tụng hình sự
Trong nhà nước pháp quyền, các quyền con người được pháp luật bảo đảm
thực hiện và được bảo vệ không bị xâm phạm. Ghi nhận và bảo vệ quyền con người
trên thực tế là sự thể hiện của một nhà nước nhân đạo, tiến bộ, dân chủ, văn minh.
Các quyền con người trở thành đối tượng bảo vệ trong việc ghi nhận về pháp lý,
trong hoạt động thi hành pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật của nhà nước. Bảo vệ
quyền con người không chỉ là nội dung, bản chất mà còn trở thành mục tiêu cao
nhất trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta14. Mặt khác, ở
góc độ nghiên cứu quyền con người như đã phân tích, quyền con người là những giá
trị cao quý, bất khả xâm phạm, gắn liền với sự tồn tại của mỗi cá nhân con người
cho nên nó phải được đảm bảo trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội với bất
kỳ cá nhân nào và lĩnh vực tố tụng hình sự cũng không ngoại lệ.
Tố tụng hình sự là một lĩnh vực rất dễ làm con người bị tổn thương và vi
phạm các quyền con người hơn so với các lĩnh vực khác bởi tính chất bất bình đẳng
14

Xem: PGS. TS. Trần Văn Độ, Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng
hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

17

SVTH: Từ Đức Thắng



Luận văn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam

của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, bởi xu hướng đề cao lợi ích chung của xã hội
khi giải quyết vụ án, … Con người trong tố tụng hình sự bao gồm người tham gia tố
tụng và người tiến hành tố tụng, mỗi con người này đều có những quyền và nghĩa
vụ nhất định trong quá trình giải quyết vụ án, do đó khả năng bị xâm phạm các
quyền và bị gây ra thiệt hại của các chủ thể này là rất lớn. Tuy nhiên, thời gian gần
đây trong tư tưởng của các nhà khoa học pháp lý Việt Nam cũng như trong vấn đề
lý luận thường quan tâm, bàn cãi nhiều về vấn đề đảm bảo các quyền con người của
người bị buộc tội trong tố tụng hình sự mà quên đi các chủ thể khác cũng cần được
bảo vệ trong tố tụng hình sự. Mặt khác, ở khía cạnh luật thực định người bị buộc tội
cũng được bảo vệ nghiêm ngặt từ khi bắt đầu quá trình tố tụng cho đến khi kết thúc
bởi hệ thống các nguyên tắc như nguyên tắc được suy đoán vô tội, nguyên tắc bảo
đảm quyền bào chữa, … Bởi hệ thống quy định về áp dụng các biện pháp ngăn chặn
đối với họ. Trong khi đó, người bị buộc tội có thể chính là người có lỗi, họ đã xâm
hại đến lợi ích của người khác, của xã hội, họ phải chịu sự chế tài của pháp luật.
Ngược lại, chủ thể là người bị hại bị tội phạm xâm hại, họ vô tội và hoàn toàn
không có lỗi nhưng họ lại không được quan tâm, bảo vệ các quyền con người đúng
mức và cần thiết như pháp luật tố tụng hình sự đang cố sức bảo vệ người bị buộc
tội. Bởi vì như đã phân tích, quyền con người là những giá trị cao quý tồn tại trong
mỗi con người và dĩ nhiên chúng ta không thể đồng nhất hai chủ thể khác nhau về
tư cách tố tụng tham gia vào quan hệ tố tụng hình sự lại có các quyền và nghĩa vụ
giống nhau. Nhưng vấn đề đặt ra là đảm bảo quyền như thế nào để xem là cân bằng
và tạo ra một sự bình đẳng thật sự trong tố tụng hình sự. Vì nếu không đảm bảo đầy
đủ các quyền của một chủ thể khi họ tham gia vào hoạt động tố tụng hình sự thì có
thể quyền lợi của họ sẽ bị xâm phạm, từ đó sẽ không đảm bảo được ý nghĩa của
hoạt động tố tụng hình sự là một mặt phải giải quyết kịp thời, đúng đắn, khách quan
vụ án, mặt khác phải đảm bảo không xâm phạm các quyền con người trong quá

trình tiến hành hoạt động tố tụng hình sự. Chỉ có thể giải quyết hài hoà hai nhiệm vụ
này mới chính là thực hiện nhiệm vụ của tố tụng hình sự một cách đầy đủ, đúng
nghĩa. Vì thế ghi nhận và đảm bảo các quyền con người của người bị hại trong tố
tụng hình sự là một vấn đề có ý nghĩa sâu sắc.
Trên phương diện quốc tế cũng đã từng xuất hiện thực trạng trên cho nên
người bị hại từng được xem là người bị bỏ quên trong tố tụng hình sự. Nhận thức
được vấn đề này từ những thập niên 80, 90 của thế kỷ trước, các quốc gia và cộng
đồng quốc tế đã bắt đầu quan tâm trở lại lợi ích của người bị hại. Bên cạnh các quy
định của luật tố tụng hình sự, nhiều quốc gia còn có các đạo luật riêng về người bị
hại. Ví dụ như Mỹ có Luật bảo vệ nạn nhân và nhân chứng năm 1982, Đức có Luật
GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

18

SVTH: Từ Đức Thắng


×