Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

LUẬN văn LUẬT tư PHÁP hợp ĐỒNG cầm cố CHỨNG KHOÁN đã NIÊM yết ở các NGÂN HÀNG THƯƠNG mại VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (737.07 KB, 76 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT TƯ PHÁP

Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật khóa 2007-2011
Đề tài:

HỢP ĐỒNG CẦM CỐ CHỨNG KHOÁN
ĐÃ NIÊM YẾT Ở CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn:
Ths. TĂNG THANH PHƯƠNG

Sinh viên thực hiện:
LÊ VĂN DŨNG
MSSV: 5075016
Lớp: Luật Thương mại 1 K33

Cần Thơ – 8/2010


Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

MỤC LỤC
Lời nói đầu........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG CẦM CỐ CHỨNG
KHOÁN ............................................................................................................ 3
1.1. Các khái niệm chung ..................................................................................................... 3
1.1.1. Cầm cố tài sản ............................................................................................................. 3
1.1.2. Chứng khoán................................................................................................................ 4


1.2. Các chủ thể có liên quan đến hợp đồng cầm cố chứng khoán ...................................... 10
1.2.1. Trung tâm Lưu Ký chứng khoán ................................................................................... 10
1.2.2. Tổ chức tín dụng........................................................................................................... 12
1.2.3. Sở hữu chứng khoán..................................................................................................... 15
1.3. Khái niệm hợp đồng cầm cố chứng khoán .................................................................... 18
1.3.1. Định nghĩa ................................................................................................................... 18
1.2.3. Đặc điểm...................................................................................................................... 18
1.3.3. Cầm cố chứng khoán để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ ......................................... 20
1.4. Lịch sử phát triển hợp đồng cầm cố chứng khoán ........................................................ 21
1.5. Tầm quan trọng của các quy định về hợp đồng cầm cố chứng khoán........................... 24
1.5.1. Cầm cố chứng khoán là công cụ gọi vốn nhanh và hiệu quả......................................... 24
1.5.2. Cầm cố chứng khoán chứa đựng rủi ro ........................................................................ 25
1.5.3. Sự cần thiết của các quy định về cầm cố chứng khoán.................................................. 26
CHƯƠNG 2. CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG CẦM CỐ CHỨNG KHOÁN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH ................................................................ 27
2.1. Điều kiện về hình thức ................................................................................................... 27
2.2. Điều kiện về nội dung .................................................................................................... 28
2.2.1. Chủ thể của hợp đồng .................................................................................................. 28
2.2.2. Đối tượng của hợp đồng cầm cố chứng khoán.............................................................. 33
2.2.3. Nghĩa vụ được bảo đảm trong hợp đồng cầm cố chứng khoán ..................................... 38
2.2.4. Hiệu lực của hợp đồng cầm cố chứng khoán ................................................................ 39
2.2.5. Chấm dứt hợp đồng cầm cố chứng khoán..................................................................... 47
CHƯƠNG 3. HOẠT ĐỘNG CẦM CỐ CHỨNG KHOÁN TRONG THỰC TIỄN
VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN ............................................................................................... 53
3.1. Thực tiễn hoạt động cầm cố chứng khoán ở các ngân hàng thương mại .................... 53
3.1.1. Loại chứng khoán nhận cầm cố .................................................................................... 53
3.1.2. Hạn mức cho vay trên giá chứng khoán nhận cầm cố................................................... 54
3.1.3. Vấn đề xử lý chứng khoán cầm cố ................................................................................ 55
GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương


SVTH: Lê Văn Dũng


Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

3.1.4. Một số quy chế cho vay cầm cố chứng khoán của ngân hàng thương mại..................... 57
3.2. Vướng mắc, bất cập phát sinh và hướng hoàn thiện hợp đồng cầm cố chứng
khoán .................................................................................................................................... 61
3.2.1. Thiếu văn bản pháp luật điều chỉnh.............................................................................. 61
3.2.2. Xác định giá trị và loại chứng khoán nhận cầm cố ....................................................... 62
3.2.3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng không tương xứng .............................. 64
3.2.4. Xử lý việc vi phạm mục đích sử dụng vốn vay............................................................... 66
3.2.5. Một số vấn đề nảy sinh khi xử lý chứng khoán cầm cố.................................................. 68

Kết luận .............................................................................................................................. 71
Tài liệu tham khảo …………………………………………………………… ……72

GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương

SVTH: Lê Văn Dũng


Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

Lời nói đầu
1. Lý do chọn đề tài
Nước ta đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường, vì thế việc xây dựng
và phát triển thị trường chứng khoán là một điều tất yếu. Tuy nhiên, với quy mô còn
nhỏ bé và tuổi đời còn non trẻ như thị trường chứng khoán Việt Nam, thì vẫn còn đang
gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình phát triển.

Một trong những khó khăn cơ bản, dẫn đến thị trường chứng khoán Việt Nam
chậm phát triển là thiếu vốn từ các nhà đầu tư. Do đa phần các nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán Việt Nam là nhà đầu tư cá nhân, nguồn vốn ít cùng với khả năng
huy động vốn kém. Nên không phải lúc nào họ cũng có đủ vốn để xoay sở và đầu tư
lâu dài trên thị trường chứng khoán. Chính vì thế, một giải pháp để giúp nhà đầu tư
huy động nguồn vốn nhanh và hiệu quả là cầm cố chứng khoán đã niêm yết để vay tiền
ở các Tổ chức Tín dụng đầu tư chứng khoán.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích thiết thực đó, thì hoạt động cầm cố chứng khoán
trên thực tế vẫn đang gặp những khó khăn vướng mắc nhất định, làm cho các bên tham
gia xác lập hợp đồng cảm thấy e ngại khi tiến hành. Do tài sản cầm cố ở đây là chứng
khoán, một loại tài sản có tính rủi ro, giá cả thì phụ thuộc khá nhiều vào tình hình kinh
tế xã hội, chỉ một biến động nào đó của nền kinh tế cũng có thể làm cho giá trị của
chúng thay đổi. Thêm vào đó, về mặt pháp lý, thì chưa có một cơ chế cũng như quy
định của pháp luật nào rõ ràng để điều chỉnh hợp đồng cầm cố chứng khoán, mà việc
xác lập cũng như thực hiện hợp đồng chủ yếu dựa vào những quy định chung của pháp
luật về cầm cố tài sản và các quy chế về bảo đảm tiền vay của Tổ chức Tín dụng. Nên
mặc dù hoạt động này đã xuất hiện khá lâu, nhưng dường như chỉ diễn ra cầm chừng,
và chỉ được thực hiện ở một vài Tổ chức Tín dụng mà thôi.
Từ những phân tích trên người viết thấy rằng, hợp đồng cầm cố chứng khoán là
một loại hợp đồng cầm cố tài sản đặc biệt. Cho nên các điều kiện về nội dung cũng
như hình thức của loại hợp đồng này không đồng nhất với những quy định chung của
pháp luật về cầm cố tài sản, mà đòi hỏi phải có những quy định pháp luật chuyên
ngành bổ sung thêm để điều chỉnh.
Chính vì vậy, đòi hỏi phải có những đề tài nghiên cứu hết sức kỹ lưỡng về loại hợp
đồng này, để từ đó làm cơ sở cho các cơ quan có thẩm quyền xem xét để sửa đổi, bổ
sung hoặc ban hành mới những quy định pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý vững
chắc hơn cho hoạt động nói trên. Nhằm hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro phát sinh từ
hợp đồng, đồng thời tạo điều kiện cho hợp đồng cầm cố chứng khoán phát triển ở hiện
tại và tương lai. Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết đó, người viết quyết định chọn


GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương

Trang 1

SVTH: Lê Văn Dũng


Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

đề tài “Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các ngân hàng thương mại Việt
Nam ” làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Làm sáng toả những quy định của pháp luật về cầm cố chứng khoán, đồng thời tìm
ra những bất cập, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn hoạt động cầm cố chứng khoán.
Từ đó, đưa ra những ý kiến đóng góp để khắc phục những bất cập, trở ngại làm giam
đi tính năng động và hiệu quả vốn có của loại hợp đồng này. Thêm vào đó người viết
còn tin rằng, với đề tài nghiên cứu này sẽ giúp cho nhà đầu tư cũng như các Tổ chức
Tín dụng, sẽ có cái nhìn thông thoáng hơn về hợp đồng cầm cố chứng khoán.
3.Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu hợp đồng cầm cố chứng khoán để bảo đảm cho
nghĩa vụ vay tiền đầu tư chứng khoán ở các Tổ chức Tín dụng tại Việt Nam, theo quy
định của của quyết định 03/2008 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, và chứng khoán
được cầm cố sẽ là các loại chứng khoán đã được niêm yết theo quy định của pháp luật.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng hợp và phân tích thông tin số liệu.
- Phương pháp phân tích luật viết.
5. Kết cấu đề tài
Trong luận văn này, người viết trình bày theo bố cục gồm 3 chương cụ thể.
Chương 1. Khái quát chung về hợp đồng cầm cố chứng khoán.
Chương 2.Chế độ pháp lý về hợp đồng cầm cố chứng khoán theo pháp luật Việt

Nam hiện hành.
Chương 3.Hoạt động cầm cố chứng khoán trong thực tiễn và hướng hoàn thiện.
Hợp đồng cầm cố chứng khoán là loại hợp đồng cầm cố tài sản đặc biệt, đồng thời
đề tài này là một tiếp cận khá mới đối với người viết. Song bên cạnh những cố gắng
hết mình của người viết, sẽ vẫn còn những thiếu sót cần bổ sung. Do vậy, rất mong
nhận được những ý kiến đóng góp từ phía thầy cô và người đọc, để đề tài có thể hoàn
thiện hơn.
Người viết xin gởi lời cám ơn chân thành đến Giảng viên: Tăng Thanh Phương
đã hướng dẫn và định hướng cho người viết trong suốt quá trình làm luận văn!

GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương

Trang 2

SVTH: Lê Văn Dũng


Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG CẦM CỐ CHỨNG KHOÁN
1.1. Các khái niệm chung
1.1.1.Cầm cố tài sản
Định nghĩa
Cầm cố là một loại quan hệ nghĩa vụ dân sự, một hợp đồng dân sự hình thành từ sự
thoả thuận giữa người cầm cố và người nhận cầm cố. Theo quy định tại Điều 326 của
Bộ luật Dân sự năm 2005 (Điều 326, BLDS) thì cầm cố tài sản là việc một bên (sau
đây gọi là bên cầm cố), giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau
đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Trong quan hệ này người nhận cầm cố và người cầm cố có thể đồng thời là chủ thể

của quan hệ nghĩa vụ chính. Điều này có nghĩa là thực tế cho đến thời điểm hiện tại
chưa có trường hợp hợp đồng cầm cố không là hợp đồng phụ của một quan hệ nghĩa
vụ dân sự chính (hợp đồng cầm cố đứng độc lập). Ngoài ra, hợp đồng cầm cố cũng có
thể được xác lập giữa người có quyền trong quan hệ nghĩa vụ chính (là người nhận
cầm cố) và một người cầm cố không phải là người có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ
chính.
Đặc điểm
Bên cạnh những đặc điểm vốn có của một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
nói chung như: nghĩa vụ trong quan hệ bảo đảm là nghĩa vụ phụ mang tính chất bổ
sung cho nghĩa vụ chính, nghĩa vụ bảo đảm chỉ phát sinh khi nghĩa vụ chính không
được chấp hành hay chấp hành không đầy đủ, phạm vi bảo đảm do các bên thoả thuận
hoặc pháp luật quy định trong trường hợp không có thoả thuận hoặc pháp luật không
quy định thì phạm vi bảo đảm là toàn bộ nghĩa vụ…Thì biện pháp cầm cố còn mang
những đặc điểm thể hiện sự độc lập của một biện pháp bảo đảm đối vật đó là.
- Bên nhận cầm cố sẽ được quyền ưu tiên thanh toán từ số tiền bán tài sản cầm cố,
khi tài sản cầm cố được xử lý theo quy định của pháp luật hoặc theo thoả thuận của
các bên1. Quyền ưu tiên trong trường hợp này được thể hiện ở việc, nếu bên cầm cố có
nhiều chủ nợ thì khi bán tài sản cầm cố để thanh toán, bên nhận cầm cố sẽ được thanh
toán đầu tiên và đầy đủ nghĩa vụ, nếu còn dư mới thanh toán cho các chủ nợ khác.
- Tài sản cầm cố phải được giao cho bên nhận cầm cố giữ. Việc giao tài sản cho
bên nhận cầm cố giữ, là nhằm bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của người có
nghĩa vụ, đối với người có quyền bằng việc nắm giữ thực tại tài sản cầm cố. Do đó, sẽ
không có trường hợp ngoại lệ mà tài sản cầm cố vẫn do người cầm cố giữ.
1

Điều 336 Bộ luật Dân sự 2005

GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương

Trang 3


SVTH: Lê Văn Dũng


Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

- Các bên trong hợp đồng cầm cố có quyền theo đuổi đối với tài sản cầm cố. Cụ thể
như bên cầm cố có quyền yêu cầu bên nhận cầm cố ngừng việc khai thác công dụng
hoặc hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố nếu như không có thoả thuận2. Bên nhận
cầm cố thì có quyền yêu cầu người chiếm hữu, sử dụng tài sản trái pháp luật trả lại tài
sản đó3, quyền theo đuổi này của bên nhận cầm cố được thực hiện cho đến khi hợp
đồng cầm cố chấm dứt.
Cầm cố tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ
Một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, nếu chúng có
giá trị tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được
bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác4. Vậy khi giá trị tài sản bảo đảm lớn hơn
tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, thì một tài sản đương nhiên có thể dùng để
bảo đảm cho việc thực hiện nhiều nghĩa vụ. Nếu như các bên nhận bảo đảm trong
trường hợp này không đồng thời là một người, mà có sự tham gia của một người thứ
ba, thì bên bảo đảm phải thông báo cho bên nhận bảo đảm sau biết về việc tài sản bảo
đảm đang được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác. Mỗi lần bảo đảm phải lập
thành văn bản. Cầm cố tài sản cũng là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự. Nên, có thể khẳng định rằng, một tài sản có thể được cầm cố để bảo
đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ là điều hiển nhiên theo quy định của pháp luật.
Mặc dù được pháp luật thừa nhận, nhưng việc cầm cố một tài sản để bảo đảm thực
hiện nhiều nghĩa vụ rất ít khi xảy ra, vì đặc điểm cơ bản của cầm cố tài sản là phải
chuyển giao tài sản cầm cố cho bên nhận cầm cố. Vì thế, một tài sản không thể chuyển
giao cùng một lúc cho hai người. Nên suy cho cùng, việc cầm cố một tài sản để bảo
đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, chỉ có thể cầm cố cho một người duy nhất để bảo đảm
cho nhiều nghĩa vụ mà người đó là bên có quyền.

1.1.2. Chứng khoán
Định nghĩa
Về bản chất thì chứng khoán là một loại giấy tờ có giá, chúng được xem là tài sản
đặc biệt, và được giao dịch trên một thị trường riêng biệt. Với những tính chất đặc
trưng đó, theo quy định của Luật thì: 5Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và
lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát
hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ
liệu điện tử.

2

Khoản 1, Điều 331 Bộ luật Dân sự 2005
Khoản 1, Điều 333 Bộ luật Dân sự 2005
4
Điều 324 Bộ luật Dân sự 2005
5
Khoản 1, Điều 6, Luật Chứng khoán năm 2006
3

GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương

Trang 4

SVTH: Lê Văn Dũng


Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

Đặc điểm
- Đặc điểm nổi bật và đầu tiên nhất của chứng khoán là tính sinh lời, tính sinh lời

thể hiện ở việc người sở hữu chứng khoán sẽ nhận được một khoản lợi nhuận trong
tương lai từ người phát hành. Thậm chí người sở hữu chứng khoán đã được phát trên
thị trường thứ cấp, còn có thể kiếm được những khoản lợi nhuận từ việc mua bán
chứng khoán. Chính vì tính sinh lời này mà chứng khoán mới được đầu tư ở cả thị
trường sơ cấp lẫn thứ cấp.
- Tính rủi ro, đối với chứng khoán được giao dịch trên thị trường tập trung rủi ro
về giá cả có thể xảy ra bất cứ lúc nào, chỉ cần một biến động nhỏ nào đó của thị trường
hay về phía chủ thể phát hành, hoặc có sự thay đổi về chính sách pháp luật có liên
quan, thậm chí chỉ cần một tin đồn thất thiệt nào đó thôi, thì ngay lập tức giá chứng
khoán sẽ giảm một cách nhanh chóng, khiến các nhà đầu tư trở tay không kịp. Hơn thế
nữa, một khi tổ chức phát hành chứng khoán bị phá sản thì rủi ro có thể nói là rất lớn
đối với nhà đầu tư.
- Tính vô hình6, tuy tồn tại dưới dạng một tờ cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ
hay một dữ liệu điện tử chẳng hạn, nhưng đó chỉ là bằng chứng thể hiện những quyền
hợp pháp đối với một lợi ích nào đó ở hiện tại hoặc trong tương lai. Giá trị của chúng
không liên quan gì đến hình thức mà những quyền đó được ghi lại hay thể hiện. Mà
giá trị của chứng khoán sẽ tồn tại dưới dạng những con số hoặc là những ký hiệu và
được giao dịch thông qua các tài khoản.
- Bên cạnh ba đặc tính trên đây thì một đặc tính rất quan trọng không thể thiếu khi
nói đến chứng khoán đó là tính thanh khoản (là khả năng chuyển đổi thành tiền mặt).
Thiếu tính thanh khoản, chứng khoán sẽ không được giao dịch trên thị trường thứ cấp
hay chuyển đổi mà chỉ đợi đến khi đáo hạn hoặc là khi phân chia tài sản của doanh
nghiệp mới được nhận lại số vốn đầu tư ban đầu, và điều đó sẽ không hấp dẫn nhà đầu
tư. Nhưng để có được tính thanh khoản cao phải phụ thuộc vào uy tín của chủ thể phát
hành và biến động của thị trường, vv…
Phân loại chứng khoán
Với những tính chất đặc trưng vốn có thì chứng khoán được phân loại theo các tiêu
chí sau7.
- Căn cứ theo tính chất.
Chứng khoán vốn: cổ phiếu, cổ phiếu ưu đãi, chứng chỉ quỹ.

Chứng khoán nợ: trái phiếu.
- Căn cứ theo tiêu chuẩn pháp lý.
6

Nguyễn Văn Nông; Nguyễn Thị Hồng Liên, Giáo trình thị trường chứng khoán, NXB Lao động xã hội năm
2007, tr. 17
7
Nguyễn Văn Nông; Nguyễn Thị Hồng Liên, Giáo trình thị trường chứng khoán, NXB Lao động xã hội năm
2007, tr.98

GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương

Trang 5

SVTH: Lê Văn Dũng


Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

Chứng khoán ký danh: có ghi tên người nắm giữ chứng khoán.
Chứng khoán vô danh: không ghi tên người nắm giữ chứng khoán.
Ngoài ra nếu phân loại theo mục đích phát hành thì còn có các loại chứng khoán
phái sinh như: quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua…Tuy nhiên, do các
loại công cụ chứng khoán này chưa phát triển trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Do vậy, trong phạm vi đề tài này chỉ xoay quanh tìm hiểu hợp đồng cầm cố các loại
chứng khoán cơ bản như cổ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ quỹ và tựu trung lại gọi là
hợp đồng cầm cố chứng khoán.
1.1.2.1. Cổ phiếu
Cổ phiếu, là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở
hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành8. Cổ phiếu có thể được phát

hành dưới dạng chứng chỉ vật chất hoặc bút toán ghi sổ, cổ phiếu thể hiện mối quan hệ
đồng sở hữu của người phát hành và nhà đầu tư. Khi cần huy động vốn, công ty cổ
phần phát hành cổ phiếu và sẵn sàng chia sẻ quyền sở hữu công ty giữa những người
mua cổ phiếu, với tư cách là người chủ sở hữu một phần công ty. Người sở hữu cổ
phiếu ( còn gọi là cổ đông) được hưởng các quyền đối với công ty với mức độ tương
ứng với tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ, đồng thời nếu công ty làm ăn thua lỗ thì cổ đông phải
gánh chịu thiệt hại cùng với công ty. Đây là biểu hiện đặc trưng của tính rủi ro tồn tại
ở chứng khoán như đã phân tích.
Về mặt nội dung thì một cổ phiếu cần có những nội dung chủ yếu sau đây: Tên, địa
chỉ trụ sở chính của công ty; số và ngày cấp chứng nhận đăng ký kinh doanh; số lượng
cổ phần và loại cổ phần; mệnh giá mỗi cổ phần và tổng mệnh giá số cổ phần ghi trên
cổ phiếu; chữ ký mẩu của người đại diện theo pháp luật và con dấu của công ty và một
số nội dung khác theo quy định đối với từng lợi cổ phiếu cụ thể.
- Đặc điểm: người nắm giữ chúng được quyền chuyển nhượng, tặng cho hoặc thực
hiện một số giao dịch khác theo quy định của pháp luật chứng khoán; được quyền
nhận cổ tức, đây là đặc điểm đặc trưng của cổ phiếu để phân biệt với các loại chứng
khoán khác. Vì khi sở hữu cổ phiếu người sở hữu sẽ được trả cổ tức theo quy định của
tổ chức phát hành mà sẽ không được hoàn vốn (trừ loại cổ phiếu ưu đãi hoàn lại hoặc
trường hợp tổ chức phát hành bị phá sản, giải thể ); thể hiện quyền sở hữu với công ty
vì bản chất của cổ phiếu là các cổ phần của công ty phát hành (cổ phần là phần vốn
của công ty chia làm nhiều phần bằng nhau) nên sở hữu cổ phần được xem như sở hữu
công ty.
- Phân loại cổ phiếu. Mặc dù pháp luật chứng khoán không phân loại cổ phiếu,
nhưng tuỳ theo mục đích cũng như tính chất của đợt phát hành mà luật Doanh nghiệp
2005 sẽ phân chia cổ phiếu làm năm loại tương ứng với năm loại cổ phần khi phát
8

Khoản 2, Điều 6 Luật Chứng khoán năm 2006

GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương


Trang 6

SVTH: Lê Văn Dũng


Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

hành: bao gồm cổ phiếu phổ thông, cổ phiếu ưu đãi biểu quyết, cổ phiếu ưu đãi cổ tức,
cổ phiếu ưu đãi hoàn lại và cổ phiếu ưu đãi khác9.
Cổ phiếu phổ thông là loại cổ phiếu phổ biến nhất mà hầu hết các công ty cổ
phần khi đủ điều kiện sẽ được quyền phát hành loại cổ phiếu này. Đặc trưng của cổ
phiếu phổ thông là có mệnh giá (giá trị ghi trên bề mặt của chứng từ), có lãi suất
không cố định (tuỳ thuộc vào công ty) không có thời hạn đáo hạn. Cổ phiếu phổ thông
mang lại những quyền lợi sau cho cổ đông: quyền hưởng cổ tức, quyền mua cổ phiếu
mới, được tự do chuyển nhượng cổ phần, quyền tham dự các cuộc họp và bỏ phiếu
trong biểu quyết trong cuộc họp. Ngoài ra khi công ty bị giải thể hoặc phá sản, cổ đông
phổ thông sẽ được nhận một phần tài sản còn lại tương ứng với số cổ phần góp vốn
vào công ty.
Cổ phiếu ưu đãi cổ tức là cổ phiếu được trả cổ tức với mức cao hơn so với mức
cổ tức của cổ phiếu phổ thông hoặc mức ổn định hằng năm. Cổ tức được chia gồm cổ
tức cố định và cổ tức thưởng. Cổ tức cố định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh
của công ty. Mức cổ tức cố định cụ thể và phương thức xác định cổ tức thưởng được
ghi trên cổ phiếu. Ngoài những đặc điểm đó cổ phiếu ưu đãi cổ tức còn mang những
đặc điểm của cổ phiếu phổ thông.
Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết là cổ phiếu mà người nắm giữ chúng có số phiếu
biểu quyết nhiều hơn so với người nắm cổ phiếu phổ thông. Số phiếu biểu quyết của
một cổ phần ưu đãi biểu quyết do điều lệ công ty quy định, và chỉ có tổ chức Chính
phủ uỷ quyền hoặc cổ đông sáng lập mới được quyền nắm giữ cổ phiếu ưu đãi biểu
quyết. Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong vòng ba

năm, kể từ ngày được cấp chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời hạn đó, cổ phần
ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập phải được chuyển đổi thành cổ phiếu phổ
thông. Người sở hữu cổ phiếu ưu đãi biểu quyết sẽ không được phép chuyển nhượng
cho người khác.
Cổ phiếu ưu đãi hoàn lại là cổ phiếu được công ty hoàn lại vốn góp bất cứ khi
nào theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện ghi trên cổ phiếu. Cổ đông
sở hữu cổ phần ưu đãi hoàn lại không có quyền biểu quyết, dự họp Đại hội đồng cổ
đông, hay đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát.
Từ những phân tích trên thấy rằng, mỗi loại cổ phiếu đều có những điểm đặc trưng
giống và khác nhau. Tuỳ vào tính chất cũng như một đích của đợt phát hành, mà nhà
phát hành sẽ quyết định phát hành loại cổ phiếu nào cho phù hợp với tình hình của
công ty và nhu cầu của thị trường. Điểm chung cơ bản của các loại cổ phiếu này là
được quyền tự do chuyển nhượng trên thị trường (trừ cổ phiếu ưu đãi biểu quyết) do
tính chất quan trọng của hai loại cổ phiếu này nên pháp luật đã có một số hạn chế về
9

Khoản 2, khoản 3, Điều 78 Luật Doanh nghiệp năm 2005

GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương

Trang 7

SVTH: Lê Văn Dũng


Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

việc chuyển nhượng đối với chúng. Vì thế, các loại cổ phiếu đó sẽ không được phát
hành ra công chúng, nên sẽ không hiện diện trên thị trường chứng khoán. Do đó, các
loại cổ phiếu được giao dịch trên thị trường chứng khoán, có thể được dùng để cầm cố

nhằm bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ.
1.1.2.2. Trái phiếu
Trái phiếu, là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở
hữu một phần vốn nợ của tổ chức phát hành10. Khác với cổ phiếu, trái phiếu là một
chứng nhận chịu lãi do Chính phủ hay doanh nghiệp phát hành, cam kết trả cho người
sở hữu trái phiếu một số tiền vốn và lãi nhất định vào một thời gian nhất định, trái
phiếu là phương tiện huy động vốn phổ biến và có bản chất như một khoản vay.
Một trái phiếu phải bao gồm các nội dung: mệnh giá trái phiếu, là giá trị danh
nghĩa của một trái phiếu được ghi trên tờ phiếu, đại diện cho số vốn gốc được hoàn trả
cho trái chủ tại thời điểm đáo hạn. Theo luật chứng khoán, thì mệnh giá trái phiếu
được ấn định là một trăm nghìn đồng Việt Nam và các mệnh giá khác là bội số của
100.000 đồng; lãi suất danh nghĩa, là lãi suất được ghi trực tiếp lên trái phiếu hoặc do
người phát hành công bố, lãi suất này được xác định theo tỷ lệ phần trăm so với mệnh
giá của trái phiếu và cũng là căn cứ để xác định lợi tức của trái phiếu; thời hạn của trái
phiếu, là khoản thời gian từ ngày phát hành đến ngày người phát hành hoàn trả tiền
vốn lần cuối, ngày mà khoản vốn gốc trái phiếu được thanh toán lần cuối được gọi là
ngày đáo hạn của trái phiếu, mỗi loại trái phiếu có thời hạn khác nhau. Trái phiếu
trung hạn có thời hạn từ 1 đến 5 năm, trái phiếu dài hạn có thời hạn từ 5 năm trở lên;
ngoài ra, bên phát hành còn phải đưa ra giá phát hành và kỳ trả lãi để trái phiếu có đủ
điều kiện phát hành trên thị trường.
- Đặc điểm: là một loại giấy nợ do Chính phủ hay doanh nghiệp phát hành nhằm
huy động vốn dài hạn còn gọi là chứng khoán nợ. Tổ chức phát hành trái phiếu để vay
nợ đến ngày đáo hạn sẽ trả vốn và lãi cho trái chủ. Nếu như người mua cổ phiếu của
công ty là người chủ sở hữu một phần công ty thì trái lại, người mua trái phiếu là chủ
nợ của chủ thể phát hành trái phiếu đó; người mua trái phiếu thường được hưởng lãi
suất cố định, không phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh và hoạt động của
công ty (trừ trường hợp trái phiếu có lãi suất thả nổi ); khi công ty bị giải thể hoặc phá
sản, người cầm trái phiếu (trái chủ) được ưu tiên trả nợ trước, sau đó còn lại mới phân
chia cho các cổ đông. Với những đặc điểm trên, trái phiếu là loại chứng khoán có tính
ổn định và chứa đựng mức độ rủi ro có thể nói là ở mức thấp nhất. Vì vậy, trái phiếu là

loại chứng khoán được các nhà đầu tư thích an toàn ưa chuộng.
- Phân loại trái phiếu, căn cứ vào chủ thể phát hành có thể chia trái phiếu ra thành,
trái phiếu Chính phủ và trái phiếu Doanh nghiệp.
10

Khoản 3, Điều 6 Luật Chứng khoán năm 2006

GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương

Trang 8

SVTH: Lê Văn Dũng


Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

Trái phiếu Chính phủ là những trái phiếu do Chính phủ phát hành nhằm mục
đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho công trình công ích, hoặc làm công cụ điều
tiết tiền tệ. Khác với trái phiếu và cổ phiếu của công ty, việc phát hành trái phiếu
Chính phủ không phải xin phép Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và cũng không cần
thoả mãn điều kiện phát hành trái phiếu của luật Chứng khoán 2006, mà chỉ tuân theo
các quy định của Chính phủ mà thôi. Nhưng một khi trái phiếu được đưa vào giao dịch
trên thị trường chứng khoán thì phải tuân theo những quy định về giao dịch chứng
khoán mà pháp luật về chứng khoán đã quy định. Trái phiếu Chính phủ là loại chứng
khoán có rủi ro thấp nhất trong các loại chứng khoán, có tính thanh toán và tính thanh
khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi suất của trái phiếu Chính phủ được xem là lãi suất
chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất của công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn…
Trái phiếu doanh nghiệp trái phiếu do các doanh nghiệp phát hành để vay vốn
dài hạn. Loại trái phiếu này mang đầy đủ đặc điểm của một loại chứng khoán nợ như
trên đã phân tích. Chỉ khác ở chỗ do Doanh nghiệp phát hành đồng thời việc phát hành

ra công chúng phải xin phép Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và phải tuân thủ quy định
của luật Chứng khoán.
Bên cạnh đó, nếu căn cứ vào thời hạn thì ta có trái phiếu một năm, ba năm, vô thời
hạn…; căn cứ vào lợi tức trái phiếu có trái phiếu có lợi tức cố định, trái phiếu có lợi
tức thả nổi hoặc trái phiếu có lợi tức bằng không; dựa vào tính có thể chuyển đổi có
thể phân thành trái phiếu có thể chuyển đổi hoặc không thể chuyển đổi thành cổ phiếu
phổ thông; người ta còn căn cứ vào có ghi danh hay không ghi danh để phân thành trái
phiếu có ghi danh và trái phiếu không ghi danh. Song về cơ bản trái phiếu được chia
thành hai loại đó là trái phiếu Chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp.
Không giống như cổ phiếu, trái phiếu là loại giấy tờ có giá đơn giản và có tính ổn
định hơn. Chính điều nay đã khiến các giao dịch liên quan đến trái phiếu (bao gồm trái
phiếu Chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp) hầu hết đều được luật cho phép, nên việc
cầm cố để bảo đảm cho nghĩa việc thực hiện nghĩa vụ cũng không bị loại trừ, tuy nhiên
phải đảm bảo được các điều kiện niêm yết và lưu ký.
1.1.2.3. Chứng chỉ quỹ
Chứng chỉ quỹ, là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư, đối với
một phần vốn góp của quỹ đại chúng11. Quỹ đại chúng là quỹ đầu tư chứng khoán thực
hiện chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng. Quỹ được hình thành từ vốn góp của nhà
đầu tư, với mục đích kiếm lợi nhuận từ việc đa dạng hoá đầu tư vào chứng khoán hoặc
các dạng tài sản đầu tư khác nhau nhằm phân tán rủi ro, trong đó nhà đầu tư không có
quyền kiểm soát hàng ngày đối với việc ra quyết định đầu tư của quỹ. Người sở hữu
chứng chỉ quỹ sẽ thu được lợi theo ba cách: thứ nhất là nhận cổ tức từ việc đầu tư,
11

Khoản 4, Điều 6 Luật Chứng khoán năm 2006

GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương

Trang 9


SVTH: Lê Văn Dũng


Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

khoản cổ tức này được chi trả từ số thu nhập của các khoản đầu tư của quỹ; thứ hai,
nhận được khoản lợi vốn khi nhà quản lý quỹ bán ra một phần trong danh mục đầu tư
của quỹ để thu lợi nhuận; thứ ba, được hưởng lợi từ những thay đổi có lợi từ thị
trường.
Về bản chất, việc đầu tư chứng chỉ quỹ đem lại những quyền lợi cho nhà đầu tư
tương tự như việc sở hữu cổ phiếu như: là bằng chứng xác nhận quyền sở hữu, hưởng
lợi nhuận trên phạm vi cổ phần vốn góp và đặc biệt là chứng chỉ quỹ cũng được niêm
yết trên thị trường chứng khoán để mua bán giữa các nhà đầu tư. Song vẫn có một số
điểm khác nhau giữa chứng chỉ quỹ và cổ phiếu là, cổ phiếu một phương tiện đầu tư
vào một công ty kinh doanh cụ thể, còn chứng chỉ quỹ là phương tiện để thành lập quỹ
đầu tư chứng khoán, nếu người sở hữu cổ phiếu phổ thông có quyền biểu quyết thì nhà
đầu tư sở hữu chứng chỉ quỹ không có quyền tương tự, vì lẽ đó người sở hữu chứng
chỉ quỹ không bị hạn chế thực hiện bất kỳ một giao dịch nào cả, trong đó có việc đem
chứng khoán cầm cố cho các TCTD.
Niêm yết chứng khoán
Để chứng khoán có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật, đồng thời được
giao dịch chính thức trên các sàn giao dịch chứng khoán tập trung. Thì một điều tất
yếu mà các nhà phát hành cần phải làm đó là niêm yết chứng khoán. Vậy, niêm yết
chứng khoán là việc đưa các chứng khoán có đủ điều kiện vào giao dịch tại sở giao
dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán12. Việc niêm yết chứng
khoán này chủ yếu để lựa chọn các chứng khoán có chất lượng cao, đưa vào giao dịch
nhằm đảm bảo cho hoạt động giao dịch của các Sở giao dịch hoặc Trung tâm giao dịch
chứng khoán được ổn định, đồng thời nhằm bảo vệ lợi ích và tạo lòng tin cho các nhà
đầu tư trên thị trường chứng khoán.
Sự phân định chứng khoán đã niêm yết và chưa niêm yết có ý nghĩa rất quan trọng

đối với việc thoả thuận cầm cố chứng khoán. Và trong phạm vi đề tài này, việc phân
định chứng khoán niêm yết hay chưa niêm yết sẽ giúp cho người viết xác định được
một cách cụ thể hơn về hình thức, nội dung cũng như là cách thức để thực hiện hợp
đồng cầm cố chứng khoán. Theo Luật định, thì tất cả các loại chứng khoán một khi đã
được niêm yết sẽ được đưa vào Trung tâm Lưu ký Chứng khoán để lưu giữ và thanh
toán. Nên khi thực hiện việc cầm cố chứng khoán đã niêm yết, cần phải đảm bảo các
điều kiện về lưu ký chứng khoán khi cầm cố.
1.2. Các chủ thể có liên quan đến hợp đồng cầm cố chứng khoán
1.2.1.Trung tâm Lưu ký Chứng khoán
Nói đến việc đăng ký chứng khoán, lưu ký chứng khoán, bù trừ và thanh toán các
giao dịch chứng khoán là nói đến dịch vụ hỗ trợ trên thị trường chứng khoán. Người
12

Khoản 17, Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006

GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương

Trang 10

SVTH: Lê Văn Dũng


Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

đầu tư trong trường hợp này có thể đặc cách câu hỏi tại sao lại phải cần đến dịch vụ
này trong khi họ có thể tự bảo quản lấy chứng khoán của mình, tìm gặp nhau để thực
hiện các giao dịch, rồi sau đó tự thanh toán với nhau ?
Câu trả lời ở đây là “hình thức giao dịch chứng khoán” đã quyết định vấn đề này.
Việc giao dịch, thanh toán như trên chỉ thực hiện được với các giao dịch tự phát, trực
tiếp diễn ra giữa hai bên giao dịch là chủ yếu, tính an toàn trong giao dịch thấp, luôn

tìm ẩn những nguy cơ không thực hiện nghĩa vụ khi thị trường có biến động. Trong
khi đó, giao dịch chứng khoán tại các sở giao dịch chứng khoán (thị trường tập trung)
đều là hình thức giao dịch có tổ chức giữa nhiều bên mua bán với nhau. Để luôn đảm
bảo nghĩa vụ được thực hiện cũng như sự an toàn cho tất cả các bên tham gia giao
dịch, giảm thiểu chi phí giao dịch, hình thức giao dịch có tổ chức, đòi hỏi việc thanh
toán và chuyển giao chứng khoán cũng phải được thực hiện một cách có tổ chức.
Để làm được điều này, chứng khoán niêm yết hay đăng ký giao dịch trên thị trường
chứng khoán cần phải được lưu giữ tập trung và bất động hoá ở một nơi. Chính đòi hỏi
này đã dẫn đến sự ra đời của loại hình dịch vụ là đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán
chứng khoán để hỗ trợ cho việc thực hiện và hoàn tất các giao dịch chứng khoán trên
thị trường giao dịch chứng khoán có tổ chức. Sự xuất hiện của loại hình dịch vụ này
cũng đã kéo theo sự ra đời của các tổ chức chuyên cung ứng và thực hiện dịch vụ đăng
ký, lưu ký chứng khoán, bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán. Đó là các
ngân hàng lưu ký (ngân hàng thương mại được phép hoạt động lưu ký chứng khoán),
các công ty chứng khoán, được gọi chung là các tổ chức lưu ký, các tổ chức thanh toán
tiền cho các giao dịch chứng khoán là các ngân hàng thanh toán.
Hoạt động của thị trường giao dịch có tổ chức cần một nơi để lưu giữ và quản lý
tập trung các chứng khoán, đồng thời sự hình thành nhiều tổ chức lưu ký cũng đòi hỏi
phải có một tổ chức đóng vai trò là tổ chức lưu ký trung tâm, làm trung gian kết nối
những tổ chức lưu ký này lại với nhau. Những đòi hỏi đó đã dẫn đến sự ra đời của
Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam, theo cách gọi thông thường là Trung tâm
Lưu ký Chứng khoán (TTLKCK), các tổ chức còn lại là thành viên của trung tâm lưu
ký, hay còn gọi là thành viên lưu ký.
Vậy, TTLKCK là pháp nhân được thành lập và hoạt động theo mô hình công ty
trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần13. Chúng có chức năng tổ chức và giám sát
hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán. Ngoài các chức năng
trên, TTLKCK còn đóng vai trò trung gian không thể thiếu trong việc cầm cố chứng
khoán, trên cơ sở bản hợp đồng cầm cố chứng khoán đã được xác lập, TTLKCK thực
hiện việc chuyển khoản số chứng khoán cầm cố từ tài khoản giao dịch, vào tài khoản
cầm cố để bảo đảm việc duy trì tài sản bảo đảm cho bên nhận cầm cố. Khi hợp đồng

13

Điều 42 Luật Chứng khoán năm 2006

GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương

Trang 11

SVTH: Lê Văn Dũng


Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

cầm cố chấm dứt hiệu lực và theo yêu cầu của bên nhận cầm cố, TTLKCK sẽ thực
hiện giải toả số chứng khoán cầm cố để chuyển trả lại cho bên cầm cố.
1.2.2. Tổ chức tín dụng
Định nghĩa
Như đã biết, sự phát triển của một nền kinh tế sẽ không thể thiếu sự hiện diện của
hệ thống ngân hàng, chúng đóng vai trò trung gian rất quan trọng thúc đẩy quá trình
sản xuất xã hội gia tăng, kiểm soát lạm phát và thực hiện cấp phát tín dụng… Trong đó
các Tổ chức tín dụng là một trong những chủ thể đặc trưng của hệ thống ngân hàng,
chuyên thực hiện các hoạt động nói trên. Bằng chứng là các tổ chức này huy động vốn
nhàn rỗi trong công chúng thông qua các hình thức như nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền
gửi chờ thanh toán của chủ tài khoản, phát hành giấy tờ có giá, vay vốn của các Tổ
chức tín dụng thông qua thị trường liên ngân hàng hoặc vay vốn của ngân hàng nhà
nước Việt Nam…Để rồi phân phối nguồn vốn huy động được trở lại trong công chúng
cho những người cần vốn bằng các nghiệp vụ như cho vay, chiết khấu, cầm cố, cho
thuê tài chính.
Chính tầm quan trọng và cấp thiết đó mà đảng và Nhà nước đã giành sự quan tâm
đúng mức cho hoạt động của tổ chức này. Kết quả là năm 1997 đã ban hành luật ngân

hàng Nhà Nước và luật các Tổ chức tín dụng, để ngày một hoàn thiện hơn cho phù hợp
với tình hình của đất nước, đến năm 2004 luật các Tổ chức tín dụng lại được sửa đổi
bổ sung. Theo đó thì Tổ chức tín dụng (TCTD) là một doanh nghiệp được thành lập
theo luật các TCTD và các quy định khác của pháp luật để thực hiện hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với một nội dung thường xuyên nhận tiền gửi, sử
dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán14. Song, trong quá
trình thực hiện đề tài thì Quốc hội đã ban hành luật các TCTD năm 2010 thay thế luật
các TCTD năm 1997. Tuy nhiên, đến ngày 01 tháng 01 năm 2011 các Luật này mới có
hiệu lực thi hành, nên người viết sẽ cập nhật các phần có liên quan đến đề tài để làm rõ
hơn các nội dung cần thiết.
Về định nghĩa TCTD thì Luật mới năm 2010 cũng không có gì khác biệt so với
Luật năm 1997, nhưng có điểm mới ở đây là luật các Tổ chức tín dụng năm 2010
không dùng biện pháp liệt kê các hoạt động của TCTD như luật năm 1997, mà chỉ đưa
các yếu tố đặc trưng của TCTD, đồng thời cũng có nêu lên được các loại hình TCTD.
Như vậy, TCTD là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động
ngân hàng. TCTD bao gồm ngân hàng, TCTD phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô
và quỹ tín dụng nhân dân15.

14
15

Khoản 1, Điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997
Khoản 1, Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010

GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương

Trang 12

SVTH: Lê Văn Dũng



Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

Đặc điểm
- TCTD là một doanh nghiệp: Vì nó hội đủ các điều kiện của một doanh nghiệp
độc lập (có tài sản, tên riêng, trụ sở giao dịch và có đăng ký kinh doanh…)
- TCTD là một pháp nhân: do có đủ các dấu hiệu của một pháp nhân theo quy định
tại Điều 94 BLDS hiện hành như: được cơ quan nhà nước cấp giấy phép thành lập; có
cơ cấu chặt chẽ; có tài sản độc lập và nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật
một cách độc lập.
- Đây là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, vừa phải thành lập và hoạt động theo
luật các TCTD, mặt khác tuỳ thuộc vào các loại hình TCTD còn phải tuân theo những
quy định pháp luật có liên quan như luật Doanh nghiệp, luật Đầu tư, luật Hợp tác xã…
- TCTD là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ và cung ứng dịch vụ ngân hàng. Có thể
nói đây là đặc trưng cơ bản của chúng vì đối tượng kinh doanh trực tiếp của các TCTD
là tiền tệ. Bởi vì, hoạt động kinh doanh chính, chủ yếu, thường xuyên và mang tính
chất nghề nghiệp, mang lại thu nhập chính cho TCTD là hoạt động ngân hàng. Các
TCTD hoạt động kinh doanh chủ yếu theo phương thức nhận tiền gửi, sử dụng tiền gửi
để cấp tín dụng, cho vay lại, cung cấp các dịch vụ thanh toán. Đây là dấu hiệu cơ bản
để phân biệt doanh nghiệp TCTD với các loại hình doanh nghiệp khác .
- TCTD là doanh nghiệp chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam còn là cơ quan cấp, thu hồi giấy phép thành
lập của tổ chức tín dụng…Qua đó ta thấy rằng mặc dù có tư cách độc lập, nhưng do
hoạt động tín dụng là hoạt động thiết yếu có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế. Vì vậy,
cần phải có sự theo dõi và giám sát chặt chẽ của Ngân hàng Nhà nước đối với các hoạt
động của các TCTD nhằm giúp đỡ, khắc phục cũng như ngăn chặn những sự cố xảy ra
làm ảnh hưởng tới nền kinh tế đất nước.
Tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động cầm cố chứng khoán.
Căn cứ vào phạm vi được thực hiện các hoạt động ngân hàng, các TCTD được
phân biệt thành TCTD là ngân hàng và TCTD phi ngân hàng.

- TCTD là ngân hàng: bao gồm các loại hình như ngân hàng thương mại, ngân
hàng đầu tư và phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác, ngân hàng liên
doanh, chi nhánh ngân hàng ở nước ngoài và văn phòng đại diện của TCTD ở nước
ngoài16. Tất cả các tổ chức này được thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng theo
quy định của luật các TCTD, và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan tới hoạt
động nhận tiền gửi, sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh
toán (phát hành trái phiếu, thực hiện các nghiệp vụ tài chính như tham gia mua cổ
phiếu của các công ty hoặc thành lập công ty cổ phần…).

16

Khoản 2, Điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997

GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương

Trang 13

SVTH: Lê Văn Dũng


Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

Song, tuỳ vào tính chất cũng như mục tiêu hoạt động, mà các TCTD là ngân hàng
sẽ thực hiện những chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Như ngân hàng chính sách thì
thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của Nhà nước (xoá đói giảm nghèo, cho vay hỗ
trợ xuất khẩu lao động...); ngân hàng hợp tác xã thì lợi nhuận không là mục tiêu chính,
mà việc thành lập chủ yếu để cấp tín dụng cho các thành viên với nhau; ngân hàng đầu
tư và phát triển thì chủ yếu để cấp tín dụng cho các dự án, công trình đầu tư phát triển
kinh tế là chính, rất hạn chế việc cho vay đối với các nhu cầu vốn không phải để đầu tư
cho công trình dự án.

Do vậy, đối với các ngân hàng mà mục tiêu là lợi nhuận đặc lên trên hết như các
ngân hàng thương mại, thì họ không ngần ngại thực hiện hoạt động cấp tín dụng cho
mọi chủ thể trong xã hội bằng những hình thức khác nhau như cho vay thế chấp hoặc
cầm cố, trong số các hình thức cấp tín dụng đó có hình thức cho vay cầm cố chứng
khoán. Chính vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu này ta sẽ tìm hiểu về hợp đồng cầm cố
chứng khoán của các ngân hàng thương mại là chủ yếu.
Ngân hàng thương mại, là ngân hàng chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất, đặc biệt là về tín dụng (cho vay có bảo đảm bằng các biện pháp cầm cố, thế
chấp), nhận tiền gửi tiết kiệm, và các dịch vụ thanh toán, cụ thể là: cất, giữ, mua bán,
chuyển nhượng, quản lý các chứng khoán và giấy tờ có giá, cho thuê động sản và bất
động sản, thực hiện các nghiệp vụ về vàng, kim khí quý…lợi nhuận là mục tiêu chủ
yếu, hàng đầu của các ngân hàng thương mại17. Vì thế việc cho vay cầm cố chứng
khoán tuy rủi ro luôn thường trực do nhiều yếu tố khác nhau, nhưng họ vẫn thực hiện
vì mục đích lợi nhuận.
- TCTD phi ngân hàng chủ yếu được thành lập để đầu tư hoặc cho thuê tài chính,
việc thực hiện các dịch vụ cấp tín dụng cũng như thanh toán là rất hạn chế18. Ngoài ra,
theo quy định của luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 thì TCTD còn bao gồm các tổ
chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân, nhưng các loại hình TCTD này được
thành lập chủ yếu đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình hoặc giữa các pháp
nhân với nhau, nhằm mục đích tương trợ nhau trong qua trình kinh doanh. Nên việc đi
sâu tìm hiểu các loại hình TCTD này trở nên không cần thiết cho đề tài nghiên cứu của
người viết.
Nói tóm lại, các TCTD là các ngân hàng thương mại được quyền thực hiện tất cả
các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, trong đó có hình thức cho vay bằng cầm cố chứng
khoán. Nên trong đề tài này các TCTD thực hiện việc nhận cầm cố chứng khoán chính
là các ngân hàng thương mại. Do đó, trong quá trình nghiên cứu việc gọi bên nhận
cầm cố là các TCTD hay các ngân hàng thương mại được xem là như nhau.
17
18


Khoản 3, Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010
Khoản 3, Điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997

GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương

Trang 14

SVTH: Lê Văn Dũng


Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

1.2.3. Sở hữu chứng khoán
Trong bất cứ một chế độ xã hội nào cũng tồn tại một cách thức nhất định về việc
chiếm hữu, làm chủ của cải vật chất của con người. Mối quan hệ giữa người với người
trong quá trình chiếm hữu của cải vật chất đó làm phát sinh các quan hệ sở hữu. Các
quan hệ sở hữu này tồn tại một cách khách quan cùng với sự phát triển của xã hội. Khi
nhà nước và pháp luật ra đời, địa vị của giai cấp thống trị trong việc phân phối của cải
vật chất trong xã hội đã được ghi nhận bằng những quyền năng hạn chế mà nhà nước
trao cho người đang chiếm hữu của cải vật chất đó. Lúc này, các quan hệ sở hữu đã
được điều chỉnh bằng pháp luật và hình thành nên quyền sở hữu của các chủ thể có tài
sản.
Dần phát triển cho đến ngày nay, chế định về quyền sở hữu tài sản đã không ngừng
được hoàn thiện hơn bởi các quy định của pháp luật. Theo đó, quyền sở hữu bao gồm
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy
định của pháp luật, quy định còn nêu ra chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể
khác có đủ ba quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt19.
Vậy trong trường hợp này, Luật quy định rằng để đủ tư cách là chủ sở hữu của một
tài sản, thì chủ thể đó phải có đủ ba quyền như trên chứ không hạn chế chủ thể đó là ai.
Nên chủ thể của quyền sở hữu ở đây có thể là các nhân hoặc tổ chức (có hoặc không

có tư cách pháp nhân). Tuy nhiên, vẫn có một số ngoại lệ nhất định về quyền sở hữu,
như một chủ thể nào đó mặc dù có quyền sở hữu nhưng không có quyền định đoạt (cổ
đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho
người khác) hoặc là tuy có quyền sở hữu nhưng không có quyền sử dụng hoặc định
đoạt (do việc sử dụng hay định đoạt đó sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của nhà
nước, lợi ích công cộng, hoặc quyền lợi ích của người khác mà việc bảo vệ những
quyền lợi này hoàn toàn cần thiết và hợp lý) vậy suy cho cùng, sẽ có trường hợp một
chủ thể không có đủ ba quyền nhưng vẫn được coi là chủ sở hữu của một tài sản.
1.2.3.1. Quyền sở hữu đối với chứng khoán
Chứng khoán, một loại tài sản vô hình nhưng xét về bản chất chung, cũng là một
loại tài sản mà thôi. Nên khi xác định quyền sở hữu đối với chứng khoán, thì ngoài
việc áp dụng nhưng quy định của luật Chứng khoán 2006, thì còn phải căn cứ vào
những quy định của BLDS hiện hành về quyền sở hữu tài sản để giải quyết.
- Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản20. Việc chiếm hữu ở đây phải
ngay tình và hợp pháp, thông qua đó chủ thể được xem là chủ sở hữu sẽ giữ vật trong
phạm vi kiểm soát vật chất của mình, nhưng không nhất thiết phải nằm trong tay chủ
sở hữu theo nghĩa đen, mà chỉ cần vật được đặt dưới quyền năng kiểm soát vật chất
19
20

Điều 164 Bộ luật Dân sự 2005
Điều 182 Bộ luật Dân sự 2005

GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương

Trang 15

SVTH: Lê Văn Dũng



Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

tiềm tàng của chủ sở hữu. Nói một cách tổng quát rằng, trong trường hợp tự mình nắm
giữ, quản lý tài sản thì chủ sở hữu có quyền chiếm hữu theo nghĩa đầy đủ, còn trong
trường hợp tài sản được giao cho người khác nắm giữ (chứng khoán được lưu ký ở
TTLKCK) thì chủ sở hữu chỉ được coi là chiếm hữu khi thực hiện quyền kiểm soát
chứng khoán của mình trong quá trình lưu ký ở TTLKCK. Thêm vào đó với tính vô
hình của chứng khoán, thì quyền chiếm hữu đặt ra ở đây là rất trừu tượng và không thể
xảy ra. Vì trên thực tế giá trị thực của chứng khoán không tồn tại ở một dạng vật chất
nào cả, và sự kiểm soát cũng như quản lý chứng khoán chỉ được thực hiện thông qua
các tài khoản lưu giữ chúng, và đây được xem là một hình thức chiếm hữu đối với
chứng khoán.
- Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản21.
Chứng khoán với đặc điểm là tài sản vô hình, nên việc khai thác công dụng để sinh lời
dường như không thể có được như một tài sản hữu hình. Mà người sở hữu chứng
khoán chỉ thực hiện quyền sử dụng của mình thông qua việc nhận lợi tức (cổ tức) từ
chủ thể phát hành chi trả theo thoả thuận.
- Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở
hữu đó22, ngoài ra chủ sở hữu còn định đoạt tài sản bằng cách (tặng cho, trao đổi, góp
vốn kinh doanh…). Quyền định đoạt có thể bị hạn chế nếu như việc thực hiện quyền
đó có xung đột với lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng hoặc quyền và lợi ích của
người khác23. Một người với tư cách là chủ sở hữu của chứng khoán thì cũng đương
nhiên có được quyền định đoạt này. Song nếu như việc định đoạt chứng khoán đó có
ảnh hưởng đến lợi ích của công ty, lợi ích của các cổ đông khác hoặc việc định đoạt
với mục đích giúp người khác thâu tóm công ty thì trong trường hợp này có thể sẽ bị
hạn chế quyền định đoạt.
1.2.3.2. Người sở hữu chứng khoán
Trong nền kinh tế, chứng khoán được xem là một công cụ tài chính hữu hiệu, để
nhà phát hành có thể huy động vốn và người sở hữu chúng có thể kiếm lời từ việc
nhận cổ tức. Tuy nhiên, không phải bất kỳ ai cũng có thể trở thành chủ sở hữu của

chứng khoán, mà chỉ có các nhà đầu tư những người tham gia giao dịch mua bán
chứng khoán hoặc đầu tư kinh doanh chứng khoán trên thị trường mới được xem là
chủ sở hữu của loại tài sản này.
Về nguyên tắc để xác định được ai là chủ sở hữu của chứng khoán trên thị trường
chứng khoán thì ta chỉ việc căn cứ vào hai thị trường chính của chứng khoán là: thị
trường sơ cấp, nơi mua bán các chứng khoán mới phát hành, theo đó vốn từ nhà đầu tư
sẽ chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua chứng khoán và trở
21

Điều 192 Bộ luật Dân sụ 2005
Điều 195 Bộ luật Dân sự 2005
23
Điều 199 Bộ luật Dân sự 2005
22

GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương

Trang 16

SVTH: Lê Văn Dũng


Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

thành chủ sở hữu của chứng khoán đó; thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng
khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp, tiền và chứng khoán giao dịch được
chuyển qua lại giữa các nhà đầu tư với nhau. Thông qua hai thị trường chứng khoán
này, có thể rút ra một kết luận rằng chủ sở hữu chứng khoán trên thị trường duy nhất
chỉ có nhà đầu tư chứng khoán, đồng thời người sở hữu chứng khoán sẽ có tên ghi trên
sổ đăng ký chứng khoán tại TTLKCK (sổ đăng ký người sở hữu chứng khoán là sổ ghi

chép thông tin về người sở hữu chứng khoán do tổ chức phát hành lập và đăng ký với
TTLKCK)24. Mặc dù thị trường sơ cấp có đề cập đến nhà phát hành, nhưng chủ thể
này chỉ được xem là tổ chức thực hiện việc huy động vốn mà thôi, chứ không nhằm
mục đích sở hữu chứng khoán để đem lại lợi nhuận cho chính họ.
Người sở hữu chứng khoán là nhà đầu tư trong trường hợp này bao gồm hai loại:
nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán chứng
khoán trên thị trường nhằm mục đích kiếm lời; nhà đầu tư là tổ chức được thành lập
dưới các loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần có đội ngũ nhân
viên chuyên nghiệp và lành nghề thực hiện việc đa dạng hoá các hình thức đầu tư
nhằm phân tán rủi ro và mang lại lợi nhuận tối đa.
- Người sở hữu chứng khoán là nhà đầu tư cá nhân, người sở hữu chứng khoán
trong trường hợp nay sẽ có quyền tự mình quyết định các hình thức đầu tư hay định
đoạt chứng khoán mà không phải thông qua bất cứ ai. Nên khi nhà đầu tư là cá nhân
thực hiện việc cầm cố chứng khoán ở các TCTD thì họ cũng tự mình định định đoạt và
thực hiện, đồng thời sẽ đóng vai trò là một bên của hợp đồng cầm cố chứng khoán.
- Người sở hữu chứng khoán là nhà đầu tư tổ chức, đối với nhà đầu tư là tổ chức,
khi quyết định đầu tư hay thực hiện bất cứ một dịch vụ nào đó về chứng khoán, thì
phải thông qua một hình thức nhất định và hình thức này được quyết định bởi loại hình
hoạt động của nhà đầu tư đó. Vì quyền sở hữu chứng khoán của nhà đầu tư là tổ chức
thuộc về các thành viên hoặc cổ đông của tổ chức. Mặc dù, quyền sở hữu chứng khoán
ở đây thuộc về tất cả các thành viên hoặc cổ đông của của tổ chức, nhưng họ không thể
tự mình thực hiện được quyền sở hữu một cách độc lập được, mà trong trường hợp này
quyền của chủ sở hữu được thực hiện thông qua cơ quan đại diện quản lý của tổ chức
đó. Cho nên, khi nhà đầu tư là tổ chức thực hiện việc cầm cố chứng khoán thì cơ quan
đại diện hợp pháp của tổ chức đó sẽ trở thành chủ thể của hợp đồng cầm cố, với vai trò
là một bên của hợp đồng cầm cố.

24
Khoản 3, khoản 4, Điều 2 Quyết định 87/2007/QĐ-BTC về việc ban hành quy chế đăng ký, lưu ký, bù trừ và
thanh toán chứng khoán


GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương

Trang 17

SVTH: Lê Văn Dũng


Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

1.3. Khái niệm hợp đồng cầm cố chứng khoán
1.3.1. Định nghĩa
Cũng là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dưới hình thức cầm cố, hợp
đồng cầm cố chứng khoán là một loại quan hệ nghĩa vụ dân sự, được xác lập nhằm bảo
đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ chính (nghĩa vụ trả tiền vay) được xác lập trước đó.
Nhưng do chứng khoán là tài sản thuộc loại giấy tờ có giá, đồng thời chúng được điều
chỉnh bởi một ngành luật độc lập. Nên khi nghiên cứu một hợp đồng dân sự có tính
chất đặc trưng như thế, thì ngoài việc căn cứ vào những quy định chung về cầm cố tài
sản của BLDS 2005, còn phải dựa vào các quan hệ pháp luật chuyên ngành và các văn
bản pháp luật có liên quan, để có thể tiếp cận vấn đề một cách toàn diện hơn.
Đầu tiên, nên hiểu khái niệm cầm cố chứng khoán là gì? Mục đích của việc cầm cố
chứng khoán để làm gì? Từ đó sẽ có cách nhìn khái quát hơn về hợp đồng cầm cố
chứng khoán. Cầm cố chứng khoán là việc các Ngân hàng thương mại, cho nhà đầu tư
vay tiền để đầu tư chứng khoán với tài sản cầm cố là chứng khoán do nhà đầu tư sở
hữu. Đây thực chất là một dạng quan hệ hợp đồng làm phát sinh quan hệ cầm cố giữa
bên cầm cố (nhà đầu tư) và bên nhận cầm cố (các ngân hàng). Căn cứ vào quy định
của BLDS 2005 về hợp đồng cầm cố tài sản, theo đó hợp đồng cầm cố chứng khoán là
việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao chứng khoán thuộc quyền sở hữu của
mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Tuy nhiên, hợp đồng cầm cố chứng khoán ở đây là hợp đồng cầm cố các loại

chứng khoán đã niêm yết và được lưu ký ở TTLKCK. Nên trong trường hợp này nếu
như nhà đầu tư (bên cầm cố) và các ngân hàng thương mại (bên nhận cầm cố) đều
không đồng thời là thành viên lưu ký trực thuộc TTLKCK chứng khoán, thì khi tiến
hành việc cầm cố chứng khoán, các bên phải uỷ quyền cho các thành viên lưu ký thực
hiện việc giao và nhận chứng khoán cầm cố (do họ không được phép nắm giữ cũng
như lưu ký chứng khoán), việc uỷ quyền này phải được quy định trong hợp đồng cầm
cố giữa các bên25 . Ngược lại, nếu như bên cầm cố và bên nhận cầm cố trong hợp đồng
cầm cố chứng khoán đều đồng thời là thành viên lưu ký chứng khoán, thì họ sẽ tự
mình thực hiện việc cầm cố chứng khoán, trong đó có việc giao và nhận chứng khoán
cầm cố.
1.3.2. Đặc điểm
Tương tự như hợp đồng cầm cố tài sản, hợp đồng cầm cố chứng khoán cũng là một
biện pháp bảo đảm nghĩa vụ đối vật, bên cầm cố phải giao chứng khoán cho bên nhận
cầm cố, đồng thời bên nhận cầm cố chứng khoán cũng có quyền xử lý chứng khoán
cầm cố khi đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ chính mà bên cầm cố không thực hiện. Bên
25
Khoản 2, Điều 31 Quyết định 87/2007/QĐ-BTC ngày 22 tháng 10 năm 2007, về việc ban hành quy chế đăng
ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán.

GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương

Trang 18

SVTH: Lê Văn Dũng


Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

cạnh đó, thì hợp đồng cầm cố chứng khoán vẫn có một số đặc điểm đặc trưng riêng
như:

- Nghĩa vụ được bảo đảm trong hợp đồng cầm cố chứng khoán là nghĩa vụ trả tiền
vay ở các TCTD, theo quy định tại Quyết định 03 năm 2008 thì hợp đồng cầm cố
chứng khoán trong trường hợp này, là nhằm để bảo đảm cho một nghĩa vụ duy nhất
chính là nghĩa vụ trả tiền vay của bên vay tiền với mục đích đầu tư chứng khoán.
Không giống như một hợp đồng cầm cố tài sản đơn thuần, có thể xác lập để bảo đảm
cho một nghĩa vụ bất kỳ khi có nghĩa vụ phát sinh cần được bảo đảm.
- Trong hợp đồng cầm cố chứng khoán luôn có sự tham gia của các thành viên lưu
ký chứng khoán, họ tham gia với tư cách là chủ thể của hợp đồng nhân danh cho chính
mình để thực hiện việc cầm cố hay nhận cầm cố chứng khoán hoặc tham gia với tư
cách được đại diện theo uỷ quyền của các bên trong hợp đồng cầm cố chứng khoán để
thực hiện việc chuyển giao hoặc nhận chứng khoán cầm cố.
Sự hiện diện của thành viên lưu ký chứng khoán trong hợp đồng cầm cố chứng
khoán là hoàn toàn hợp lý, bởi lẽ các thành viên lưu ký vốn là nơi nhà đầu tư đăng ký
lưu ký và thực hiện các dịch vụ thanh toán chứng khoán, lẽ dĩ nhiên họ sẽ biết được rõ
hơn cách thức cũng như đặc điểm của từng loại chứng khoán, từ đó sẽ đưa ra những
nhận định đúng đắn hơn về chứng khoán cầm cố, như việc định giá, thời hạn cầm cố
hoặc giải toả chứng khoán cầm cố. Thêm vào đó, thành viên lưu ký là tổ chức được
thành lập và thực hiện hoạt động lưu ký chứng khoán, nên khi cầm cố hoặc đại diện
cho bên cầm cố thực hiện cầm cố chứng khoán, sẽ thuận lợi hơn trong việc chuyển
giao hay nhận chứng khoán cầm cố.
- Tài sản cầm cố là chứng khoán, một loại tài sản vô hình, mặc dù chúng hiện diện
dưới một tờ cổ phiếu hay trái phiếu, nhưng như phân tích ở phần đặc điểm của chứng
khoán, thì sự hiện diện của các hình thức vật chất đó chỉ được xem là một bằng chứng
xác nhận sự tồn tại của chứng khoán trên thực tế mà thôi, chứ việc tồn tại vật chất đó
không được xem là tài sản. Chính vì vậy, việc chuyển giao chứng khoán cầm cố cũng
được thực hiện một cách vô hình, thông qua các tài khoản được mở tại TTLKCK
thông qua các thành viên lưu ký.
- Bên giữ tài sản ở đây không phải là bên nhận cầm cố, mà là TTLKCK thông qua
các thành viên lưu ký. Vì là hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết, nên chứng
khoán phải được lưu ký tập trung ở TTLKCK theo quy định của LCK. Trên cơ sở hợp

đồng cầm cố chứng khoán của các bên, thành viên lưu ký bên cầm cố sẽ nộp hồ sơ cho
TTLKCK yếu cầu chuyển khoản cầm cố chứng khoán của bên cầm cố, kèm theo đó là
bảng kê chứng khoán cầm cố có xác nhận của bên nhận cầm cố. Sau khi xem xét tính
hợp lệ của hồ sơ, TTLKCK sẽ thực hiện việc chuyển chứng khoán cầm cố vào tài
khoản chứng khoán cầm cố để lưu giữ.
GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương

Trang 19

SVTH: Lê Văn Dũng


Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

1.3.3. Cầm cố chứng khoán để thực hiện nhiều nghĩa vụ
Như đã phân tích ở phần cầm cố tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, thì
một tài sản chỉ có thể dùng đê bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ khi giá trị của chúng tại
thời điểm xác lập giao dịch lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, đồng thời
các nghĩa vụ được bảo đảm đó phải được thực hiện trên cùng một người. Vì bản chất
của cầm cố là chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố, nên một tài sản cùng lúc
không thể chuyển giao một tài sản cho hai người.
Vậy liệu có thể cầm cố chứng khoán để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ không?
Đối với chứng khoán, là tài sản có thể phân chia nhỏ giá trị, do có giá trị độc lập theo
từng đơn vị cụ thể, khi cần bảo đảm cho một nghĩa vụ có giá trị lớn thì chỉ việc dùng
nhiều chứng khoán để bảo đảm, ngược lại chỉ cần dùng một số lượng chứng khoán vừa
đủ để bảo đảm mà thôi. Bên cạnh đó, khi nhận cầm cố bằng chứng khoán thì các
TCTD sẽ tiến hành thẩm định giá chứng khoán, để yêu cầu bên bảo đảm đưa một số
lượng chứng khoán tương ứng với nghĩa vụ cần được bảo đảm. Còn bên bảo đảm sẽ
không dại gì dùng một số lượng chứng khoán có giá trị lớn để bảo đảm cho một nghĩa
vụ nhỏ hơn, vì khi đưa vào cầm cố chứng khoán đó sẽ bị phong tỏa và không thể giao

vụch trên thị trường.
Ngoài ra, việc cầm cố chứng khoán theo quyết định 03 trong phạm vi nghiên cứu
của đề tài này, chỉ để bảo đảm cho nghĩa vụ trả tiền vay ở các TCTD, chứ không nhằm
mục đích bảo đảm cho một nghĩa vụ nào khác nên vấn đề cầm cố chứng khoán để bảo
đảm cho nhiều nghĩa vụ khác nhau cũng không được đặt ra.
Sẽ có một trường hợp duy nhất phát sinh, là tại thời điểm định giá chứng khoán để
cầm cố giá của chứng khoán còn thấp, tuy nhiên sau một thời gian cầm cố thì giá của
chứng khoán tăng lên gấp hai hoặc ba lần so với thời điểm định giá chứng khoán cầm
cố. Vậy, bên cầm cố trong trường hợp đó có thể yêu cầu các TCTD cho vay thêm một
khoản tiền để đầu tư chứng khoán hay không? Vì giá trị chứng khoán cầm cố đã tăng
lên hoặc là rút lại bớt một số lượng chứng khoán đã cầm cố tương ứng với phần giá trị
chứng khoán gia tăng.
Theo biến động của thị trường chứng khoán thì trường hợp này vẫn có thể xảy ra,
nhưng vì cho rằng việc nhận cầm cố chứng khoán là hoạt động rủi ro, và chỉ với mục
đích nhằm bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ. Nên việc giá chứng khoán sau khi
cầm cố có tăng lên đi chăng nữa, thì chỉ để củng cố thêm niềm tin cho bên nhận cầm
cố về việc thực hiện nghĩa vụ của bên cầm cố. Chứ bên nhận cầm cố không hề nhận
được một lợi ích nào từ việc giá chứng khoán cầm cố tăng. Vì lẽ đó mà trên thực tế
trường hợp này đến giờ vẫn chưa thấy xảy ra. Cho nên, suy cho cùng, sẽ không có
trường hợp cầm cố chứng khoán để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ như trường hợp
cầm cố tài sản.
GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương

Trang 20

SVTH: Lê Văn Dũng


Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam


1.4. Lịch sử phát triển của hợp đồng cầm cố chứng khoán
Khi thị trường chứng khoán ra đời thì song song bên cạnh đó, sẽ dẫn đến việc hình
thành và phát triển của các dịch vụ hỗ trợ liên quan đi kèm, nhằm thúc đẩy cho sự phát
triển của thị trường. Trong trường hợp này dịch vụ cầm cố chứng khoán là một trong
những dịch vụ được hình thành rất sớm khi thị trường chứng khoán ra đời, đây là dịch
vụ hỗ trợ đắc lực cho nhà đầu tư trong việc huy động vốn để đầu tư chứng khoán. Do
vậy, khi tìm hiểu về lịch sử phát triển hợp đồng cầm cố chứng khoán (cũng như dịch
vụ cầm cố chứng khoán) thì phải tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển của thị
trường chứng khoán, vì hợp đồng cầm cố chứng khoán ra đời trên cơ sở sự ra đời của
thị trường chứng khoán.
Sau nhiều năm chuẩn bị, ngày 11-7-1998 Chính phủ đã ký Nghị định số 48/NĐ-CP
ban hành về chứng khoán và Thị trường chứng khoán chính thức khai sinh cho Thị
trường chứng khoán Việt Nam ra đời. Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành
lập Trung tâm Giao dịch Chứng khoán đặt tại Thành Phố Hồ Chí Minh (TP. HCM) và
Hà Nội. Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM được thành lập theo Quyết định
số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 và chính thức đi vào hoạt động thực hiện phiên
giao dịch đầu tiên vào ngày 28-7-2000. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã
chính thức ra đời vào ngày 8/3/200526.
Tuy mới ra đời trong thời gian không dài (khoản 10 năm) nhưng thị trường chứng
khoán nước ta đã có những biến động không ngừng, có lúc thị trường phát triển một
cách nhanh chóng, có lúc lại thăng trầm, giậm chân tại chỗ hoặc thậm chí có lúc lại
trên đà tuột dốc. Ở đây, sẽ điểm qua những giai đoạn quan trọng, có ý nghĩa quyết
định đánh dấu sự phát triển nhất định của thị trường chứng khoán, cũng như hợp đồng
cầm cố chứng khoán.
- Giai đoạn 2000-2005: thời kỳ khởi đầu của thị trường chứng khoán.
Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa
vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM ngày 20/07/2000 và thực
hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Ở thời điểm lúc bấy giờ, chỉ có 2
27


doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) với số vốn 270 tỷ đồng và một
số ít trái phiếu chính phủ được niêm yết giao dịch. Trong 5 năm đầu chỉ số VN-Index
lúc cao nhất chỉ có 300 điểm, mức thấp nhất xuống đến 130 điểm. Lý do chính là ít

26

Nguyễn Văn Nông, Nguyễn Thị Hồng Liên, Giáo trình thị trường chứng khoán, NXB Lao động – Xã hội
2007, Tr.73
27

Thị trường chứng khoán Việt Nam, [truy cập
ngày 25-8-2010]

GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương

Trang 21

SVTH: Lê Văn Dũng


Hợp đồng cầm cố chứng khoán đã niêm yết ở các NHTM Việt Nam

hàng hoá, các doanh nghiệp niêm yết cũng nhỏ, không nổi tiếng, không hấp dẫn nhà
đầu tư trong nước.
Ngày 8/3/2005 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội chính thức đi vào hoạt
động. Giai đoạn phát triển của thị trường dần xuất hiện từ năm 2005 khi tỷ lệ nắm giữ
của nhà đầu tư nước ngoài được nâng từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực ngân hàng). Trong
5 năm đầu tiên, dường như thị trường không thực sự thu hút được sự quan tâm của
đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường, chưa tạo ra tác động
xã hội để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế cũng như tới cuộc sống của

mỗi người dân. Trong giai đoạn này do quy mô thị trường chưa lớn, hàng hóa trên thị
trường còn ít và chưa đa dạng, nhà đầu tư trên thị trường đa số là các nhà đầu tư có tìm
lực tài chính mạnh. Nên trong thời điểm như thế, thì sự có mặt của dịch vụ cầm cố
chứng khoán để hỗ trợ nhà đầu tư trong việc huy động vốn là chưa cần thiết.
- Giai đoạn 2006. Sự phát Triển vượt bậc của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột phá”,
tạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động
giao dịch sôi động tại cả ba “sàn”: Sở giao dịch TP. HCM, Trung tâm Giao dịch Hà
Nội và thị trường OTC. Ở giai đoạn này số lượng hàng hoá đã tăng rất nhiều khối
lượng giao dịch ngày một lớn, thu hút được rất đông đảo các nhà đầu tư trong và ngoài
nước tham gia, vấn đề về vốn trong trường hợp này trở nên cấp bách hơn lúc nào hết vì
nhịp độ thị trường diễn ra rất nhanh cần phải xoay xở nhanh mới đáp ứng kịp.
Một giải pháp được các nhà đầu tư lựa chọn trong giai đoạn này là cầm cố chứng
khoán ở các TCTD để vay vốn đầu tư, và từ đây hợp đồng cầm cố chứng khoán đã
manh nha ra đời. Do mới hình thành nên hoạt động này chủ yếu diễn ra giữa các ngân
hàng thương mại cổ phần lớn và có uy tín với nhau, vì họ nắm được tình hình sản xuất
kinh doanh cùng với sự ổn định về giá cả của các loại chứng khoán đem cầm cố, chứ
chưa mở rộng ra cho các nhà đầu tư khác, vì thời điểm đó chưa có một văn bản pháp
luật nào đề cập đến hoạt động này.
Đến ngày 01 tháng 01 năm 2006 BLDS chính thức có hiệu lực, song chỉ ghi nhận
chứng khoán là loại tài sản có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ mà thôi, ngoài
ra không quy định gì thêm. Cho đến ngày 29 tháng 12 năm 2006 Nghị định
163/2006/NĐ-CP được ban hành quy định về giao dịch bảo đảm, trong đó có quy định
chứng khoán là đối tượng của giao dịch bảo đảm nói chung và cầm cố nói riêng,
nhưng đây chỉ là quy định mang tính chung chung về tài sản bảo đảm mà thôi.
- Giai đoạn 2007 thị trường chứng khoán bùng nổ.
Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường
phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Tính công
khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường.
GVHD: Ths. Tăng Thanh Phương


Trang 22

SVTH: Lê Văn Dũng


×