Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn điều tra truy tố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.18 KB, 27 trang )

Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian qua, mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc
đấu tranh phòng chống tội phạm, kiên quyết trừng trị tội phạm nhưng cùng với tiến
trình phát triển và hòa nhập của xã hội dẫn đến việc gia tăng không ngừng của các
loại tội phạm. Với thủ đoạn hết sức tinh vi của các đối tượng gây án cùng với tính
chất, mức độ phạm tội ngày càng quyết liệt hơn đã làm cho quá trình điều tra vụ án
gặp nhiều khó khăn, thử thách. Giai đoạn điều tra là một giai đoạn tố tụng quan
trọng đầu tiên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, giai đoạn này Cơ quan điều
tra tiến hành các hoạt động tố tụng để thu thập chứng cứ phục vụ cho việc chứng
minh, làm sáng rõ sự thật khách quan của vụ án. Vì vậy, mọi hành vi và quyết định
của Cơ quan điều tra và Điều tra viên trong giai đoạn này là rất quan trọng.
Việc điều tra thu thập chứng cứ không đầy đủ hoặc vi phạm nghiêm trọng thủ tục
tố tụng trong quá trình điều tra sẽ ảnh hưởng đến các giai đoạn tố tụng tiếp theo.
Viện kiểm sát với nhiệm vụ, chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra nhằm chứng minh người thực
hiện hành vi phạm tội là tội phạm, đảm bảo việc khởi tố, truy tố đúng
người, đúng tội và đúng theo trình tự tố tụng luật định. Bên cạnh đó, trong
quá trình nghiên cứu hồ sơ kết thúc điều tra của Cơ quan điều tra chuyển
sang, Kiểm sát viên được phân công kiểm sát điều tra đối với vụ án phát
hiện thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát không thể tự
mình bổ sung được; có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người
đồng phạm khác và có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì phải trả hồ sơ để Cơ
quan điều tra tiến hành điều tra bổ sung.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS) và các văn bản hướng dẫn
thi hành đã thể hiện rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các Cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đặc biệt là trong giai đoạn điều
tra truy tố. Các quy định này đã điều chỉnh kịp thời các quan hệ xã hội mới
phát sinh, cũng như tạo



sở pháp lý vững chắc cho việc giải quyết những vụ án
xảy ra trên thực tế. Tuy nhiên, những
quy
định trong các văn bản này vẫn chưa
thật sự đồng bộ, thiếu thống nhất, chưa quy định rõ ràng, cụ thể trong việc giải
quyết
và dự liệu được hết các quan hệ xã hội đã và đang phát sinh, từ đó đã
tồn tại không
ít
những khó khăn, vướng mắc.
1
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
Mặt khác, việc áp dụng các quy định trong công tác
trả hồ sơ để điều tra bổ
sung
và quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong công tác
này vẫn còn chưa tốt, vẫn tồn tại không ít những khó khăn, vướng mắc, đáng chú
ý là những sai sót trong quá trình thu thập chứng cứ, đánh giá giá trị chứng minh
của chứng cứ trong vụ án… đã làm cho một số chứng cứ, dấu vết quan trọng của
vụ án mất đi giá trị chứng minh tội phạm mà sau này không thể khắc phục được,
gây khó khăn cho quá trình làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay đòi hỏi
phải nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó
việc tăng cường công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án,
gắn công tố với điều tra nhằm phát huy hơn nữa vai trò, chức năng của Viện kiểm
sát, nâng cao chất lượng giải quyết án, chống bỏ lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội, có tác dụng răn đe tội phạm, ngăn ngừa các hành vi xâm phạm đến
các quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ và hạn chế thấp nhất việc trả hồ sơ để điều

tra bổ sung, đặc biệt trong giai đoạn điều tra truy tố là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tiến trình
cải cách tư pháp ở nước ta theo tinh thần của
Nghị quyết số 08-NQ/TW

ngày
02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian

tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính
trị về chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020.
Qua đó, người viết đã tổng
hợp và tập trung phân tích để làm

hơn các khó khăn, vướng mắc, những
nguyên nhân khách quan và chủ quan của vấn đề áp dụng các quy định
của
pháp
luật này nhằm đưa ra một số kiến nghị, giải pháp để hoàn thiện hơn các quy
định này trong
luật
thực
định và góp phần giải quyết những khó khăn, vướng
mắc vừa nêu.
Với tất cả ý nghĩa và tầm quan trọng đó, người viết đã lựa chọn chuyên đề
"Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố" để nghiên cứu và thực hiện tiểu


luận của mình nhằm
đáp ứng được những yêu cầu về tính
cấp
thiết trong lý luận và trong thực tiễn thi
hành, áp dụng pháp luật của các vấn đề vừa
nêu.
2. Mục tiêu và phạm vi nghiên
cứu
Việc nghiên cứu chuyên đề nhằm mục tiêu làm sáng tỏ các căn cứ, thủ
tục và vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác
2
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn điều tra truy tố ở nước ta hiện
nay. Từ đó giúp việc hiểu và áp dụng các quy định

liên quan đến công tác
này vào thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự một cách dễ dàng và có hiệu quả
hơn. Qua
đó,
người viết đã tổng hợp và phân tích các quy định của pháp luật về
những vấn đề có liên quan, tìm ra những khó khăn, bất cập trong các quy định
đó và những vướng
mắc
trong quá trình áp dụng các quy định này vào thực
tiễn. Bên cạnh đó, trong phạm vi nghiên cứu của đề
tài,
người viết không thể
xem xét hết tất cả các vấn đề có liên quan mà chỉ
tập

trung nghiên cứu và phân
tích những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng về hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ
sung trong giai đoạn điều tra truy tố

trong các quy định của pháp luật hiện hành
và các văn bản pháp lý chuyên ngành. Trên những

sở đó, người viết đề ra
một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện hơn các quy định của pháp
luật
trong hệ thống pháp luật thực
định về công tác
trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai
đoạn điều tra truy tố

và tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn khi áp dụng các
quy định này vào thực tiễn đời sống xã hội
.
3. Phương pháp nghiên
cứu
Trong quá trình nghiên cứu chuyên đề người viết chủ yếu sử dụng phương
pháp thu thập tài liệu, thông tin cần thiết có liên quan đến nội dung nghiên cứu của
chuyên đề chủ yếu là qua sách, báo, tạp chí, các nguồn tài liệu trên mạng và
phương pháp
phân
tích để làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan. Đây là những
phương pháp mà người
viết
đã sử dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu
chuyên đề. Từ việc nêu ra vấn đề,

đến
việc phân tích vấn đề và cuối cùng là
rút ra kết luận cho những vấn đề vừa nêu
thì những
phương pháp trên đóng
vai trò quan trọng trong việc phát hiện ra những khó
khăn,
bất cập của hệ thống
pháp luật thực định và trên cơ sở đó đã giúp người
viết
trong việc đề ra một số
kiến nghị, giải pháp để hoàn thiện hơn các khó khăn, vướng mắc vừa nêu. Ngoài
ra, trong quá trình nghiên cứu chuyên đề người viết cũng sử
dụng
phương pháp
luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhìn nhận sự vật,
hiện
tượng
theo hướng luôn biến đổi, nằm trong mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa, vận
động
và phát triển theo những quy luật nhất định.
4. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài mục lục, lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo nội dung
của
chuyên đề
gồm có ba
chương:
3
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố

Chương 1. Cơ sở lý luận chung về chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung
trong Bộ luật Tố tụng hình sự.
Chương 2. Kỹ năng của Kiểm sát viên trong công tác kiểm sát hoạt động
trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn điều tra truy tố.
Chương 3. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm hạn chế việc
trả hồ sơ điều
tra bổ sung trong giai đoạn điều tra truy tố
.
Đề tài nghiên cứu về "Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ
sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn điều tra truy tố" là một đề tài phức tạp, đòi
hỏi người viết phải có kiến thức
sâu
rộng và nắm bắt được những vấn đề cốt lõi
về lý luận cũng như về thực tiễn hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai
đoạn điều tra truy tố hiện nay. Có như vậy, người viết mới có thể làm sáng
tỏ

nổi bật lên những nội dung cần phân tích trong quá trình nghiên cứu chuyên đề,
từ đó
tìm
ra những khó khăn, bất cập trong luật thực định. Bên cạnh đó, đề ra
một số kiến nghị, giải pháp nhằm
hoàn
thiện hơn những khó khăn, bất cập đó.
Trong quá trình nghiên cứu chuyên đề, không tránh khỏi được những sai sót,
người viết rất
mong nhận
được sự đánh giá và đóng góp ý kiến từ quý Thầy, Cô
để cũng cố và hoàn thiện hơn
nữa

những vấn đề mà người viết đã dày công
nghiên cứu trong thời gian
qua.
4
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU
TRA BỔ SUNG TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và mục đích, ý nghĩa của hoạt động trả hồ sơ
để điều tra bổ sung trong giai đoạn điều tra truy tố
Điều 168 BLTTHS quy định về việc Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ
cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
được thực hiện trong thời hạn truy tố quy định tại khoản 1 Điều 166 của Bộ luật Tố
tụng hình sự.
Tuy có những điểm giống và khác nhau về thời điểm ra quyết định, thẩm
quyền ra quyết định; điều luật áp dụng để trả điều tra bổ sung giữa Viện kiểm sát
và Tòa án nhưng việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung có mục đích chung và cốt lõi
nhất đó là làm sáng rõ nội dung, bản chất của vụ án hình sự.
Trong hệ thống khoa học pháp lý ở Việt Nam hiện nay, chưa có khái
niệm cụ thể nào về trả hồ sơ điều tra bổ sung cũng như chưa có khái niệm về
trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn điều tra truy tố. Song nghiên cứu
tổng thể các quy định của BLTTHS và qua thực

tiễn áp dụng pháp luật có thể
nhận thấy Điều 168 BLTTHS cũng chính là căn cứ để Viện kiểm sát trả

hồ sơ
để điều tra bổ sung. Việc áp dụng các căn cứ quy định tại Điều 168 của Viện
kiểm sát là


phù hợp với thực tế trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. B
ằng
phương pháp phân tích, so sánh người viết đã đưa ra khái niệm ban đầu về chế
định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra truy
tố như sau: “
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn điều tra truy tố là
chế định của luật tố tụng hình sự quy định
Viện kiểm sát sau khi nghiên cứu hồ
sơ đã kết thúc điều tra của Cơ quan điều tra chuyển sang, quyết định trả lại
hồ sơ hình sự đó cho Cơ quan điều tra nơi tiến hành điều tra vụ án để điều tra
bổ sung nhằm khắc phục những thiếu sót trong quá trình điều tra và đảm bảo
cho việc giải quyết vụ án hình sự được khách quan, toàn diện, đúng theo các
quy

định của pháp luật”.
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là biện pháp tố tụng do Viện kiểm sát áp dụng
trong quá trình giải quyết vụ án nhằm yêu cầu Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra,
thu thập chứng cứ hoặc bổ sung tài liệu khác để
khắc phục lại những thiếu sót
trong quá trình điều tra,
đảm bảo việc xử lý vụ án khách quan, toàn diện và đúng
pháp luật.
5
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
Hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Viện kiểm sát trong giai đoạn
điều tra truy tố có những đặc điểm sau:
- Chủ thể trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong trường hợp này là Viện
kiểm sát, cụ thể là thông qua vai trò của Kiểm sát viên được phân công tiến
hành thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với vụ án đó.

- Chủ thể tiếp nhận hồ sơ của Viện kiểm sát trả để điều tra bổ sung là Cơ
quan điều tra có thẩm quyền nơi tiến hành điều tra vụ án đó
.
- Căn cứ trả hồ sơ điều tra bổ sung: Viện kiểm sát trả hồ sơ cho Cơ quan
điều tra để điều tra bổ sung khi chỉ cần phát sinh một trong các căn cứ sau:
+ Còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát
không thể tự mình bổ sung được;
+ Có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng
phạm khác;
+ Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
1
.
Để đảm bảo việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung là có căn cứ, Kiểm sát viên
phải nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách toàn diện để phát hiện, đánh giá khách quan,
đầy đủ các căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung và phải ra quyết định kịp thời, đúng
thời gian quy định. Đồng thời, Viện kiểm sát phải ra quyết định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung trong thời hạn quyết định truy tố quy định tại khoản 1 Điều 166
BLTTHS. Thời hạn mà Viện kiểm sát trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để tiến hành
điều tra bổ sung là không quá hai tháng và không được trả quá hai lần tính từ ngày
Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra
2
.
Bên cạnh đó, việc t
rả hồ sơ để điều tra bổ sung là nhằm bảo đảm sự thật
khách quan của vụ án, tránh bỏ lọt tội phạm cũng như làm oan

người vô tội.
Qua việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, các cơ quan tiến hành tố tụng và những
người


tiến hành tố tụng đánh giá những nguyên nhân của những vấn đề đã
làm được và những tồn tại.

Một mặt, vừa kịp thời sửa chữa, khắc phục những
tồn tại đó, mặt khác thâu lượm tích lũy thêm

được những kinh nghiệm thực
tiễn trong hoạt động điều tra, truy tố.
1.2. Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng khi trả hồ sơ để
điều tra bổ sung trong giai đoạn điều tra truy tố
Tố tụng hình sự Việt Nam được xây dựng dựa trên những đặc điểm về
1
Điều 168 BLTTHS năm 2003
2
Khoản 2 Điều 121 BLTTHS năm 2003
6
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đạo đức, phong tục tập quán cũng như hệ thống
pháp luật hiện hành. Những nguyên tắc được xác định trong tố tụng hình sự là tiền
đề và cơ sở để xây dựng nhiệm vụ cũng như mối quan hệ giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng. BLTTHS đã quy định cụ thể trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ
giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
3
. Mặc dù mỗi cơ quan tiến hành tố tụng đều
có chức năng, nhiệm vụ riêng nhưng đều có một trách nhiệm, mục đích chung
là: Xác định sự thật của vụ án
4
. Việc xác định sự thật của vụ án vừa là nội dung

vừa là bản chất của hoạt động tố tụng hình sự, của mối quan hệ giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một hoạt động tố tụng của Viện
kiểm sát nhằm mục đích giúp các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt nhiệm vụ
quy định tại Điều 10 BLTTHS năm 2003.
Bên cạnh đó, cũng như các chế định khác trong tố tụng hình sự, mối quan
hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
là mối quan hệ chế ước và phối hợp, đặc biệt là mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và
Cơ quan điều tra trong quá trình điều tra vụ án và khi phát sinh các căn cứ để trả hồ
sơ điều tra bổ sung.
Trong tố tụng hình sự, quan hệ chế ước thể hiện rõ nét nhất ở hoạt động trả
hồ sơ để điều tra bổ sung theo đúng bản chất của chế định này cũng như thực chất
của quan hệ chế ước. Bởi vì bản chất của chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
cũng chính là sự kiểm tra, giám sát, phát hiện các sai sót, làm sáng rõ vụ án, khắc
phục các thiếu sót của các cơ quan tiến hành tố tụng. Thông thường quan hệ chế
ước thể hiện trong việc xác định căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung, nội dung cần
điều tra bổ sung.
Quan hệ phối hợp thể hiện trong việc thực hiện trình tự, thủ tục trả hồ sơ
điều tra bổ sung để quá trình tố tụng diễn ra thuận lợi, nhanh chóng, kịp thời.
Chỉ đồng thời thực hiện đúng đắn các quan hệ đó thì chế định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung mới thực sự khách quan, có hiệu quả.
Mối quan hệ chế ước và phối hợp giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra
trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung được thể hiện như sau:
3
Điều 1 BLTTHS năm 2003
4
Điều 10 BLTTHS năm 2003
7
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
Sau khi nhận hồ sơ kết thúc điều tra và bản kết luận điều tra của Cơ quan

điều tra, Kiểm sát viên phải nghiên cứu thật kỹ hồ sơ, kiểm tra việc tuân thủ các
thủ tục tố tụng, tính đầy đủ của các tài liệu, chứng cứ trong vụ án. Trong trường
hợp cần thiết, Kiểm sát viên phải trực tiếp hỏi cung tổng hợp đối với từng bị can
trong vụ án. Nếu thấy còn thiếu chứng cứ, tài liệu hoặc có vi phạm thủ tục tố tụng
mà tự mình có thể bổ sung được thì Kiểm sát viên phối hợp với Điều tra viên để bổ
sung, khắc phục kịp thời; trường hợp không thể bổ sung được thì Kiểm sát viên
phải báo cáo Lãnh đạo Viện kiểm sát hoặc Thủ trưởng đơn vị xem xét, quyết định
có trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay không.
Trong thời hạn truy tố, nếu thấy vụ án có những vấn đề phức tạp về chứng
cứ, tội danh, Kiểm sát viên báo cáo Lãnh đạo Viện kiểm sát hoặc Thủ trưởng đơn
vị để trao đổi thống nhất với Cơ quan điều tra, Tòa án về hướng giải quyết vụ án.
Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp không thống nhất được
với nhau về việc điều tra bổ sung thì phải báo cáo lãnh đạo liên ngành cấp trên xin
ý kiến chỉ đạo về đường lối giải quyết vụ án.
8
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
CHƯƠNG 2. KỸ NĂNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG CÔNG TÁC
KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TRUY TỐ
2.1. Kỹ năng của Kiểm sát viên trong việc đánh giá các căn cứ áp dụng
để trả hồ sơ điều tra bổ sung
2.1.1. Còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm
sát không thể tự mình bổ sung được
Căn cứ này được quy định tại khoản 1 Điều 168 BLTTHS. Chứng cứ trong
hồ sơ một vụ án hình sự là yếu tố quyết định để kết luận hành vi phạm tội của bị
can. Trên thực tế số vụ trả hồ sơ để điều tra bổ sung về chứng cứ chiếm tỷ lệ chủ
yếu. Vì vậy, hoạt động đánh giá chứng cứ là rất quan trọng và đó là hoạt động tư
duy của Điều tra viên, Kiểm sát viên sau khi đã nghiên cứu khách quan các tài
liệu trong vụ án để xác định tính hợp pháp, tính khách quan, tính liên quan của

chứng cứ và khả năng chứng minh của các chứng cứ thu thập, tổng hợp được.
Mặt khác, mối quan hệ giữa chứng cứ với đánh giá chứng cứ là mối quan hệ
giữa tồn tại khách quan với nhận thức chủ quan. Vì vậy, khi nghiên cứu hồ sơ,
Kiểm sát viên phải phân biệt cái gì là chứng cứ và vấn đề nào thuộc lĩnh vực đánh
giá chứng cứ để quyết định việc có trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay không.
Theo
quy định của Điều 63 BLTTHS về những vấn đề cần chứng minh trong vụ án
hình

sự, có thể xác định các chứng cứ phản ánh đối tượng chứng minh là:
Chứng cứ phản ánh các tình

tiết của hành vi phạm tội, hoàn cảnh, không gian,
thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm; chứng cứ

phản ánh ai là người thực hiện
hành vi phạm tội, các tình tiết xác định lỗi, năng lực chịu trách nhiệm hình sự,
mục đích và động cơ phạm tội; chứng cứ phản ánh các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách

nhiệm hình sự và những đặc điểm về nhân thân của bị can; chứng cứ
phản ánh tính chất và

mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Tại khoản 1 Điều 64 BLTTHS quy định: Chứng cứ là những gì có thật,
được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và

Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có
hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi


phạm tội cũng như những tình tiết
khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
Chứng cứ quan trọng đối với vụ án là những chứng cứ mà thiếu nó thì
không thể xác

định được sự thật khách quan của vụ án như: Không xác định bị
9
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
can có tội hay không có tội, nếu có thì là tội gì,

theo điều khoản nào của Bộ
luật hình sự; các tài liệu có liên quan mà thiếu nó không thể xử lý được vật
chứng, không thể áp dụng hình phạt bổ sung, áp dụng các biện pháp tư pháp
cũng như quyết

định cho việc bồi thường thiệt hại.
Tại Điều 65 BLTTHS quy định: Để thu thập chứng cứ, Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án có quyền triệu tập

những người biết về vụ án để
hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án,

trưng cầu
giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác
theo quy

định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài
liệu, đồ vật, trình bày những


tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
Như vậy, theo quy định trên thì các cơ quan tiến hành tố tụng đều có quyền
thu thập chứng cứ. Để thu thập chứng cứ, Viện kiểm sát có quyền triệu tập
những người

biết về vụ án đến lấy lời khai về những vấn đề có liên quan đến vụ
án (kể

cả những người chưa được Cơ quan điều tra lấy lời khai), trưng cầu
giám định, yêu cầu các cơ

quan, tổ chức và cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật,
trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án. Mặt khác, Điều 65 BLTTHS chỉ
quy định chung về thẩm quyền thu thập

chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố
tụng trong đó có Viện kiểm sát, để xác định thẩm quyền cụ thể và cách

thức
thu thập chứng cứ của từng cơ quan như thế nào thì phải căn cứ vào quy định
của BLTTHS

trong từng giai đoạn tố tụng cụ thể. Tuy nhiên, Viện kiểm sát
cần xem xét hết sức thận trọng đối với các tài liệu mà tự mình thu thập
được và chỉ coi đó

là chứng cứ khi nó phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác
của vụ án. Do đó, việc tự bổ sung chứng cứ quan trọng của vụ án mà Viện
kiểm sát thực hiện là


rất khó khăn nên ngay từ giai đoạn kiểm sát điều tra đối
với vụ án và khi nhận hồ sơ kết thúc điều tra của Cơ quan điều tra thì Kiểm sát
viên phải

nghiên cứu kỹ tính chất, nội dung của chứng cứ còn thiếu, trên cơ
sở đó xác định có thể bổ sung

được hay không nhằm làm sáng tỏ sự thật khách
quan của vụ án.
Trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, việc Kiểm sát viên đánh giá như thế
nào là còn thiếu chứng cứ quan trọng là rất cần thiết, có ý nghĩa then chốt trong
việc tìm ra sự thật của vụ án. Hiểu như thế nào là thiếu chứng cứ quan trọng đối
với vụ án, Kiểm sát viên phải dựa vào các quy định của luật đồng thời dựa vào
10
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
kinh nghiệm thực tiễn của mình. Theo quy định của pháp luật thì thiếu những
chứng cứ sau đây là trường hợp thiếu chứng cứ quan trọng đối với vụ án:
- Chứng cứ để chứng minh “Có hành vi phạm tội xảy ra hay không” là
chứng cứ để xác định hành vi xảy ra đó có đủ yếu tố của cấu thành tội phạm cụ thể
được quy định trong Bộ luật Hình sự hay thuộc các trường hợp không phải là hành
vi phạm tội (phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ, quan hệ dân
sự, kinh tế, vi phạm hành chính );
- Chứng cứ để chứng minh “Thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của
hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định nếu có hành vi phạm tội xảy ra thì xảy ra
vào thời gian nào, ở đâu; phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện
tội phạm như thế nào;
- Chứng cứ để chứng minh “Ai là người thực hiện hành vi phạm tội” là
chứng cứ xác định một con người cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội đó;

- Chứng cứ để chứng minh “Có lỗi hay không có lỗi” là chứng cứ xác định
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có lỗi hay không có lỗi; nếu có lỗi
thì thuộc trường hợp lỗi cố ý (lỗi cố ý trực tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp) hoặc lỗi vô ý
(lỗi vô ý do quá tự tin hay lỗi vô ý do cẩu thả) theo quy định tại Điều 9 và Điều 10
Bộ luật hình sự;
- Chứng cứ để chứng minh “Có năng lực trách nhiệm hình sự hay không” là
chứng cứ xác định khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay chưa; có
mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình hay không và nếu có thì mắc bệnh đó vào thời
gian nào, trong giai đoạn tố tụng nào;
- Chứng cứ để chứng minh “Mục đích, động cơ phạm tội” là chứng cứ xác
định người thực hiện hành vi phạm tội với mục đích, động cơ gì và trong trường
hợp mục đích, động cơ phạm tội là yếu tố tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc là
yếu tố (tình tiết) của cấu thành tội phạm hoặc là yếu tố (tình tiết) định khung hình
phạt;
- Chứng cứ để chứng minh tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can là chứng cứ xác định bị can có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự nào quy định tại Điều 46 của Bộ luật hình sự; có tình tiết tăng nặng trách
11
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 48 của Bộ luật hình sự hoặc là chứng cứ xác
định tình tiết định khung hình phạt;
- Chứng cứ để chứng minh những đặc điểm về nhân thân của bị can là chứng
cứ xác định lý lịch tư pháp của bị can;
- Chứng cứ để chứng minh “Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm
tội gây ra” là chứng cứ để đánh giá tính chất, hậu quả (vật chất và phi vật chất) của
hành vi phạm tội trong việc xác định tội phạm và quyết định hình phạt;
- Chứng cứ khác để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 63

của BLTTHS mà thiếu chứng cứ đó thì không có đủ căn cứ để giải quyết vụ án,
như: Chứng cứ để xác định chính xác tuổi của bị can là người chưa thành niên
hoặc xác định chính xác tuổi của người bị hại là trẻ em; chứng cứ để chứng minh
vị trí, vai trò của từng bị can trong trường hợp đồng phạm hoặc phạm tội có tổ
chức
5
.
Vì vậy, đòi hỏi Kiểm sát viên phải đánh giá chứng cứ một cách đầy đủ,
chính xác, khách quan dựa trên các cơ sở của pháp luật, ý thức pháp luật và niềm
tin nội tâm để xác định mức độ tin cậy, giá trị của từng chứng cứ cũng như giá trị
tổng hợp của các chứng cứ có trong vụ án, từ đó rút ra kết luận về vụ án. Đồng thời
phải xem chứng cứ đó có mối liên hệ như thế nào đối với các chứng cứ khác, liên
hệ trực tiếp hay gián tiếp, chúng có bổ sung hỗ trợ gì cho nhau không. Việc xác
định mối quan hệ giữa các chứng cứ là một nhiệm vụ quan trọng của những người
tiến hành tố tụng. Nó là điều kiện cần thiết để xác định sự thật khách quan của vụ
án và tránh việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn điều tra truy tố.
2.1.2. Có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người
đồng phạm khác
Có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác
Sau khi nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra,
Kiểm sát viên phải nghiên cứu thật kỹ hồ sơ vụ án, kiểm tra các căn cứ để trả hồ sơ
điều tra bổ sung theo quy định tại Điều 168 BLTTHS, cụ thể cần lưu ý các căn cứ
để khởi tố bị can về một tội phạm khác mà chưa được làm rõ, khởi tố trước đó.
Theo quy định của pháp luật thì cụ thể là các trường hợp sau:
- Khởi tố và điều tra về một hay nhiều tội nhưng chứng cứ trong hồ sơ vụ án
cho thấy hành vi của bị can đã thực hiện cấu thành một hay nhiều tội khác;
5
Điều 1 Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010
12
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong

giai đoạn điều tra truy tố
- Ngoài tội phạm đã khởi tố và điều tra, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy
còn có căn cứ để khởi tố bị can về một hoặc nhiều tội khác;
- Ngoài bị can đã bị khởi tố và điều tra, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy
còn có người đồng phạm khác hoặc có người phạm tội khác có liên quan đến vụ án
nhưng chưa được khởi tố bị can
6
.
Vì vậy, đòi hỏi Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra đối với vụ án phải đánh giá toàn diện các chứng cứ, xác định tính
có căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung trong trường hợp này. Tuy nhiên, cần lưu ý
là Viện kiểm sát không được trả hồ sơ để điều tra bổ sung nếu có căn cứ để tách vụ
án theo quy định tại khoản 2 Điều 117 của BLTTHS.
Có đồng phạm khác
Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, Kiểm sát viên được phân công tiến
hành kiểm sát điều tra phát hiện vụ án còn có đồng phạm khác thì ra quyết
định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung. Việc xác định có thêm
người phạm tội, nhưng người này phải là đồng phạm với người đã bị khởi tố
thì mới thuộc trường

hợp trả hồ sơ, nếu phát hiện có người phạm tội, nhưng
người này lại không phải là đồng phạm theo

quy định tại Điều 20 Bộ luật
hình sự thì Viện kiểm sát không được trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 20 BLHS thì đồng phạm là trường hợp
có từ hai người trở

lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm và theo khoản 2 Điều
này thì người đồng phạm là người thực


hành, người tổ chức, người xúi giục,
người giúp sức. Người thực hành là người trực tiếp thực hiện

tội phạm; người
tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm; người
xúi

giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm;
người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc
thực hiện tội phạm. Phạm tội có tổ chức cũng

là một hình thức đồng phạm
nhưng có sự câu kết chặt chẽ giữa những người thực hiện tội phạm
.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 168 BLTTHS thì chỉ khi nào xác định
có đồng

phạm khác thì Viện kiểm sát mới trả hồ sơ để Cơ quan điều tra tiến
hành điều tra bổ sung. Nhưng trong thực tiễn lại có

những trường hợp người
có hành vi phạm tội không phải là đồng phạm với người phạm tội mà Cơ
6
Khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010
13
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
quan điều tra đang tiến hành điều tra nhưng không thể tách ra điều tra, truy tố
bằng một vụ án khác nên nhất thiết phải


điều tra, truy tố cùng vụ án với người
đã thực hiện hành vi phạm tội.
2.1.3. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra truy tố được
hiểu là trong quá trình điều tra truy tố thì cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ
tục do BLTTHS quy định đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp
của bị can, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc
làm cho việc giải quyết vụ án thiếu khách quan, toàn diện.
Theo quy định của pháp
luật và thực tế kiểm sát điều tra cho thấy, một trong những trường hợp sau
đây bị coi là vi

phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong hoạt động điều tra
truy tố:
- Lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra và cơ quan khác được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà theo quy định của BLTTHS phải có sự
phê chuẩn của Viện kiểm sát, nhưng đã không có phê chuẩn của Viện kiểm sát
hoặc việc ký lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền;
- Không yêu cầu cử người bào chữa cho bị can theo quy định tại khoản 2
Điều 57 của BLTTHS;
- Xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng
trong quá trình điều tra, truy tố dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp
pháp của họ;
- Khởi tố vụ án hình sự nhưng không có yêu cầu của người bị hại hoặc của
người đại diện hợp pháp của người bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 105 của
BLTTHS;
- Nhập vụ án hoặc tách vụ án không có căn cứ và trái với quy định tại Điều
117 của BLTTHS;

- Không giao các lệnh, quyết định tố tụng cho bị can theo đúng quy định của
pháp luật xâm phạm đến quyền bào chữa của bị can;
- Chưa điều tra, lập lý lịch của bị can; chưa xác định được những đặc điểm
quan trọng về nhân thân của người có hành vi phạm tội (tuổi, tiền án, tiền sự của bị
can);
14
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
- Không có người phiên dịch cho người tham gia tố tụng trong trường hợp
họ không sử dụng được tiếng Việt hoặc họ là người câm, điếc theo quy định tại
Điều 61 của BLTTHS;
- Không từ chối tiến hành tố tụng hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng
trong các trường hợp quy định tại Điều 42, Điều 60 và Điều 61 của BLTTHS;
- Việc điều tra, thu thập chứng cứ quan trọng đối với vụ án không đúng trình
tự, thủ tục quy định của BLTTHS nên không có giá trị chứng minh trong vụ án
hình sự;
- Chứng cứ, tài liệu quan trọng đối với vụ án đã được thu thập trong quá
trình điều tra, truy tố nhưng không đưa vào hồ sơ vụ án hoặc bị sửa chữa, thêm bớt
làm sai lệch hồ sơ vụ án;
- Việc điều tra, truy tố không đúng thẩm quyền, trừ trường hợp cơ quan có
thẩm quyền phân công điều tra vụ án cụ thể;
- Có căn cứ để xác định có việc mớm cung, bức cung, nhục hình trong quá
trình tiến hành tố tụng hình sự làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật;
- Khiếu nại, tố cáo của bị can và những người tham gia tố tụng khác không
được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật đã xâm phạm nghiêm trọng đến
quyền, lợi ích của họ;
- Và những trường hợp khác được xác định theo hướng dẫn của pháp luật
nhưng phải ghi rõ trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Tuy nhiên, Viện kiểm sát cần lưu ý là sẽ không trả hồ sơ để điều tra bổ sung
mặc dù “có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” như đã nêu trên khi thuộc một

trong các trường hợp sau đây:
- Có vi phạm thủ tục tố tụng, nhưng không xâm hại nghiêm trọng đến quyền,
lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng;
- Bị can là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra nhưng đến khi truy
tố bị can đã đủ 18 tuổi.
2.2. Kỹ năng của Kiểm sát viên về thẩm quyền, thủ tục tiến hành trả hồ
sơ điều tra bổ sung và nhận lại hồ sơ hoàn điều tra bổ sung của Cơ quan điều
tra
Sau khi nghiên cứu toàn diện hồ sơ vụ án và phát hiện căn cứ để trả hồ sơ
điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát phải ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
trong thời hạn quyết định truy tố quy định tại khoản 1 Điều 166 của BLTTHS.
15
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
Thời hạn truy tố của Viện kiểm sát là 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng, đối với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng
thời hạn truy tố là 30 ngày; đồng thời có thể gia hạn lần lượt là 10 ngày đối với tội
phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và 30 ngày đối với tội phạm rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải do người có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật ký ban hành thì mới có giá trị pháp lý. Theo quy định tại
Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
điều tra các vụ án hình sự (ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC
ngày 02/01/2008 của Viện trưởng VKSND tối cao) bao gồm: Viện trưởng, Phó
viện trưởng được Viện trưởng phân công, ngoài ra ở cấp tỉnh và tối cao thì Kiểm
sát viên được Viện trưởng ủy quyền (Kiểm sát viên giữ chức vụ Vụ trưởng,
Trưởng phòng) được ký quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
7
.
Trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải ghi số, ngày, tháng, năm

và lần trả hồ sơ (thứ nhất hoặc thứ hai), đồng thời thì nội dung quyết định phải ghi
cụ thể các căn cứ Viện kiểm sát áp dụng để trả hồ sơ điều tra bổ sung theo quy
định tại một trong các khoản 1, 2 và 3 Điều 168 của BLTTHS
8
.
Trong trường hợp tiếp tục phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thì trong Quyết
định trả hồ sơ của Viện kiểm sát phải nêu rõ những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung
lần trước chưa được điều tra bổ sung hoặc đã tiến hành điều tra bổ sung nhưng
chưa đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều tra bổ sung làm phát sinh vấn đề mới cần
điều tra
9
.
Khi nhận được quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Viện kiểm sát,
Cơ quan điều tra có trách nhiệm phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu nêu trong quyết
định đó theo quy định tại Điều 114 của BLTTHS; nếu Cơ quan điều tra nhận thấy
quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Viện kiểm sát không có căn cứ theo
hướng dẫn tại các điều 1, 2 và 4 của Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-
VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010 thì sau khi nhận hồ sơ vụ án Cơ quan
7
Điểm g khoản 2 Điều 6, Điều 7, Điều 9 Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự.
8
Khoản 2 Điều 6 Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010
9
Khoản 3 Điều 6 Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010
16
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
điều tra phải có văn bản nêu rõ lý do, quan điểm đối với việc giải quyết vụ án và
chuyển lại hồ sơ cho Viện kiểm sát

10
.
Theo quy định của pháp luật thì Viện kiểm sát chỉ được ra quyết định trả
hồ sơ lần thứ nhất cho

Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung trong thời
không quá hai tháng sau khi nghiên cứu hồ sơ mà phát hiện vấn đề cần phải
được điều tra bổ sung.
Sau khi kết thúc điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra phải có
bản kết luận điều tra bổ sung, trong đó kết luận phải nêu rõ đối với từng vấn đề
điều tra bổ sung và quan điểm giải quyết vụ án. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn
đến đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra quyết
định đình chỉ theo thẩm quyền quy định tại Điều 164 và Điều 169 của BLTTHS
11
.

Viện kiểm sát chỉ ra quyết định trả

hồ sơ để điều tra bổ sung lần thứ hai
trong trường hợp những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung trong quyết định trả hồ
sơ để điều tra bổ sung lần thứ nhất chưa được điều tra bổ sung hoặc tuy đã
được

điều tra bổ sung, nhưng chưa đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều tra bổ
sung xét thấy cần điều tra bổ

sung vấn đề mới. Như vậy, Viện kiểm sát chỉ
được trả hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra cùng cấp để điều tra bổ sung không
quá


hai lần. Do đó, nếu sau khi đã trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung lần thứ
hai nhưng Cơ quan điều tra vẫn không điều tra theo yêu cầu của Viện kiểm sát
thì Kiểm sát viên phải xin ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Viện kiểm sát về đường
lối xử lý vụ án.
Trong trường hợp Cơ quan điều tra đã thực hiện đúng, đầy đủ các
yêu cầu của Viện kiểm sát trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Kiểm
sát viên được phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra đối với vụ án
đó sau khi nhận lại hồ sơ hoàn điều tra bổ sung thì phải nghiên cứu, đánh giá toàn
diện các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và hoàn tất các thủ tục tố tụng cần
thiết để truy tố bị can ra trước Tòa án, đảm bảo đúng, đầy đủ theo các quy định của
pháp luật.
10
Khoản 1 ĐIều 7 Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010
11
Khoản 3 Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010
17
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ VIỆC
TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TRUY
TỐ
3.1. Thực trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn điều tra truy
tố
3.1.1. Những thuận lợi, khó khăn
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là quyền của Viện kiểm sát được quy định tại
Điều 168 BLTTHS, việc trả hồ sơ được thực hiện trong giai đoạn kết thúc điều tra
nhằm đảm bảo cho việc điều tra vụ án được khách quan, toàn diện, loại bỏ mọi vi
phạm pháp luật trong quá trình tiến hành tố tụng của Cơ quan điều tra, củng cố
xác định chứng cứ để quyết định xử lý đối với người phạm tội theo đúng quy định
của pháp luật.

Khi Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra có
trách nhiệm thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu để có đầy đủ cơ sở giải quyết
vụ án theo yêu cầu của Viện kiểm sát. Khi kết thúc điều tra bổ sung, Cơ quan
điều tra phải kết luận điều tra bổ sung đối với từng vấn đề đã điều tra bổ sung và
chuyển hồ sơ đến Viện kiểm sát.
Về cơ bản việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung là có căn cứ, đúng pháp luật và
cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Các yêu cầu điều tra bổ sung đều được Cơ quan
điều tra thực hiện nghiêm túc, khẩn trương, góp phần đảm bảo việc điều tra, truy tố
các vụ án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
BLTTHS và Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-
BCA ngày 27/8/2010 quy định các trường hợp để trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Nhưng trên thực tế cách hiểu và vận dụng pháp luật trong vấn đề trả hồ sơ điều tra
bổ sung theo Điều 168 BLTTHS là rất khác nhau trong trường hợp thứ nhất: trả hồ
sơ khi nhận thấy còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm
sát không thể tự mình bổ sung được. Quy định này dễ cho chúng ta nhận thức
trong vụ án có những chứng cứ quan trọng, có những chứng cứ không quan trọng,
hoặc có những chứng cứ quan trọng hơn, chứng cứ ít quan trọng. Theo quy định
của pháp luật về chứng cứ, mọi chứng cứ trong vụ án hình sự đều quan trọng như
nhau, các tình tiết thu được chỉ có giá trị chứng cứ khi nó phù hợp với các chứng
cứ khác. Ngay cả các tình tiết thu được từ lời nhận tội của bị can, hoặc thu được từ
bản kết luật giám định cũng không phải là chứng cứ quan trọng nhất nếu nó không
18
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
phù hợp với các chứng cứ khác. Vì vậy, cách hiểu chứng cứ quan trọng ít nhiều đã
ảnh hưởng đến việc trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Nhiều hồ sơ bị trả lại do hồ sơ còn thiếu những tài liệu phản ánh về tình
trạng tài sản của bị can nên không thể quyết định hình phạt được. Lý do cơ bản của
hiện tượng này là do những thay đổi của Bộ luật hình sự năm 1999 về hình phạt
tiền so với quy định trong bộ luật hình sự năm 1985, khi quyết hình phạt tiền

không cần quyết định đến tình trạng tài sản của người bị kết án. Do vậy trong thực
tiễn có những bản án phạt tiền không thi hành được, nhiều trường hợp phạt tiền chỉ
được tuyên cho có, không có tính khả thi. Có cơ quan cho rằng cần phải xác minh
tình trạng tài sản, có cơ quan cho rằng đây không phải là chứng cứ quan trọng để
quyết định việc truy tố hay không có tội, tội phạm gì và theo điều khoản nào của
Bộ luật hình sự.
Bên cạnh đó, vẫn còn trường hợp lạm dụng việc trả hồ sơ để điều tra bổ
sung để hợp lý hóa về thời hạn tố tụng; Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung không
có căn cứ hoặc yêu cầu điều tra bổ sung không khả thi, dẫn đến việc điều tra bổ
sung không thực hiện được làm kéo dài thời hạn giải quyết vụ án và thực hiện
việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung không đúng hướng, không triệt để, không đáp
ứng được yêu cầu điều tra bổ sung của các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm
quyền.
3.1.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân khách quan
Tính chất thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, quy mô phạm tội mở rộng, có
nhiều bị can tham gia và hành vi phạm tội xảy ra ở nhiều địa phương, gây khó
khăn cho việc thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm; lợi dụng chính sách mở
cửa, hội nhập của nước ta, nhiều loại tội phạm mới xuất hiện, nhiều thủ đoạn phạm
tội mới được thực hiện, nhiều vụ án liên quan đến các hoạt động kinh tế, chuyên
ngành rất phức tạp hoặc có liên quan đến nước ngoài trong khi hoạt động giám
định ở các lĩnh vực chuyên ngành chưa đồng bộ, chưa đáp ứng đòi hỏi của thực
tiễn.
Quan điểm đánh giá về chứng cứ, tội danh, đường lối xử lý còn thiếu thống
nhất giữa những người tiến hành tố tụng và giữa các cơ quan tiến hành tố tụng,
nhất là đối với nhữmg vụ án lớn phức tạp.
19
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
Quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự có nhiều vấn đề còn bất

cập so với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm nhưng chưa được sửa đổi, bổ
sung kịp thời; công tác hướng dẫn, giải thích pháp luật của cơ quan có thẩm quyền
chưa được thực hiện thường xuyên và đồng bộ, dẫn đến việc áp dụng pháp luật
thiếu thống nhất, nhất là đối với các quy định của Bộ luật Hình sự về một số nhóm
tội phạm về kinh tế, sở hữu, môi trường
Hoạt động bổ trợ tư pháp nhìn chung chưa theo kịp đòi hỏi của hoạt động tố
tụng về căn cứ pháp lý, trình tự, thủ tục, thời gian ; bên cạnh đó, công tác phối
hợp giữa hoạt động tiến hành tố tụng với các hoạt động bổ trợ tư pháp, như: Giám
định, bào chữa, trợ giúp còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, ảnh hưởng đến chất
lượng, hiệu quả công tác điều tra, truy tố các vụ án hình sự.
Thời hạn điều tra ban đầu còn quá ngắn. Địa hình nước ta hiểm trở, các
phương tiện kỹ thuật còn hạn chế mà thời hạn để điều tra ban đầu quá ngắn dẫn
đến việc các Điều tra viên không điều tra được kỹ càng.
- Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009 quy định về việc bồi
thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng
gây ra chưa có cơ chế pháp luật rõ ràng khiến một số người tiến hành tố tụng có
tâm lý quá thận trọng trong việc xử lý tội phạm hoặc né tránh, đùn đẩy trách
nhiệm, nhất là đối với các vụ án phức tạp, dư luận quan tâm.
Nguyên nhân chủ quan
Do chất lượng điều tra vụ án kém xuất phát từ nguyên nhân vừa thiếu vừa
yếu của Điều tra viên.
Năng lực, trình độ của một số Kiểm sát viên còn hạn chế khi được giao
nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án. Do đó, trong quá
trình kiểm sát điều tra vụ án còn lúng túng, chưa bám sát được tiến độ điều tra,
không kịp thời phát hiện những chứng cứ còn thiếu hoặc phát hiện những vi phạm
trong quá trình thu thập chứng cứ của Cơ quan điều tra để yêu cầu điều tra kịp thời.
Tinh thần trách nhiệm của Kiểm sát viên được phân công kiểm sát điều tra
vụ án, có trường hợp chưa làm hết trách nhiệm; một số trường hợp trả hồ sơ để
điều tra bổ sung với lý do như: Trưng cầu giám định trong trường hợp theo quy
định pháp luật bắt buộc phải trưng cầu giám định nhưng Cơ quan điều tra không

thực hiện mà Kiểm sát viên không phát hiện kịp thời để ban hành yêu cầu điều tra
20
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
hoặc việc xác định những vấn đề quan trọng về nhân thân của bị can hoặc độ tuổi
của bị hại trong một số loại án đây là lỗi chủ quan của Kiểm sát viên.
Một số đơn vị phân công Kiểm sát viên kiểm sát điều tra vụ án chưa phù hợp
với trình độ, năng lực và kinh nghiệm; Lãnh đạo Viện trực tiếp chỉ đạo giải quyết
án chưa sâu sát hoạt động của Kiểm sát viên kiểm sát điều tra vụ án đó, thiếu kiểm
tra tiến độ nên hiệu quả chỉ đạo còn hạn chế và không kịp thời, do vậy, vi phạm,
thiếu sót trong hoạt động điều tra chậm được khắc phục. Việc triển khai thực hiện
chuyên đề nghiệp vụ còn mang tính hình thức, kém hiệu quả; kiểm tra, xử lý vi
phạm không nghiêm, thiếu tác dụng giáo dục.
3.2. Trách nhiệm trong việc trả hồ sơ điều tra bổ sung
Trách nhiệm thuộc về Cơ quan điều tra, Điều tra viên trong những trường
hợp Cơ quan điều tra chưa làm hết trách nhiệm của mình để bảo đảm việc điều tra
vụ án được khách quan, toàn diện và đúng thời hạn theo quy định của pháp luật; có
trường hợp điều tra còn phiến diện trong việc đánh giá chứng cứ hoặc chủ quan
thỏa mãn với những chứng cứ, tài liệu đã thu thập được; không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng, không đầy đủ, kịp thời yêu cầu điều tra hoặc quyết định trả hồ sơ
để điều tra bổ sung của Viện kiểm sát dẫn đến vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ
sung đối với những vấn đề mà Viện kiểm sát đã yêu cầu điều tra; không cung cấp
đầy đủ, kịp thời chứng cứ, tài liệu liên quan theo quy định của pháp luật trong quá
trình điều tra vụ án theo yêu cầu của Kiểm sát viên làm cho Kiểm sát viên không
nắm được nội dung, tiến trình giải quyết vụ án để kịp thời đề ra yêu cầu điều tra
dẫn đến Viện kiểm sát phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung đối với vụ án.
Trách nhiệm thuộc về Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong những trường hợp
Viện kiểm sát, Kiểm sát viên được phân công thụ lý vụ án chưa chủ động, tích cực
kiểm sát điều tra ngay từ đầu; chưa nắm chắc tiến độ, kết quả điều tra và việc lập
hồ sơ vụ án trong suốt quá trình điều tra để đề ra yêu cầu điều tra toàn diện, kịp

thời, sát, đúng với thực tế vụ án; có trường hợp tuy đã có yêu cầu điều tra nhưng
không theo dõi, giám sát chặt chẽ để bảo đảm việc thực hiện yêu cầu điều tra
nghiêm túc, có chất lượng. Đa số các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung đều
do Kiểm sát viên sau khi vụ án kết thúc điều tra mới nghiên cứu hồ sơ và phát hiện
ra các vấn đề cần điều tra bổ sung. Đối với một số vụ án lớn phức tạp, có nhiều bị
can; những vụ án có quan điểm khác nhau về đánh giá chứng cứ, tội danh hoặc tính
chất thủ đoạn phạm tội nhưng Kiểm sát viên đã không báo cáo đề xuất xin ý kiến
21
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
chỉ đạo kịp thời để khắc phục khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết án.
Bên cạnh đó, cần xác định trách nhiệm của Lãnh đạo Viện trong chỉ đạo kiểm sát
điều tra đối với các vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung; một số Viện kiểm sát
đã không kiểm điểm nghiêm túc, tìm ra nguyên nhân chủ quan và khách quan của
việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, nhằm có biện pháp khắc phục.
3.3. Một số kiến nghị, giải pháp
Để góp phần nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra
các vụ án hình sự và hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng, người viết đề ra một số biện pháp, kiến nghị cần thiết và phải
được chú trọng thực hiện đồng thời cùng những biện pháp hữu hiệu khác trong
công tác nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án
hình sự và hạn chế trả điều tra bổ sung trong giai đoạn điều tra truy tố. Một số biện
pháp đó là:
- Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ điều tra
bổ sung, kiến nghị về việc tăng thời gian điều tra đối với các tội rất nghiêm trọng
và đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại Điều 119 BLTTHS.
- Nâng cao trách nhiệm của Cơ quan điều tra, Điều tra viên. Cơ quan điều
tra, Điều tra viên phải tuyệt đối tuân thủ đúng các quy định của BLTTHS ngay từ
giai đoạn khởi tố, điều tra.
- Hoàn thiện cơ chế phối hợp và chế ước giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.

Cần xây dựng quy chế phối hợp và chế ước giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
trong việc giải quyết vụ án hình sự. Trong chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung,
quan hệ chế ước thể hiện trong việc xác định căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung,
nội dung cần điều tra bổ sung, quan hệ phối hợp thể hiện trong việc thực hiện trình
tự, thủ tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung để quá trình tố tụng diễn ra được thuận lợi,
nhanh chóng, kịp thời.
- Đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự bằng việc tạo điều kiện
cho luật sư tham gia bào chữa. Đảm bảo cho bị can được mời luật sư bào chữa và
tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia trong các vụ án hình sự ngay từ giai
đoạn điều tra là một trong những biện pháp thực hành dân chủ, bảo đảm quyền con
người trong hoạt động tư pháp và hạn chế tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
22
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
Bên cạnh đó, với vai trò và trách nhiệm của Viện kiểm sát cần chú trọng
thực hiện một số biện pháp sau để hạn chế việc trả điều tra trong giai đoạn điều tra
truy tố, các biện pháp đó là:
- Một là, nâng cao ý thức trách nhiệm, năng lực và trình độ của Kiểm sát
viên; lựa chọn phân công Kiểm sát viên kiểm sát điều tra phù hợp; lưu ý khi phân
công các Kiểm sát viên chưa có kinh nghiệm (như mới bổ nhiệm hoặc luân chuyển
từ khâu công tác khác sang ), Lãnh đạo viện chỉ đạo giải quyết án cần quan tâm
sâu sát hơn để hạn chế vi phạm, thiếu sót, đối với các vụ án đặc biệt nghiêm trọng,
phức tạp, dư luận quan tâm cần phân công Kiểm sát viên có năng lực và kinh
nghiệm trực tiếp thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra ngay từ khi Cơ quan
điều tra khởi tố vụ án, khởi tố bi can.
- Hai là, Kiểm sát viên được phân công phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, tài liệu để
kiểm sát chặt chẽ việc phê chuẩn và chủ động đề ra yêu cầu điều tra. Phải bám sát
tiến độ điều tra, đề ra yêu cầu điều tra nhằm khắc phục kịp thời những thiếu sót về
chứng cứ hoặc vi phạm tố tụng. Quá trình điều tra cần phối hợp với Cơ quan điều
tra để tiến hành sơ kết việc điều tra khi cần thiết. Trước khi kết thúc điều tra vụ án,

Kiểm sát viên phải phối hợp chặt chẽ với Điều tra viên rà soát lại toàn bộ chứng cứ
buộc tội, chứng cứ gỡ tội và các thủ tục tố tụng đối với vụ án, bị can; khi cần thiết
có thể trực tiếp cùng với Điều tra viên hỏi bản cung tổng hợp để đánh giá đầy đủ
tính chất, mức độ phạm tội của từng bị can trong vụ án. Đồng thời, khắc phục
những thiếu sót, sơ hở trong việc thu thập chứng cứ, tài liệu để kết luận hành vi
phạm tội của bị can trong vụ án. Sau khi kết thúc điều tra, Kiểm sát viên tiếp tục
nghiên cứu kỹ hồ sơ, phát hiện kịp thời những mâu thuẫn trong vụ án; thực hiện
việc phúc cung tổng hợp đối với từng bị can, nhất là đối với những bị can phạm tội
đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, chối tội, phản cung hoặc có mâu thuẫn giữa các
chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án để từ đó đề xuất đường lối xử lý vụ án có
căn cứ và thận trọng.
- Ba là, thực hiện nghiêm túc chuyên đề "Nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
nhằm hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng". Thường xuyên quán triệt chuyên đề đến từng cán bộ, Kiểm sát viên. Đối với
từng vụ án bị trả hồ sơ để điều tra bổ sung cần nghiêm túc kiểm điểm làm rõ
nguyên nhân, trách nhiệm cá chân (Kiểm sát viên, Lãnh đạo Viện chỉ đạo). Trong
23
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải yêu cầu toàn bộ những vấn đề cần
phải điều tra bổ sung, cần xem xét tính khả thi của yêu cầu điều tra bổ sung và
kiểm sát chặt chẽ kết quả thực hiện của Cơ quan điều tra, khắc phục việc trả đi trả
lại hồ sơ nhiều lần để điều tra bổ sung. Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải
được thực hiện theo Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT ngày 27/8/2010 của Liên
ngành Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an về
hướng dẫn thi hành các quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
- Bốn là, Kiểm sát viên khi kiểm sát một số hoạt động điều tra của Điều tra
viên hoặc đối với một số loại án cụ thể, cần lưu ý:
+ Vi phạm nghiệm trọng thủ tục tố tụng được rút ra ở trên, như: Vi phạm,

thiếu sót trong việc lập biên bản bắt quả tang; biên bản hiện trường không có Điều
tra viên, Kiểm sát viên tham gia; trong việc lấy lời khai của người tham gia tố tụng
không có sự tham gia của Điều tra viên được phân công điều tra vụ án; không mời
luật sư, người bào chữa trong các trường hợp pháp luật bắt buộc theo quy định tại
khoản 2 Điều 57 BLTTHS; không trưng cầu giám định trường hợp bắt buộc phải
trưng cầu giám định theo quy định tại khoản 3 Điều 55 BLTTHS; định giá tài sản
chiếm đoạt không đúng quy định, xử lý vật chứng không đúng quy định tại Điều
76 BLTTHS, vi phạm trong việc giám hộ; truy tố theo trình tự rút gọn khi không
đủ điều kiện Kiểm sát viên cần kiểm sát chặt chẽ quá trình điều tra; lập hồ sơ của
Điều tra viên nhằm kịp thời phát hiện vi phạm, thiếu sót để khắc phục.
+ Trong thực tiễn, một số Điều tra viên không trực tiếp đi xác minh lý lịch bị
can tại nơi cư trú mà dựa trên lời khai của bị can để ghi lý lịch sau đó xin xác nhận
(hoặc xác nhận trước ghi sau) dẫn đến sai sót thông tin về nhân thân hoặc bỏ sót
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can. Vì vậy khi kiểm sát
điều tra đối với vụ án mà bị can cư trú hoặc phạm tội tại nhiều địa phương khác
nhau thì Kiểm sát viên phải kiểm tra thận trọng, toàn diện để hạn chế và loại trừ sai
sót.
+ Hiện nay, việc giám định tư pháp phục vụ cho việc giải quyết vụ án hình
sự tốn kém về thời gian và tiền bạc, như giám định tài chính, giám định tâm thần
đối với bị can dẫn đến trường hợp mặc dù quá trình điều tra qua tiếp xúc với bị
can hoặc người nhà bị can, Điều tra viên biết trường hợp này cần thiết phải giám
định tâm thần cho bị can, tuy nhiên ngại khó khăn, tốn kém nên không trưng cầu
giám định và không thông báo cho Viện kiểm sát, Kiểm sát viên chỉ nghiên cứu hồ
24
Đề tài: Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn điều tra truy tố
sơ, không tiếp xúc với bị can sẽ không phát hiện được. Để hạn chế tình trạng này,
trong yêu cầu điều tra cần làm rõ có nghi ngờ về năng lực chịu trách nhiệm hình sự
của bị can không (có tiền sử bệnh tật, có biểu hiện không bình thường về thần kinh
hoặc phạm các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của người khác như giết người

cố ý gây thương tích ).
+ Đối với vụ án có đông người tham gia hoặc liên quan, Kiểm sát viên cần
thận trọng đánh giá chứng cứ để cùng Điều tra viên xác định diện khởi tố; cần thận
trọng khi phê chuẩn khởi tố bị can đối với các tội phạm có cấu thành tội phạm có
dấu hiệu gần giống nhau như: Giết người với cố ý gây thương tích; nhận hối lộ với
lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; cưỡng đoạt tài sản với
cướp tài sản; lừa đảo chiếm đoạt tài sản với lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản nhằm hạn chế trường hợp trả hồ sơ để khởi tố thêm người đồng phạm, bổ
sung thêm tội danh hoặc thay đổi tội danh đã khởi tố.
+ Trong một số vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, phạm tội không quả
tang; việc xác định hiện trường gặp khó khăn do hiện trường bị xáo trộn hoặc thay
đổi; không có nhân chứng hoặc không tìm được nhân chứng; không thu giữ được
vật chứng thì Kiểm sát viên cần đặc biệt thận trọng trong quá trình kiểm sát điều
tra.
+Trong quá trình giải quyết vụ án có khó khăn, vướng mắc về đánh giá
chứng cứ, xác định tội danh, phương hướng điều tra tiếp, đường lối xử lý hoặc sự
nhận thức khác nhau về áp dụng văn bản quy phạm pháp luật thì Điều tra viên,
Kiểm sát viên cần kịp thời báo cáo xin ý kiến của Lãnh đạo Liên ngành tư pháp
cùng cấp để thống nhất giải quyết; trường hợp không thống nhất được thì báo cáo
xin ý kiến chỉ đạo của Liên ngành Tư pháp cấp trên.
25

×