Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

LUẬN văn LUẬT tư PHÁP TRÁCH NHIỆM của NGƯỜI bào CHỮA đối với NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG GIAI đoạn điều TRA, TRUY tố, xét xử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 92 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT





LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 34 (2008 – 2012)

ĐềTài

TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA ĐỐI
VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG GIAI
ĐOẠN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ

Giáo viên hướng dẫn:
Th.S Mạc Giáng Châu
Bộ môn Tư pháp

Sinh viên thực hiện:
Ngô Trà My
MSSV: 5085820
Lớp: Tư Pháp 1 – K34

Cần Thơ, 5/2012


LỜI CẢM ƠN
  



Để có thể hoàn thành Luận văn này trước hết em xin gởi lời cám ơn sâu sắc đến
quý Thầy Cô Trường Đại học Cần Thơ đã tận tình giảng dạy, không chỉ mang lại
cho em những kiến thức cơ bản trong lĩnh vực học tập mà còn cả cách sống, cách
làm khi bước chân ra xã hội.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm chỉ dẫn tận tình của Cô Mạc
Giáng Châu đã tạo điều kiện giúp em có thể hoàn thành tốt nhất Luận văn tốt
nghiệp này.
Vì kiến thức và thời gian có hạn, thêm vào đó do lần đầu tiên tiếp xúc nên Luận
văn này không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự góp ý của quý
Thầy Cô, anh chị để luận văn được tốt hơn.
Cuối cùng em xin kính chúc quý Thầy, Cô luôn dồi dào sức khỏe, gặt hái được
nhiều thành công trong công tác giảng dạy, nghiên cứu.
Xin trân trọng kính chào!
Cần Thơ, tháng 5 năm 2012
Sinh viên thực hiện
Ngô Trà My


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẨN
....................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................

.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
Cần Thơ, ngày

tháng

năm 20….


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN
....................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
Cần Thơ, ngày


tháng

năm 20….


“Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoan
điều tra, truy tố, xét xử”

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN ............................................................................5
1.1. Khái quát chung về quyền bào chữa của người chưa thành niên .................5
1.1.1. Khái quát về quyền bào chữa và người bào chữa .........................................5
1.1.1.1. Khái niệm bào chữa ...............................................................................5
1.1.1.2. Khái niệm quyền bào chữa.....................................................................6
1.1.1.3. Khái niệm người bào chữa ................................................................... 11
1.1.1.4. Khái niệm trách nhiệm của người bào chữa ......................................... 16
1.1.2. Khái quát về quyền bào chữa của người chưa thành niên........................... 17
1.1.2.1. Một số khái niệm cơ bản ...................................................................... 17
1.2. Cơ sở lý luận về trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành
niên ....................................................................................................................... 21
1.2.1. Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người chưa thành niên............... 21
1.2.1.1. Luật Hiến Pháp ................................................................................... 21
1.2.1.2. Pháp luật Tố tụng hình sự .................................................................... 22
1.2.2. Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên ............... 22
1.2.3. Tầm quan trọng của người bào chữa dành cho người chưa thành niên ....... 23
CHƯƠNG 2. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HIỆN HÀNH VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ,

XÉT XỬ ............................................................................................................... 25
2.1. Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai
đoạn điều tra ........................................................................................................ 25
2.1.1. Có mặt khi hỏi cung, lấy lời khai ............................................................... 25
2.1.2. Thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến hoạt động bào chữa ................... 28
2.1.3. Gặp bị can, bị cáo khi đang bị tạm giam .................................................... 30
GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

SVTH: Ngô Trà My


“Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoan
điều tra, truy tố, xét xử”

2.2. Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai
đoạn truy tố .......................................................................................................... 33
2.2.1. Xem xét lại bản cáo trạng .......................................................................... 33
2.2.2. Yêu cầu trả hồ sơ điều tra bổ sung ............................................................. 35
2.2.3. Yêu cầu đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.................................................. 37
2.3. Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai
đoạn xét xử ........................................................................................................... 39
2.3.1. Giai đoạn chuẩn bị xét xử .......................................................................... 39
2.3.1.1. Kiểm tra lại việc giao các quyết định của Tòa án đối với bị cáo ........... 39
2.3.1.2. Gặp gỡ trao đổi với bị cáo những vấn đề liên quan hay tình tiết mới của
vụ án ...................................................................................................................... 40
2.3.1.3. Giải thích cho bị cáo biết trình tự thủ tục tại phiên tòa ......................... 41
2.3.2. Giai đoạn tại phiên tòa............................................................................... 41
2.3.2.1. Bắt đầu phiên tòa ................................................................................. 41
2.3.2.2. Quá trình xét hỏi .................................................................................. 43
2.3.2.3. Tranh luận tại phiên tòa ....................................................................... 47

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ VƯỚNG MẮC VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VỀ
TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ....................... 55
3.1. Thực trạng và hướng hoàn thiện về hoạt động của người bào chữa khi bào
chữa cho người chưa thành niên trong vụ án hình sự........................................ 55
3.1.1. Thực trạng ................................................................................................. 55
3.1.2. Nguyên nhân của những tồn tại ................................................................. 59
3.1.3. Hướng hoàn thiện ...................................................................................... 64
3.2. Những bất cập và hướng hoàn thiện trong việc người bào chữa thực hiện
trách nhiệm đối với người chưa thành niên........................................................ 65
3.2.1. Về việc người bào chữa tham gia hỏi cung bị can là người chưa thành niên
.............................................................................................................................. 65

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

SVTH: Ngô Trà My


“Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoan
điều tra, truy tố, xét xử”

3.2.2. Về việc người bào chữa được gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người
chưa thành niên khi đang tạm giam........................................................................ 68
3.2.3. Về việc cấp giấy chứng nhận bào chữa ...................................................... 69
3.2.4. Về việc từ chối người bào chữa ................................................................. 72
3.2.5. Về vai trò của người bào chữa khi tham gia bào chữa cho người chưa thành
niên........................................................................................................................ 73
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

SVTH: Ngô Trà My


“Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoan
điều tra, truy tố, xét xử”

LỜI NÓI ĐẦU
……
1. Lý do chọn đề tài
Những năm gần đây, với chính sách mở cửa của Nhà nước cùng với nền kinh
tế thị trường thì Việt Nam đã có sự chuyển mình và phát triển mạnh mẽ. Đời sống
của người dân ngày càng được cải thiện, con người được tiếp xúc nhiều hơn với các
phương tiện hiện đại trên thế giới, tầm nhận thức trong cuộc sống ngày càng được
nâng cao. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển đó nó song song phát sinh và tồn tại
nhiều vấn đề tiêu cực nảy sinh trong xã hội, ảnh hưởng đến đạo đức xã hội, nhận
thức của con người thay đổi theo chiều hướng xấu mà chúng ta chưa kiểm soát hết
được. Nhiều đối tượng, loại tội phạm mới trong nhiều lĩnh vực đang phát sinh và
gia tăng. Nhất là đối với đối tượng phạm tội là người chưa thành niên - lứa tuổi mà
trình độ và khả năng nhận thức pháp luật còn nhiều hạn chế, chưa phát triển đầy đủ
về thể chất lẫn tinh thần nên dễ bị lôi kéo, xúi giục vào những con đường phạm
pháp. Số lượng người chưa thành niên phạm tội gia tăng, hành vi và mức độ phạm
tội ngày càng nguy hiểm đang là mối lo ngại hàng đầu của toàn xã hội. Trước tình
hình xã hội đặt ra, yêu cầu cấp thiết hiện nay là chúng ta cần phải có những biện
pháp cấp bách và sự trợ giúp về mặt pháp lý kịp thời và hiệu quả nhằm ngăn chặn
và hạn chế số lượng người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn hiện nay. Mặt
khác, thông qua đó cũng tăng cường sự trợ giúp về mặt pháp lý cho đối tượng phạm
tội này nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước pháp luật. Bản chất
loại đối tượng này còn rất hạn chế về tâm sinh lý cũng như nhận thức nên khó có

thể tự mình đứng ra để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước cơ quan
tiến hành tố tụng. Vì vậy việc tăng cường trách nhiệm của xã hội nhằm đảm bảo
tính công bằng trong quá trình thực thi pháp luật dành cho đối tượng này là mang
tính cấp thiết.
Pháp luật Việt Nam đã có những quy định cụ thể để đảm bảo quyền và lợi
ích của người chưa thành niên. Trong đó có quyền bào chữa – là một trong những
bảo đảm thực thi quyền công dân mà Hiến pháp đã quy định để bảo vệ người bị tình
nghi trong vụ án hình sự. Tại Điều 132 Hiến pháp 1992 quy định: “Tổ chức luật sư
được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa” nhằm đảm bảo
quyền và lợi ích của bị can, bị cáo nói chung và người chưa thành niên nói riêng.
GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

1

SVTH: Ngô Trà My


“Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoan
điều tra, truy tố, xét xử”

Tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 chế định bào chữa không chỉ được quy định cụ
thể rõ ràng mà còn được mở rộng hơn cả về thời điểm tham gia lẫn các quyền và
nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng như của người bào chữa. Điều 56
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định: “người bào chữa có thể là luật sư; người đại
diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân”, họ
có vị trí, vai trò và chức năng đặc biệt, đó là giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý,
kiểm tra, giám sát hoạt động điều tra, truy tố, xét xử bảo đảm cho quá trình giải
quyết vụ án hình sự được khách quan và đúng pháp luật. Sự tham gia của người bào
chữa trong tố tụng hình sự là cần thiết và khách quan, trước hết là thực hiện nguyên

tắc “bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo”. Đặc biệt là khi tham gia vào hoạt
động bào chữa cho người chưa thành niên thì sự có mặt của người bào chữa là yếu
tố bắt buộc, góp phần đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn
diện, đầy đủ và chính xác. Với những quy định mở rộng và ưu đãi đó đã tạo điều
kiện cho người bào chữa có thể thực hiện tốt trách nhiệm của mình khi tham gia bào
chữa cho bị can, bị cáo nói chung và nhất là đối với đối tượng là người chưa người
chưa thành niên nói riêng. Một mặt góp phần cho việc bào chữa đạt hiệu quả cao có
thể phần nào hạn chế được tình hình phạm tội của người chưa thành niên trong giai
đoạn hiện nay.
Tuy nhiên trên thực tế việc thực thi và áp dụng pháp luật vào việc bào chữa để
đảm bảo quyền và lợi ích cho người chưa thành niên còn rất nhiều hạn chế. Việc
đảm bảo cho người bào chữa có đủ điều kiện hoàn thành tốt trách nhiệm bào chữa
của mình vẫn chưa được quan tâm và coi trọng đúng mức nên người bào chữa còn
gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình tác nghiệp. Bên cạnh đó trách nhiệm, tinh
thần và thái độ của người bào chữa khi tham gia bào chữa cho người chưa thành
niên cũng chưa được đảm bảo, còn mang nặng tính hình thức. Chính vì thế mà chất
lượng bào chữa cho người chưa thành niên chưa đạt được kết quả cao. Kéo theo đó
là số lượng người chưa thành niên phạm tội ngày càng gia tăng đang là mối lo ngại
rất lớn cho toàn xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng và tính thực tiễn từ những vấn đề nêu trên cho
thấy, việc nghiên cứu đề tài “Trách nhiệm của người bào chữa đối với người
chưa thành niên trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử” là vấn đề cấp thiết. Đó
cũng chính là lí do thúc đẩy người viết lựa chọn và nghiên cứu đề tài luận văn này.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

2

SVTH: Ngô Trà My



“Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoan
điều tra, truy tố, xét xử”

2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Quá trình giải quyết vụ án hình sự trải qua bốn giai đoạn khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử. Đối với người bào chữa tham gia vào quá trình Tố tụng thì theo quy định
tại Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 thì: “Người bào chữa tham gia tố tụng từ
khi khởi tố bị can”. Nhưng khi tham gia bào chữa cho người chưa thành niên thì
trách nhiệm của người bào chữa thường được thể hiện rõ nét nhất ở ba giai đoạn
điều tra, truy tố, xét xử. Vì thế, người viết tập trung nghiên cứu về trách nhiệm của
người bào chữa trong ba giai đoạn nói trên nhằm nói lên tầm quan trọng của người
bào chữa đối với người chưa thành niên trong quá trình tố tụng.
Theo quy định của pháp luật Tố tụng hình sự, người bào chữa không những
có mặt trong phiên tòa sơ thẩm mà còn tham gia trong những phiên tòa phúc thẩm.
Nhưng khi xem xét về tính chất thì dù ở phiên tòa xét xử nào, dù được mời, được
yêu cầu hay chỉ định thì người bào chữa cũng đều tham gia với tư cách là người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói chung và
người chưa thành niên nói riêng. Vì vậy, đối với đề tài luận văn này tác giả chỉ giới
hạn nghiên cứu về đối tượng là người chưa thành niên để nói lên trách nhiệm và tầm
quan trọng của người bào chữa đối với đối tượng này - đối tượng đặc biệt rất cần
được bảo vệ và uốn nắn.
Với những vấn đề nêu trên tác giả chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu cơ sở lý
luận, phân tích các quy định của pháp luật hiện hành khi bàn về trách nhiệm của
người bào chữa đối với người chưa thành niên trong ba giai đoạn điều tra, truy tố và
xét xử. Đồng thời đề ra những phương hướng hoàn thiện về trách nhiệm của người
bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài “Trách nhiệm của người bào chữa đối với
người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử” nhằm làm sáng

tỏ một số vấn đề về pháp lý và thực tiễn về trách nhiệm của người bào chữa đối với
người chưa thành niên. Về mặt pháp lý, mặc dù Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam
đã có những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa đối với bị
can, bị cáo nói chung và trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành
niên nói riêng. Tuy vậy, thực tế để đảm bảo thực thi tốt trách nhiệm bào chữa cho
người chưa thành niên còn nhiều khó khăn, bất cập từ mọi phía, có thể từ cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, cũng như những hạn chế về trình độ cũng
GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

8

SVTH: Ngô Trà My


“Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoan
điều tra, truy tố, xét xử”

như thái độ làm việc của người bào chữa. Điều này sẽ dẫn đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người chưa thành niên không được đảm bảo, quá trình tố tụng không
chính xác khách quan, rất dễ làm oan sai người vô tội. Giải pháp đề ra là cần hoàn
thiện lại các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa đối
với bị can, bị cáo nói chung và nâng cao trách nhiệm của người bào chữa đối với
người chưa thành niên nói riêng. Đó sẽ là tiền đề góp phần vào công cuộc đấu tranh
phòng chống người chưa thành niên phạm tội không để lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội và đóng góp tích cực vào tiến trình cải cách tư pháp trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài luận văn này, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
như sau: phương pháp nghiên cứu trên tài liệu, sách vở; phương pháp nghiên cứu và
phân tích luật viết; phương pháp sưu tầm số liệu thực tế và phương pháp tổng hợp
các thông tin thông qua các bài viết, các văn bản pháp luật có liên quan, một số

sách, các công trình nghiên cứu có giá trị và tạp chí chuyên ngành.
5. Cấu trúc đề tài
Đề này nghiên cứu luận văn này gồm có ba chương:
- Chương 1: Những vấn đề chung về quyền bào chữa của người chưa thành
niên.
- Chương 2: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về trách
nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra,
truy tố, xét xử.
- Chương 3: Một số vướng mắc và giải pháp hoàn thiện về trách nhiệm của
người bào chữa đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn hiện nay.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

4

SVTH: Ngô Trà My


“Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoan
điều tra, truy tố, xét xử”

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN
BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
-----1.1. Khái quát chung về quyền bào chữa của người chưa thành niên
1.1.1. Khái quát về quyền bào chữa và người bào chữa
1.1.1.1. Khái niệm bào chữa
Trong lịch sử pháp luật đã thừa nhận nhiều cách bào chữa khác nhau, ở
những chế độ khác nhau thì quan điểm giai cấp cũng sẽ không giống nhau. Và trong
mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử thì vấn đề bào chữa cũng có nhiều quan niệm

Ở thời cổ đại xa xưa, khi có một người bị nghi ngờ là phạm tội thì họ được
bào chữa bằng cách trói chân, trói tay rồi quẳng xuống nước mà không chìm thì họ
được coi là vô tội hoặc nhúng tay vào nước sôi mà không bị bỏng thì được coi là vô
tội. Cách bào chữa mỏng manh theo ý trời này đối với số phận con người thực chất
là lời buộc tội họ một cách hùng hồn nhất, vì dù có vô tội họ cũng cầm chắc trong
tay một bản án kết tội, khó có thể bào chữa được1, bởi lẽ có mấy ai bị trói tay, trói
chân quẳng xuống nước mà không bị chìm, nhúng tay vào nước sôi lại không bị
bỏng.
Ở thời kỳ phong kiến người ta đã biết dùng những lời nói biện hộ cho những
hành vi sai trái mà bản thân mình không thực hiện hoặc có thực hiện nhưng vẫn
biện hộ cho hành vi của mình là đúng để tránh bị phạt vạ hay trách móc của người
khác gọi là “bào chữa”. Bào chữa là dùng lời nói hay đưa ra những chứng cứ chứng
minh một vấn đề nào đó mà chính bản thân mình cho là đúng hoặc là những việc
làm sai trái để nhận được sự khoan hồng tha thứ từ người khác.
Trong bối cảnh xã hội hiện nay thì “bào chữa”được dùng để nói lên quyền
được chống lại sự buộc tội từ người khác hoặc từ cơ quan quyền lực Nhà nước.
Theo Từ điển luật học thì “bào chữa” được hiểu là “việc dùng lý lẽ, chứng cứ để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ bị can, bị cáo”2. Bào chữa
1

Vũ Đức Khiển, Phạm Xuân Chiến, Họ vẫn chưa bị xem là có tội - Quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo
Nxb Pháp lý 1989, trang 50.
2
Từ điển luật học, do Nhà xuất bản Tư pháp và Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa xuất bản 2006.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

5

SVTH: Ngô Trà My



“Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoan
điều tra, truy tố, xét xử”

còn được sử dụng rộng rãi hơn trước, không chỉ được hiểu là dùng lời nói để biện
hộ mà còn đưa ra những chứng cứ, nhân chứng, vật chứng để bào chữa. Không
những thế mà còn được nâng lên thành những điều luật cho phép người bị buộc tội
có cơ hội để chứng minh mình vô tội hay để giảm nhẹ tội do mình gây ra.
Bào chữa là một trong những hoạt động đặc trưng của Tố tụng hình sự, là
hình thức biểu hiện ưu thế của công lý nhằm đảm bảo quyền dân chủ trong hoạt
động tố tụng nói chung cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo nói
riêng. Mà trong đó người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sử dụng chức năng này có thể để
tự mình hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Chế định bào chữa cũng được
quy định trong Hiến pháp 1992 tại Điều 132 như sau: “Quyền bào chữa của bị cáo
được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho
mình”. Và trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 tại Điều 11 có quy định: “Người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của bộ luật này”.
Như vậy, từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm bào chữa như sau:
Bào chữa chính là dùng lý lẽ, đưa ra chứng cứ chứng minh cho sự không có tội hoặc
làm giảm nhẹ trách nhiệm pháp lý của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trước các cơ
quan tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự.
1.1.1.2. Khái niệm quyền bào chữa
Cũng như quyền công tố, quyền bào chữa của người bị buộc tội (bao gồm cả
quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa) là một trong những chế định
cổ xưa và lâu đời của pháp luật tố tụng hình sự. Điều dễ nhận thấy là ngày nay,
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cũng như các nước trên thế giới đều quy định về
quyền bào chữa như một trong những quyền cơ bản, quan trọng và cần thiết nhất

của người bị buộc tội. Việc pháp luật ghi nhận quyền bào chữa của người bị buộc
tội không chỉ là bởi vì nó là một trong những quyền tự nhiên của con người được
thừa nhận ở bất cứ đâu, trong bất kỳ phạm vi không gian, thời gian nào, mà còn là
do vai trò quan trọng, không thể thiếu của chức năng bào chữa trong tố tụng hình
sự. Nếu trong tố tụng hình sự có chức năng buộc tội thì song song với nó phải có
chức năng bào chữa. Cùng với chức năng buộc tội, sự hiện hữu của chức năng bào
chữa là một trong những điều kiện cần thiết giúp cho phán quyết của Toà án được

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

6

SVTH: Ngô Trà My


“Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoan
điều tra, truy tố, xét xử”

công bằng, khách quan; giúp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có cơ hội bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước pháp luật.
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là một trong những chế định quan trọng
và phức tạp, vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn cao.Từ trước đến nay
đã được nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu xung quanh khái niệm nội dung, bản
chất chủ thể… của quyền bào chữa song vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Do vậy
việc xác định khái niệm quyền bào chữa của bị can, bị cáo trên cơ sở lý luận và thực
tiễn phù hợp với quy định của pháp luật là cần thiết nhằm không ngừng phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa, củng cố cơ sở pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân.
Ở các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử, Nhà nước luôn có những
quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Những quyền cơ bản đó

được Nhà nước đảm bảo thực hiện, đồng thời công dân cũng có nghĩa vụ tôn trọng
và bảo đảm quyền lợi của người khác. Một trong các hình thức thể hiện quyền cơ
bản của công dân được Nhà nước đảm bảo thực hiện đó là quyền được bảo vệ mình
trước cơ quan pháp luật trong đó có quyền bào chữa. Tuy nhiên xung quanh khái
niệm quyền bào chữa lại có nhiều quan điểm khác nhau. Cụ thể như:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Quyền bào chữa là tổng hòa các hành vi tố
tụng hướng tới việc bãi bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hoặc làm
giảm trách nhiệm của bị can”3.
Quan điểm thứ hai thì: “Quyền bào chữa không chỉ thuộc về bị can, bị cáo
mà còn thuộc về người bị tình nghi phạm tội, người bị kết án, người bào chữa, bị
đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ”4.
Quan điểm thứ ba lại nói: “Quyền bào chữa trong Bộ luật Tố tụng hình sự là
tổng hòa các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án
thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần
hay toàn bộ sự buộc tội của Cơ quan tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ
trách nhiệm hình sự của mình trong Tòa án hình sự 5.

3

Phạm Hồng Hải, Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội, Nxb Công An Nhân Dân, Hà Nội 1999,
trang 14.
4
Kỷ yếu đề tài khoa học, Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của Luật Tố tụng hình sự, Viện kiểm
sát nhân dân năm 1995.
5
Phạm Hồng Hải, Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội, Nxb Công An Nhân Dân, Hà Nội
1999,trang 29,30.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu


7

SVTH: Ngô Trà My


“Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoan
điều tra, truy tố, xét xử”

Quan điểm thứ tư cho rằng: “Không chỉ bị cáo mà cả người bị hại cũng cần
đến việc bào chữa. Nhân chứng, giám định viên và cả những người khác cũng vậy
nếu quyền lợi của họ bị xâm hại”6.
Nếu cho rằng quyền bào chữa chỉ thuộc về bị can như quan điểm thứ nhất thì
quá hẹp, còn nếu cho rằng quyền bào chữa còn thuộc về người bị tình nghi phạm
tội, người bị kết án, người bị hại, nguyên đơn dân sự…như quan điểm thứ hai, thứ
ba và thứ tư thì quá rộng. Nhìn chung tất cả các quan điểm về quyền bào chữa nói
trên chưa hoàn thành chính xác, chỉ xoay quanh phạm vi áp dụng chứ chưa đi thẳng
vào vấn đề làm rõ như thế nào là quyền bào chữa nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác
nhau. Vì vậy để có cách hiểu chính xác về nội dung cũng như phạm vi áp dụng cần
làm sáng tỏ nội dung của từ “quyền” và cụm từ “bào chữa” để có cách hiểu chính
xác hơn về “quyền bào chữa”.
Theo Từ điển Luật học thì “quyền” được hiểu là “khái niệm pháp lý để chỉ
những điều mà pháp luật công nhận và bảo đảm thực hiện đối với cá nhân, tổ chức
để theo đó cá nhân, tổ chức được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được
ngăn cản, hạn chế”7.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Bào chữa là dùng lý lẽ và chứng cứ để bênh
vực cho đương sự nào đó thuộc vụ án hình sự hay dân sự trước Tòa án hoặc cho
một việc làm đang bị lên án”8.
Qua việc tìm hiểu các quan điểm cũng như các đinh nghĩa khoa học về quyền
bào chữa có thể xây dựng khái niệm quyền bào chữa như sau: Quyền bào chữa là
tổng thể các quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được pháp luật ghi nhận và

bảo đảm thực hiện trong việc sử dụng các lý lẽ, chứng cứ, tài liệu nhằm bác bỏ một
phần hay toàn bộ lời buộc tội, hoặc nhằm giảm nhẹ trách nhiệm pháp lý và bảo vệ
các quyền, lợi ích hợp pháp khác nhau của mình.
*Đặc điểm của quyền bào chữa
Thứ nhất: Chủ thể của quyền bào chữa là người bị tình nghi
Người bị tình nghi trong vụ án là người bị buộc tội trong trường hợp cơ quan
điều tra tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu, bao gồm người có hành động
6

Những vấn đề lý luận về Luật hình sự, Luật Tố tụng hình sự và tội phạm học.
Từ điển luật học, Nxb Tư pháp và Nxb Từ điển bách khoa- 2006 trang 33 và trang 648.
8
Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng-2006 trang 38.
7

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

8

SVTH: Ngô Trà My


“Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoan
điều tra, truy tố, xét xử”

phạm pháp bị mời làm việc, người bị bắt, hoặc bị tạm giữ, nhưng chưa bị khởi tố bị
can. Người bị tình nghi trong vụ án trước hết là người bị buộc tội. Khái niệm buộc
tội cần được hiểu là một người bị cơ quan bảo vệ pháp luật nghi ngờ do hành động
phạm pháp của họ và trên cơ sở các hoạt động điều tra ban đầu như bị triệu tập, bị
mời làm việc, bị xác minh, bị lấy lời khai… Nhưng, song song với những hoạt động

của cơ quan điều tra như thế thì mặc dù chưa bị khởi tố với tư cách bị can nhưng
“người bị bắt, bị tạm giữ trình bày về những tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi
thưc hiện tội phạm” (Điều 71 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003). Pháp luật nước ta luôn
hướng tới giá trị nhân đạo dù trong bất kỳ trường hợp nào cũng tạo điều kiện cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trình bày những tình tiết liên quan nhằm mục đích
chứng minh cho hành vi của bản thân mình là vô tội. Nhưng những tình tiết đó vẫn
chưa đáng tin mà phải qua quá trình điều tra của Cơ quan tiến hành tố tụng mới biết
được sự thật, đúng sai của vụ án. Nếu trong trường hợp đã có đủ cơ sở để khởi tố vụ
án thì người bị tạm giữ lúc này sẽ trở thành bị can. “Khi bị can đó bị khởi tố về vụ
án hình sự” (khoản 1 Điều 49 Bộ luật Tố tụng hình sự) và trải qua quá trình điều tra
kéo dài thì có đủ chứng cứ chứng minh hành vi của họ là vi phạm pháp luật thì lúc
này họ sẽ trở thành bị cáo “khi bị Tòa án có quyết định đưa ra xét xử” (khoản 1
Điều 50 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003). Như vậy, có thể khẳng định rằng trong
những người tham gia tố tụng chỉ có người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người bị tình
nghi. Đối với từng giai đoạn khác nhau của quá trình Tố tụng thì ở mỗi giai đoạn
người bị tình nghi có một tên goi riêng, từ người bị tạm giữ rồi đến bị can, bị cáo.
Bị can, bị cáo vẫn là người bị tình nghi nhưng lúc này sự nghi ngờ đối với họ có
mức độ cao hơn so với người bị tạm giữ ban đầu. Tuy nhiên cho dù sự nghi ngờ đó
đã đến mức độ chắc chắn là sẽ phạm tội vì dấu hiệu phạm tội đã được Cơ quan điều
tra xác nhận đã vi phạm một tội trong Bộ luật hình sự. Nhưng hành vi của người bị
tình nghi này vẫn chưa xem là có tội khi chưa có phán quyết của Tòa án. Và nếu
như Tòa án đã kết án và tuyên phạt bị cáo một tội nào đi chăng nữa thì cũng không
vì thế mà người đó có tội. Bởi lẽ theo tinh thần của Hiến pháp năm 1992 tại Điều 72
và Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự đã khẳng định: “Không ai bị xem là có tội và
phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật”. Nguyên tắc này đòi hỏi các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố
tụng phải tạo điều kiện để bị cáo và người bào chữa cho bị cáo sử dụng các biện
pháp do luật định để minh oan hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu


9

SVTH: Ngô Trà My


“Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoan
điều tra, truy tố, xét xử”

Thứ hai: Quyền bào chữa chỉ xuất hiện trong Tố tụng hình sự
Đây là một đặc điểm đặc trưng mà chỉ trong Tố tụng hình sự mới có. Vì chỉ
có trong Tố tụng hình sự mới xuất hiện những đối tượng như: người bị tạm giam, bị
can, bị cáo khi họ bị nghi ngờ hay đã có hành vi vi phạm pháp luật hình sự thì họ có
quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình trước pháp luật. Đây là một điểm đặc biệt mà khi so sánh với các Tố
tụng khác ở Việt Nam như Tố tụng hành chính, Tố tụng dân sự hoàn toàn không có
sử dụng đến thuật ngữ “bào chữa” này. Nếu như đem một “lỗi” của một tranh chấp
dân sự ra so sánh với một hành vi “phạm tội” bên hình sự thì về bản chất cũng khác
nhau hoàn toàn. Bởi lẽ không ai gọi là “tội” trong tranh chấp dân sự và ngược lại
không ai gọi đó là “hành vi phạm lỗi” trong Tố tụng hình sự. Ở đây có thể đưa ra
một ví dụ về tranh chấp hợp đồng mua bán trong tranh chấp dân sự. Khi tranh chấp
xảy ra dù đúng hay sai các đương sự cũng tự đứng ra bảo vệ cho bản thân mình,
luôn cho rằng mình là người đúng trong mọi trường hợp. Không hề đề cập đến
“quyền bào chữa” mà khi có tranh chấp xảy ra mà ở đây chỉ tồn tại “quyền bảo vệ”.
Nhưng sự đánh giá chính xác về một người có “lỗi” hay có “tội” hay không thì phải
phụ thuộc hoàn toàn vào phán quyết của Tòa án.
Tóm lại, quyền bào chữa chỉ xuất hiện trong tố tụng hình sự, ở đây người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa bằng việc
sử dụng các lý lẽ, chứng cứ, tài liệu nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ lời buộc tội,
hoặc nhằm giảm nhẹ trách nhiệm pháp lý để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của

mình trước pháp luật cũng như trước Cơ quan tiến hành tố tụng.
Thứ ba: Quyền bào chữa là một trong các bộ phận cấu thành quyền công dân
để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình
Cũng như các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp Việt Nam hiện hành dành
riêng Chương V quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Và cũng như
nhiều nước trên thế giới, quyền công dân Việt Nam xuất phát từ quyền con người:
“Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và
được quy định trong Hiến pháp và luật” (Điều 50).

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

10

SVTH: Ngô Trà My


“Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoan
điều tra, truy tố, xét xử”

Quy định này của Hiến pháp thể chế hóa quan điểm của Đảng “quyền công
dân, quyền con người và tự do cá nhân được bảo đảm bằng pháp luật, được thực
hiện trong khuôn khổ pháp luật và chỉ bị ràng buộc bởi pháp luật”9.
Quyền công dân là một trong những quyền Hiến định đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân. Nếu như các quyền con người thể hiện ở quyền công
dân thì quyền công dân phải là những quyền của con người mà được Nhà nước và
pháp luật thừa nhận. Và trong những quyền đó có một quyền đáng kể đến ở đây đó
là “quyền bào chữa”. Quyền bào chữa thể hiện ở chỗ, nếu một người bị nghi ngờ có
hành vi vi phạm pháp luật thì bằng quyền bào chữa của mình có quyền đưa ra
những tình tiết và chứng cứ chứng minh cho sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm

pháp lý mình trong vụ hình sự trước Cơ quan tiến hành tố tụng.
1.1.1.3. Khái niệm người bào chữa
Trong những người tham gia tố tụng hình sự quy định tại Chương 3 Bộ luật
Tố tụng hình sự 1988 thì người bào chữa là người có vị trí, vai trò và chức năng đặc
biệt. Tuy nhiên, cho đến nay trong lý luận pháp lý và thực tiễn tố tụng hình sự vẫn
chưa có khái niệm chính thức và thống nhất về người bào chữa. Hiện nay, trong
khoa học pháp lý và thực tiễn tố tụng có những cách hiểu khác nhau về người bào
chữa.
Có một số quan điểm cho rằng: “Người bào chữa là người giúp đỡ Tòa án
trong việc xác định tất cả các tình tiết cần thiết về vụ án để cuối cùng Tòa án ra một
bản án có căn cứ và đúng pháp luật”10 .
Một tác giả khác còn khẳng định rõ hơn rằng: “Người bào chữa là người
tham gia tố tụng để giúp đỡ Tòa án”11. Ngoài ra, cũng có không ít người vẫn quan
niệm người bào chữa là “thầy cãi”…
Trong chương IV Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 ( Điều 56, 57, 58) thì người
bào chữa được quy định như sau: “Người bào chữa là người được các cơ quan tiến
hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định người
bị tạm giữ,bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt
9

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2005, trang 339.
10
Xem M.Chen – Txôp M.A, Luật sư trong Tố tụng hình sự Xô Viết, M. 1954, trang 53.
11
Xem Ngô Hướng Đàm, Về quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Tạp chí Luật học số 03 năm 1977.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu


11

SVTH: Ngô Trà My


“Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoan
điều tra, truy tố, xét xử”

pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”. Theo khoản 1 Điều 56 Bộ
luật tố tụng hình sự 2003 thì người bào chữa có thể là:
Luật sư bào chữa: Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can,bị
cáo: Là cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị tạm giữ,bị can,bị cáo chưa thành
niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần.
Bào chữa viên nhân dân: Có thể là người đươc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử đề bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo là thành viên của tổ chức mình. Khi tham gia tố tụng với tư cách người bào
chữa, luật sư, đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, bào chữa viên nhân dân đều có
quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định chung cho người bào chữa.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về người bào chữa trong Tố
tụng hình sự như sau: Người bào chữa trong tố tụng hình sự là người tham gia tố
tụng để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm pháp lý của người bị
buộc tội, giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ, thông qua đó góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
*Đặc điểm của người bào chữa
Thứ nhất, người bào chữa là người bảo vệ cho người bị tình nghi
Người bị tình nghi là người bị Cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghi ngờ đã
có một hành vi vi phạm pháp luật nào đó cần phải được điều tra làm rõ. Trong
trường hợp này yêu cầu của người bị tình nghi hay người đại diện hợp pháp của họ
đặt ra là cần có người bào chữa. Vì vậy người bào chữa sẽ xuất hiện với tư cách là

được mời hay được triệu tập từ phía Cơ quan tiến hành tố tụng. Mục đích sự tham
gia của người bào chữa trong tố tụng hình sự là bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị tình nghi. Bằng kiến thức pháp luật vốn có của mình, trong mỗi
giai đoạn của quá trình tố tụng, người bào chữa luôn tìm ra những chứng cứ gỡ tội
hoặc làm giảm trách nhiệm hình sự cho họ và giúp đỡ họ về những vấn đề pháp lý
cần thiết. Nhưng những vấn đề đó phải nằm trong khuôn khổ pháp luật cho phép và
phải tôn trọng sự thật pháp luật.
Vì vậy, khi tham gia tố tụng dù trong bất luận trường hợp nào người bào
chữa cũng phải đảm bảo hai vấn đề tồn tại song song là vừa đảm bảo được quyền và
lợi ích hợp pháp của người bị tình nghi được bảo vệ vừa không vi phạm pháp luật
đề ra trong qua trình bào chữa. Đây là vấn đề luôn được chú trọng và nâng cao.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

12

SVTH: Ngô Trà My


“Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoan
điều tra, truy tố, xét xử”

Thứ hai, người bào chữa phải được chấp nhận tham gia tố tụng bởi người bị
tình nghi và Cơ quan tiến hành tố tụng
Như đã đề cập, quyền bào chữa là các quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện trong việc sử dụng các lý lẽ,
chứng cứ, tài liệu nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ lời buộc tội, hoặc nhằm giảm
nhẹ trách nhiệm pháp lý và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp khác nhau của mình.
Các chủ thể này có quyền sử dụng mọi phương tiện và phương pháp do luật định để
làm rõ sự thật của vụ án, phát hiện và làm sáng tỏ những tình tiết để chứng minh bị

can, bị cáo không có tội và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đồng thời
giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý, đảm bảo cho họ thực hiện được những quyền
công tố do luật định. Nhưng trong thực tiễn hiện nay cho thấy đâu phải bất cứ ai
cũng có khả năng tự đứng ra bào chữa để bảo vệ quyền lợi của mình.
Điển hình như đối với đối tượng là người chưa thành niên phạm tội hay
người bị suy nhược về thể chất hoặc tinh thần thì khả năng tự bào chữa hoàn toàn
không được bảo đảm.Và điều kiện đặt ra ở đây là họ và người thân của họ cần có
người bào chữa đứng ra để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trước pháp luật.
Người bị tình nghi có thể trực tiếp mời người bào chữa hoặc ủy quyền cho
người thân mời người bào chữa và đương nhiên người bào chữa đó phải được Cơ
quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận bào chữa thì mới có tư cách ,đủ tiêu
chuẩn, để tham gia vào hoạt động bào chữa của mình.Nhưng cũng có một số trường
hợp nếu như bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời được
người bào chữa thì Cơ quan tiến hành tố tụng sẽ cử người bào chữa (Điều 51 Bộ
Luật Tố tụng hình sự 2003)12. Tuy nhiên nếu trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo không đồng ý với sự chỉ định người bào chữa của cơ quan tiến hành tố tụng thì
chính họ hoặc người đại diện cho họ có quyền từ chối hoặc thay đổi người bào chữa
khác. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam luôn tạo điều kiện để người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo thực hiện quyền lợi của mình nhất là trong hoạt động bào chữa.
12

Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định: “Trong những trường hợp sau đây, nếu bị can, bị
cáo, hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề
nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên
của tổ chức mình:
a) Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật
hình sự;
b) Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất”.


GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

13

SVTH: Ngô Trà My


“Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoan
điều tra, truy tố, xét xử”

Vì vậy, người bào chữa có thể xuất hiện trong vụ án hình sự hay không phải
phụ thuộc vào ý chí của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và sự chấp nhận của Cơ
quan tiến hành tố tụng. Đó là hai điều kiện để đảm bảo sự có mặt của người bào
chữa trong các vụ án hình sự.
Thứ ba, người bào chữa không có quyền và lợi ích trong vụ án hình sự
Người bào chữa là người tham gia tố tụng không có quyền và lợi ích liên
quan đến vụ án. Họ tham gia tố tụng là nhằm để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp cho người bị buộc tội. Người bào chữa không phải là người tiến hành tố tụng
mà chỉ là người tham gia tố tụng. Từ “tham gia” nói lên tính chất, vai trò của người
bào chữa. “Người tham gia” chỉ là người góp phần hoạt động của mình vào một
hoạt động chung nào đó, do những chủ thể khác chủ động và chính thức tiến hành.
Điển hình như: người bào chữa thực hiện việc bào chữa bằng cách giúp bị cáo thực
hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng mà pháp luật quy định, tham gia xét hỏi, trình
bày lời bào chữa và đối đáp với Kiểm sát viên… Hơn nữa, người bào chữa không
phải là người được nhân danh quyền lực Nhà nước và không được sử dụng quyền
lực Nhà nước như những tiến hành tố tụng. Người bào chữa không có quyền và lợi
ích trong vụ án hình sự. Việc họ tham gia tố tụng bất luận trong trường hợp nào
cũng chỉ để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Cơ sở
cho sự hiện diện của họ trong Tố tụng hình sự xuất phát từ hợp đồng bào chữa giữa
họ với người bị buộc tội (hoặc với người đại diện hợp pháp của người bị buộc tội)

và phải được sự chấp thuận của Cơ quan tiến hành tố tụng. Trong trường hợp đặc
biệt do Bộ luật tố tụng hình sự quy định, nếu người bị buộc tội hoặc người đại diện
hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì các Cơ quan tiến hành tố tụng yêu
cầu Đoàn Luật sư cử người bào chữa cho họ và dĩ nhiên ngay trong trường hợp này
sự tham gia của người bào chữa cũng phải được sự đồng ý của người bị buộc tội.
Nhìn chung, dù bất luận trong trường hợp nào đi nữa người bào chữa cũng
xuất hiện trong vai trò là người bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo. Mục đích của người bào chữa hướng tới đó là sự công bằng
trong xã hội, không bỏ lọt tội phạm và không xử oan người vô tội.
*Phân loại người bào chữa
Luật sư: Là người hoạt động chuyên nghiệp tham gia trong một đoàn Luật
sư theo quy định của pháp luật. Điều 2 Luật Luật sư năm 2006 cũng đưa định nghĩa:
“Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật
GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

14

SVTH: Ngô Trà My


“Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoan
điều tra, truy tố, xét xử”

này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây
gọi chung là khách hàng)”. Để trở được công nhận là một Luật sư thì cá nhân phải
đáp ứng các điều kiện như: “ là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã
được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ
bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư, đã được cấp chứng chỉ hành
nghề luật sư và gia nhập một đoàn luật sư”. (Điều 10 và Điều 11 Luật Luật sư năm

2006). “Luật sư được lựa chọn hình thức để hành nghề theo một trong hai hình thức
là hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân”
(Điều 23 Luật Luật sư năm 2006). Những Luật sư được người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ mời làm người bào chữa để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ khi luật sư này không thuộc một trong những điều kiện
không được bào chữa được quy định tại Khoản 2 Điều 56 Bộ luật Tố tụng hình sự:
“Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc
đang tiến hành tố tụng trong vụ án; Người tham gia trong vụ án đó với tư cách là
người làm chứng, người giám định hoặc người phiên dịch”. Ngoài những trường
hợp đó ra thì Luật sư được mời làm người bào chữa và được Cơ quan tiến hành tố
tụng đồng ý cấp giấy chứng nhận bào chữa thì Luật sư được mời mới trở thành Luật
sư bào chữa trong vụ án hình sự.
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: Người đại
diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể tham gia tố tụng với tư
cách là người bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người cần
họ bào chữa. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự không quy định rõ thế nào là
người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Nên có thể vận dụng
Điều 58 Bộ luật dân sự về giám hộ. Tại khoản 1 Điều 58 có quy định: “Giám hộ là
việc cá nhân, tổ chức (sau đây gọi chung là người giám hộ) được pháp luật quy
định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự (sau đây gọi chung
là người được giám hộ)”.Và tại điểm a khoản 2 Điều 58 Bộ luật dân sự có quy định
về người được giám hộ đương nhiên là: “Người chưa thành niên không còn cha,mẹ
không xác định được cha mẹ hoặc cha mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự, bị Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ
không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó, và nếu cha, mẹ có
yêu cầu”. Hoặc “người đại diện theo pháp luật bao gồm: Cha, mẹ đối với con chưa

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu


15

SVTH: Ngô Trà My


“Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoan
điều tra, truy tố, xét xử”

thành niên; Người giám hộ đối với người được giám hộ” (Điều 141 Bộ luật dân sự).
Như vậy, dù trong những trường hợp là người giám hộ hay người đại diện theo pháp
luật cũng có thể được vân dụng là người đại diện hợp pháp. Do vậy, họ có thể tham
gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, vì mục đích duy nhất mà họ hướng tới là
bảo vệ quyền và lợi ích của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đồng thời việc tham
gia của họ vào quá trình tố tụng sẽ giúp cho việc giải quyết vụ án đạt hiệu quả cao
hơn. Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 đã có quy định cụ thể về các quyền và nghĩa vụ
của những người tham gia tố tụng, yêu cầu các Cơ quan tiến hành tố tụng và những
người tham gia tố tụng khác phải tôn trọng và thực hiện.
Bào chữa viên nhân dân: Ra đời trên cơ sở Sắc lệnh 69 do Chủ tịch nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành vào ngày 18/6/1949, chế định bào chữa viên
nhân dân còn tồn tại đến ngày nay và được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự
tại Điều 56 “người bào chữa có thể là bào chữa viên nhân dân”. Theo quy định tại
Nghị định Số 01/NĐ-VY ngày 12/01/1950 của Bộ Tư pháp về kiện để trở thành bào
chữa viên nhân dân bao gồm: là công dân Việt Nam, không phân biệt đàn ông hay
đàn bà, ít nhất 21 tuổi, hạnh kiểm tốt và chưa có can án…13. Ngoài những quy định
chung quy như thế thì cho đến nay vẫn chưa có quy định cụ thể về bào chữa viên
nhân dân và trong thực tế hoạt động của bào chữa viên nhân dân cũng không được
tổ chức thành một hệ thống, điều kiện để trở thành bào chữa viên nhân dân cũng
không được quy định cụ thể, trong khi đó trong xã hội có nhiều người có trình độ
pháp lý có hiểu biết về công việc bào chữa nhưng họ chưa được kết nạp vào đoàn
Luật sư và họ lại được bị can, bị cáo nhờ bào chữa.

1.1.1.4. Khái niệm trách nhiệm của người bào chữa
Theo từ điển Tiếng Việt thì: “Trách nhiệm là điều phải làm, phải gánh vác
hoặc phải nhận lấy về mình”14.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam thì khái niệm trách nhiệm được
hiểu như sau: Trách nhiệm là khái niệm của ý thức đạo đức và ý thức pháp quyền nói
lên một đặc trưng của nhân cách trong việc thực hiện nghĩa vụ do xã hội đề ra. Nếu
nghĩa vụ đặt ra cho con người vấn đề nhận thức và thực hiện những yêu cầu của xã
hội, thì vấn đề trách nhiệm là ở chỗ con người hoàn thành và hoàn thành đến mức nào
13

[truy cập ngày 15/
03/2012]
14
[truy cập ngày 10/ 03/ 2012]

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

16

SVTH: Ngô Trà My


“Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoan
điều tra, truy tố, xét xử”

hoặc không hoàn thành những yêu cầu ấy. Trách nhiệm là sự tương xứng giữa hoạt
động với nghĩa vụ, là hệ quả của tự do ý chí của con người, là đặc trưng cho hoạt
động có ý thức của con người. Con người ngày càng nhận thức được quy luật khách
quan của tự nhiên, xã hội. Khi năng lực chi phối tự nhiên, xã hội của con người lớn
lên thì trách nhiệm của con người đối với hành vi của mình cũng lớn lên. Về mặt

pháp lí, việc xem xét trách nhiệm cá nhân phải xuất phát từ sự thống nhất giữa quyền
và nghĩa vụ: quyền càng rộng thì trách nhiệm càng lớn15.
Tóm lại, trách nhiệm được hiểu là khái niệm của ý thức đạo đức và ý thức xã
hội.Trách nhiệm là nghĩa vụ mà xã hội đặt ra cho con người để con người nhận lấy
và thực hiện theo yêu cầu của xã hội. Và một trong những yêu cầu của xã hội đề ra
đó có đề cập vấn đề về bào chữa mà ở đây người trực tiếp thực hiện trách nhiệm đó
chính là người bào chữa.
Qua phân tích, tìm hiểu những định nghĩa khoa học kết hợp với khái niệm về
“người bào chữa” thì “trách nhiệm của người bào chữa” được hiểu như sau: Với yêu
cầu xã hội đặt ra, cùng với chức năng bào chữa và kiến thức pháp luật vốn có của
mình, người bào chữa phải có nhiệm vụ đưa ra những tình tiết xác định người bị
tạm giữ,bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt
pháp lý nhằm góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
họ.
1.1.2. Khái quát về quyền bào chữa của người chưa thành niên
1.1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
 Khái niệm về người chưa thành niên của các tổ chức trên thế giới
Tùy theo từng quốc gia khác nhau trên thế giới cũng có những khái niệm và
quy định khác nhau về người chưa thành niên cụ thể như sau:
 Theo Điều 1, Công ước quốc tế về quyền trẻ em (United Nations Convention
on the Rights of the Child) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày
20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18

15

/>ZraW5kPSZrZXl3b3JkPQ==&page=1 [truy cập ngày 06/ 03/ 2012]

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu


17

SVTH: Ngô Trà My


“Trách nhiệm của người bào chữa đối với người chưa thành niên trong giai đoan
điều tra, truy tố, xét xử”

tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên
sớm hơn”16.
 TheoTổ chức Y tế Thế giới (WHO) lứa tuổi 10 - 19 tuổi là độ tuổi vị thành
niên.Thanh niên trẻ là lứa tuổi 19 - 24 tuổi17.
 Theo chương trình Sức khỏe sinh sản/Sức khỏe tình dục vị thành niên - thanh
niên của khối Liên minh châu Âu (EU) và Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA)
lấy độ tuổi 15 - 24 tuổi18.
Như vậy, theo cách hiểu của các tổ chức thế giới này thì người chưa thành
niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất, tinh thần, tâm
sinh lý và nhân cách, chưa đủ khả năng để sử dụng quyền và gánh vác nghĩa vụ
pháp lý như người đã thành niên.
 Khái niệm về người chưa thành niên ở Việt Nam
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong
Hiến Pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và
một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Cụ thể như sau:
 Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005, Chương II: Cá nhân, Mục I, Điều 20 nêu rõ :
"Người đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa
thành niên".
 Trong Bộ luật Hình sự năm 1999, Điều 68 cũng nói rất rõ: "Người chưa
thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự
theo những quy định của chương này"...

 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, tại Chương XXXII: Thủ tục tố tụng đối
với người chưa thành niên, cũng đề cập hai nhóm: từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, và
từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
 Khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em. Theo Điều 1
Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là công dân Việt
Nam dưới 16 tuổi”.
16

[truy cập ngày 01/03/2012]
17
[truy cập ngày 12/ 04/ 2012]
18
[truy cập ngày 10/ 04/ 2012]

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

18

SVTH: Ngô Trà My


×