Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

I Giải pháp nâng cao hiệu quả đổi mới phương pháp dạy học trong môn lịch sử ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.13 KB, 20 trang )

Së gi¸o dôc & ®µo t¹o ………
trêng thpt ………

**********

SÁNG KIẾN
Giải pháp nâng cao hiệu quả đổi mới
phương pháp dạy học trong môn lịch sử
ở trường THCS
Tác giả: ………………
Chức vụ: Giáo viên
Lĩnh vực nghiên cứu: Giáo dục
Đơn vị công tác: ……………

……, tháng 04 năm 201…

1


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài, sáng kiến giải pháp
Là “Thầy dạy của cuộc sống”, là “Tấm gương soi của muôn đời”, bộ môn Lịch
sử trong nhà trường phổ thông làm cho thế hệ trẻ hiểu được cội nguồn dân tộc, quá
trình dựng nước và giữ nước của cha ông ta từ xa xưa. Từ đó nâng cao tư tưởng sự
hiểu biết, kế thừa truyền thống tốt đẹp của cha ông, với lòng tự hào dân tộc, để phát
huy tài năng và trí tuệ phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nứơc trong thời
bình hiện nay. Đây là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với một dân
tộc, đặc biết là những con người làm công tác giáo dục.
Hiện nay, giáo viên đã từng bước áp dụng rất nhiều phương pháp dạy học như
khai thác kênh hình, sử dụng bản đồ tư duy…..nhưng hầu hết đều không đạt hiệu quả
cao trong giờ học. Thực trạng đó bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa đó là hầu hết học


sinh đều không mặn mà với bộ môn Lịch sử, nói cách khác là học sinh không có
hứng thú học tập môn này.
Vậy, làm thế nào nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử, kích thích sự hứng
thú học Lịch sử cho học sinh là câu hỏi lớn khiến bản thân tôi – giáo viên dạy Lịch sử
cứ mãi trăn trở.
Trong quá trình giảng dạy bộ môn Lịch sử, bản thân tôi đã tìm mọi giải pháp để
kích thích học sinh tìm đến với bộ môn nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng môn
Lịch sử nói chung. Từ đó, mà tôi mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu
quả đổi mới phương pháp dạy học trong môn lịch sử ở trường THCS” để góp phần
nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học môn Lịch sử.
2. Điểm mới của đề tài:
Rèn cho học sinh cách học theo các phương pháp mới, học sinh sẽ được làm
chủ kiến thức, tự giải quyết các vấn đề trong chương trình học, khắc phục tình trạng
học sinh không thích học lịch sử, làm thay đổi nhận thức trong học sinh.
Nâng cao các kỹ năng phân tích, đánh giá, tổng hợp vấn đề, biết vận dụng kiến
thức lịch sử vào cuộc sống một cách dễ dàng. Chính vì thế mà làm thay đổi cách nhìn
nhận của phụ huynh về môn Lịch sử.
Là nguồn tư liệu để giáo viên sử dụng các giải pháp đổi mới phương pháp dạy
học có hiệu quả nhất, giúp giáo viên trau dồi thêm các kỹ năng để điều khiển tốt một
giờ dạy học, hướng học sinh theo mục đích để đạt yêu cầu bài học.
Tùy theo đơn vị kiến thức bài, giáo viên có thể lựa chọn các giải pháp đó cho
phù hợp với nội dung, thời gian của tiết học.
3. Phạm vi, giới hạn của đề tài, sáng kiến, giải pháp:
Sáng kiến được áp dụng tại đơn vị tôi công tác từ tháng 9 năm 2016 đến nay.

2


II. PHẦN NỘI DUNG
1. Thực trạng:

Có thể nói, trong những năm gần đây việc thực hiện đổi mới căn bản toàn diện
giáo dục đã dấy lên phong trào thi đua sôi nổi ở các Trường trung học cơ sở. Đại đa
số giáo viên có tâm huyết với nghề nghiệp, có đam mê đã tích cực vận dụng các
phương pháp dạy học mới khá tốt, nên đã khêu gợi được tính tự lực của học sinh,
phát huy tốt vai trò của người học. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có một số nguyên
nhân cả về phía giáo viên, cả về phía học sinh, cả về phía cơ sở vật chất lẫn cả về
phía phụ huynh học sinh dẫn đến chất lượng dạy-học môn Lịch sử vẫn còn nhiều băn
khoăn, lo lắng. Sau đây là thực trạng ở đơn vị tôi công tác:
* Về phía giáo viên
Việc thay đổi chương trình lẫn phương pháp giảng dạy mới khiến nhiều giáo
viên thực sự lúng túng. Trong một tiết dạy, nhiều giáo viên thiếu vận dụng linh hoạt,
chỉ sử dụng một phương pháp, nhiều giáo viên chỉ nghiêng về nói lại nội dung SGK
làm cho tiết học đơn điệu, giờ học diễn ra rất nhàm chán, học sinh không thể phát huy
được tính tích cực học tập của mình.Thậm chí chỉ vì lo hoàn thành khối lượng kiến
thức mà nhiều giáo viên đã không chú trọng đến đối tượng học sinh yếu (nếu không
muốn nói là bỏ qua).
Một số giáo viên hầu như có tiết không sử dụng thiết bị dạy
học, không cho học sinh khai thác các kênh hình, tư liệu trong SGK.Một số giáo viên
chưa có sự đầu tư cho tiết dạy, chưa sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học.Nếu có
sử dụng công nghệ thông tin, thì giáo viên trình chiếu tất cả các kiến thức dẫn đến
học sinh thụ động trong việc tiếp nhận tri thức.Từ đó nảy sinh tâm lý chán họcmôn
Lịch sử.Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng dạy- học Lịch sử
còn thấp so với các môn khác.
Sau đây là bảng khảo sát việc giáo viên ngại áp dụng phương pháp mới, lo dạy xong
kiến thức, chỉ chú ý đối tượng học sinh Khá, Giỏi, bỏ qua đối tượng học sinh Yếu để
chứng minh cho những điều tôi phân tích ở trên:
BẢNG
KHẢO SÁT MINH CHỨNG VIỆC GIÁO VIÊN NGẠI ÁP DỤNG
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MỚI TRONG MÔN LỊCH SỬ
N.dung Sử dụng PPDH/tiết

GV
1
2
3
4
GV 1

x

GV 2
GV 3

-

-

-

-

Khi dạy GV chú ý đến
HSG HSKhá HS nghịch K.thứ
c
X
x
x
x

x


-

x

X

x

-

-

-

X

x

T.gian
x

x
x

x

x

(Trong đó x có sử dụng, - không sử dụng)


3


* Về phía học sinh
Đã qua nhiều năm thực hiện đổi mới, nhìn chung đại đa số học sinh đã tiếp cận
được với nội dung, kiến thức, chương trình và phương pháp dạy học mới, song quá
trình tiếp thu của học sinh chưa đồng đều, chưa linh hoạt trong quá trình hoạt động
của mình, việc tiếp cận với phương pháp dạy học mới và thiết bị dạy học mới đối với
một số học sinh còn khó khăn do đó kết quả tiếp thu của học sinh chưa đạt kết quả
cao.
Bên cạnh đó. nhiều học sinh coi môn Lịch sử là “môn phụ” vì vậy các em ít
chú ý nghe giảng; các em ghi chép một cách máy móc những gì giáo viên ghi trên
bảng và chỉ học thuộc lòng những gì ghi trong vở thậm chí là không học bài chứ chưa
nói đến việc kết hợp với SGK để giải quyết các câu hỏi trong sách. Từ đó lại càng
không biết phát hiện những vấn đề cần được giải quyết. Từ chỗ lười suy nghĩ, không
biết phân tích vấn đề, nên càng không biết nêu vấn đề để thảo luận bàn bạc dẫn đến
việc chán chê, bỏ bê. Và đây là nguyên nhân thứ hai trong nhiều nguyên nhân dẫn
đến chất lượng môn Lịch sử thấp trong thời gian qua mà các phương tiện thông tin
đại chúng luôn đề cập.
Sau đây là bảng khảo sát về thái độ học tập Lịch sử ở trường THCS trong năm
học 2017 - 2018 mà tôi đang trực tiếp giảng dạy:
Rất thích
Thích
Không thích
Hứng thú
Khối Sĩ số
SL
%
SL
%

SL
%
SL
%
6
40
5
12,5
11
27,5
20
50
4
10
7
38
4
10,5
12
31,6
18
47,4
4
10,5
8
42
3
7,1
12
28,6

25
59,5
2
4,8
9
30
3
10
10
33,3
15
50
2
6,7
* Về cơ sở vật chất phục vụ dạy học:
Trong những năm gần đây, do yêu cầu của đổi mới sự nghiệp giáo dục, CSVC
của nhà trường được tăng trưởng mạnh. Song ở một số trường phương tiện dạy học
chưa đầy đủ, cơ sở vật chất chưa đảm bảo, phòng học bộ môn Lịch sử chưa có, các
bản đồ, tranh ảnh, băng hình chưa đầy đủ. Ở một số bài dạy, một số nội dung cần
thiết đến sơ đồ, lược đồ nhưng sách giáo khoa và sách giáo viên không thể hiện rõ và
không đưa ra định hướng chung để thực hiện nên dễ gây ra sự tuỳ ý trong một số nội
dung khi thực hiện. Việc học sinh quá đông trong một lớp học cũng dẫn đến khó khăn
trong việc phân chia nhóm cũng ảnh hưởng đến rất lớn trong quá trình dạy học.
* Về phía phụ huynh học sinh:
Do tâm lý sợ con mình học vất vả (vì phải học thuộc lòng nhiều), lại sợ khó xin
việc trong tương lai nên nhiều phụ huynh không cho con mình theo ngành sử. Thậm
chí khi đã học sử xong xin được việc song lương của các công việc có liên quan đến
ngành sử cũng thấp nên tâm lý lo lắng luôn thường trực trong mỗi một phụ huynh khi
con em mình học sử nói chung, các môn xã hội nói riêng. Đây cũng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến việc học sinh thiếu chăm lo học tập, bỏ bê môn Lịch sử.


4


Tôi cũng đã tiến hành điều tra ý kiến của phụ huynh học sinh đối với môn Lịch sử và
nhận được kết quả như sau:
BẢNG THỐNG KÊ Ý KIẾN CỦA PHỤ HUYNH VỀ MÔN LỊCH SỬ:
Tổng
Lịch sử khó Chỉ là môn Ra trường Thích các Thích
số phụ thuộc,
dài phụ
khó
xin môn KHTN môn Lịch
huynh dòng
việc
sử vì biết
cội nguồn
dân tộc,
tổ tiên
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL %
137


25

18,2

25

18,2

60

43,8 22

16,1

5

3,7

Tóm lại, từ tháng 9 năm 2016 cho đến nay qua giảng dạy, phân tích, điều tra tôi
đã nhận thấy chất lượng dạy học môn Lịch sử còn thấp là do nhiều nguyên nhân,
trong đó tôi chú ý đến các nguyên nhân đã phân tích trên.
Sau đây là kết quả khảo sát chất lượng môn Lịch sử so với một số môn khác:
- Kết quả học tập bộ môn qua thống kê của một số môn cuối năm học 2016-2017 ở
đơn vị tôi công tác:
Kết quả
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Môn

SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Toán
20
14,6
42
30,7
65
47,4
10
7,3
T.Anh
25
18,2
45
32,8
55
40,1
12
8,8
Ngữ văn
25
18,2
41

29,9
59
43,1
12
8,8
Lịch sử
10
7,3
38
27,7
75
54,7
14
10,3
- Kết quả bài kiểm tra số 1 qua thống kê của một số môn đầu năm học 2017-2018 ở
đơn vị tôi công tác:
Kết quả
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Môn
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%

Toán
22
15
50
34,0
65
44,2
10
6,8
T.Anh
27
18,4
50
34,0
58
39,45
12
8,2
Ngữ văn
27
18,4
52
35,4
59
40,1
10
6,8
Lịch sử
15
10,2

42
28,6
75
51,0
15 10,2
Qua số liệu khảo sát trên, tôi nhận thấy: đúng như tình trạng đã điều tra, phân
tích, học sinh nắm kiến thức lịch sử không chắc chắn, có nhiều điểm yếu, tỉ lệ điểm
yếu kém cao, kĩ năng vận dụng kiến thức để làm bài tập lịch sử của nhiều em còn
yếu, có quá nhiều chỗ hỏng về kiến thức ….Chất lượng học lịch sử thấp hơn các môn
khác về số lượng Giỏi, Khá ………..

5


2. Giải pháp:
Cũng như các môn học khác, môn học Lịch sử cung cấp cho học sinh những
kiến thức cơ sở, nên đòi hỏi học sinh không chỉ nhớ mà còn phải hiểu và vận dụng
kiến thức đã học vào cuộc sống. Cho nên, việc học tập các môn nói chung, Lịch sử
nói riêng đòi hỏi phải phát huy khả năng tư duy, thông minh, sáng tạo của cả thầy lẫn
của cả trò. Để làm được việc đó cần phải kết hợp nhiều yếu tố trong một quá trình
dạy học từ khâu thiết kế bài soạn, tổ chức hoạt động cho học sinh, sử dụng thiết bị
đến cả việc kiểm tra đánh giá.
Giải pháp 1:
Xây dựng và thiết kế giáo án khoa học
Xây dựng giáo án là một trong những yếu tố tạo nên sự thành công của bài
giảng. Những bài giảng có khi là một giáo án chuẩn bị chu đáo, cũng có khi là những
ý tưởng bất ngờ nảy đến. Không cứng nhắc như nhiều giờ học khác, trong giờ học
Lịch sử bạn có thể tổ chức nhiều hoạt động như đóng kịch, chơi trò chơi, học Lịch sử
qua sự kiện, qua tem…. Nhưng điều quan trọng nhất là gì? Là mục tiêu giảng dạy?
Vậy thì một giáo án như thế nào là hiệu quả? Và một giáo án cần những đặc điểm tiên

quyết gì để có thể đạt được mục tiêu giảng dạy?
Dưới đây, tôi xin đưa ra 8 vấn đề cần lưu ý mà tôi đã thực hiện để xây dựng
một giáo án hiệu quả để chúng ta có thể hướng tới mục tiêu cao nhất của mỗi người
giáo viên. Đó là nâng cao hiệu quả giờ dạy đồng thời đánh giá chính xác quá trình
học tập của học sinh. Kể cả khi không cần thiết phải thiết kế giáo án trên giấy thì 8
bước đó cũng sẽ luôn nhắc nhở chúng ta nhằm đạt hiệu quả tốt nhất trong công việc
giảng dạy hàng ngày.
Vấn đề 1. Mục tiêu bài dạy
Trong mỗi một giờ lên lớp hãy đề ra mục tiêu mà cả lớp phải hoàn thành. Và
dù chúng ta có tiến hành hoạt động nào hay tổ chức trò chơi gì cho giờ học thêm sôi
nổi thì vẫn phải hướng đến mục tiêu của bài giảng.
Vấn đề 2. Dẫn dắt.
Trước khi đi sâu vào nội dung của bài, nên có một vài lời dẫn dắt bằng cách
liên hệ giữa các kiến thức cũ và mới hoặc tạo ra một lý giải hợp lý cho việc thực hiện
mục tiêu bài giảng ngày hôm đó. Việc đó khiến học sinh thích thú, tập trung vào vấn
đề cần đạt hơn hẳn.
Ví dụ: Giáo viên có thể tạo hứng thú cho học sinh bằng một trò chơi trên lược
đồ. (GV treo bản đồ Đông Nam Á nhưng đã che khuất các nước trong khu vực Đông
Nam Á. GV yêu cầu học sinh đoán xem trong mỗi mảnh ghép từ ô số 1 đến ô số 11 là
nước nào? Sau đó học sinh đưa ra một câu hỏi có vấn đề: Hầu hết các nước ở châu
Á, cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX đều bị các nước phương Tây xâm lược đó là Ấn
6


Độ, Trung Quốc. Vậy theo các em, khu vực Đông Nam Á có phải là đối tượng tiếp
theo mà các nước tư bản phương Tây đang tiếp tục xâm lấn?)
Vấn đề 3. Hướng dẫn trực tiếp.
Khi thiết kế giáo án, chúng ta hãy đưa ra một cách cụ thể và chi tiết để làm sao
truyền tải được các khái niệm của bài học hôm ấy với các học sinh. Có rất nhiều cách
khác nhau và chúng ta có thể thay đổi theo từng đề tài.

Ví dụ: Ở bài 11 này, học sinh phải nắm được khái niệm thế nào là nửa thuộc địa,
nữa phong kiến. GV cho học sinh suy nghĩ, sau đó gọi cá nhân học sinh trả lời. GV
gợi ý và chốt lại đầy đủ về khái niệm: Những nước bị các nước đế quốc chủ nghĩa cai
trị, bóc lột. Về thực chất đó là một nước thuộc địa, nhưng vẫn được duy trì chế độ
phong kiến bằng cách nuôi dưỡng, sử dụng bọn tay sai phong kiến bản địa để tăng
cường thống trị, đàn áp nhân dân.
Vấn đề 4. Luyện tập theo hướng dẫn.
Chuẩn bị các bài luyện tập các kiến thức mới vừa học để củng cố kiến thức cho
học sinh đồng thời áp dụng các kỹ năng mà chúng ta vừa truyền đạt thông qua các chỉ
dẫn trực tiếp. Tất nhiên là chúng luôn phải có một sự theo dõi sát sao quá trình làm
việc của học sinh trong lớp mình.
Ví dụ: Giáo viên có thể củng cố bài học bằng cách cho học sinh chơi trò chơi
giải đáp ô chữ.
Vấn đề 5. Kết thúc.
Kết thúc bài học cũng là khởi đầu cho những kiến thức tiếp theo. Vậy sẽ rất
hữu ích nếu chúng ta có thể đặt ra những câu hỏi đầy tính gợi mở để khuyến khích sự
tự nghiên cứu thêm của học sinh cũng như sự chuẩn bị của họ cho bài học tiếp theo.
Ví dụ: Khi kết thúc bài học, giáo viên có thể cho học sinh khái quát lại nội
dung bài học. Giáo viên có thể đưa ra một câu hỏi để học sinh chuẩn bị cho bài học
tiếp theo: Ngoài Xiêm, thì có một nước ở châu Á, không bị sự thôn tính của các nước
phương Tây. Đó là Nhật Bản. Em hãy tìm những nguyên nhân để cho thấy Nhật Bản
không bị các nước phương Tây xâm lấn?
Vấn đề 6. Tự luyện.
Khi hoàn thành các bài tập về nhà hoặc các bài luận cá nhân, học sinh có thể
thể hiện mức độ tiếp thu những kiến thức đã học. Thông qua việc trả bài, chúng ta sẽ
xác định được rằng mình đã thực hiện được mục tiêu giảng dạy hay chưa.
Ví dụ: GV có thể cho học sinh thảo luận nhóm, vẽ sơ đồ tư duy bài học.
Vấn đề 7 Tài liệu và thiết bị cần thiết.
Hãy chuẩn bị những nguồn tài liệu cần thiết giúp chúng ta giảng bài hiệu quả.
Và nếu có thể, chúng ta nên giới thiệu cho học sinh tài liệu tham khảo cho từng mục

kiến thức khác nhau để học sinh tự tìm tòi.
Ví dụ: Trước khi học mỗi bài, giáo viên có thể cho học sinh sưu tầm các tài
liệu về khu vực Đông Nam Á trong giai đoạn này. Cho học sinh tìm đọc Lịch sử thế
7


giới cận đại của Nguyễn Văn Minh, Vũ Dương Hồng, NXB Giáo dục. Giáo viên có
thể cho học sinh tự vẽ bản đồ các nước Đông Nam Á.
Vấn đề 8 Đánh giá.
Bài học chỉ có thể coi là đã được hoàn thành khi bạn thành công trong việc
đánh giá quá trình học của học sinh trong từng tiết dạy. Phần đánh giá này là một
trong những phần quan trọng nhất, là tiền đề để chúng ta đặt ra những mục tiêu mới
trong giờ học tiếp theo.Ví dụ: Giáo viên có thể cho học sinh làm một bài khảo sát
theo dạng trắc nghiệm và tự luận về các vấn đề đã học. Các câu hỏi có thể ra theo
mức độ từ dễ đến khó, phân hóa đối tượng học sinh
Giáo viên có thể cho học sinh lược đồ Đông Nam Á trống. Yêu cầu các nhóm
học sinh lên điền tên các nước chiếm đóng và khu vực chiếm đóng.
Tóm lại, trong suốt quá trình giảng dạy, giáo án sẽ luôn là một cuốn cẩm nang
tin cậy mỗi khi chúng ta đứng trước lớp. Như vậy, một giáo án phải có một mục đích
rõ ràng, lôi cuốn được sự tham gia tích cực của học sinh, có thể áp dụng với nhiều
phương pháp học khác nhau và đưa học sinh đến những chân trời kiến thức mới. Với
việc chú ý 8 bước trên, tôi tin rằng, chúng sẽ thành công trong việc xây dựng một
giáo án thực sự hiệu quả.
Giải pháp 2:
Tổ chức linh hoạt hoạt động nhóm
Việc khuyến khích học sinh hợp tác với các thành viên khác trong lớp góp
phần tạo lập nên cộng đồng, gia tăng sự đoàn kết và khiến việc học trở nên tích cực
hơn. Tuy nhiên, quyết định xem có nên cho hoạt động nhóm hay không và tổ chức
như thế nào, việc đó có thể làm bạn cảm thấy mệt mỏi.
Bởi vì làm việc nhóm có thể là một thách thức và phức tạp, nhiều giáo viên

hoặc là tránh không cho hoạt động nhóm hoặc giữ học sinh ở những nhóm cố định.
Duy trì các “nhóm cố định” trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng. Họ không có sự điều
chỉnh thường xuyên tùy theo mục đích của bài tập và hồ sơ đánh giá học sinh. Điều
này có thể tước đi cơ hội cho học sinh được học hỏi và phát triển các mối quan hệ với
tất cả các bạn trong lớp.Ngược lại, nhóm linh hoạt, sắp xếp học sinh một cách có chủ
ý và thay đổi thường xuyên tùy theo các trải nghiệm học tập trong một khoảng thời
gian tương đối ngắn (ví dụ: một hoặc hai tuần). Hoạt động nhóm kết nối với nhiệm
vụ học tập và dựa trên kết quả đánh giá lớp học cũng như các đặc điểm khác của học
sinh.
Qua quá trình tổ chức hoạt động nhóm linh hoạt tôi nhận thấy có ba lợi thế so
với hoạt động nhóm cố định, cụ thể như sau:
Thứ nhất: Hoạt động nhóm linh hoạt kết nối các học sinh với nhau: Bất cứ khi
nào học sinh hoạt động trong một nhóm nhỏ, họ tách biệt với phần còn lại của lớp.
Với nhóm linh hoạt, sự tách biệt là tạm thời. Sau một khóa học kéo dài nhiều ngày,
nhiều tuần, nhiều tháng, học sinh cộng tác với nhiều người khác theo những cách mới
mà không phải thực hiện những buổi hoạt động cả nhóm, cá nhân hoặc tương tác

8


trong một nhóm nhỏ cố định. Hoạt động nhóm linh hoạt củng cố tình cảm trong lớp
học.
Thứ hai: Hoạt động nhóm linh hoạt đưa học sinh đến với những quan điểm mới
và khác biệt: Cũng như người lớn, trẻ em ở mọi lứa tuổi bị lôi cuốn bởi những người
giống họ – người chia sẻ quan điểm với họ, có cùng trải nghiệm, sở thích và dường
như cùng có sự đánh giá cao với một số thứ. Nhu cầu kết bạn là chuyện bình thường
và rất có ích. Tuy nhiên, học sinh có thể rất thoải mái hoặc có xích mích với cùng
những thành viên trong nhóm ở trong hoặc ngoài không gian lớp học. Nhóm linh hoạt
tách học sinh ra khỏi vùng thoải mái và buộc họ làm việc chung với những người mà
họ không thể từ chối để trải nghiệm những mối quan hệ mới.

Thứ ba: Nhóm linh hoạt chống lại sự khác biệt: Khi tiến hành hoạt động nhóm linh
hoạt giáo viên đã gửi thông điệp mạnh mẽ đến học sinh về vai trò của giáo viên đối
với lớp học. Khi được sắp nhóm, hầu hết học sinh sẽ đặt ra các câu hỏi: Ai cùng
nhóm với mình? Chúng tôi sẽ làm gì? Họ sẽ làm gì?… Học sinh đang tiến hành một
dạng thức kiểm tra “độ cứng của giáo viên” cũng như niềm tin của giáo viên đối với
năng lực học tập của học sinh. Nhóm linh hoạt làm đã thử thách người học ở chỗ họ
bị sắp xếp làm việc với người khác theo những mục đích của giáo viên. Các nhóm đôi
khi được chia dựa trên độ sẵn sàng của học sinh hoặc cấp độ kĩ năng nhưng các thành
viên trong nhóm kết nối với nhau dựa trên mối quan tâm, sở thích học tập, trải
nghiệm,…Từ những yếu tố trên, chúng ta phải xây dựng kế hoạch tổ chức nhóm linh
hoạt. Để giải quyết tốt vấn đề này, giáo viên phải trả lời được các câu hỏi sau: Học
sinh có nên ở trong nhóm lớn hay là làm việc theo cặp? Cho tự đọc hay đọc theo
nhóm ba? Nhóm bốn người quá to hay quá nhỏ cho trò ghép hình? Học sinh có thể tự
chọn nhóm không, hay là giáo viên nên chọn?
Có phải cấp độ kĩ năng ảnh hưởng phần lớn đến các bài tập nhóm, hay là sở thích?
Trong dạy học, để xây dựng kế hoạch hoạt động nhóm linh hoạt, tùy theo từng bài
học, giáo viên có thể chia các nhóm:
Nhóm nhỏ ( 2 học sinh): thường dùng khi cần học sinh trao đổi những vấn đề cụ thể,
đơn giản, thời gian ngắn.
Nhóm đôi: Dùng để nghiên cứu, trao đổi vấn đề phức tạp đòi hỏi sự cộng tác cao.
Nhóm 4 – 6 học sinh: Dùng khi trao đổi ý kiến hoặc thực hiện công việc cụ thể đòi
hỏi sự nổ lực chung của cả nhóm.
Để hoạt động nhóm tốt, giáo viên có thể ghi trên bảng theo dõi quá trình của nhóm.
Giải pháp 3:
Tăng cường khai thác thiết bị dạy học hiệu quả
Đổi mới PPDH đang là một vấn đề vô cùng quan trọng trong việc quyết định
dến chất lượng giáo dục. Muốn vậy cần phải nâng cao, cải tiến đồng bộ các thành tố
liên quan, trong đó phương tiện dạy và học là một thành tố quan trọng.
Trong quá trình dạy học, các PTDH giảm nhẹ công việc của giáo viên và giúp
cho học sinh tiếp thu kiến thức một cách thuận lợi. Có được các phương tiện thích

hợp, người giáo viên sẽ phát huy hết năng lực sáng tạo của mình trong công tác giảng
dạy, làm cho hoạt động nhận thức của học sinh trở nên nhẹ nhàng và hấp dẫn hơn, tạo
ra cho học sinh những tình cảm tốt đẹp với môn học.
9


Do đặc điểm của quá trình nhận thức, mức độ tiếp thu kiến thức mới của học
sinh tăng dần theo các cấp độ của tri giác: nghe - thấy - làm được (những gì nghe
được không bằng những gì nhìn thấy và những gì nhìn thấy thì không bằng những gì
tự tay làm), nên khi đưa những phương tiện vào quá trình dạy học, giáo viên có điều
kiện để nâng cao tính tích cực, độc lập của học sinh và từ đó nâng cao hiệu quả của
quá trình tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và hình thành kỹ năng, kỹ xảo của các em. Có rất
nhiều loại phương tiện dạy học với các hình thức và chức năng khác nhau, trong đó
có: phương tiện tạo hình ảnh (bảng đen, bảng trắng, tranh ảnh, bảng biểu,...), những
phương tiện khuếch đại hình ảnh (máy chiếu), phương tiện thu/phát khuếch đại âm
thanh (máy quay, máy ghi âm, ...)
Vì vậy người giáo viên khi sử dụng phương tiện dạy học phải bảo đảm các
nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học. Phương tiện dạy học có tác dụng làm tăng
hiệu quả của quá trình nhận thức của học sinh, giúp cho học sinh thu nhận được kiến
thức về đối tượng thực tiễn khách quan. Tuy vậy, nếu không sử dụng phương tiện dạy
học một cách hợp lý thì hiệu quả sư phạm của phương tiện dạy học không những
không tăng lên mà còn làm cho học sinh khó hiểu, rối loạn, căng thẳng...
Theo ý kiến của bản thân tôi thì mỗi giáo viên nên khai thác thiết bị dạy học
theo hướng sau đây:
- Khai thác máy tính, máy chiếu và các phần mềm dạy học cho công tác soạn, giảng.
Trong quá trình trình bày bài giảng, tùy theo từng nội dung bài học cụ thể mà ứng
dụng công nghệ thông tin với những mức độ và hình thức khác nhau.
- Xây dựng giáo án điện tử, bài giảng Elearning, sự tích hợp các công nghệ phần
mềm dạy. Bài giảng có thể lưu trữ trên các ổ đĩa hoặc trên một kho tài nguyên học tập
trên mạng, người học có thể sử dụng học tập bất cứ khi nào, bất cứ ở đâu.

- Khai thác tối đa tài nguyên dạy học trên mạng Internet
- Khai thác ứng dụng của các phần mềm mô phỏng trong giảng dạy làm cho quá trình
truyền thụ kiến thức được thuận tiện hơn. Cần biết vận dụng và khai thác các phần
mềm dạy học phổ biến.
Tuy nhiên cần chú ý những điểm sau đây:
- Trước hết giáo viên phải nhận thức đúng và đầy đủ vai trò của việc sử dụng thiết bị
vào đổi mới phương pháp giảng dạy. Giáo viên cần mạnh dạn, không ngại khó, tự
thiết kế và sử dụng bài giảng điện tử của mình sẽ giúp rèn luyện được nhiều kỹ năng
và phối hợp tốt các phương pháp dạy học tích cực khác.
- Không lạm dụng công nghệ thông tin nếu chúng không tác động tích cực đến quá
trình dạy học và sự phát triển của học sinh.
- Ứng dụng CNTT trong dạy học không phải là một phương pháp mới mà chỉ là sự hỗ
trợ đổi mới phương pháp dạy học bằng các công cụ, phương tiện. Cần tránh việc
chuyển từ đọc - chép sang nhìn – chép.
- Cần có cách tổ chức lớp học khoa học hợp lý để huy động mọi học sinh đều tham
gia vào việc học. Tránh tình trạng chỉ một vài học sinh thực hiện còn các học sinh
khác thì không tập trung chú ý.
- Đối với bản đồ, lược đồ: đó là nguồn kiến thức quan trọng và được coi như cuốn
sách lịch sử thứ hai của học sinh. Tổ chức cho học sinh làm việc với bản đồ theo các
bước sau:
+ Cho học sinh quan sát bản đồ về nội dung và các ký hiệu của bản đồ.
10


+ Giáo viên đặt câu hỏi nêu vấn đề gợi ý học sinh tìm hiểu nội dung bản đồ.
+ Học sinh trả lời câu hỏi bằng việc trình bày kết quả tìm hiểu nội dung bản đồ
đó.
+ Giáo viên nhận xét, bổ sung, hoàn chỉnh nội dung cần cung cấp cho học sinh.
Ví dụ: Hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức từ lược đồ “Hành trình cứu nước của
Hồ Chí Minh” - Lịch sử 9 bài 16 “Hoạt động của NAQ ở nước ngoài trong những

năm 1919-1925.
- Cho học sinh quan sát ở lược đồ để thấy được hoạt động của NAQ ở nước ngoài
qua 3 giai đoạn theo hướng đi bằng các màu sắc thể hiện khác nhau.
+ Nguyễn Ái Quốc ở Pháp (1917-1923)
+ Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô (1923-1924)
+ Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc (1924-1925)
- Đối với tranh ảnh: Để việc khai thác tranh ảnh có hiệu quả, phát huy được tính tích
cực của học sinh cần thực hiện các yêu cầu sau:
+ Cho học sinh khai thác tranh ảnh để xác định nội dung cần khai thác.
+ Giáo viên nêu câu hỏi nêu vấn đề, tổ chức học sinh tìm hiểu nội dung tranh ảnh.
+ Học sinh trình bày kết quả sau khi đã quan sát, tìm hiểu.
+ Giáo viên nhận xét, bổ sung, hoàn thiện nội dung khai thác tranh ảnh.
Ví dụ: Khai thác tranh Nguyễn Ái Quốc ở đại hội Tua.
+ Cho học sinh quan sát để xác định đây là bức tranh mà Nguyễn Ái Quốc tham
dự đại hội Tua.
+ Trong đại hội Tua người có những quyết định gì.
+ Giáo viên nêu các nội dung trong đại hội Tua.
Giải pháp 4:
Tổ chức hướng dẫn học sinh làm việc với các sử liệu có trong SGK và trình bày
lại (rèn kỹ năng nghiên cứu tài liệu).
Qua kết quả nghiên cứu thực tiễn tại cơ sở, tôi xin đưa ra các biện pháp rèn kĩ
năng tự nghiên cứu tài liệu bằng cách tổ chức cho học sinh làm báo cáo hay bài tập về
chuyên đề. Bởi vì, theo tôi để viết được một báo cáo hoặc hoàn thành tốt bài tập theo
chuyên đề tốt, buộc học sinh phải có kĩ năng khai thác và xử lí thông tin từ các nguồn
tài liệu khác nhau. Ngược lại, viết báo cáo hay thực hiện bài tập chuyên đề là để các
em luyện tập, khai thác tối đa khả năng nghiên cứu của bản thân. Trên cơ sở đó mà kĩ
năng tự nghiên cứu tài liệu cũng sẽ được củng cố, hoàn thiện, nâng cao và dần trở
thành năng lực, phẩm chất nhân cách của các em, thứ mà các em cần trong suốt cuộc
đời.
Từ điều tra thực tiễn, nhận thấy kĩ năng tự học, tự nghiên cứu tài liệu của học

sinh còn ở mức trung bình và kém, từ đo tôi đã xây dựng quy trình rèn kĩ năng tự
nghiên cứu tài liệu bằng cách tổ chức cho hoch sinh thực hiện làm báo cáo hay bài
tập chuyên đề thành hai giai đoạn.
Giai đoạn 1 là rèn kĩ năng tự nghiên cứu tài liệu trang bị cho người học những kĩ
năng tự nghiên cứu tài liệu cơ bản.
Giai đoạn 2 là tổ chức học sinh làm báo cáo hay bài tập chuyên đề.

11


Thực chất, ở giai đoạn 1, việc tổ chức rèn học sinh các kĩ năng tự nghiên cứu
tài liệu, sử dụng các câu hỏi ngắn. Những kỹ năng cần rèn ở giai đoạn này cụ thể như
sau:
Kĩ năng xác định vấn đề cần nghiên cứu
Kĩ năng này đóng vai trò quan trọng, định hướng toàn bộ mọi hoạt động của
học sinh. Với học sinh, việc vấn đề cần nghiên cứu thường do giáo viên giao cho
hoặc các em tự xác định được thông qua các câu hỏi, các bài tập và tình huống có vấn
đề mà giáo viên đưa ra. Các em cũng có thể độc lập xác định được vấn đề cần nghiên
cứu trong quá trình tự học mà không cần sự định hướng hay gợi ý của giáo viên.
Để rèn kĩ năng xác định vấn đề nghiên cứu cho học sinh, trong quá trình dạy
tôi giao cho các em các câu hỏi, bài tập dựa trên các tình huống có vấn đề rồi hướng
dẫn các em cách xác định các yêu cầu của câu hỏi, bài tập (phân tích đề). Giáo viên
cũng có thể lựa chọn cùng một nội dung phù hợp, đặt các câu hỏi khai thác vấn đề
theo các hướng khác nhau, yêu cầu học sinh trả lời. Qua quá trình phân tích các câu
hỏi này học sinh sẽ xác định được với cùng một vấn đề, với những cách hỏi khác
nhau , thậm chí chỉ một vài từ thì nội dung câu trả lời sẽ khác. Việc làm này sẽ góp
phần đắc lực trong quá trình rèn kĩ năng xác định vấn đề cần nghiên cứu của học
sinh. Kĩ năng rất cần cho các em trong quá trình học, thi cử, cuộc sống nói chung và
hoàn thành bài học nói riêng.
Kĩ năng lựa chọn tài liệu

Trước và sau khi xác định được vấn đề cần nghiên cứu, học sinh cần biết tìm
nguồn tài liệu phù hợp. Khả năng tìm kiếm tài liệu sẽ góp sức đắc lực cho người học
trong cả quá trình làm bài, làm cho bài của mình có cả chiều sâu và độ rộng. Nguồn
tài liệu phù hợp cũng giúp học sinh kiểm tra lại khâu xác định vấn đề cần nghiên cứu
của mình xem mình xác định vấn đề đã đúng và đủ chưa. Nguồn tài liệu cơ bản nhất
của học sinh là SGK và vở ghi. Tuy nhiên, với học sinh nguồn đó nhiều khi là chưa
đủ, các em cần biết lựa chọn các tài liệu bổ trợ khác. Nguồn tài liệu bổ trợ hay được
dùng nhất ngoài sách tham khảo mà các em có là các sách tham khảo có trên thư
viện.
Vì vậy, các em cần biết cách tra các tên sách từ các mục lục phân loại trên thư
viện. Ngoài ra, các em có thể sử dụng nguồn thông tin từ internet. Để các em khai
thác tốt Internet, giáo viên cần hướng dẫn các em biết cách sử dụng các công cụ tìm
kiếm, các từ khóa (đôi khi phải dùng các từ khóa tiếng Anh thì các em cần biết các sử
dụng từ điển Anh Việt hoặc Việt Anh, sử dụng các công cụ dịch một cách hợp lí).
Trong nhiều trường hợp, giáo viên có thể đưa ra một số trang web tin cậy làm nguồn
chỉ dẫn tài liệu tham khảo cho học sinh .
Kĩ năng xác định mục đích đọc tài liệu
Khi đọc một tài liệu nào đó, người đọc cần xác định mục đích đọc của mình.
Đầu tiên cần xác định thông tin mình cần có trong toàn bộ tài liệu đó hay không hay
chỉ là một đoạn nhỏ. Muốn vậy cần có thói quen đọc phần mở đầu và đọc qua mục
lục, nếu không có mục lục cần đọc lướt qua các ý chính. Sau khi tìm được nội dung
cần đọc, hãy đọc kĩ, vừa đọc vừa nghiền ngẫm để có thể hiểu sâu sắc.
Kĩ năng ghi chép thông tin
12


Học sinh khi đọc tài liệu cũng như khi nghe giảng cần phải ghi chép lại để đỡ
tốn thời gian đọc lại cũng như sử dụng thông tin từ tài liệu để giải quyết vấn đề tốt
hơn, ghi nhớ thông tin nhanh và lâu hơn. Trong học tập, kĩ năng ghi chép của người
học đóng vai trò quan trọng, nó thể hiện cách thu nhận, xử lý và định hướng quá trình

ghi nhớ và sử dụng thông tin. Để rèn học sinh kĩ năng này, ngay từ đầu giáo viên yêu
cầu học sinh chuyên sử dụng vở ghi, chia vở thành 4 cột: Một cột (phía ngoài cùng
tay phải) ghi nội dung chính thầy cô giáo dạy trên lớp, cột ngay bên cạnh ghi các câu
hỏi thầy cô hỏi và những hướng dẫn của thầy cô, cột kế bên ghi nội dung đọc được
trong sách giáo khoa tài tài liệu tham khảo, cột cuối cùng ghi tổng hợp lại những gì
đã học và đọc được. Các nội dung ghi trong vở cũng nên chú thích nguồn để sau này
không mất nhiều công đọc lại nữa.
Học sinh được rèn thói quen chủ động nắm bắt và ghi những vấn đề mà giáo
viên giảng, không thụ động ngồi chờ giáo viên đọc cho chép. Do được yêu cầu chuẩn
bị bài trước ở nhà nên chúng tôi kết hợp rèn cho học sinh kĩ năng ghi những vấn đề
cần thiết, những vấn đề chưa rõ,… Để làm được như vậy, tôi hướng dẫn học sinh
trong quá trình đọc trước ở nhà, cần xác định trọng tâm của bài, xác định nội dung
nào mình đã hiểu kĩ, nội dung nào chưa hiểu để tập trung lắng nghe và ghi bài vào nội
dung đó. Giáo viên cũng hướng dẫn học sinh khi đọc tài liệu cần xác định ý chính,
ghi lại một cách ngắn gọn nội dung chính cũng như thành bảng, sơ đồ, bản đồ khái
niệm.
Kĩ năng đặt câu hỏi
Khi đọc tài liệu, bên cạnh việc trả lời các câu hỏi của thầy cô, học sinh cũng
cần luôn tự đặt các câu hỏi tại sao, như thế nào, để làm gì, là cái gì… Các câu hỏi đó
có thể được đặt khi học sinh không hiểu vấn đề mà tài liệu trình bày nhưng cũng có
thể được đặt ra để tranh luận với bạn, với thầy. Cách làm này làm cho vấn đề được
đào sâu hơn do nó được lật đi lật lại nhiều lần theo nhiều hướng khác nhau. Đồng
thời, trong quá trình tranh luận, người học được bổ sung thêm kiến thức từ bạn, kích
thích thêm tính ham học của mỗi người. Khi vấn đề khó đi đến thống nhất có thể hỏi
thầy. Để học sinh có được kĩ năng này, vai trò của người thầy trong quá trình tổ chức
dạy học vô cùng quan trọng. Trong quá trình đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi mà mình
đặt ra, học sinh cũng tự rèn được cách xác định vấn đề cần nghiên cứu, kĩ năng đọc
và tổng hợp tài liệu.
Kĩ năng diễn đạt lại thông tin đã thu được theo ý hiểu của người học
Thông tin thu được có thể được học sinh ghi lại một cách vắn tắt, lập thành sơ

đồ, bảng biểu,… Các sơ đồ, bảng biểu có thể được sử dụng để giúp người học ghi
nhớ nhưng có thể là để hiểu, để củng cố hoặc mở rộng, nâng cao về một nội dung cụ
thể hoặc để hệ thống hóa kiến thức. Kĩ năng diễn đạt lại thông tin trong quá trình học
theo ý hiểu của người học là một kĩ năng vô cùng quan trọng, nó giúp người học
không chỉ biết mà còn phải hiểu và vận dụng được kiến thức đã học một cách linh
hoạt. Kĩ năng này cũng chỉ được hình thành và hoàn thiện khi người học được rèn
luyện một cách tỉ mỉ trong quá trình học.
Kĩ năng tư duy đa chiều
Đó chính là cách nhìn nhận vấn đề theo nhiều chiều hướng, nhiều mặt khác
nhau, thậm chí là đối lập nhau. Thực tế cho thấy, sách không phải lúc nào cũng đúng,
cũng đủ. Tương tự như vậy, không phải mọi điều thầy nói ra đều đúng và đều là
13


“khuôn vàng thước ngọc”. Điều đó là tất yếu vì người thầy dù có tài mấy thì trình độ
nhận thức cũng chỉ có hạn. Có những điều thầy nhận thức đúng, nhưng có điều chưa
nhận thức được hoặc nhận thức còn chưa đúng. Thứ nữa, có những điều, với trình độ
nhận thức của nhân loại lúc đó là đúng nhưng chỉ cần một thời gian ngắn sau, nó là
sai hoặc chưa đủ.
Trong quá trình đọc tài liệu để làm bài tập, báo cáo chuyên đề, học sinh rất dễ
gặp nhiều nguồn thông tin khác nhau thậm chí là trái chiều nhau làm cho các em rất
lúng túng. Đặc biệt, khi sử dụng Internet, đương nhiên học sinh sẽ có thể đọc được
những nguồn thông tin không chính xác, nhiều khi là có hại cho các em. Đây cũng là
khó khăn mà nhiều học sinh vấp phải khi đọc tài liệu để hoàn thành bài tập.
Vì vậy, trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi quyết định đưa thêm việc rèn kĩ
năng tư duy đa chiều vào quá trình rèn kĩ năng tự nghiên cứu tài liệu. Trong quá trình
rèn kĩ năng này, tôi đã giúp học sinh chỉ ra những chỗ mà tài liệu viết chưa chính xác
hoặc còn thiếu. Đôi chỗ, “giả vờ” nói sai để thử phản ứng của học sinh. Hoặc đưa ra
một tình huống trái ngược với tình huống được học và đặt câu hỏi “Điều gì xảy ra
nếu ….”. Cách làm này kích thích ham muốn tìm tòi của học sinh rất nhiều vì các em

được quyền đưa ra chủ kiến của mình, được giải thích rõ ràng tại sao ý kiến của mình
còn chưa đúng, chưa đủ và được tự hào khi mình “thắng cô” mình. Đặc biệt, giúp học
sinh tăng cường khả năng lập luận, hùng biện trước đám đông. Ngoài ra, nó cũng có
ích cho cuộc sống sau này của học sinh do các em luôn tư duy về một vấn đề theo
nhiều chiều hướng, dự đoán được nhiều tình huống có thể xảy ra để có thể giải quyết
sớm hoặc chí ít là không quá bất ngờ. Nó cũng kích thích thầy luôn tự đọc, tự tìm tòi
để tăng cường chuyên môn nghiệp vụ. Đây cũng là việc làm vô cùng khó, do thói
quen tin tưởng tuyệt đối vào thầy, vào sách đã ăn sâu vào các em từ lâu. Mặt khác,
cũng ít người thầy chấp nhận thua hoặc “giả vờ thua” học trò vì sợ “mất thiêng”.
Giải pháp 5:
Đa dạng hóa hình thức học tập.
Một trong ba đặc trưng của phân môn Lịch sử đã chỉ ra rằng: Lịch sử qua đi
nhưng không hoàn toàn biến mất mà còn để lại “dấu vết ” của nó qua kí ức của nhân
loại như văn học dân gian, phong tục tập quán, lễ hội…, qua các chứng tích lịch sử,
các hiện tượng lịch sử, qua ghi chép của người xưa. Những chứng cứ vật chất đó
chính là cơ sở để trình bày hay nhận thức về lịch sử. Vì vậy, giáo viên cần phải hết
sức quan tâm đến các hình thức tổ chức dạy học lịch sử đa dạng, tạo điều kiện để học
sinh tiếp xúc với các nguồn sử liệu nói trên.
Bản thân tôi đã đa dạng hóa hình thức học tập bằng các nhóm giải pháp như
sau:
- Gắn kỷ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện lịch sử với việc dạy học phân môn Lịch
sử: Trong quá trình trực tiếp giảng dạy, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu về
các ngày lễ lớn, các sự kiện lịch sử qua các hoạt động: đọc báo, xem truyền hình (các
hình ảnh tư liệu), đài phát thanh … để giúp các em hiểu rõ, nắm sâu hơn về các sự
kiện và nhân vật lịch sử.
- Gắn việc tham quan dã ngoại với việc tham quan bảo tàng, di tích lịch sử dâng hoa
lên tượng anh hùng để các em cảm nhận được hồn sử. Tổ chức cho học sinh tham
14



quan dã ngoại các di tích lịch sử - văn hóa, các cảnh đẹp ở địa phương, gặp gỡ các cá
nhân, tập thể trực tiếp tham gia vào những sự kiện lịch sử và hoạt động xã hội; tham
quan các bảo tàng lịch sử để các em được trực tiếp nắm được các sự kiện, nhân vật
lịch sử.
- Hướng dẫn học sinh cách học ở nhà: Việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh rất quan
trọng. Giáo viên cần phải giải thích bài học lịch sử sắp tới để học sinh ở nhà có thể
sưu tầm tài liệu, tranh ảnh liên quan để tham gia thảo luận, các em sẽ thích thú nếu
được hướng dẫn tự sưu tầm tài liệu cho tiết học mới.
- Hình thức học tập cá nhân có thể được tiến hành như sau.
Giáo viên nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức chung cho cả lớp và hướng dẫn
học sinh làm việc.
+ Làm việc cá nhân ( ghi kết quả ra giấy hoặc trả lời vào phiếu học tập)
+ Giáo viên chỉ định một vài học sinh báo cáo kết quả, các học sinh khác theo dõi,
góp ý bổ sung.
+ Giáo viên tóm tắt, củng cố và chuẩn xác kiến thức.
- Hình thức học tập theo nhóm.
+ Tuỳ theo số lượng học sinh trong mỗi lớp mà giáo viên chia thành bao nhiêu
nhóm, thông thường mỗi nhóm từ 4-6 học sinh. Các nhóm có thể được duy trì ổn
định trong cả tiết học hoặc thay đổi theo từng hoạt động, từng phần của tiết học. Các
nhóm được giao cùng một nhiệm vụ hoặc những nhiệm vụ khác nhau.
+ Các bước tiến hành tổ chức học tập theo nhóm có thể làm việc chung cả lớp, làm
việc theo nhóm. Giáo viên nêu vấn đề để xác định nhiệm vụ, trong nhóm cử nhóm
trưởng, thư kí, các thành viên trao đổi bàn luận, ghi kết quả, đại diện nhóm trình bày,
các nhóm khác nhận xét bổ sung.
+ Giáo viên tổng kết, chuẩn xác kiến thức.
Ví dụ 1: Lịch sử 7:
Bài: Khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427)
- GV dự kiến tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm ở phần 2: Trận Chi Lăng Xương Giang.
- GV tổ chức cho các em thảo luận theo nhóm nhiều trình độ bằng những câu hỏi mở
đã được dự kiến từ trước.

+ Đến 1427, tương quan lực lượng giữa ta và địch như thế nào?
+ Vì sao nói việc nghĩa quân Lam Sơn chủ trương diệt viện là đúng đắn.
+ Trận Chi Lăng thể hiện nghệ thuật quân sự của nghĩa quân Lam Sơn NTN?
+ Vì sao nghĩa quân Lam Sơn chấp nhận việc Vương Thông xin hoà?
- Thời gian thảo luận: 5 phút
- Thời gian các nhóm trình bày: 2 phút
- GV tổng kết, chốt kiến thức: 2 phút.
Giải pháp 6:
Phát huy tối đa dạy học theo chuyên đề
Dạy học theo chuyên đề khác với việc dạy theo bài học thông thường nhưng
vẫn phải đảm bảo các chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ của chương trình và sách giáo
khoa hiện hành, được nâng lên một mức độ nhất định cao hơn. Tuy vậy cần chú ý đến
15


tính vừa sức của chuyên đề: cân đối giữa khối lượng và mức độ kiến thức trong
chuyên đề.Vấn đề được học tập trong chuyên đề phải là một vấn đề cơ bản của
chương trình, sách giáo khoa có mối quan hệ mật thiết với nhau, có những điểm
tương đồng về nội dung kiến thức, khi hình thành chuyên đề thì tạo nên một chuỗi
các vấn đề học tập cần giải quyết. Khi giải quyết được nhiệm vụ học tập đó sẽ tạo
thành một nội dung hoàn chỉnh, toàn diện cả chiều dọc lẫn chiều ngang của chuyên
đề.
Nội dung của các chuyên đề giúp học sinh có những hiểu biết về những kiến
thức cơ bản của chương trình, sách giáo khoa mà học sinh cần đạt được. Từ những
kiến thức đó để học sinh có thể tổng kết, hệ thống hoá kiến thức, củng cố, thực hành,
rút ra quy luật và bài học lịch sử... và tự nghiên cứu, đào sâu kiến thức đã học.
Để đáp ứng các vấn đề trên, bản than tôi đã đề ra quy trình xây dựng chuyên đề
như sau:
B1. Căn cứ vào nội dung chương trình, sách giáo khoa môn Lịch sử và những
ứng dụng phương pháp dạy học trong thực tiễn, xác định các nội dung kiến thức liên

quan với nhau, có những điểm tương đồng được thể hiện ở một số bài/tiết hiện hành,
từ đó xây dựng thành một vấn đề chung để tạo thành một chuyên đề dạy học. Mỗi
chuyên đề có thời lượng ít nhất là 2 tiết.
Trường hợp có những nội dung kiến thức liên quan đến nhiều môn học, báo cáo tổ
chuyên môn cùng nhau lựa chọn nội dung để thống nhất xây dựng các chủ đề tích
hợp, liên môn.
B2. Xác định chuẩn kiến thức và kĩ năng, thái độ theo chương trình hiện hành
và các hoạt động học dự kiến sẽ tổ chức cho học sinh theo phương pháp dạy học tích
cực, từ đó xác định các năng lực và phẩm chất có thể hình thành cho học sinh theo
chuyên đề đã xây dựng. Trong đó chú trọng một số năng lực chung như: năng lực tự
học, phát hiện và giải quyết vấn đề, sáng tạo; năng lực giao tiếp và hợp tác; năng lực
sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông.
B3. Xây dựng nội dung chuyên đề: Giáo viên lựa chọn các nội dung của
chuyên đề từ các bài/tiết trong sách giáo khoa hiện hành của môn Lịch sử/hoặc cùng
với các môn học có liên quan (nếu chuyên đề xác định là tích hợp, liên môn) và tham
khảo tài liệu khác để xây dựng nội dung chuyên đề.
B4. Thiết kế chuyên đề thành các hoạt động dạy học.
B5. Dạy thể nghiệm.
B6. Rút kinh nghiệm.
B7. Áp dụng.
*Ví dụ: Tên chuyên đề: CÁC NƯỚC MĨ- NHẬT BẢN SAU CHIẾN TRANH THẾ
GIỚI THỨ HAI( Lịch sử 9)
*Lí do thực hiện chuyên đề: Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ, Nhật Bản đều vươn
lên trở thành một trong ba trung tâm kinh tế, tài chính của thế giới. Việc thực hiện
chuyên đề này sẽ giúp các em có sự đối chiếu, so sánh và nắm rõ hơn sự phát triển
của Mỹ, Nhật Bản về kinh tế, khoa học kĩ thuật và chính sách đối nội, đối ngoại của
Mỹ, Nhật Bản dẫn đên sự thay đổi về quan hệ quốc tế sau năm 1945 đến nay.
*Mục đích của chuyên đề:
a.Về kiến thức:
- Biết khái quát tình hình chung của Mỹ và Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai.

16


- Biết được sự phát triển kinh tế của Mỹ và Nhật Bản trong hai giai đoạn 1945-1950
và giai đoạn 1950-1991.
- Hiểu những nguyên nhân nào làm cho kinh tế Mỹ bị giảm sút và kinh tế Nhật Bản
phát triển thần kỳ.
b.Về kỹ năng
-Rèn luyện phương pháp tư duy, phân tích, nhận xét so sánh, liên hệ, khái quát.
c.Về thái độ
- Hiểu tình hình phát triển kinh tế của Mỹ và Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ
hai, đều trở thành hai trung tâm kinh tế tài chính của thế giới.
* Nội dung triển khai
Dự kiến tiết hoạt động thể nghiệm: Tiết 1. I. Tình hình kinh tế của Mỹ, Nhật Bản sau
chiến tranh thế giới thứ hai
1.Khái quát tình hình kinh tế của Mỹ, Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai
-Phương pháp: thảo luận nhóm đôi, đàm thoại, nhận xét.
-Câu hỏi đặt ra:
+ Các em biết gì về đất nước Mĩ và Nhật Bản hiện nay?
+ Em hãy cho biết sau chiến tranh, tình hình Mỹ và Nhật Bản như thế nào?
+ Tại sao lại có sự khác nhau đó ?
Nội dung cần lưu ý:
Mĩ: trở nên giàu có.
-Nhật Bản : kinh tế bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bị quân đội nước ngoài chiếm
đóng.
-Nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau:
+Mĩ: Lợi dụng chiến tranh buôn bán vũ khí, không bị chiến tranh tàn phá, yên ổn sản
xuất.
+Nhật Bản: Là nước bại trận.
Nhật Bản thực hiện cải cách dân chủ như ban hành Hiến pháp năm 1946 Luồng

không khí giúp Nhật Bản phát triển mạnh mẽ.
2. Sự phát triển kinh tế Mĩ, Nhật Bản sau chiến tranh
a. Mỹ-Nhật Bản giai đoạn 1945-1950
- Phương pháp: Thảo luận nhóm, đàm thoại, Nhận xét
-Câu hỏi đặt ra:
+ GV: Rút ra nhận xét về tình hình kinh tế Mỹ-Nhật Bản trong giai đoạn 19451950?
+GV phát phiếu học tập cho học sinh.
+HS làm theo cá nhân, sau đó báo cáo kết quả cho nhóm trường, rồi viết vào Phiếu
thảo luận. Đại diện nhóm trình bày.
+Nội dung cần lưu ý:
-Mỹ: kinh tế phát triển nhanh chóng, trở thành cường quốc giàu mạnh nhất thế giới và
chiếm ưu thế về nhiều mặt, trở thành trung tâm kinh tế tài chính hàng đầu thế giới.
-Nhật Bản: Sau công cuộc cải cách dân chủ, trước hết cải cách Hiến pháp mà kinh tế
Nhật Bản dần phục hồi.
b.Mỹ-Nhật Bản giai đoạn 1950-1991 (10’)
- Phương pháp: Thảo luận nhóm, đàm thoại, Nhận xét
-Câu hỏi đặt ra:
17


+ GV: Rút ra nhận xét về tình hình kinh tế Mỹ-Nhật Bản giai đoạn này?
+Đưa hai bảng số liệu về tình hình kinh tế của Mỹ-Nhật Bản giai đoạn này
+HS làm theo cá nhân, sau đó báo cáo kết quả cho nhóm trường, rồi viết vào Phiếu
thảo luận. Đại diện nhóm trình bày.
Nội dung lưu ý:
-Mĩ: kinh tế, địa vị giảm sút
-Nhật Bản: kinh tế phát triển thần kỳ trở thành một trong ba trung tâm kinh tế tài
chính của thế giới.
c. Nguyên nhân kinh tế Mỹ suy giảm và kinh tế Nhật Bản phát triển thần kỳ (8’)
-Phương pháp: HS hoạt động cá nhân, trình bày.

-Câu hỏi đặt ra
+GV chiếu hình ảnh tương phản đất nước Mĩ, chi phí đầu tư quân sự ở Mĩ.
+ Theo em, nguyên nhân nào khiến kinh tế Mỹ suy giảm? Nguyên nhân nào khiến
Nhật Bản phát triển thần kỳ?
-Nội dung lưu ý:
+ Mỹ: 4 nguyên nhân (SGK)
+Nhật Bản: 4 nguyên nhân (SGK)
+ GV sơ kết
+GV giao bài tập cho học sinh Giỏi:
- Phân tích những nguyên nhân làm cho kinh tế Mỹ phát triển và những khó khăn đối
với Mỹ-Nhật Bản hiện nay.
3. Kết quả đạt được:
Chính vì vậy mà sau khi tiến hành vận dụng một số kinh nghiệm dạy học theo
phương pháp mới trong năm học 2017 – 2018, tôi tiến hành khảo sát chất lượng của
học sinh qua kết quả kiểm tra một tiết và khảo sát chất lượng cuối năm. Kết quả là số
học sinh Khá, Giỏi tăng lên và số học sinh Yếu, Kém giảm hẳn so với năm trước. Kết
quả cụ thể như sau:
Kết quả
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Tổng
Môn
số
SL
%
SL
%
SL

%
SL
%
Toán
137
29
21,2
45
32,9
53
38,7
10
7,2
T.Anh
137
27
19,7
40
29,2
58
42,3
12
8,8
N.Văn
137
30
21,9
45
32,9
52

38, 0
10
7,2
Lịch sử
137
30
21,9
52
38,0
50
36,5
5
3,6
Kết quả trên, cho thấy những giải pháp được nêu ra trong sáng kiến đã giúp
học sinh thay đổi được nhận thức, thái độ học tập lịch sử của các em, từ không thích
học đến thích học Lịch sử. Đến giờ học lịch sử các em tự tham gia vào tiết học một
cách sôi nổi và đầy hứng thú.Các em đã tự nghiên cứu, tự tìm hiểu thêm bài, tham gia
thảo luận trong khi hoạt động nhóm say mê, tích cực. Kết quả bước đầu này cho thấy
không phải học sinh không quan tâm đến bộ môn lịch sử hay bài học lịch sử mà do
giáo viên chưa thay đổi cách tổ chức dạy học cũng như khai thác chưa triệt để các
phương pháp dạy học theo tinh thần đổi mới.

18


III. PHẦN KẾT LUẬN:
1. Ý nghĩa của đề tài:
Đổi mới phương pháp dạy học là một yêu cầu tất yếu trong xu thế hiện Nhưng
để đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả, người giáo viên linh hoạt trong việc sử
dụng nhiều giải pháp khác nhau mới đạt được mục tiêu phát huy tính tích cực, chủ

động của học sinh.
Qua quá trình áp dụng một số giải pháp để đổi mới phương pháp dạy học mới
vào dạy học môn Lịch sử năm học 2017 – 2018, tôi nhận thấy việc dạy học theo
hướng đổi mới phương pháp dạy học hiệu quả bộ môn được nâng lên rõ rệt theo
hướng tích cực. Điều đó, một lần nữa khẳng định vai trò của việc vận dụng các giải
pháp vào tổ chức dạy học theo phương pháp đổi mới là cần thiết với bộ môn Lịch sử
nói riêng và các môn học khác nói chung.
Việc áp dụng các giải pháp này, đã từng bước tạo hứng thú, khơi dậy sự say mê trong
học tập lịch sử của học sinh. Học sinh đã quan tâm đến lịch sử, chủ động tìm kiếm
các tư liệu lịch sử có ngoài nội dung bài học để tham gia vào giải quyết vấn đề đang
học. Nhờ đó, làm thay đổi nhận thức ở học sinh là Lịch sử không phải là môn phụ,
không cần học mà nó cũng như các bộ môn khoa học tự nhiên. Học sinh đã hoạt
động nhiều hơn, tư duy được nâng cao lên rõ rệt.
Qua việc áp dụng phương pháp đổi mới giáo viên đã có sự thay đổi về cách
soạn bài lịch sử cũng như khai thác triệt để hơn thiết bị dạy học, khai thác kênh hình,
nguồn sử liệu trong SGK cũng như cách tổ chức lớp học, hoạt động nhóm cho có
hiệu quả. Giáo viên có thể vận dung các giải pháp trên trong từng tiết học tùy theo
đơn vị bài yêu cầu.
Tôi thấy rằng muốn tạo cơ hội cho học sinh học tốt bộ môn của mình, giáo
viên cần chủ động tìm tòi các giải pháp, con đường truyền thú kiến thức đem lại hiệu
quả nhất trong giờ lên lớp. Qua đó để thấy một tiết học thành công hay chất lượng
học tập của học sinh có được nâng cao hay không phụ thuộc vào việc gia công nhiều
công sức của bài giảng và sử dụng nhuần nhuyễn các giải pháp.
2. Kiến nghị, đề xuất:
Hiện nay giáo viên đã tích cực trong việc đổi mới phương pháp vào giảng dạy
các môn học để nâng cao hơn nữa hiệu quả giáo dục. Tuy nhiên, việc vân dụng quan
niệm dạy học này cũng gặp phải những khó khăn nhất định như điều kiện dạy học
còn nhiều hạn chế, thiếu thốn, do lượng kiến thức nhiều song thời gian cho môn lịch
sử không nhiều; đời sống của giáo viên còn thấp.…Vì vậy tôi xin có một vài đề xuất
nhỏ như sau:

* Đối với nhà trường:
- Cần đầu tư thêm trang thiết bị dạy học đặc biệt cho môn Lịch sử, các tài liệu
phong phú để học sinh tìm thêm tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu.

19


- Cần có phòng học bộ môn dành riêng cho môn Lịch sử, trong đó các đoạn phim
tư liệu liên quan đến bài dạy, để giáo viên có thể ứng dụng công nghệ thông tin một
cách thành thạo.
- Trong các hoạt động ngoại khoá, sinh hoạt chủ đề nhân kỷ niệm các ngày lễ
lớn: 22/12, 3/2, 8/3, 30/4, 19/5… Tăng cường hoạt động tự nghiên cứu của học
sinh, giảm giờ dạy lý thuyết, xây dựng hệ thống bài tập mở, bài tập gắn với thực
tiễn có nội dung đổi mới phương pháp dạy học.
* Đối với ngành giáo dục:
Cần chú trọng phát huy các mô hình câu lạc bộ lịch sử, ngược dòng lịch sử…
trong các nhà trường để nhằm thúc đẩy quá trình dạy, học có hiệu quả.
Với trăn trở của một người giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Lịch sử, tôi xin
mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình, mong góp một phần nhỏ vào thực hiện nâng cao
chất lượng dạy học Lịch sử. Trong quá trình tích lũy kinh nghiệm và viết đề tài
không tránh khỏi những khiếm khuyết, hạn chế, tôi rất mong nhận được sự đóng góp
ý kiến xây dựng của bạn bè, đồng nghiệp và hội đồng chuyên môn đánh giá, bổ sung
để đề tài của tôi thêm hoàn thiện, có giá trị hơn nữa trong thực tiễn. Tôi xin chân
thành cảm ơn!

20




×