Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận môn ngân hàng thương mại thực trạng và đề xuất giải pháp xử lý nợ xấu trong ngân hàng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.8 KB, 23 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
======oOo======

BÀI LUẬN
THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP XỬ LÝ
NỢ XẤU TRONG NGÂN HÀNG HIỆN NAY

GV hướng dẫn : Đỗ Mỹ Dung
Họ và tên SV

: Nông Khánh Toàn - STT: 77

Lớp

: TCNH.8A3-HN

Hà Nội - 2017


Phần I: Đặt vấn đề

Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ với nhiệm vụ chủ yếu và thường xuyên là
huy động tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả và cho vay thực hiện nghiệp vụ chiết khấu làm
phương tiện thanh toán.
Ngân hàng ra đời được thừa nhận là một trong những phát minh kỳ diệu nhất của lịch sử
thế giới và nó không ngừng đổi mới hoàn thiện để phù hợp với tình hình kinh tế , xã hội từng
thời kỳ. Đặc biệt, trong nền kinh tế hiện nay, Ngân hàng là một bộ phận không thể thiếu được
và nó luôn giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân với hoạt động chủ yếu là tiền tệ, tín
dụng và thanh toán trong đó thanh toán giữ vai trò đặc biệt quan trọng.


Ngân hàng được coi là huyết mạch của nền kinh tế, hoạt động của nó bao trùm lên tất cả
các hoạt động kinh tế, xã hội, đây là hoạt động trung gian gắn liền với sự vận động của toàn bộ
nền kinh tế. Kinh doanh Ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt với đối tượng là tiền
tệ. Ngân hàng là trung gian tài chính giữa người gửi tiền và người vay, vì vậy Ngân hàng sẽ là
công cụ điều tiết hữu hiệu nền kinh tế cũng như một số lĩnh vực phi kinh tế.
Mặc dù không trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế, song với đặc điểm hoạt
động riêng có của mình ngành Ngân hàng giữ một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế.
+ Lý thuyết:
Các chức năng kinh tế của ngân hàng bao gồm:
1. Phát hành tiền, trong các hình thức tiền giấy và các tài khoản vãng lai cho séc hoặc
thanh toán theo lệnh của khách hàng. Những yêu cầu này trên các ngân hàng có thể hoạt động
như tiền bạc bởi vì chúng có thể thỏa thuận hoặc có thể chi trả theo yêu cầu, và do đó có ngang
giá trị. Chúng là có thể chuyển nhượng một cách hiệu quả chỉ bởi việc giao đi, trong trường
hợp của tiền giấy, hoặc bằng cách rút một tấm séc mà ngân hàng có thể nhận thanh toán hoặc
trả tiền mặt.


2. Hoạt động mạng lưới và giải quyết thanh toán – các ngân hàng hoạt động như các đại
lý thu thập và trả tiền cho khách hàng, tham gia thanh toán bù trừ liên ngân hàng và các hệ
thống giải quyết thanh toán để thu thập, trình bày, được trình bày với, và chi trả các công cụ
thanh toán. Điều này cho phép các ngân hàng tiết kiệm các dự trữ được nắm giữ để giải quyết
các khoản thanh toán, do các thanh toán tiền đi và về bù trừ cho nhau. Nó cũng cho phép bù trừ
của các dòng thanh toán giữa các khu vực địa lý, giảm chi phí giải quyết giữa chúng.
3. Trung gian tín dụng – các ngân hàng vay và cho vay back-to-back trên tài khoản của
mình như những người đàn ông trung niên.
4. Cải thiện chất lượng tín dụng - các ngân hàng cho vay tiền đối với các người vay
thương mại và cá nhân thông thường (chất lượng tín dụng thông thường), nhưng là những
người vay chất lượng cao. Cải thiện đến từ sự đa dạng hóa tài sản và vốn của ngân hàng mà
cung cấp một bộ đệm để hấp thụ thua lỗ mà không vỡ nợ về các nghĩa vụ của nó. Tuy nhiên,

tiền giấy và tiền gửi nói chung không có bảo đảm; nếu các ngân hàng gặp khó khăn và cam kết
các tài sản là bảo đảm, nâng cao kinh phí nó cần thiết để tiếp tục hoạt động, điều này đặt người
nắm giữ tiền và người gửi tiền ở một vị trí trực thuộc kinh tế.
5. Không phù hợp trách nhiệm tài sản/Chuyển đổi đáo hạn – các ngân hàng vay nhiều
hơn trên nợ nhu cầu và nợ ngắn hạn, nhưng cung cấp các khoản vay dài hạn hơn. Nói cách
khác, họ vay ngắn và cho vay dài. Với chất lượng tín dụng mạnh hơn hầu hết người đi vay
khác, các ngân hàng có thể làm điều này bằng cách tập hợp các phát hành (ví dụ như nhận tiền
gửi và phát hành tiền giấy) và các chuộc lại (ví dụ như các rút tiền và chuộc lại tiền giấy), duy
trì dự trữ tiền mặt, đầu tư vào các chứng khoán có thể trao đổi trên thị trường mà có thể dễ dàng
chuyển đổi thành tiền mặt nếu cần thiết, và nâng cao kinh phí thay thế khi cần thiết từ nhiều
nguồn khác nhau (ví dụ như thị trường tiền mặt bán buôn và thị trường chứng khoán).
6. Sáng tạo tiền – bất cứ khi nào một ngân hàng cho ra một khoản vay trong một hệ
thống hoạt động ngân hàng dự trữ phân đoạn, một tổng số tiền ảo mới được tạo ra.
+ Tính cấp thiết của đề tài:
Kinh tế thế giới năm 2012 vẫn trong quá trình hồi phục chậm chạp và khó khăn kể từ
đại khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và được đánh giá là chỉ mới đi được khoảng một
nửa chặng đường dẫn tới hồi phục hoàn toàn. Các tổ chức quốc tế và tài chính phải liên tục hạ
thấp mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu so với các dự báo trước đó, song dự báo cuối cùng đều


cao hơn mức thực tế đạt được khi kết thúc năm 2012 là 2,3%.
Kinh tế Việt Nam vừa bị cuốn vào dòng suy giảm và bất ổn của kinh tế thế giới nói
chung, lại phải ứng phó với nhiều thách thức bên trong tích đọng từ nhiều năm trước. Chính
phủ đã phải chuyển hướng phát triển với phương châm “ưu tiên ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm
phát, tăng trưởng hợp lý” đồng thời chủ trương nỗ lực tái cơ cấu toàn diện nền kinh tế với 3
chương trình:

1. Cơ cấu lại hệ thống tài chính ngân hàng;
2. Cơ cấu lại đầu tư, nhất là đầu tư công;
3. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước.

Trong đó, tình hình tài chính của Việt Nam ngoài những điểm sáng như: lãi suất giảm
mạnh, tỷ giá ổn định, thanh khoản của hệ thống được đảm bảo... Tuy nhiên, có thể xem năm
2012 là một năm khá sóng gió đối với ngành ngân hàng Việt Nam với hàng loạt các vụ bắt bớ,
kiện tụng, tăng trưởng tín dụng thấp kỷ lục, tỷ lệ nợ xấu tăng mạnh. Có thể nói năm 2012 là
một năm đầy thách thức với các ngân hàng Việt Nam.
Bước vào thế kỷ 21, trong xu thế hội nhập khu vực và thế giới, ngành ngân hàng đang
phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức hơn, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi nền
kinh tế thế giới đang từng bước vượt qua khủng hoảng. Mặc dù kinh tế trong nước đã lạc quan
hơn nhưng các ngân hàng vẫn không cảm thấy “dễ thở” trước sức ép để tồn tại và phát triển.
Tìm kiếm một chiến lược kinh doanh phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, gia tăng tính
cạnh tranh, nâng cao vị thế quy mô của ngân hàng trong giai đoạn hiện nay trở thành nhu cầu
cấp thiết của mỗi ngân hàng. Bên cạnh đó, để đảm bảo thực hiện hiệu quả chiến lược kinh
doanh một vấn đề nóng bỏng hiện nay đang được các ngân hàng quan tâm đó là việc xử lý nợ
xấu. Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi đã chọn đề tài “Thực trạng và đề xuất giải pháp xử lý nợ xấu
trong ngân hàng hiện nay”.
Phần 2: Thực trạng
Trong thời gian qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã phải đối mặt với nhiều khó khăn,
thách thức, trong đó điển hình là vấn đề nợ xấu. Nợ xấu đã trở thành một nỗi lo thường trực của
nhiều ngân hàng không chỉ ở trên thế giới mà còn ở hệ thống các tổ chức tín dụng, các ngân
hàng tại Việt Nam. Nợ xấu đã, đang và có thể sẽ tiếp tục tác động tiêu cực đến việc lưu thông
dòng vốn vào nền kinh tế. Đây được coi là nguyên nhân chính gây kìm hãm, hạn chế sự lưu
thông của dòng tín dụng trong nền kinh tế. Ngoài ra, việc xử lý nợ xấu không tốt hay để xảy ra


tình trạng nợ xấu diễn biến phức tạp sẽ ảnh hưởng đến tính an toàn, hiệu quả trong hoạt động
kinh doanh tín dụng của các ngân hàng Việt Nam hiện nay.
Bản chất và hậu quả của nợ xấu trong hệ thống ngân hàng: Nợ xấu là vấn đề tồn đọng
trong nhiều ngân hàng vì hoạt động tín dụng, hoạt động vay tiền, cho vay tiền luôn chứa đựng
những rủi ro đáng kể. Bản chất của nợ xấu là một khoản tiền cho vay mà các ngân hàng thương
mại xác định không thể thu hồi lại được hoặc nếu có thu lại được, thì thường rất khó và mất

thời gian. Hầu hết trong các ngân hàng thương mại, nợ xấu chính là các khoản tiền mà ngân
hàng cho khách hàng (phổ biến là các tổ chức, doanh nghiệp) vay nhưng khi đến hạn thu hồi nợ
lại không thể đòi được do yếu tố chủ quan từ chính phía khách hàng như doanh nghiệp, tổ chức
vay tín dụng làm ăn thua lỗ, phá sản dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán khoản nợ đã
vay của ngân hàng khi đến kỳ hạn. Các khoản nợ xấu thường bị xóa sổ khỏi danh sách các
khoản nợ phải thu của các ngân hàng thương mại và điều này gây tổn thất không nhỏ cho hoạt
động kinh doanh tín dụng của ngân hàng. Nợ xấu càng cao thì rủi ro và tổn thất dòng vốn của
các ngân hàng thương mại càng lớn. Xét về nguyên nhân của các khoản nợ xấu, có thể thấy, nợ
xấu của hệ thống ngân hàng gia tăng không có nghĩa là do ngân hàng hoạt động kém hiệu quả,
mà xuất phát từ những khách hàng vay không trả được mới dẫn đến tình trạng nợ xấu. Do vậy,
khi nói về nợ xấu, ngoài việc nói đến khả năng kiểm soát của các tổ chức tín dụng, cũng cần kể
đến tình hình nền kinh tế và người vay có liên quan như thế nào, tức là xem xét đến nhiều mặt
khác nhau, trên cơ sở khách quan, chủ quan và liên quan đến nhiều bên khác nhau.
Hiện nay, nợ xấu trong các ngân hàng của Việt Nam hiện diện ở nhiều lĩnh vực khác nhau
nhưng chủ yếu vẫn rơi vào các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, xây dựng... Đây là những lĩnh
vực chịu sự tác động từ sự đóng băng kéo dài của thị trường bất động sản trong thời gian qua.
Hậu quả của nợ xấu vô cùng nan giải, bởi nó tác động tiêu cực đến nền kinh tế nói chung và
hoạt động của các ngân hàng thương mại, khách hàng nói riêng. Đối với nền kinh tế, nợ xấu sẽ
làm gia tăng sức ép tình trạng lạm phát, kìm hãm hoạt động sản xuất, kinh doanh và nếu nợ xấu
với dòng tín dụng lớn rất có thể sẽ là nguyên nhân chủ yếu gây ra khủng hoảng hệ thống tài
chính ngân hàng và khủng hoảng toàn bộ nền kinh tế. Đối với hệ thống các ngân hàng thương
mại, nợ xấu sẽ là nguyên nhân khiến các ngân hàng thương mại giảm thiểu hiệu quả trong việc
sử dụng vốn, giảm lợi nhuận, chịu rủi ro dòng tiền, giảm khả năng thanh toán cho các khoản
thanh toán của ngân hàng... Đặc biệt, nếu tình trạng nợ xấu diễn ra thường xuyên, liên tục và
không được xử lý dứt điểm sẽ khiến các ngân hàng thương mại bị mất uy tín trong hoạt động
kinh doanh tín dụng của mình. Còn riêng đối với khách hàng, nợ xấu sẽ làm giảm tốc độ chu
chuyển vốn của khách hàng với ngân hàng, gây ảnh hưởng trực tiếp mối quan hệ giữa cả hai


bên, tăng chi phí hoạt động, tăng gánh nặng trả nợ cho các ngân hàng thương mại và đặc biệt,

uy tín của khách hàng cũng bị giảm sút khá lớn khi các ngân hàng thương mại không còn dám
tiếp tục cho khách hàng vay, dù nguồn vốn không thiếu. Ngân hàng phải thận trọng hơn với các
khoản vay để tránh các khoản nợ xấu tiếp theo, dẫn tới hậu quả là các ngân hàng có tiền mà
không cho vay được, còn nền kinh tế thì vẫn tiếp tục khát vốn.
Chúng ta thấy rằng, nợ xấu và hậu quả của nợ xấu trong các ngân hàng thương mại là khá
rõ rệt và được coi là “cục máu đông” cần được “đánh tan” để thị trường tín dụng có thể lưu
thông một cách bình thường và ổn định. Rõ ràng, phải nhìn nhận các phương thức, biện pháp
xử lý nợ xấu là điều cần thiết để tác động tích cực đến toàn bộ nền kinh tế (trong đó bao gồm
hoạt động tín dụng - ngân hàng), các ngân hàng thương mại và khách hàng sử dụng các dịch vụ
tín dụng do các ngân hàng thương mại cung cấp.
Nhiều quốc gia trên thế giới có kinh nghiệm trong vấn đề xử lý nợ xấu ở các ngân hàng
thương mại. Các ngân hàng thương mại trên thế giới thường áp dụng các biện pháp, phương
thức khác nhau hoặc đồng bộ để giải quyết dứt điểm tình trạng nợ xấu và hậu quả do nợ xấu
gây ra. Trong đó, một số điểm cần học hỏi từ kinh nghiệm quốc tế như: Bám sát và tập trung
nhận sự hỗ trợ tài chính của Chính phủ, Chính phủ và Nhà nước còn đóng vai trò tạo điều kiện
để xây dựng một khuôn khổ pháp lý đủ mạnh để có thể điều tiết toàn bộ các hoạt động liên
quan đến việc xử lý nợ xấu, tạo lập một môi trường hoạt động minh bạch; hình thành các tổ
chức, pháp nhân quản lý tài sản có sứ mệnh xử lý các khoản nợ xấu đang tồn đọng ở mức lớn
trong hệ thống tài chính; xây dựng một cơ chế định giá các khoản nợ xấu một cách công khai
và minh bạch... Điển hình có nhiều quốc gia và nhiều ngân hàng thương mại áp dụng quy trình
xử lý nợ xấu qua các công ty quản lý tài sản (AMC).
Ở các nước châu Á, hệ thống công ty quản lý tài sản là công ty do Nhà nước góp vốn
hoặc công ty do tư nhân góp vốn. Công ty xử lý nợ xấu của Nhà nước thường hoạt động rất có
hiệu quả khi vấn đề nợ xấu mang tính hệ thống và khung pháp lý đối với việc xử lý nợ xấu vẫn
còn yếu. Hơn nữa, việc Chính phủ mua lại các khoản nợ xấu của ngân hàng thông qua các công
ty xử lý nợ của Nhà nước có thể tạo ra cơ hội cho Chính phủ áp đặt các điều kiện giúp các ngân
hàng tái cấu trúc lại vấn đề tài chính và cơ cấu hoạt động của mình. Hoạt động xử lý của các
công ty quản lý tài sản gồm hai khâu chính là thu mua các khoản nợ xấu và xử lý các khoản nợ
xấu đã được mua lại. Trong khâu thu mua các khoản nợ xấu thì công việc khó khăn nhất chính
là phân loại và định giá các khoản nợ xấu...



Kinh nghiệm ở một số quốc gia trên thế giới cũng như các ngân hàng thương mại trên thế
giới cho thấy, có nhiều giải pháp khác nhau để xử lý nợ xấu hiện diện tại các ngân hàng thương
mại. Tuy nhiên, xử lý nợ xấu trong tiến trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của các nước trên
thế giới thường triển khai theo các nhóm giải pháp cơ bản như: Hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ
thông qua việc bơm vốn, phương pháp hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ cho các ngân hàng và định
chế tài chính khác nhằm đối phó với khủng hoảng; Thành lập công ty quản lý tài sản/công ty
mua bán nợ để thu mua nợ xấu: Cơ quan này sẽ đứng ra mua lại các khoản nợ xấu ngân hàng,
sau đó xử lý để bán lại các khoản nợ đã mua này; Tạo cơ chế thỏa thuận xử lý nợ xấu giữa các
ngân hàng thương mại và bên đi vay, làm trung gian cho các ngân hàng thương mại (bên cho
vay) và các doanh nghiệp (bên đi vay) thương lượng phương án xử lý nợ dưới nhiều hình thức
như thanh lý tài sản, gia hạn hợp đồng, điều chỉnh một số điều khoản của hợp đồng.
Nhìn lại năm 2016, không thể không nhắc đến vấn đề xử lý nợ xấu. Theo số liệu từ Ủy
ban Kinh tế của Quốc hội, tính đến hết tháng 8/2016, nợ xấu toàn hệ thống là 147.000 tỷ đồng,
chiếm 2,66% tổng dư nợ tín dụng. Tuy nhiên, nếu tính cả nợ xấu đã bán cho VAMC, tỷ lệ nợ
xấu lên đến 5,84%.
Ngay từ đầu năm 2016, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành nhiều văn bản, quyết
định, thông tư liên quan đến việc hình thành thị trường mua bán nợ xấu. Tiêu biểu như: Thông
tư 08/2016/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 19/2013/TT-NHNN quy định
về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý Tài sản các TCTD Việt Nam (VAMC)
theo cơ chế thị trường giúp tăng tính chủ động và quyền hạn cho VAMC; hay Quyết định
618/QĐ-NHNN cho phép VAMC chính thức được triển khai phương án mua bán nợ xấu theo
cơ chế thị trường.
Đầu tiên phải kể đến đề xuất xử lý nợ xấu bằng ngân sách của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Dù đề xuất này còn đang trong tiến trình phản biện, nhưng dường như không còn cách nào
khác nếu Chính phủ muốn nhanh chóng xử lý dứt điểm nợ xấu. Nghị quyết về kế hoạch cơ cấu
lại nền kinh tế giai đoạn 2016 – 2020 mà Quốc hội thông qua chiều ngày 8/11 cũng đã gợi mở
chủ trương sử dụng ngân sách để xử lý nợ xấu.
Một hướng đi mới, thực chất và táo bạo hơn, đã được Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ

tiết lộ trong phiên thảo luận tổ ở Quốc hội sáng ngày 22/10, đó là đề xuất thí điểm cho phá sản
ngân hàng, tổ chức tín dụng yếu kém.


Theo tiết lộ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại Diễn đàn Phát triển Việt Nam sáng
ngày 9/12, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) cùng với một đối tác tư nhân Việt Nam đang
có kế hoạch xử lý mua lại một ngân hàng yếu kém của Việt Nam, cho thấy một hướng xử lý nợ
xấu táo bạo và thực chất khác của Chính phủ.
Những vấn đề đẩy mạnh thực hiện trong năm 2016.
- Tiếp tục xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, đặc biệt triệt để phần nợ mua trong
VAMC. Số nợ xấu cần xử lý triệt để từ nay đến năm 2020. Theo thông lệ quốc tế, hầu như các
ngân hàng cũng mất khoảng 5-7 năm để xử lý nợ.
- Tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu hệ thống giai đoạn 2, sáp nhập ngân hàng, hay việc tiếp
quản một ngân hàng yếu kém đã được đẩy mạnh. Riêng vấn đề phá sản… chỉ là khi cực chẳng
đã.
- Cần phải hoàn thiện các định chế tài chính, áp dụng các chuẩn mực quốc tế, lành mạnh
hóa tài chính… Riêng lĩnh vực tài chính và chứng khoán cần phải tái cơ cấu để lành mạnh hóa.
Chính phủ đã chỉ đạo để phát triển thị trường vốn để cân bằng hơn trong thị trường tài chính.
Số liệu tập hợp từ báo cáo của các Tổ chức tín dụng (TCTD) cho thấy tỷ lệ nợ xấu bình
quân toàn hệ thống đến cuối năm 2016 ước tính giảm nhẹ từ 2,9% năm 2015 xuống 2,8%.
Trong 2016, theo số liệu của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, hệ thống các TCTD đã xử lý
khoảng 95.000 tỷ đồng nợ xấu. Trong đó, xử lý qua thu hồi nợ, bán tài sản bảo đảm chiếm
khoảng 52,6% tổng giá trị nợ xấu được xử lý, bằng nguồn dự phòng rủi ro chiếm 26,6%, bán
cho VAMC chiếm 21%.
Dù tiếp tục giảm nhẹ và một lượng lớn nợ được xử lý nhưng Ủy ban Giám sát Tài chính
Quốc gia đánh giá, nợ xấu chờ xử lý (nợ bán cho VAMC) và nợ xấu tiềm ẩn trong tái cơ cấu
vẫn lớn. Tổng số nợ bán cho VAMC chưa xử lý được là 224.000 tỷ đồng (chiếm 85% nợ xấu
bán cho VAMC, và chiếm khoảng 4,3% tổng tín dụng).
Đại diện Ngân hàng Nhà nước đã thừa nhận, nợ xấu trong kho vẫn còn nhưng hệ thống
ngân hàng phải tập trung xử lý trong bối cảnh nguồn lực để xử lý nợ xấu đang bị giới hạn rất

nhiều. Không những thế, theo các chuyên gia, xử lý nợ xấu vẫn đa phần sử dụng “cơ chế” mà
không có “tiền tươi, thóc thật” nên vẫn trong vòng luẩn quẩn, chưa dứt điểm nên khó có thể
hình thành thị trường mua bán nợ như kỳ vọng.


Trong năm 2017 nợ xấu được coi là “Gánh nặng”.
Trong 10 nhiệm vụ tái cơ cấu kinh tế có tính ưu tiên cao, cần được tập trung nguồn lực
thực hiện kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016 – 2020 được Chính phủ đề ra. Nhiệm
vụ đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu và áp dụng tiêu chuẩn Basel II tại các tổ chức tín dụng
được chú trọng nhằm làm lành mạnh hóa thị trường tài chính.
Tuy nhiên, năm 2016 đã đi qua, tình trạng nợ xấu vẫn chưa được cải thiện. Điều này cũng
đã ít nhiều tác động đến tình hình tiền tệ, các ngân hàng vẫn phải trích lập phần nhiều cho dự
phòng rủi ro, “đường” lên Basel II chưa rộng, lãi suất cho vay vẫn là nỗi “ngao ngán” của
doanh nghiệp… Nên trong năm tới, các chuyên gia và giới tài chính – ngân hàng lại phải tiếp
tục kỳ vọng vào việc đi tới thực thi hiệu quả việc hình thành thị trường mua bán nợ.
Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu về vấn đề nợ xấu, thực ra đây là bài toán mà chúng ta không
giải quyết được trong năm 2016. Dư nợ xấu trong năm 2016 không những không giảm đi mà
thậm chí còn tăng lên. Nợ xấu phải dùng ngân sách nhà nước thì mới có thể xử lý được, còn
nếu không dùng cách này thì nợ xấu không thể giải quyết được.
Chính phủ có thể giao VAMC để mua nợ xấu của các ngân hàng theo tiêu chí sau: Thứ
nhất là mua theo giá thị trường chứ không phải mua trên giá trị sổ sách; Thứ hai là trả bằng tiền
mặt chứ không phải trả bằng trái phiếu đặc biệt; Thứ ba mua đứt bán đoạn.
Nếu như các ngân hàng đã bán cho VAMC thì đây thuộc tài sản quản lý và công ty này
hoàn toàn có thể bán cho các cá nhân, tổ chức nào muốn mua thì nợ xấu mới xử lý hiệu quả
được. Chứ như hiện nay, mọi cơ chế về xử lý nợ xấu đang vướng rất nhiều vấn đề. Trong khi
nợ xấu đã bán cho VAMC nhưng các ngân hàng vẫn phải chịu trách nhiệm về khoản nợ này,
còn VAMC sẽ quản lý tài sản đảm bảo, thế nên dẫn đến sự chồng chéo khiến nợ xấu không thể
giải quyết được như hiện nay.
Ngoài ra, các ngân hàng phải quản lý chặt chẽ hơn các món vay doanh nghiệp, cá nhân,
cần định giá tài sản đảm bảo một cách chặt chẽ và đúng với quy định, không thể để cho một số

cán bộ kinh doanh tự ý đẩy giá lên. Vấn đề này hiện nay vẫn là thiếu sót của ngân hàng nên
mới để tình trạng nợ xấu tăng cao như hiện nay.
Cũng theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, năm 2017 các ngân hàng vẫn phải đối mặt nợ xấu, trích
lập dự phòng rủi ro tăng và đây vẫn là một năm khó khăn và đầy biến động với các ngân hàng.


Như vậy, nhiệm vụ trong năm 2017 khá nặng nề khi nợ xấu vẫn là vấn đề khá nan giải,
cần phải có phương án giải quyết nhanh chóng và kịp thời hơn. Bởi trong năm qua, nhiều
phương án xử lý nợ xấu đã được đề xuất như: dùng ngân sách, chuyển nợ xấu thành vốn góp,
chứng khoán hóa nợ xấu… Nhưng như lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước đã cho biết, Ngân hàng
Nhà nước sẽ cân nhắc kỹ lưỡng những mặt thuận lợi và không thuận lợi khi thực hiện bất kỳ
giải pháp nào. Do đó, phương án cụ thể để xử lý nợ xấu cho năm 2017 hiện vẫn đang trong
“bàn thảo” và “chờ đợi”.
Mặt khác, cùng với việc lên phương án xử lý dứt điểm, các chuyên gia và ngành ngân
hàng đều mong muốn không thể để một mình ngân hàng loay hoay xử lý nợ xấu, bởi nợ xấu có
ảnh hưởng nghiêm trọng đến tăng trưởng kinh tế. Do vậy, cả xã hội cần chung tay cùng hệ
thống ngân hàng xử lý nợ xấu trên tinh thần công khai, minh bạch.
Mặc dù chu kỳ tín dụng của các ngân hàng thường dồn vào cuối năm dẫn tới tỷ lệ nợ xấu
thường sụt giảm khá nhiều, tuy nhiên về mặt con số tuyệt đối, sau 6 tháng đầu năm 2016 bức
tranh “nợ xấu” của hệ thống ngân hàng đã dần định hình với những cái tên có khả năng sẽ tiếp
tục trở thành những “khách hàng thân thiết” của VAMC.

Một số chỉ tiêu về dư nợ cho vay, nợ xấu và trái phiếu đặc biệt VAMC
của một số ngân hàng tại 30/06/2016 (Đvt: Tỷ đồng)


• Tổng nợ xấu bao gồm nợ từ nhóm 3 – 5 trong phần phân loại nợ trên
BCTC
• Tỷ lệ nợ xấu tính bằng tổng nợ nhóm 3 – 5 trên dư nợ cho vay tại thời
điểm 30/06/2016

• Số liệu về trái phiếu đặc biệt do VAMC phát hành từ BCTC hợp nhất
kiểm toán năm 2015
Nguồn: BCTC hợp nhất quý 2/2016, BCTC hợp nhất kiểm toán năm
2015
Với những thông tin từ BCTC hợp nhất quý 2/2016 đã được công bố của đa số các ngân
hàng thương mại (NHTM), bức tranh nợ xấu năm 2016 của cả hệ thống đã dần được định hình.
Mặc dù tỷ lệ nợ xấu của hầu hết các ngân hàng này đều dưới 3% và có mức độ thay đổi không
đáng kể so với thời điểm đầu năm, trừ trường hợp đặc biệt là Eximbank (HOSE: EIB). Tuy
nhiên, nguyên nhân nằm ở quy mô của mẫu số trong công thức tính nợ xấu gia tăng mạnh giúp
tỷ lệ nợ xấu không tăng quá nhanh, trong khi thực tế, đã có những ngân hàng có tốc độ gia tăng
giá trị tuyệt đối của nợ xấu gấp nhiều lần so với tốc độ tăng dư nợ cho vay trong 6 tháng đầu
năm 2016.
Trong báo cáo triển vọng 6 tháng cuối năm 2016 đã được CTCK Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam – VCBS công bố, nhóm nghiên cứu cho biết tỷ lệ nợ xấu trong hệ
thống ngân hàng có dấu hiệu tăng từ cuối năm 2015. Tính đến hết quý 1/2016, tỷ lệ nợ xấu theo
thống kê từ NHNN là 2.62%, cao hơn mức 2.55% cuối năm 2015. Bên cạnh yếu tố “mô típ” từ
năm 2010 đến nay (tỷ lệ nợ xấu báo cáo thường thấp vào cuối năm), VCBS cho rằng đây có thể
là hệ quả tất yếu của việc gia tăng tín dụng bất động sản trong năm 2015.
Tính tới thời điểm hết quý 2/2016, những cái tên có tốc độ gia tăng nợ xấu gấp nhiều
lần so với tốc độ tăng dư nợ cho vay – hay nói cách khác, đây là những ngân hàng có “triển
vọng” tiếp tục là khách hàng thân thiết của VAMC đã dần lộ diện. Và cũng không quá bất ngờ
khi những cái tên được nhắc đến là một trong số những ngân hàng nắm giữ trái phiếu đặc
biệt* do VAMC với giá trị lớn nhất.
Nếu xếp quy mô dư nợ cho vay theo từng nhóm, thì nhóm đầu tiên với quy mô đứng
đầu thị trường (quy mô dư nợ cho vay lớn hơn 400,000 tỷ đồng, bao gồm:
BIDV, CTGvà VCB), ngân hàng BIDV (HOSE: BID) đang giữ vị trí top đầu về nợ xấu. Mặc
dù xét về quy mô dư nợ cho vay tính đến 30/06/2016, BIDV chỉ cao hơn VietinBank (CTG)
và Vietcombank (VCB) lần lượt 11% và 54% nhưng xét về quy mô giá trị nợ xấu, BIDV gấp



gần 2.5 lần so với VietinBank và gần gấp đôi Vietcombank. Tỷ lệ nợ xấu của BIDV cũng đã
vượt 2%, trong khi theo kế hoạch đã được ĐHĐCĐ thường niên năm 2016 thông qua, HĐQT
cam kết sẽ giữ nợ xấu dưới 2%.
Nếu tính về con số tuyệt đối, giá trị nợ xấu của BIDV cũng tăng hơn 3,000 tỷ đồng chỉ
trong 6 tháng đầu năm 2016, tương đương mức tăng hơn 31%, trong khi dư nợ cho vay tăng
chưa tới 10%. Cũng cần lưu ý ngân hàng này là một trong số những nhà băng đang nắm giữ trái
phiếu đặc biệt của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) với giá trị lớn
nhất. Chưa kể, với các biến cố từ chủ nợ sở hữu hàng nghìn tỷ nợ vay của BIDV, như Hoàng
Anh Gia Lai – HAGL hay CTCP Khoáng Sản Na Rì Hamico (KSS), có thể con số này chỉ mới
là khởi đầu.
Theo Khoản 1, Điều 14 Nghị định 53 về việc thành lập, tổ chức và hoạt động, VAMC sẽ
mua nợ xấu của tổ chức tín dụng theo giá trị ghi sổ số dư nợ gốc khách hàng vay chưa trả được
khấu trừ số tiền dự phòng cụ thể đã trích lập chưa sử dụng cho khoản nợ xấu đó, trên cơ sở thỏa
thuận và giá trị nợ xấu được đánh giá lại. Do vậy, khó có thể đánh giá được hơn 20,000 tỷ
mệnh giá trái phiếu đặc biệt của BIDV tương đương với nguyên giá khoản nợ xấu bao nhiêu,
trong khi BCTC hợp nhất 6 tháng đầu năm 2016 chưa soát xét không bao gồm số liệu chi tiết
khoản mục mệnh giá trái phiếu đặc biệt VAMC. Theo đó, khó đánh giá tường tận ngân hàng
này đã bán bao nhiêu nợ xấu cho VAMC trong 6 tháng đầu năm 2016. Tuy nhiên, với tốc độ
tăng quy mô nợ xấu gấp 3 lần so với quy mô dư nợ cho vay, nhiều khả năng BIDV sẽ tiếp tục là
“khách hàng thân thiết” của VAMC trong năm nay.

So sánh tương quan dư nợ cho vay và quy mô nợ xấu của BIDV,
VCB và CTG
(Đvt: Tỷ đồng)


Ở nhóm dưới, những cái tên tiêu biểu khác có thể kể đến như Sacombank (STB), Ngân
hàng Sài Gòn – Hà Nội (SHB), Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) hay Ngân hàng
Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), đây đều là những ngân hàng có tốc độ tăng quy mô các
khoản nợ xấu cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay trong 6 tháng đầu năm

2016.
Đứng đầu danh sách này có lẽ phải kể đến VPBank. Ngân hàng này có tốc độ tăng trưởng
quy mô nợ xấu tới 11.3%, trong khi dư nợ cho vay chỉ tăng hơn 1.1%, tức là quy mô tăng nợ
xấu gấp gần 10 lần so với tăng trưởng tín dụng. Dẫn tới tỷ lệ nợ xấu của VPBank hiện đã đạt
2.96%, gần chạm tới ngưỡng “rủi ro” 3%, cách xa tỷ lệ nợ xấu 2.69% hồi đầu năm 2016. Trong
khi đó, tiền gửi khách hàng tại VPBank chỉ ở mức 118,599 tỷ đồng, giảm 9% so với đầu năm.
Lưu chuyển tiền thuần trong 6 tháng đầu năm âm hơn 2,900 tỷ đồng chủ yếu do âm dòng tiền
thuần từ hoạt động kinh doanh (giảm tiền gửi khách hàng 11,670 tỷ đồng).
Tương tự VPBank, quy mô nợ xấu của Sacombank cũng tăng tới gần 64% lên 5,651 tỷ
đồng, trong khi tăng trưởng dư nợ cho vay chỉ hơn 7%. Hiện tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng này
cũng đã đạt mức 2.84%, mặc dù vẫn thấp hơn VPBank nhưng cũng đã sát ngưỡng “rủi ro” 3%.
Như trường hợp của SHB, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng này đạt 2.22% tính tới ngày
30/06/2016, trong khi con số này cuối năm 2015 chỉ hơn 1.72%. Tốc độ tăng trưởng quy mô nợ
xấu so với tăng trưởng dư nợ cho vay cũng đáng báo động, bởi trong 6 tháng đầu năm 2016,


SHB chỉ tăng hơn 7.2% dư nợ cho vay, trong khi tăng trưởng quy mô nợ xấu tới hơn 38.3%.
Mệnh giá trái phiếu đặc biệt của VAMC do ngân hàng này nắm giữ tính tới thời điểm kết thúc
năm 2015 cũng đạt gần 7,000 tỷ đồng, cao hơn nhiều so với những ngân hàng khác cùng quy
mô, mặc dù tỷ lệ nợ xấu của SHB sau khi đã bán nợ không phải là quá thấp.
Tương tự, quy mô nợ xấu của Techcombank trong 6 tháng đầu năm 2016 cũng tăng gần
28%, gấp gần 2 lần so với tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay, với giá trị tuyệt đối 2,385 tỷ đồng.
Nếu nói về bức tranh nợ xấu của năm 2016, một trường hợp đặc biệt cũng không thể không
nhắc đến trong 6 tháng đầu năm 2016 là Eximbank. Trong khi dư nợ cho vay tại Eximbank
tính tới 30/06/2016 giảm 4.6% so với đầu năm thì quy mô nợ xấu của ngân hàng tăng đột biến,
gấp gần 3 lần. Trong đó, nợ dưới tiêu chuẩn tăng vọt từ 182 tỷ lên 2,415 tỷ đồng, nợ có khả
năng mất vốn cũng tăng mạnh từ 802 tỷ lên 1,073 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ cho vay
khách hàng tại Eximbank tăng vọt từ 1.9% lên 5.3%.
Hiện ngân hàng này đang gặp vướng mắc rất lớn về mặt nhân sự do sự mâu thuẫn giữa
những nhóm cổ đông lớn. Mới đây, Ngân hàng Nhà nước cũng ra chỉ đạo với Eximbank hoãn

tổ chức ĐHĐCĐ bất thường nhằm kiểm tra, rà soát một số thông tin liên quan đến quyền đề cử,
ứng cử của cá nhóm cổ đông để báo cáo trước khi Ngân hàng Nhà nước phê duyệt nhân sự đề
cử, ứng cử bầu bổ sung thành viên HĐQT. Chưa rõ cơ cấu quản trị của Eximbank bao giờ sẽ
được thống nhất, tuy nhiên với hàng loạt khó khăn đang dần được phơi bày, trách nhiệm của
ban lãnh đạo mới báo trước những thử thách không hề nhỏ.


Nợ xấu quý I/2017: Vẫn tăng và có sự phân hóa.
Số liệu thống kê cho thấy, tính đến hết quý I/2017, mặc dù tình hình kinh doanh có khởi
sắc, nhiều ngân hàng báo lãi, thậm chí lãi lớn, tuy nhiên đi cùng với đó là tỷ lệ nợ xấu cũng
tăng theo.

Tình hình nợ xấu thống kê tại 10 ngân hàng.
Tỷ lệ nợ xấu tăng giảm trái chiều giữa các ngân hàng với nhau, nhưng tựu chung lại nợ
xấu chưa thực sự thuyên giảm và vẫn là một “gánh nặng” với ngành Ngân hàng hiện nay.
Nợ xấu tăng chủ yếu ở nhóm 3 và 4
Thống kê từ 10 ngân hàng (Vietcombank (VCB), Vietinbank (CTG), BIDV (BID), MB
Bank (MBB), VIB, Sacombank (STB), Eximbank (EIB), Techcombank, Kienlongbank,
BacABank) của Công ty Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) cho thấy, tính đến hết quý I/2017,
tổng nợ xấu (từ nhóm 3 đến nhóm 5) đạt 50.695 tỷ đồng, tăng nhẹ 6% so với thời điểm cuối
năm ngoái. Trong đó, nợ xấu tăng chủ yếu ở nhóm 3 và nhóm 4, lần lượt là 13% và 18%, lên
mức 15.749 tỷ đồng và 7.941 tỷ đồng. Nợ có khả năng mất vốn tuy giảm nhẹ 0,1% nhưng vẫn
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nợ xấu (53%) với 27.005 tỷ đồng.
Trong số các ngân hàng này, tỷ lệ nợ xấu giữa các nhà băng cho sự tăng giảm trái chiều.
So với cuối năm 2016, trong quý I/2017, nhóm ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng là EIB (từ
2,95% cuối năm 2016 lên 3%), BID (từ 1,99% lên 2,14%), Techcombank (từ 1,58% lên


1,89%), MBB (từ 1,34% lên 1,35%), CTG (từ 1,48% lên 1,51%), BacAbank (từ 0,81% lên
0,82%). Ở chiều ngược lại, các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu giảm là: STB (từ 5,35% cuối năm

2016 xuống còn 4,89%); VIB (từ 2,58% xuống còn 1,96%); VCB (từ 1,51% xuống còn 1,48%);
Kienlongbank (từ 1,06% xuống còn 0,96%).
Như vậy, qua số liệu trên cho thấy, mặc dù thuộc nhóm giảm, nhưng STB là ngân hàng
có tỷ lệ nợ xấu cao nhất trong số các ngân hàng niêm yết hiện nay khi nợ xấu chiếm tới 4,89%
(vượt khá xa mức con số nợ xấu bình quân toàn hệ thống 2,46% tính tới cuối 2016 được Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) công bố). Trong khi đó, qua số liệu này, tình hình xử lý nợ xấu ở từng
các ngân hàng riêng lẻ cho thấy tín hiệu tích cực, chẳng hạn như VCB tỷ lệ nợ xấu chỉ chiếm
1,48% và tiếp tục giảm; hay nhiều ngân hàng khác dù tăng nhẹ, nhưng nợ xấu vẫn đang nằm ở
mức dưới 1,5%.
Đánh giá về diễn biến này, BVSC cho rằng, việc tăng giảm trái chiều của tỷ lệ nợ xấu
phản ánh bức tranh phân hóa trong tiến trình xử lý nợ xấu cũng như khả năng quản trị chất
lượng tài sản giữa các ngân hàng. Đây cũng là một trong những căn cứ quan trọng để NHNN
xem xét cấp mức trần tăng trưởng tín dụng trong năm cho từng ngân hàng. Tuy vậy, ở thời
điểm hiện tại, “nhà điều hành không nên đánh đổi sự an toàn của hệ thống để chạy theo tăng
trưởng tín dụng “nóng”, nhất là trong bối cảnh nợ xấu vẫn đang là gánh nặng của không ít ngân
hàng”, công ty này cho hay.
Chia cổ tức tiền mặt ở mức thấp
Theo dõi mùa đại hội cổ đông năm nay cho thấy, nhiều ngân hàng đã có sự tăng trưởng
cả về doanh thu và lợi nhuận, thậm chí có những ngân hàng “thắng đậm” với mức lợi nhuận
“nghìn tỷ”. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc, các nhà băng sẽ chi trả cổ tức bằng
tiền “hậu hĩnh” cho các cổ đông của mình, nếu không muốn nói là “khá nhỏ giọt”. Chẳng hạn
như, số liệu từ BVSC cho thấy: LienVietPostBank dự kiến mức cổ tức là 10%, trong đó chỉ có
4% tiền mặt, 6% là cổ phiếu; VIB phê duyệt tỷ lệ chi trả cổ tức ở mức rất cao (44,6%) nhưng
cổ tức bằng tiền mặt chỉ là 5%, còn lại là chia cổ phiếu thưởng cho cổ đông hiện hữu (39,6%);
VPBank thậm chí còn không có kế hoạch chia cổ tức bằng tiền mặt mà dành toàn bộ phần lợi
nhuận chưa phân phối để tăng vốn.


Ở khối các ngân hàng thương mại cổ phần quốc doanh, VCB dự kiến chia cổ tức bằng
tiền mặt chỉ ở mức 8%, tương đương với tổng số tiền là 2.878 tỷ đồng. Với BIDV, mức trả cổ

tức bằng tiền là 7%....
Thực tế cho thấy, bản thân các ngân hàng thương mại cho dù có muốn trả cổ tức bằng
tiền mặt với tỷ lệ cao cho các cổ đông cũng đang gặp không ít khó khăn. Đầu tiên là phải được
sự chấp thuận của NHNN về tỷ lệ chi trả. NHNN những năm gần đây theo dõi rất kỹ hoạt động
trả cổ tức bằng tiền mặt, đặc biệt là đối với các ngân hàng còn đang vướng nợ xấu và năng lực
tài chính chưa vững mạnh. Tiếp đến là áp lực tăng vốn nhằm đáp ứng Thông tư 06/2016/TTNHNN và xa hơn nữa là tiêu chuẩn Basel II buộc các ngân hàng phải ưu tiên hơn cho việc chia
cổ tức bằng cổ phiếu, thay vì trả hết bằng tiền mặt.
BVSC cho rằng, với những định hướng này thì cổ đông của các ngân hàng có thể sẽ
phải tiếp tục nhận cổ tức tiền mặt ở mức thấp thêm một vài năm nữa.
Xử lý nợ xấu đang là một yêu cầu đặt ra không chỉ với bản thân các tổ chức tín dụng
mà còn cả toàn bộ hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Nợ xấu lớn như hiện nay cũng đã làm
ách tắc dòng chu chuyển vốn trong nền kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực không chỉ với các tổ chức
tín dụng mà còn cả các doanh nghiệp. Do bị đọng vốn trong nợ xấu, các tổ chức tín dụng không
có điều kiện mở rộng tăng trưởng tín dụng, khiến cho hoạt động sản xuất của nền kinh tế gặp
khó khăn.
Xử lý được nợ xấu sẽ góp phần hạ mặt bằng lãi suất, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng lành
mạnh và góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, đưa nền kinh tế trở lại quỹ đạo tăng trưởng
bền vững.
Ngay từ ngày đầu năm 2017, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Chỉ thị số
02/CT-TĐNH về tăng cường bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, tiếp tục đẩy mạnh
cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng và đặc biệt vấn đề xử lý nợ xấu được nhấn mạnh trong
chỉ thị này.
Đây là vấn đề “nhạy cảm” nhất của các nhà băng hiện nay vì nợ xấu ngân hàng có tác
động lớn tới hoạt động của hệ thống, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và thu Ngân sách Nhà
nước. Công tác xử lý nợ xấu trong năm 2017 được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của ngành
ngân hàng.


Cuối năm 2016, người đứng đầu Vietcombank tuyên bố năm 2016 Vietcombank là ngân
hàng tiên phong thu hồi các khoản nợ từ VAMC vượt 3 năm so với quy định và chính thức đưa

nợ xấu về một sổ và chính thức kiểm soát, quản trị chất lượng tín dụng một cách thực chất và
hiện tỷ lệ nợ xấu đến cuối năm của ngân hàng này còn là 1,44%.
Việc Vietcombank tuyên bố như vậy đã tạo động lực “hối thúc” một số ngân hàng thương
mại cổ phần khác lên kế hoạch mạnh mẽ về xử lý nợ xấu để làm “nhẹ” bớt hàng tỷ đồng vốn
của ngân hàng đang vẫn “ngủ đông”.
Tại buổi tổng kết và triển khai kế hoạch kinh doanh của đơn vị mình, ông Nguyễn Văn
Thắng, Chủ tịch Hội đồng quản trị VietinBank cũng đã cho biết, năm 2016 thành công lớn nhất
của ngân hàng này là xử lý triệt để gần 10.000 tỷ đồng nợ xấu trong giai đoạn 2007-2010 tồn
lại bằng năng lực tài chính, thu nợ, bán nợ. Cùng với đó ngân hàng đã kiểm soát được nợ xấu
mới phát sinh, nâng cao chất lượng nợ.
Chính vì vậy, trong năm 2017 VietinBank sẽ tập trung xử lý nợ xấu và mua lại nợ đã bán
cho VAMC bằng nguồn lực của ngân hàng, nếu đúng kế hoạch thì khoản nợ này sẽ hoàn thành
trước thời hạn từ 2-3 năm.
Ngoài ra, VietinBank vẫn đang tích cực tham gia hỗ trợ ngân hàng yếu kém bằng cách
tham gia tái cơ cấu 2 ngân hàng 0 đồng là GPBank và OceanBank. Đặc biệt, VietinBank đã tập
trung hỗ trợ 2 ngân hàng xây dựng đề án tái cơ cấu và đã trình Ngân hàng Nhà nước.
Kể từ khi VietinBank tham gia tái cơ cấu hai ngân hàng này thì công tác thu hồi, xử lý
các khoản nợ xấu, nợ ngoại bảng của OceanBank và GPBank được cải thiện đáng kể.
Tính đến nay, nợ xấu của OceanBank đã xử lý được hơn 5.000 tỷ đồng và kinh doanh đã
bắt đầu có lãi.
Còn tại Agribank, tỷ lệ nợ xấu cũng đã giảm xuống mức dưới 2%. Trong năm 2017, ngân
hàng này cũng đặt ra biện pháp sẽ tăng cường kiểm tra, kiểm soát để phòng ngừa, hạn chế rủi
ro khi quy mô kinh doanh tăng lớn.
Một số ngân hàng thương mại cổ phần khác cũng đã lên kế hoạch tập trung nhiều hơn
vào công cuộc xử lý nợ xấu thoe chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước.


Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cũng cho biết, tới đây, nợ xấu sẽ được tính đúng, tính đủ,
đồng thời, những ngân hàng có số lượng nợ xấu lớn mà không tích cực xử lý sẽ bị Ngân hàng
Nhà nước “tuýt còi”. Hiện có khoảng 10 tỷ USD nợ xấu mà các ngân hàng bán cho Công ty

Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) được coi là nợ ngoại bảng.
Trong chỉ thị 02, Ngân hàng Nhà nước cũng cảnh báo sẽ kiên quyết xử lý những tổ chức
tín dụng có nợ xấu lớn không tích cực xử lý. Ngoài ra, Chỉ thị cũng yêu cầu các tổ chức tín
dụng phải xây dựng kế hoạch xử lý nợ xấu và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu (bao gồm: nợ xấu
nội bảng; nợ xấu đã bán cho VAMC chưa xử lý được; nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ; trái phiếu
doanh nghiệp tổ chức tín dụng đã mua; các khoản phải thu khó đòi; lãi, phí phải thu phải thoái
nhưng chưa thoái) từng quý trong năm 2017 và báo cáo theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà
nước.
VAMC sẽ bán nợ nhiều hơn mua vào.
Ông Nguyễn Tiến Đông, Chủ tịch Hội đồng thành viên VAMC cho biết, năm 2017
VAMC dự kiến mua nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt khoảng 25.000 tỷ đồng và tập trung xử lý
khoảng 33.000 tỷ đồng. Trong đó, VAMC sẽ tập trung vào tái cơ cấu lại nợ, xử lý phân loại để
phát mại tài sản và thu hồi nợ.
Để kế hoạch bán nợ được thành công, ông Đông chia sẻ, trong định hướng của 2017,
VAMC xác định giao cho tất cả các phòng ban, phân loại dần những khoản nợ xấu để có hướng
xử lý phù hợp đối với từng loại nợ.
Bên cạnh đó, VAMC cũng xác định trong năm nay sẽ phối hợp với các đơn vị trực thuộc
Ngân hàng Nhà nước để sớm trình Chính phủ và Quốc hội đề án cơ cấu và xử lý nợ xấu để tạo
hành lang pháp lý thuận lợi cho VAMC hoạt động. Đề án này sẽ tập trung vào nâng cao năng
lực thực sự của VAMC từ nguồn lực về vốn, về công nghệ về con người để đảm bảo VAMC là
trung tâm trong thị trường mua bán nợ vì hiện khối lượng nợ xấu hiện VAMC đang quản lý rất
lớn.
“Năm 2017 cũng là năm VAMC thực hiện rất quyết liệt việc mua bán nợ xấu theo cơ chế
thị trường và hình thành một nhóm phân tích thực hiện tái cơ cấu lại những doanh nghiệp đang
còn nợ xấu tại ngân hàng… Nghĩa là năm 2017, VAMC sẽ đưa hết chức năng nhiệm vụ của


mình, có những nhiệm vụ thì quyết liệt hơn, có những nhiệm vụ thì thí điểm để lấy kinh
nghiệm cho các năm tiếp theo”.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng đã yêu cầu VAMC tập trung rà soát, phân loại,

đánh giá lại các khách hàng vay, tài sản bảo đảm và các khoản nợ đã mua để xác định khả năng
thu hồi nợ và có giải pháp xử lý phù hợp. Ngoài ra, Thống đốc cũng yêu cầu VAMC triển khai
mạnh mẽ, đồng bộ các giải pháp mua, bán, xử lý nợ xấu theo cơ chế thị trường đồng thời áp
dụng các biện pháp giảm thiểu rủi ro trong việc mua bán nợ theo cơ chế thị trường.
Đối với những khách hàng chây ỳ không trả nợ, Ngân hàng Nhà nước cũng cho phép
VAMC phối hợp với tổ chức tín dụng bán nợ khởi kiện khách hàng không hợp tác, đồng thời
phối hợp với cơ quan thi hành án và cơ quan chức năng trong quá trình thu giữ tài sản và thi
hành các bản án đã có hiệu lực.

Phần 3: Giải pháp hiệu quả cho việc xử lý nợ xấu trong các ngân hàng
tại Việt Nam hiện nay
Tất cả các thống kê về tình trạng nợ xấu ở các ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời
gian vừa qua đã minh chứng một bức tranh đầy đủ, toàn diện về hiện trạng nợ xấu ở hệ thống
ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, trên thực tế, khó có thể xác định được nợ xấu là bao nhiêu,
như thế nào và có thể thanh toán được hay không ? Theo đó, chúng ta cần tiến hành xác định
nguyên nhân và đưa ra những giải pháp cần thiết để tiến hành giải quyết nợ xấu đang diễn ra ở
nhiều ngân hàng thương mại tại Việt Nam hiện nay. Dưới góc độ nghiên cứu và trên cở sở xem
xét, học hỏi kinh nghiệm quốc tế, có thể xét thấy nên áp dụng một số giải pháp để xử lý nợ xấu
đang diễn ra khá phức tạp trong hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam thời gian vừa qua
như sau:
Thứ nhất, xây dựng, duy trì, thiết lập hệ thống tài chính vững chắc gồm việc quy định các
chuẩn mực, quy tắc, chế độ kiểm toán, quyết toán, kế toán, quản trị riêng biệt, khuôn khổ điều
tiết, giám sát thị trường tài chính, thị trường tiền tệ... để xác định những mục tiêu cốt lõi hỗ trợ
hệ thống tài chính hoàn thành vai trò của mình, bảo đảm tốc độ và chi phí chu chuyển vốn, khả
năng truyền tải và phân tán rủi ro tài chính. Công việc này không ai làm tốt hơn chính Chính
phủ và các cơ quan giúp việc liên quan như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính...


Thứ hai, xiết chặt các quy chế điều tiết để bảo đảm an toàn hệ thống sẽ luôn được đặt lên
trước hết bất kể khi nào hệ thống ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ rủi ro cao, bao gồm cả

các mối đe dọa như khủng hoảng hoặc thậm chí là phá sản. Tiếp theo, mọi quy chế điều tiết
quan trọng khác như các quy định về tỉ lệ an toàn hoạt động ngân hàng (đặc biệt là hệ số an
toàn vốn tối thiểu - CAR), về phân loại nợ xấu và trích lập dự phòng rủi ro, về cho phép lưu
hành một sản phẩm, công cụ tài chính mới hay chấp thuận cho mở rộng quy mô, phạm vi, lĩnh
vực hoạt động mà mức độ rủi ro của chúng chưa được định lượng đầy đủ và bảo đảm đủ năng
lực kiểm soát... đều cần được xem xét, đánh giá lại một cách nghiêm khắc và phải được xiết
chặt hơn.
Thứ ba, giám sát nợ xấu một cách có hiệu quả thông qua hoạt động phân tích, phân loại
nợ xấu theo định kỳ. Để việc xử lý nợ xấu được kịp thời, đạt được hiệu quả cao, thì khâu cảnh
báo, phát hiện sớm nợ xấu phát sinh là rất quan trọng, quyết định trực tiếp đến quá trình xử lý
nợ sau này. Duy trì thường xuyên việc kiểm tra, phân tích, đánh giá thực trạng, nguyên nhân
phát sinh nợ xấu, làm rõ trách nhiệm của cá nhân có liên quan nhất là ở những đơn vị, cá nhân
phụ trách có tỷ lệ nợ xấu tăng nhanh, gắn trách nhiệm thu hồi nợ xấu, xử lý rủi ro với trách
nhiệm của cá nhân trong hoạt động cho vay.
Thứ tư, tăng cường pháp chế là giải pháp cần thực hiện nhanh chóng để có một chế độ và
trật tự pháp luật, trong đó tất cả các chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý đều phải tôn trọng
và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác. Tăng cường pháp chế
trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng là việc các cơ quan nhà nước có liên quan bao
gồm Ngân hàng Nhà nước và các đối tượng bị quản lý là các tổ chức tín dụng, ngân hàng
thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng, các tổ
chức kinh tế và tất cả các công dân đều phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật về
tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm khắc phục được tình trạng buông lỏng pháp chế một thời
gian dài, khiến hoạt động tiền tệ - ngân hàng hỗn loạn như những năm vừa qua..., khi các cơ
quan thanh tra giám sát ngân hàng nhiều lúc đã tỏ ra bất lực, buông xuôi.
Thứ năm, tăng cường các cơ chế thỏa thuận, thương lượng trong xử lý nợ xấu giữa ngân
hàng thương mại (bên cho vay) và các doanh nghiệp (bên đi vay) để đồng thuận, “chung lưng
đấu cật” giữa hai bên trong việc giải quyết hậu quả của nợ xấu. Cả hai bên cần bàn bạc để có
giải pháp hợp lý như đề ra các phương án trả nợ, xác định thời điểm trả nợ, thay đổi các điều
khoản, nội dung hợp đồng tín dụng để phù hợp với nhu cầu và tình hình thực tế của các bên.



Thứ sáu, giải quyết tốt vấn đề con người, vì đây là yếu tố quan trọng nhất trong sự thành
công. Do vậy, để hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng, cần phải có đội ngũ cán bộ tín dụng
có phẩm chất, năng lực công tác và tinh thần trách nhiệm cao, tận tụy với công việc. Thường
xuyên quan tâm đến việc giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ
tín dụng. Một người có đạo đức tốt, thái độ hành xử đúng mực sẽ rất cân nhắc trong việc giải
quyết cho vay trên cơ sở đầy đủ những thủ tục theo quy định và dự án có hiệu quả.
Tóm lại, nợ xấu trong hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam là một vấn đề nan giải. Để
giải quyết được tình trạng này, cần thiết phải có sự tham gia của các bên để cùng chia sẻ thực
trạng, qua đó tìm ra các giải pháp phù hợp. Việc tích cực cùng tham gia giải quyết của Chính
phủ, các ngân hàng thương mại và các cá nhân, tổ chức nợ xấu rất quan trọng. Chính phủ tạo
điều kiện cho thị trường tài chính phát triển đúng mức, kịp thời; xây dựng môi trường kinh tế,
chính trị ổn định với những cơ hội đầu tư hấp dẫn. Trong khi đó, doanh nghiệp và ngân hàng là
những đối tượng trực tiếp tham gia và có ảnh hưởng lớn tới quá trình định giá các khoản nợ
xấu, thỏa thuận mua bán lại nợ, và đặc biệt là giai đoạn phục hồi/thu hồi lại giá trị của các tài
sản xấu đã mua lại. Nếu chỉ có nguồn dự phòng rủi ro của các ngân hàng, e rằng khối nợ xấu
kia không thể sớm được giải quyết căn bản và triệt để. Bởi thế, xã hội hóa nguồn lực là một giải
pháp nên cân nhắc trong bối cảnh nền kinh tế của nước ta hiện này. Sự chung tay góp sức của
các thành phần, tầng lớp xã hội trong việc xử lý nợ xấu ở hệ thống các ngân hàng thương mại
sẽ giúp cho hoạt động này được kìm hãm và hạn chế gia tăng, phát triển trong tương lai.

//Tài liệu tham khảo:
1. Niên giám thống kê 2017.
2. Báo cáo tài chính hợp nhất quý 2/2016.
3. Báo cáo tài chính hợp nhất kiểm toán năm 2015.





×