Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Luận văn thạc sĩ kinh tế quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống ngân hàng thương mại việt nam đáp ứng yêu cầu hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 115 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
__________

ĐỖ THỊ NGỌC

QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH CỦA HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM ĐÁP
ỨNG YÊU CẦU
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2007


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
__________

ĐỖ THỊ NGỌC

QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH CỦA HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM ĐÁP
ỨNG YÊU CẦU
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Chuyên ngành: KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
Mã số
: 60.31.07

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ



Người hướng dẫn khoa học:
TS. TRỊNH THỊ THU HƯƠNG

HÀ NỘI - 2007


LỜI CẢM ƠN

Do những điều kiện khách quan cá nhân và thời gian hạn chế nên em
đã gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình viết và hoàn tất luận văn. Tuy
nhiên, với sự giúp đỡ nhiệt tình, tận tâm của cô giáo hướng dẫn - TS. Trịnh
Thị Thu Hương, của các thầy cô công tác tại phòng đọc, phòng mượn Thư
viện Trường Đại học Ngoại Thương và của đồng nghiệp, bạn bè, em đã
hoàn tất luận văn.
Thông qua bản luận văn với mục Lời cảm ơn ngắn gọn này em xin
gửi lời cảm ơn chân thành, lời biết ơn sâu sắc đến cô giáo hướng dẫn, các
thầy cô và toàn thể các đồng nghiệp, bạn bè.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2007

Học viên

Đỗ Thị Ngọc


LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan quyển luận văn với đề tài: "Quản lý rủi ro trong
kinh doanh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế " này là công trình nghiên cứu của riêng em.
Kết quả nghiên cứu em có được trên cơ sở học hỏi, tiếp thu và tham khảo từ
sách, báo, tạp chí, mạng internet, từ luận văn của các anh chị khóa trước và
qua thực tế kinh nghiệm công tác.
Do thời gian nghiên cứu hạn chế, năng lực học viên có hạn nên bản
luận văn không tránh khỏi những thiếu sót và bất cập, kính mong các thầy cô
giáo, các bạn đọc góp ý để bản luận văn của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 1.1 Bảng cho điểm tín dụng tiêu dùng

22

Bảng 1.2 Quyết định tín dụng theo điểm số của khách hàng

23

Bảng 1.3 Bảng điểm tín dụng áp dụng cho các doanh nghiệp vừa


24

và nhỏ
Bảng 1.4 Xếp loại và tỷ lệ % dự báo nợ quá hạn căn cứ trên số điểm

25

Bảng 2.1 Bảng cơ cấu và đầu tư tín dụng trong các ngành
39
Bảng 3.1 Báo cáo kết quả cho vay bất động sản 6 tháng đầu năm

84

hoặc cả năm
Bảng 3.2 Báo cáo phân loại nợ, trích lập dự phòng để xử lý rủi
ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng.

85


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ

Tên sơ đồ

Trang

Sơ đồ 1.1

Các loại rủi ro tín dụng trong kinh doanh ngân hàng


15

Sơ đồ 2.1

Mô hình kinh doanh và quản lý rủi ro được chuyên

37

môn hóa

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ
Biểu đồ
3.1
Biểu đồ
3.2

Tên biểu đồ

Trang

Quyền nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ các thể nhân 74
Việt Nam của một chi nhánh Ngân hàng nước ngoài
Tỷ trọng thanh toán bằng tiền mặt trong lưu thông

89


1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
"Các Ngân hàng kinh doanh bằng chính việc quản lý rủi ro. Thuần
nhất và đơn giản, đó chính là nghề của Ngân hàng" (Câu nói của Ông Chủ
tịch Hội đồng Quản trị và Tổng giám đốc Citi Corp, 1970 - 1984).
Kinh doanh là một nghiệp vụ chủ yếu của các Ngân hàng nói chung
và của các Ngân hàng thương mại Việt Nam nói riêng. Các nghiệp vụ
kinh doanh Ngân hàng đạt được thành công không phải là dựa trên việc
đưa ra các khoản vay, các mức lãi suất hay các dịch vụ hoàn hảo,.. mà là
dựa trên việc tối thiểu hoá rủi ro trong việc thực hiện các dịch vụ đó. Trên
thực tế mọi hoạt động kinh doanh đều tiềm ẩn rủi ro, chỉ khác nhau ở mức
độ của rủi ro. Do vậy, sự sống còn và khả năng cạnh tranh của Ngân hàng
phụ thuộc hầu hết vào khả năng của họ trong việc quản lý các rủi ro trong
các hoạt động kinh doanh.
Qua đây cho thấy Quản lý rủi ro nói chung trong các sản phẩm kinh
doanh ngân hàng rất quan trọng đối với một Ngân hàng thương mại. Thực
tế hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại cho thấy quản lý
rủi ro các hoạt động kinh doanh ngân hàng đã được quan tâm nhưng mức
độ còn hạn chế và chưa cụ thể hoá được những nội dung của quản lý rủi
ro… Đây là mối quan tâm, là vấn đề bức xúc của các Ngân hàng Thương
mại trong điều kiện nền kinh tế thị trường và trước xu thế toàn cầu hoá.
Vì những lý do trên đây, em chọn đề tài: "Quản lý rủi ro trong
kinh doanh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế".
2. Tình hình nghiên cứu


2
Đề tài quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống ngân hàng

thương mại Việt Nam đã có khá nhiều các tác giả đề cập và nghiên cứu,
song hầu hết các tác giả đều nghiên cứu một cách khái quát, tổng thể, các
giải pháp đưa ra đều là các giải pháp chung chung, có thể áp dụng cho toàn
bộ các ngân hàng trên thế giới hoặc chỉ nghiên cứu tập trung vào một nội
dung chủ yếu trong kinh doanh ngân hàng. Chẳng hạn, giáo trình "Quản trị
rủi ro trong kinh doanh ngân hàng" của PGS, TS Nguyễn Văn Tiến; luận
văn mã số LV.01046, Thư viện Trường đại học Ngoại thương Hà Nội, với
đề tài "Quản trị rủi ro trong các ngân hàng thương mại Việt Nam".
Với những kiến thức đã học và bằng thực tế kinh nghiệm công tác,
qua đề tài lựa chọn ở trên, em muốn đưa ra các thực trạng của vấn đề quản
lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng cụ thể tại Việt Nam và hệ thống lại
các giải pháp để quản lý rủi ro một số nghiệp vụ chủ yếu trong kinh doanh
ngân hàng.
3. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý rủi ro trong kinh
doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam và đi sâu nghiên cứu
ưu, nhược điểm của các biện pháp Việt Nam đã và đang áp dụng để quản lý
các rủi ro trên.
Trên cơ sở thực tiễn và lý luận, đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy quản
lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của
hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế.


3
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: tập trung phân tích quản lý rủi ro
trong kinh doanh một số sản phẩm chủ yếu và các biện pháp quản lý chúng tại
các ngân hàng thương mại Việt Nam.

5. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng kết hợp một số phương pháp: phương pháp tiếp cận hệ thống,
phương pháp phân tích tài liệu, tổng hợp, thống kê.
6. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về quản lý rủi ro trong kinh
doanh ngân hàng.
- Phân tích ưu, nhược điểm của các biện pháp đã và đang áp dụng để
quản lý rủi ro các nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng của các ngân hàng
thương mại Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp trong quản lý rủi ro các nghiệp vụ chủ yếu
trong kinh doanh ngân hàng nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quản lý rủi ro trong kinh doanh
ngân hàng ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng tại
các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân
hàng đáp ứng yêu cầu hội nhập.


4

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO
TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM
1.1. Khái quát về rủi ro trong kinh doanh ngân hàng tại các ngân
hàng thƣơng mại ở Việt Nam
1.1.1 Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng của các ngân hàng thƣơng mại
1.1.1.1 Kinh doanh ngân hàng - Loại hình kinh doanh đặc biệt

Hệ thống ngân hàng cung cấp một kênh dẫn vốn gián tiếp từ những người có
nhu cầu đầu tư đến các công ty. Ngân hàng nhận tiền gửi từ những cá nhân, tổ
chức có nhu cầu gửi tiền và kinh doanh trên lượng vốn huy động đó bằng các hình
thức như cho vay, đem gửi tại các tổ chức tín dụng khác để hưởng lợi nhuận từ
chênh lệch lãi suất,.. Với hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, tính chuyên môn
hóa cao, ngân hàng tạo ra sự thu hút đặc biệt đối với những luồng tiền nhàn rỗi.
Ngân hàng thực hiện hai chức năng cơ bản đó là: chức năng luân chuyển
tài sản và chức năng cung cấp các dịch vụ thanh toán, môi giới và tư vấn…
Ngoài ra, ngân hàng đồng thời thực hiện việc chuyển tải chính sách tiền tệ từ
ngân hàng trung ương đến toàn bộ nền kinh tế. Như vậy, ngân hàng đã trở
thành một kênh đặc biệt, thông qua đó mà ảnh hưởng của các chính sách tiền
tệ lên toàn bộ nền kinh tế.
Lý do tiếp theo làm cho ngân hàng trở nên đặc biệt là vì các ngân hàng là
nguồn chính để tài trợ, cung cấp tín dụng cho một số lĩnh vực nhất định được
xác định là có nhu cầu đặc biệt về vốn. Vì vậy, ở hầu hết các quốc gia, những
nhà làm chính sách luôn xác định các lĩnh vực cần được trợ giúp về vốn, như
đối với người nghèo, hoặc một số ngành nghề thuộc các lĩnh vực khác nhau của
nền kinh tế. Ngân hàng còn đem lại lợi ích trực tiếp cho nền kinh tế thông qua
tính hiệu quả của các dịch vụ thanh toán. Ngày nay, cùng với sự phát triển của


5
dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, vai trò của ngân hàng càng trở nên
quan trọng. Bất kỳ một sự trục trặc nào trong hệ thống thanh toán của ngân
hàng cũng đủ để gây ra sự bế tắc và thiệt hại cho nền kinh tế.
1.1.1.2. Khái niệm rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Danh từ “rủi ro” đã được nhiều nhà kinh tế học định nghĩa theo nhiều
cách khác nhau. Frank Knight, một học giả người Mỹ định nghĩa: "rủi ro là sự
bất trắc có thể đo lường được"[29]. Allan Willet cho "rủi ro là sự bất trắc cụ
thể liên quan đến một biến cố không mong đợi"[30]. Một học giả khác người

Anh là Marilic Hurt Mr Carty quan niệm "rủi ro là một tình trạng trong đó
biến cố xảy ra trong tương lai có thể xác định được"[28]. Theo ông "kinh
nghiệm hoạt động của một doanh nghiệp có thể cung cấp chứng cứ của tần số
các biến cố riêng biệt trong quá khứ và do đó cho phép nhà quản trị doanh
nghiệp xác định được phân bố xác suất xuất hiện các biến cố trong tương lai".
Như vậy, các định nghĩa tuy có những mặt khác nhau nhưng đều thống
nhất một nội dung, coi rủi ro là sự bất trắc không mong đợi gây ra mất mát,
thiệt hại và có thể đo lường được.
Kinh doanh ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt, do vậy những rủi
ro đối với hoạt động ngân hàng cũng vì thế mà mang tính đặc thù. Ví dụ, rủi
ro trong hoạt động tín dụng được hiểu là những tổn thất do khách hàng không
trả được nợ hoặc sự giảm sút chất lượng tín dụng của các khoản vay[26].
1.1.2. Những rủi ro chủ yếu trong kinh doanh ngân hàng
1.1.2.1. Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra những tổn thất cho ngân hàng khi lãi
suất thay đổi ngoài dự tính [7].
Quá trình chuyển hóa tài sản bao gồm việc mua các chứng khoán sơ cấp,
tức là sử dụng vốn và phát hành các chứng khoán sơ cấp, tức là huy động vốn.
Kỳ hạn và độ thanh khoản của các chứng khoán sơ cấp trong danh mục đầu tư


6
thuộc tài sản có thường không cân xứng với các chứng khoán thứ cấp thuộc
tài sản nợ. Sự không cân xứng về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ làm cho
ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất.
Giả sử lãi suất huy động vốn là 9%/năm và lãi suất đầu tư là 10%/năm.
Sau năm thứ nhất bằng cách vay ngắn hạn 1 năm và cho vay dài hạn 2 năm,
ngân hàng thu được lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất là 1%. Tuy nhiên, lợi
nhuận của năm thứ hai chưa biết trước là bao nhiêu cho nên sẽ là một số
không chắc chắn. Nếu lãi suất thị trường không thay đổi từ năm thứ nhất sang

năm thứ hai thì ngân hàng có thể tái tài trợ tài sản nợ với mức lãi suất không
thay đổi là 9%. Như vậy, lợi nhuận thu được năm thứ hai cũng sẽ bằng năm
thứ nhất là 1%. Tuy nhiên, lãi suất thị trường có thể thay đổi từ năm thứ nhất
sang năm thứ hai nên ngân hàng luôn đứng trước rủi ro về thay đổi lãi suất.
Giả sử sang năm thứ hai ngân hàng chỉ có thể huy động vốn theo mức lãi suất
thị trường hiện hành là 11%, tức là năm thứ hai ngân hàng chịu lỗ -1%. Như
vậy, lợi nhuận của năm thứ nhất chỉ đủ bù đắp khoản lỗ của năm thứ hai.
Tóm lại, trong mọi trường hợp nếu ngân hàng duy trì tài sản có có kỳ hạn dài
hơn so với tài sản nợ thì ngân hàng luôn đứng trước rủi ro về lãi suất trong việc tái
tài trợ đối với tài sản nợ. Rủi ro sẽ trở thành hiện thực nếu lãi suất huy động vốn
bổ sung trong những năm tiếp theo tăng lên trên mức lãi suất đầu tư tín dụng dài
hạn.
Trong trường hợp ngược lại, ngân hàng huy động vốn có kỳ hạn dài và đầu
tư có kỳ hạn ngắn thì tương tự như trên ngân hàng vẫn có thể gặp phải rủi ro về lãi
suất tái đầu tư trong trường hợp tài sản có có kỳ hạn ngắn hơn so với tài sản nợ.
Ngoài rủi ro lãi suất tái tài trợ tài sản nợ hoặc tái đầu tư tài sản có, thì khi
lãi suất thị trường thay đổi ngân hàng còn có thể gặp phải rủi ro giảm giá trị
tài sản. Nếu lãi suất thị trường tăng lên thì mức chiết khấu giá trị tài sản cũng
tăng lên, và do đó giá trị hiện tại của tài sản có và tài sản nợ giảm xuống.


7
Ngược lại, nếu lãi suất thị trường giảm thì giá trị của tài sản có và tài sản nợ
sẽ tăng lên. Do đó, nếu kỳ hạn của tài sản có và tài sản nợ không cân xứng với
nhau, ví dụ tài sản có có kỳ hạn dài hơn tài sản nợ, thì khi lãi suất thị trường
tăng, giá trị của tài sản có sẽ giảm nhanh hơn nhiều hơn so với sự giảm giá trị
của tài sản nợ. Rủi ro giảm giá trị tài sản khi lãi suất thay đổi thuộc loại rủi ro
về lãi suất và có thể dẫn đến thiệt hại về tài sản của ngân hàng.
Như vậy, nếu ngân hàng duy trì cơ cấu tài sản có và tài sản nợ với những
kỳ hạn không cân xứng với nhau, thì phải chịu những rủi ro về lãi suất trong

việc tái tài trợ tài sản có và tài sản nợ; hoặc rủi ro về lãi suất do giá trị của tài
sản thay đổi khi lãi suất thị trường biến động.
1.1.2.2. Rủi ro ngoại hối
Rủi ro hối đoái là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu
khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính [7].
Một lợi ích tiềm tàng của ngân hàng ngày càng tăng là khả năng mở rộng
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài hoặc là mở rộng danh mục đầu tư gián tiếp bằng
cách nắm giữ các chứng khoán ghi bằng ngoại tệ bên cạnh các chứng khoán ghi
bằng nội tệ. Để thấy được rủi ro hối đoái phát sinh như thế nào, chúng ta giả sử
một ngân hàng Việt Nam cấp tín dụng bằng USD cho khách hàng của mình.
Khi đồng USD giảm giá so với VND, thì gốc và lãi của khoản cho vay bằng
USD thu về sẽ bị giảm khi quy thành VND. Thậm chí trong trường hợp nếu
USD giảm giá đáng kể, thì gốc và lãi khi chuyển đổi sang VND có thể là thấp
hơn số tiền gốc đầu tư ban đầu, do đó kết quả đầu tư sẽ là âm. Nghĩa là khi
chúng ta chuyển đổi gốc và lãi từ USD sang VND, thì số tiền lãi thu được chưa
đủ để bù đắp rủi ro hối đoái.
Tuy nhiên, các ngân hàng có thể nắm giữ tài sản có hoặc phát hành
chứng chỉ tài sản nợ bằng ngoại tệ. Chẳng hạn, ngân hàng có thể cho vay
bằng USD và huy động vốn bằng USD. Nhưng nếu ngân hàng cho vay bằng


8
USD nhiều hơn vốn huy động bằng USD nghĩa là ngân hàng nắm giữ nhiều
tài sản có bằng ngoại tệ hơn là tài sản nợ bằng ngoại tệ. Do đó, ngân hàng có
thể gặp rủi ro về hối đoái trong trường hợp USD giảm giá so với VND, khi đó
sự giảm giá của tài sản có bằng USD sẽ nhiều hơn so với sự giảm giá của tài
sản nợ bằng USD khi quy thành VND.
Trường hợp ngược lại, nếu ngân hàng có vốn huy động bằng USD nhiều
hơn tài sản có bằng USD, ngân hàng có thể gặp rủi ro hối đoái nếu USD lên giá
so với VND. Điều này xảy ra là vì giá trị cả gốc và lãi phải trả cho vốn huy động

bằng USD quy thành VND sẽ tăng nhanh hơn so với giá trị gốc và lãi thu được
từ đầu tư bằng USD. Như vậy, để có thể phòng ngừa rủi ro hối đoái, ngân hàng
phải làm cân xứng giữa tài sản có và tài sản nợ đối với mỗi loại ngoại tệ trong
bảng cân đối tài sản. Việc làm cân xứng giữa tài sản có và tài sản nợ đối với mỗi
loại ngoại tệ phải được thực hiện cho cả hai khía cạnh về số lượng và kỳ hạn thì
mới có thể phòng ngừa được rủi ro tỷ giá và rủi ro lãi suất ngoại tệ một cách triệt
để.
1.1.2.3. Rủi ro tín dụng
"Rủi ro tín dụng được hiểu là những tổn thất do khách hàng không trả
được nợ hoặc sự giảm sút chất lượng tín dụng của các khoản vay"[26]. Hay
rủi ro tín dụng còn được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi
trả tiền lãi, hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời gian đã ấn định trong hợp đồng
tín dụng. Đây là thuộc tính vốn có của hoạt động ngân hàng. "Rủi ro tín dụng
tức là việc chi trả bị trì hoãn, hoặc tồi tệ hơn là không hoàn trả được toàn bộ.
Điều này gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ, và gây ảnh hưởng tới
khả năng thanh khoản của ngân hàng"[4].
Các khái niệm trên đây đều đưa ra một cách hiểu chung về rủi ro tín
dụng đó là những tổn thất do khách hàng không có khả năng thanh toán


9
khoản vay theo đúng các điều khoản trong hợp đồng tín dụng đã ký với ngân
hàng.
Khi ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng, ngân hàng nhận được Giấy
nhận nợ từ con nợ phát hành với cam kết là sẽ thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi
đúng hạn theo như Hợp đồng tín dụng hai bên đã ký kết. Do đó, tại thời điểm
cấp tín dụng và chấp nhận Giấy nhận nợ nghĩa là ngân hàng đã thừa nhận khả
năng thanh toán đầy đủ và đúng hạn của khách hàng với một xác suất cao còn
xác suất mất khả năng thanh toán của khách hàng là thấp hơn nhiều.
Sự phân bổ lợi tức đối với rủi ro tín dụng đặt ra cho ngân hàng là phải

giám sát và thu thập được những thông tin về công ty mà ngân hàng đã đầu
tư. Nghĩa là chiến lược quản lý rủi ro tín dụng cùng với việc quản lý công ty
có hiệu quả có ảnh hưởng đến xác suất phân bổ rủi ro trong việc thu hồi tín
dụng. Một trong những lợi thế của ngân hàng so với những nhà đầu tư riêng lẻ
là khả năng đa dạng hóa danh mục đầu tư của ngân hàng là rất lớn, và thông
qua việc đa dạng hóa danh mục đầu tư thì rủi ro tín dụng giảm đáng kể.
Từ khái niệm trên đây ta có thể phân rủi ro tín dụng thành các loại sau:
- Loại 1: Rủi ro đọng vốn: Đó là rủi ro tín dụng khi người vay sai hẹn
(default) trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng, bao gồm vốn gốc
và/hoặc lãi vay. Sự sai hẹn này là do trễ hạn (Delayed payment).
- Loại 2: Rủi ro mất vốn: Đó là rủi ro tín dụng khi người vay sai hẹn
(default) trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng, bao gồm vốn gốc
và/hoặc lãi vay. Sự sai hẹn này là do không thanh toán (nonpayment).
Rủi ro tín dụng gây ra những ảnh hưởng xấu đối với hoạt động của các
ngân hàng nói riêng và đối với cả nền kinh tế nói chung:
Đối với nền kinh tế: Ngân hàng hoạt động như các trung gian tài chính
giữa người gửi và người vay, chúng khuyến khích tiết kiệm bằng các biện
pháp thu hút và huy động vốn thông qua các dạng tài khoản khác nhau trên


10
một mạng lưới chi nhánh rộng khắp, đồng thời đưa số vốn này vào sử dụng có
hiệu quả mà chủ yếu là hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp, cá nhân dưới
hình thức cho vay. Việc hỗ trợ tài chính đã khuyến khích sản xuất, tạo thêm
việc làm, tăng sản lượng và giảm nhập khẩu hàng hoá. Mặt khác việc cho
khách hàng cá nhân vay sẽ khuyến khích tăng nhu cầu về hàng hoá và điều
này sẽ giúp cho việc tăng cường sản xuất. Ngân hàng có thể tạo tiền qua việc
cấp cho khách hàng những khoản vay để mua hàng hoá, vì việc chi trả cho các
hàng hoá này thực sự tạo ra một khoản tiền mới khi tiền được chuyển vào tài
khoản của người bán. Vì thế bằng việc cấp một khoản vay ứng trước, một

khoản tiền gửi ngân hàng đã được tạo ra, quá trình này được gọi là tạo tiền qua
tín dụng... Mọi người dân đều chịu tác động của ngân hàng , dù họ là khách
hàng gửi tiền, một người vay hay đơn giản là người đang làm việc cho một
doanh nghiệp có vay vốn và sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Như vậy kinh
doanh tín dụng có vai trò vô cùng to lớn trong nền kinh tế, điều này cho thấy
nếu kinh doanh tín dụng gặp rủi ro thì sẽ có ảnh hưởng rất xấu đối với nền kinh
tế.
Đối với hoạt động của một ngân hàng:
+ Rủi ro tín dụng làm suy giảm uy tín của ngân hàng: Một ngân hàng
có rủi ro tín dụng lớn là một ngân hàng hoạt động tồi, tình hình đó bị báo
chí nêu làm cho dân chúng thiếu lòng tin và như vậy khó lòng có thể huy
động được nguồn vốn dồi dào. Các ngân hàng nước ngoài cũng vì thế mà
hạn chế thiết lập quan hệ, không cấp các hạn mức tín dụng, không mở
quan hệ đại lý...
+ Rủi ro tín dụng làm cho khả năng thanh toán của ngân hàng giảm
sút: Các khoản tín dụng có rủi ro khiến cho việc hoàn trả gặp khó khăn,
trong lúc đó các khoản tiền gửi, tiền tiết kiệm của dân cư vẫn phải thanh
toán đúng kỳ hạn. Trong lúc không huy động được nguồn vốn dồi dào do


11
mất uy tín, cũng vì thế người rút tiền lại càng tăng lên, kết quả là ngân
hàng gặp khó khăn trong khâu thanh toán.
+ Rủi ro tín dụng làm cho lợi nhuận suy giảm: Hoạt động tín dụng
tạo ra trên 50% tài sản có của một ngân hàng thương mại, đó là hoạt động
tạo ra lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng thương mại. Do vậy nếu có rủi ro
thì tài sản có của ngân hàng giảm sút và lợi nhuận của ngân hàng giảm
sút, ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông.
+ Rủi ro tín dụng có thể dẫn đến phá sản: Nếu những tác động của
rủi ro tín dụng trên 3 phương diện nêu trên không được khắc phục và cứ

phát triển đến một độ nào đó sẽ đẩy ngân hàng đến chỗ phá sản.
1.1.2.4. Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra tổn thất khi nhu cầu thanh khoản
thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến làm gia tăng các chi phí để đáp
ứng nhu cầu thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán[7].
Rủi ro thanh khoản phát sinh khi những người gửi tiền đồng thời có nhu
cầu rút tiền ở ngân hàng ngay lập tức. Trong những trường hợp như vậy, thì
ngân hàng phải đi vay bổ sung nguồn vốn thanh toán hoặc phải bán tài sản có
của mình để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi tiền. Trong cơ cấu tài sản
có thì tiền mặt có độ thanh khoản cao nhất, do đó trước hết ngân hàng sử dụng
tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng. Bởi vì tiền mặt tại quỹ
không mang lại thu nhập lãi suất, cho nên trong những trường hợp bình
thường, ngân hàng chỉ duy trì một lượng tiền mặt ở mức tối ưu đủ để đáp ứng
nhu cầu rút tiền thường xuyên của người gửi tiền mà không gây ảnh hưởng
đến độ thanh khoản của ngân hàng. Ngân hàng có thể làm được điều này, bởi
vì qua kinh nghiệm công tác ngân quỹ hàng ngày ngân hàng có thể dự tính
chính xác nhu cầu rút tiền gửi hàng ngày và trong trường hợp thiếu hụt tiền


12
mặt tạm thời thì ngân hàng chỉ cần đi vay bổ sung một cách thông thường trên
thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt ngân hàng có thể phải đối
mặt với rủi ro thanh khoản, ví dụ như trong trường hợp dân chúng mất lòng
tin vào ngân hàng, hoặc nhu cầu rút tiền có tính chất thời vụ mà ngân hàng
không dự tính trước được đòi hỏi ngân hàng phải chi trả tức thời một khoản
tiền lớn hơn mức bình thường. Trong bối cảnh chung trên, hầu hết các ngân
hàng đều phải đối phó với tình huống tương tự, thì chi phí để huy động vốn
bổ sung tăng lên một cách đáng kể do lượng vốn cung ứng trên thị trường
giảm. Hậu quả là, ngân hàng phải bán một số tài sản có độ thanh khoản thấp

để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi. Điều này khiến cho ngân hàng gặp
phải rủi ro thanh khoản nghiêm trọng và ngân hàng buộc phải bán thốc bán
tháo tức thời ngay cả số tài sản khó chuyển nhượng với giá rẻ mạt vì ngân
hàng không có đủ thời gian để tìm người mua cũng như điều kiện thương
lượng về giá cả. Do bán khẩn cấp một số tài sản với giá thấp khiến cho khả
năng thanh toán cuối cùng của ngân hàng bị đe dọa. Trong số tài sản có độ
thanh khoản thấp bao gồm các khoản tín dụng cấp cho các công ty nhỏ. Trong
trường hợp rủi ro thanh khoản ngày càng nghiêm trọng, nếu tất cả những người
gửi tiền đồng loạt yêu cầu ngân hàng chi trả toàn bộ tiền gửi của họ thì dẫn đến
ngân hàng chỉ đang từ chỗ phải đối phó với rủi ro thanh khoản đến chỗ phải đối
mặt với rủi ro phá sản. Như vậy, rủi ro thanh khoản ở mức độ nghiêm trọng là
một trong những nguyên nhân dẫn đến phá sản của các ngân hàng.
1.1.2.5. Rủi ro trong các phƣơng thức thanh toán quốc tế
Trong số các nghiệp vụ ngoại bảng, thì thanh toán quốc tế đối với các ngân
hàng thương mại Việt Nam là nghiệp vụ quan trọng nhất, có tốc độ tăng trưởng
mạnh, mang lại cho ngân hàng khoản thu phí ngày một tăng; thông qua nghiệp


13
vụ thanh toán quốc tế để chắp nối phát triển các nghiệp vụ khác như mua bán
ngoại tệ, bảo lãnh, tài trợ xuất nhập khẩu, mở rộng quan hệ tài khoản, tín dụng...
Do đó, nghiệp vụ thanh toán quốc tế có thể được xem là nghiệp vụ ngoại bảng
đặc trưng của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động thanh
toán quốc tế cũng tiềm ẩn khá nhiều rủi ro do quan niệm cho rằng hoạt động
ngoại bảng nói chung, thanh toán quốc tế nói riêng mang lại thu nhập hấp dẫn
nhưng ngân hàng không hề phải bỏ vốn, càng làm cho họ chủ quan lơ là, bất
chấp những rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu mà các tổ chức, doanh nghiệp
thường xuyên sử dụng với sự trợ giúp của ngân hàng là phương thức chuyển
tiền, phương thức nhờ thu và phương thức tín dụng chứng từ.

1.2. Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
1.2.1. Khái niệm quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
- Khái niệm 1: Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng là việc sử
dụng đồng thời các công cụ, kỹ thuật và quy trình cần thiết để thực hiện chiến
lược kinh doanh các sản phẩm ngân hàng.
- Khái niệm 2: Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng đó là quá trình
xác định, đo lường rủi ro; Đưa ra các biện pháp quản lý rủi ro; Thực hiện quá
trình kiểm soát rủi ro và báo cáo.
1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Quản lý rủi ro nói chung được xác định là một loạt các chính sách được
ban hành nhằm theo dõi các giao dịch và các hoạt động có thể gây ra những
ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của ngân hàng, và đề ra các biện pháp hữu
hiệu để xác định, kiểm soát và giảm thiểu được những rủi ro này. Như vậy,
quản lý rủi ro và đặc biệt là quản lý rủi ro trong các hoạt động kinh doanh
ngân hàng giúp bảo vệ ngân hàng, các cổ đông và người gửi tiền.


14
Có một cách nói khác nữa về quản lý rủi ro đó là: Quản lý rủi ro là quá
trình chấp nhận rủi ro có sự tính toán trước. Chấp nhận rủi ro là trung tâm của
hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng cần phải đánh giá các cơ hội kinh doanh
dựa trên mối quan hệ rủi ro - lợi nhuận nhằm tìm ra những cơ hội đạt được
những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro chấp nhận. Ngân hàng sẽ hoạt động tốt
nếu mức rủi ro mà Ngân hàng gánh chịu là hợp lý và kiểm soát được nằm trong
phạm vi khả năng các nguồn lực tài chính và năng lực tín dụng của ngân hàng.
Tại Việt nam hiện nay ngành kinh doanh ngân hàng đang phát triển hết
sức nhanh chóng. Sự phát triển này đồng nghĩa với việc các ngân hàng ngày
càng đóng vai trò quan trọng trong việc làm trung gian giữa người tiết kiệm
tiền và người đi vay tiền, các ngân hàng cạnh tranh với nhau thông qua việc
cung cấp các dịch vụ, tiện ích cho khách hàng. Để đáp ứng được các nhu cầu

của khách hàng, tạo ra những thuận lợi để cạnh tranh với các ngân hàng khác,
các ngân hàng thương mại phải chấp nhận rủi ro, tuy nhiên chấp nhận ở mức
độ nào lại là một câu hỏi, điều này cần phải có quản lý rủi ro trong các hoạt
động kinh doanh ngân hàng.
Xu hướng của các ngân hàng hiện đại là chuyên môn hoá, là giao dịch một
cửa, tức là có người thì chuyên bán hàng, nhiệm vụ của họ là bán được càng
nhiều càng tốt, tức là cho vay càng nhiều càng tốt, như vậy họ có thể bỏ qua
những yếu tố, chi tiết cần thiết khi quyết định một khoản vay, dẫn đến rủi ro.
Một tâm lý thường thấy là giữa cán bộ ngân hàng và khách hàng thường có mối
quan hệ thân thiết do quá trình quan hệ lâu dài, mối quan hệ này là đương nhiên
vì có như vậy họ mới hiểu khách hàng và cung cấp các sản phẩm phù hợp, chính
sự thân thiết này đôi khi họ bỏ qua những chi tiết cho là không cần thiết nhưng
lại có thể gây ra rủi ro, ví dụ như thiếu một vài giấy tờ, thiếu một vài thông tin ...
Do vậy cần phải có bộ phận kiểm soát những người bán hàng này, đây là một
phần của quản lý rủi ro các sản phẩm trong kinh doanh ngân hàng nói chung.


15
Các sản phẩm kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt nam hiện
nay hầu hết đều chịu ảnh hưởng rất lớn bởi môi trường kinh doanh, chu kỳ,
ngành kinh tế .., do vậy cần phải có sự nghiên cứu đánh giá để hạn chế các rủi
ro có thể phát sinh.
Dù có các biện pháp hữu hiệu đến đâu để giảm thiểu rủi ro thì rủi ro vẫn
có thể xảy ra, do vậy cần phải có dự phòng đủ vốn cho những rủi ro này để
tránh sự sụp đổ của ngân hàng, đây cũng là một trong những nội dung quan
trọng của quản lý rủi ro trong các hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Qua những lý do trên đây ta thấy quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân
hàng là thực sự cần thiết đối với các ngân hàng thương mại hiện nay.
1.2.3. Nội dung quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
1.2.3.1. Phân tích xác định rủi ro trong kinh doanh ngân hàng

Người quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng phải phân tích và xác
định được loại rủi ro dẫn đến tổn thất cho ngân hàng, trên cơ sở đó đưa ra các
biên pháp quản lý rủi ro phù hợp. Ví dụ, với hoạt động phổ biến và tạo ra tới
50% tổng tài sản có cho ngân hàng như hoạt động tín dụng thì thông thường
rủi ro đối với hoạt động tín dụng được xác định có các loại sau đây:

RỦI RO TÍN DỤNG

Rủi ro giao dịch

Rủi ro
Lựa chọn

Rủi ro
bảo đảm

Rủi ro danh mục

Rủi ro
Nghiệp
vụ

Rủi ro
Nội tại

Rủi ro
Tập trung

Sơ đồ1.1: Các loại rủi ro tín dụng trong kinh doanh ngân hàng
Nguồn: theo Joel Bessis, Risk Management in Banking [26]



16
Qua sơ đồ trên ta thấy rủi ro tín dụng bao gồm rủi ro danh mục (Portfolio
risk) và rủi ro giao dịch (Transaction risk).
Rủi ro danh mục được phân thành rủi ro nội tại (Intrinsic risk) và rủi ro
tập trung (Concentration risk). Rủi ro nội tại xuất phát từ các yếu tố mang tính
riêng biệt của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành kinh tế. Chẳng hạn, ngành xây
dựng vẫn được xem là ngành có rủi ro cao do đặc trưng kinh doanh là vốn
đọng nhiều ở các công trình, chi phí xây dựng cơ bản dở dang cao, thời gian
thu hồi vốn chậm. Do vậy, đối với các dự án xây dựng, ngân hàng thường
phải phân tích rất kỹ lưỡng về dòng tiền, thời gian hoàn vốn và tài sản đảm
bảo cho khoản vay trước khi quyết định cho vay. Rủi ro tập trung là mức dư
nợ cho vay được dồn cho một khách hàng, một số ngành kinh tế hoặc một số
loại cho vay hoặc một khu vực địa lý. Rủi ro này thường phát sinh đối với các
trường hợp cho vay tổng công ty bao gồm nhiều công ty con trực thuộc hay
cho vay tập trung quá nhiều vào một ngành kinh tế, chẳng hạn ngành kinh
doanh gỗ nhập khẩu. Bất kỳ một ảnh hưởng có chiều hướng xấu nào đến
ngành nghề kinh doanh làm suy giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp đều có thể
ảnh hưởng đến tình hình thanh toán nợ của các doanh nghiệp cho ngân hàng.
Phản ứng mang tính dây chuyền này sẽ gây ra tình trạng nợ xấu, nợ khó đòi với
tỷ lệ cao cho ngân hàng do tập trung cho vay quá nhiều các doanh nghiệp kinh
doanh gỗ.
Rủi ro giao dịch có 3 thành phần: Rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi
ro nghiệp vụ. Rủi ro lựa chọn là rủi ro liên quan đến thẩm định và phân tích
tín dụng. Rủi ro này có nguyên nhân chủ yếu từ năng lực và trình độ nghiệp
vụ của cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng sau khi nhận hồ sơ từ khách hàng sẽ
tiến hành thẩm định, đánh giá, phân tích về từ cách pháp nhân, năng lực pháp
lý, về ngành nghề kinh doanh, công tác và khả năng tài chính của khách hàng.



17
Những yếu tố này có vai trò rất quan trọng trong việc quyết định có cho vay
hay không. Bất kỳ một sự đánh giá sai, lệch lạc nào của cán bộ tín dụng đều
có thể dẫn đến rủi ro mất vốn cho ngân hàng.
Rủi ro bảo đảm xuất phát từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản
trong hợp đồng vay, các loại tài sản đảm bảo và mức an toàn của nó. Trong
trường hợp khách hàng vay có biểu hiện chậm trả, chậm thanh toán nợ hoặc
có thái độ không hợp tác với ngân hàng trong việc trả nợ vay thì lúc đó nguồn
trả nợ phụ là tài sản đảm bảo được xem xét tới. Hợp đồng tín dụng là cơ sở
pháp lý về quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan đến món vay. Ngân
hàng có quyền xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ. Tài sản đảm bảo là nhà
đất có độ an toàn cao hơn so với tài sản đảm bảo là xe, máy móc hay hàng
hóa. Thực tế đã có nhiều ngân hàng cho vay mua ô tô trả góp với tài sản đảm
bảo là chính chiếc xe hình thành từ vốn vay và đã có rủi ro khách hàng bán
chiếc xe - tài sản đảm bảo đó đi mà ngân hàng không kiểm soát được.
Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến quản trị hoạt động cho vay như
xây dựng và thực hiện chính sách tín dụng để định hướng cho việc thực hiện
cho vay và kiểm soát danh mục cho vay, bao gồm cả việc sử dụng xếp hạng
rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề. Một ngân hàng hoạt động tốt
là ngân hàng có quy trình hoạt động rõ ràng, có hệ thống báo cáo, xếp hạng
rủi ro chặt chẽ và có bộ phận xử lý nợ có chuyên môn. Thực tế nhiều ngân
hàng thương mại có quy mô còn nhỏ vẫn chưa có bộ phận xử lý nợ mà toàn
bộ các công việc này đều do cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Quy trình cho vay
đối với một số sản phẩm mới còn chưa rõ ràng, thậm chí còn chưa có. Những
yếu tố này dẫn đến tình trạng cho vay sai so với quy định của ngân hàng Nhà
nước và nguy cơ mất vốn cho ngân hàng.


18

Như vậy, để quản lý tốt các rủi ro trong kinh doanh ngân hàng trước hết
người quản lý rủi ro phải phân tích và xác định được rủi ro có thể phát sinh trong
sản phẩm kinh doanh đó là gì, nguyên nhân gây ra những rủi ro và bản chất của
chúng. Từ đó, việc tìm ra những biện pháp khắc phục mới thực sự hữu hiệu.
1.2.3.2. Đánh giá và đo lƣờng rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Việc đánh giá các rủi ro trong kinh doanh ngân hàng dựa vào các mô
hình định tính và định lượng
- Mô hình định tính: Là phương pháp truyền thống, dựa vào đánh giá
chủ quan của cán bộ ngân hàng căn cứ vào việc trả lời một số câu hỏi để phân
loại khách hàng, cụ thể như sau:
*Khách hàng loại A.
Về chất lượng quản lý, là khách hàng có uy tín rộng khắp, đội ngũ cán
bộ quản lý có kinh nghiệm, chuyên nghiệp, hoạt động hiệu quả và thực sự có
năng lực.
Về tình hình tài chính, có chất lượng thông tin tài chính tốt, lành mạnh,
các tài khoản được kiểm toán tuyệt đối do các kiểm toán viên quốc tế đảm
nhiệm và thường xuyên có số dư tiền gửi lớn tại ngân hàng. Doanh thu của
công ty luôn ở mức cao và có tốc độ tăng trưởng liên tục. Tỷ lệ nợ trên vốn
chủ sở hữu thấp, các tài sản cố định có giá trị thực. Khả năng thanh toán nợ
tốt, xu hướng đạt doanh thu lớn, dòng tiền lưu chuyển lớn và có lãi gộp, có
đầy đủ các thông tin về các khoản có thể thua lỗ và không có thua lỗ và có sự
hỗ trợ rất lớn từ nhiều nguồn khác nhau.
Về môi trường kinh doanh, có môi trường kinh tế chính trị-xã hội cực kỳ
an toàn và ổn định. Tầm quan trọng của khách hàng có ảnh hưởng rất lớn đến
nền kinh tế quốc dân, có viễn cảnh kinh doanh khá thuận lợi. Hoạt động kinh
doanh của khách hàng chiếm thị phần khá lớn trong nội bộ ngành và có uy tín,


19
nhất là với quốc tế. Phạm vi hoạt động kinh doanh cực kỳ tốt, sản phẩm đa

dạng, ảnh hưởng của chu kỳ là rất nhỏ, không đáng kể.
*Khách hàng loại B.
Về chất lượng quản lý, là khách hàng có uy tín, có kinh nghiệm trong
những ngành cụ thể hoặc những khách hàng có kinh nghiệm mức độ trong tất
cả khu vực kinh tế chính với năng lực phù hợp.
Về tình hình tài chính, là khách hàng có các tài khoản được kiểm toán
tuyệt đối do các kiểm toán viên đảm nhiệm, thường xuyên có tài khoản tiền
gửi tuy không lớn tại ngân hàng. Khách hàng có doanh thu lớn với tốc độ
tăng trưởng khá, viễn cảnh tăng trưởng cao, tỷ lệ nợ và vốn chủ sở hữu trên
mức trung bình, khả năng thanh toán nợ tốt. Khách hàng có xu hướng đạt
doanh thu và lưu chuyển tiền tệ tích cực nhưng không đều, khả năng kiểm
soát thông tin còn hạn chế, có một số khoản lỗ nhưng có thể kiểm soát được.
Về môi trường kinh doanh, khách hàng có môi trường kinh doanh khá ổn
định nhưng mức cạnh tranh thấp, có ý nghĩa đối với nền kinh tế có thể trong
nước hoặc xuất khẩu. Xu hướng phát triển khá tốt cùng với sự phát triển của
nền kinh tế và có thị phần khá trong nội bộ ngành, sản phẩm, hoạt động đa
dạng nhưng có thể chịu ảnh hưởng của chu kỳ.
*Khách hàng loại C.
Về chất lượng quản lý, kinh nghiệm quản lý ở mức độ vừa phải, còn hạn chế,
nội bộ công ty còn có mâu thuẫn, các quyền lợi và nghĩa vụ chưa được thống nhất.
Về tình hình tài chính, các số liệu tài chính được kiểm toán theo quy
định hoặc không được kiểm toán. Doanh thu không ổn định, biến động khá
mạnh. Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu ở mức trung bình hoặc dưới trung bình
nhưng có thể kiểm soát được. Doanh thu và lưu chuyển tiền tệ ở mức trung


×