Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận môn ngân hàng thương mại thực trạng và giải pháp của việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.76 KB, 15 trang )

Họ và tên : CAO THỊ TRANG
Lớp

: ĐHTN8A3HN

MSV

: 14108100568

STT

: 78

Đề tài

: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CỦA VIỆC THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC

TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM

LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu hương quốc tế hóa, tồn cầu hóa hiện nay trên thế giới,đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI là một trong những hình thức kinh doanh khơng thể thiếu được của các quốc gia trong điều
kiện mở của và hội nhập. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã và đang góp phần thúc đẩy
mỗi quốc gia hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu.
Thực tiễn cho thấy, một đất nước muốn phát triển, cần phải nhanh chóng hội nhập kinh tế
quốc tế để tranh thủ nguồn lực bên ngoài. Vốn đầu tư nước ngồi, trong đó điển hình là đầu tư
trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI ) trở thành nguồn bổ sung quan trọng,
nhằm khai thác triệt để mọi nguồn lực trong nước. Chính vì vậy, việc thu hút vốn đầu tư nước
ngồi nói chung và FDI nói riêng, trở thành xu thế tất yếu của hầu hết các nước trên thế giới, đặc
biệt đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Để việc thu hút vốn đầu tư nước
ngoài ở Việt Nam trở nên mạnh mẽ và có quy mơ, cần biết được thực trạng và giải pháp để tăng


cường FDI vào nền kinh tế nước nhà. Do đó em đã chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp của việc
thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam”.


I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC THU HÚT FDI TẠI VIỆT NAM
1. Tính tất yếu khách quan của việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
Ngày nay xu hướng quốc tế hố tồn cầu hố đang diễn ra một cách mạnh mẽ trên thế giới.
Các nền kinh tế tác động, bổ sung và phụ thuộc lẫn nhau.
Các quốc gia bị cuốn vào vịng xốy của q trình hội nhập kinh tế, chun mơn hố, hợp tác
hố nhằm tận dụng vốn, cơng nghệ và trình độ quản lý của nhau.
Xuất phát điểm của nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu. Hơn 70% dân số hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp: năng suất lao động thấp, trình độ kỹ thuật thấp, tích luỹ nội bộ thấp,
sử dụng viện trợ nước ngồi khơng có hiệu quả. Ngoài ra, nước ta vừa ra khỏi cuộc chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc nên những tàn dư mà ta chưa khắc phục được còn nhiều: cơ sở hạ tầng thấp
kém, đời sống nhân dân cịn khó khăn, chính sách chưa đồng bộ .... Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách
của chúng ta hiện nay là phải phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của nhân dân, xây dựng cơ
sở hạ tầng. Để thực hiện điều đó thì chúng ta cần một lượng vốn rất lớn.
Trong điều kiện khả năng đáp ứng của nền kinh tế là có hạn thì chúng ta khơng cịn con
đuờng nào khác là thu hút sự hợp tác đầu tư của nước ngoài. Để thực hiện điều đó, tại đại hội VI
(12/1986), Đảng và Nhà nước đã chủ trương mở cửa nền kinh tế, đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối
ngoại nhằm tận dụng “những khả năng to lớn của nền kinh tế thế giới về di chuyển vốn, mở rộng
thị trường, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm để bổ sung và phát triển có hiệu quả các lợi
thế và nguồn lực trong nước”. Đảng chủ trương “Đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế
đối ngoại” với quan điểm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”. Tại đại hội
VIII, Đảng chủ trương “Vốn trong nước là chính, vốn nước ngồi cũng quan trọng”. Tất cả
những tư tưởng đổi mới của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế
đối ngoại nói chung, hoạt động đầu tư nước ngồi nói riêng.
Như vậy, q trình thu hút đầu tư nước ngồi vào Việt Nam là một xu thế tất yếu phù hợp với
xu thế của thế giới và yêu cầu phát triển của nền kinh tế Việt Nam.



II.THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGỒI
Gần 30 năm thực hiện cơng cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, từng bước hội nhập khu vực và thế giới. Trong thành tựu trên lĩnh vực kinh tế, đầu tư trực
tiếp nước ngồi (FDI) đóng vai trị quan trọng, trở thành một trong những động lực tăng trưởng
kinh tế đất nước. Cùng với nhiều tác động tích cực tới kinh tế và sự phát triển bền vững của đất
nước, FDI cũng có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế: ảnh hưởng đến lượng ngoại hối,
giảm đóng góp vào nguồn thu thuế; có khi biệt lập với các ngành sản xuất trong nước, do đó
khơng có những hiệu ứng lan truyền có lợi về phổ biến cơng nghệ sản xuất, quản lý và
marketing; có thể đẩy các nhà sản xuất trong nước vào cuộc cạnh tranh không cân sức; có nguy
cơ bị biến thành bãi rác cơng nghiệp.
Thực trạng này đặt ra cho Việt Nam những bài toán lớn từ vấn đề luật pháp, chính sách, quy
hoạch lãnh thổ, ngành nghề, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, công tác giải phóng mặt bằng,
phân cấp trong quản lý FDI, môi trường... để khai thác lợi thế cũng như hạn chế những tác động
tiêu cực của FDI khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
1. Một số kết quả đạt được từ những năm 1988-2014
FDI là nguồn vốn hỗ trợ cho phát triển kinh tế. Từ năm 1988 (Luật Đầu tư nước ngoài có
hiệu lực) đến ngày 31-10-2014, tổng vốn đăng ký FDI đạt 230 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 130 tỷ
USD, chiếm 56,5% vốn đăng ký (trong đó có khoảng 20% vốn của Việt Nam)(1). FDI có nhiều ưu
thế trong huy động và tạo ra các tác động tích cực đối với việc huy động các nguồn vốn khác
(như: ODA...), đồng thời kích thích thu hút vốn đầu tư trong nước.
Qua gần 30 năm, đến nay, FDI đã phân bố khắp cả nước. Nguồn vốn đó chủ yếu đến từ các
nước châu Á như: Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Xinhgapo (chiếm
70,6%). Các nước châu Âu như Đức, Pháp, Anh (chiếm 8,8%), châu Mỹ gồm Mỹ, Canađa
(chiếm 7,7%), Ơxtrâylia (chiếm 2,7%), cịn lại là các đối tác khác. Hằng năm, bình quân vốn FDI
thực hiện chiếm khoảng 25% vốn đầu tư xã hội. Đây là nguồn vốn quan trọng hỗ trợ cho sự phát
triển kinh tế.
FDI tạo cơ hội tiếp cận khoa học - công nghệ, trở thành động lực phát triển kinh tế trình độ
cao. Khoảng cách phát triển khoa học - công nghệ giữa Việt Nam với các nước công nghiệp phát



triển còn lớn. FDI tạo cơ hội cho Việt Nam có thể tiếp thu kỹ thuật - cơng nghệ hiện đại từ các
nhà đầu tư nước ngoài. Mặt khác, khu vực FDI kích thích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư đổi
mới công nghệ, nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm với giá cả cạnh tranh. FDI thúc đẩy
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhiều lĩnh vực, ngành
kinh tế mới ra đời và phát triển: dầu khí, cơng nghệ thơng tin, hóa chất, ơ tơ, xe máy, thép, điện
tử và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da giày, dệt may... FDI thúc
đẩy ứng dụng kỹ thuật - công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, góp phần tăng năng suất lao động và
chuyển dịch cơ cấu tỷ trọng các ngành trong nền kinh tế.
Khu vực FDI tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế và định hướng cơng
nghiệp hố. Giai đoạn 2000 - 2010, tỷ trọng khu vực FDI trong cơ cấu kinh tế tăng 5,4%, trong
khi khu vực nhà nước và khu vực tư nhân giảm tương ứng.
Khu vực FDI chiếm khoảng 45%tổng giá trị sản xuất công nghiệp, góp phần hình thành một số
ngành cơng nghiệp chủ lực của nền kinh tế: viễn thơng, dầu khí, điện tử, hóa chất, ơ tơ, xe máy,
xi măng, chế biến nông sản thực phẩm,công nghệ thông tin,thép,, da giày, dệt may... Các doanh
nghiệp FDI chiếm tỷ trọng lớn trong các ngành cơng nghệ cao: khai thác dầu khí, điện tử, viễn
thơng, thiết bị văn phịng, máy tính...
FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu nơng nghiệp, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị hàng hóa
nơng sản xuất khẩu và tiếp thu một số công nghệ tiên tiến, giống cây, giống con có năng suất,
chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, tỷ trọng FDI chiếm chưa đến 3% giá trị sản
lượng của khu vực nông nghiệp.
FDI nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm và kiểm toán với các phương thức hiện
đại trong thanh toán, tín dụng, thẻ. FDI trong lĩnh vực du lịch, khách sạn, văn phòng cho thuê đã
làm thay đổi diện mạo của một số đô thị lớn và các vùng ven biển. Nhiều khu vui chơi giải trí
như sân golf, bowling, vui chơi có thưởng tạo ra điều kiện hấp dẫn đối với nhà đầu tư và khách
quốc tế.
Giáo dục, đào tạo, y tế tuy chưa thu hút được nhiều vốn FDI nhưng bước đầu đã hình thành một
số cơ sở giáo dục có chất lượng cao; một số bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh hiện đại, phục vụ
nhu cầu của một bộ phận dân cư có thu nhập cao và người nước ngoài tại Việt Nam.
Trong hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), tỷ lệ tham gia của doanh nghiệp FDI cao

hơn so với doanh nghiệp trong nước. Năm 2000: 19,78%/5%, 2004: 12,41%/3,43%; năm 2010:


10,9%/2,5%. Chi phí R&D trung bình cho một cán bộ khoa học - công nghệ trong doanh nghiệp
FDI cao hơn mức trung bình của các doanh nghiệp Việt Nam. Năm 2000: 135,69/103,36 triệu
đồng; năm 2009: 1.340,34/190,75 triệu đồng.
FDI đóng góp vào GDP liên tục tăng. Năm 1992: 2%, 2000: 12,7%, 2006: 16,98%; 2011:
18,97%; 2014: 20%. So với trung bình của thế giới, khu vực FDI đóng góp vào GDP của Việt
Nam cao hơn 9,4% .
Khu vực FDI nộp ngân sách tăng bình quân 24%/năm. Giai đoạn 2001-2005: 3,6 tỷ USD; 2006 2008: gần 5 tỷ USD, năm 2014 chiếm 20% tổng thu nội địa (không kể thu từ dầu thô và xuất
nhập khẩu).
Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI từ 27% (1995) tăng lên 47% (2000), 57,2% (2005) và tăng
lên 67% (2014). Trong 10 tháng năm 2014, tổng giá trị ngoại thương Việt Nam đạt 244,27 tỷ
USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 123,07 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu hàng
hóa đạt 121,2 tỷ USD, xuất siêu 1,87 tỷ USD, trong khi khu vực FDI xuất siêu 13,82 tỷ USD thì
khu vực trong nước nhập siêu 11,95 tỷ USD.
Khu vực FDI đã tạo việc làm cho khoảng 2,8 triệu lao động trực tiếp và nhiều lao động gián tiếp,
trong đó có hàng vạn cơng nhân lành nghề, kỹ sư và cán bộ quản lý có trình độ cao, góp phần
phát triển đội ngũ lao động cả về số lượng và chất lượng để thực hiện CNH, HĐH đất nước.
2. Quá trình chuyển đổi từ năm 2015 đến nay
* Năm 2015: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nan đạt kết quả ấn tượng: cả vốn
đăng ký và giải ngân đều tăng cao, ước đạt tương ứng 22,76 tỷ USD và 14,5 tỷ USD.
Theo số liệu được Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, tính đến ngày 15/12/2015, Việt Nam đã
thu hút được 2.013 dự án FDI mới, với tổng vốn đăng ký mới đạt 15,58 tỷ USD, tăng 26,8% về
số dự án và giảm 0,4% về số vốn so với cùng kỳ năm 2014.
Ngồi ra, cịn có 814 lượt dự án tăng vốn, với tổng vốn tăng thêm ước đạt 7,18 tỷ USD.
Tính chung năm 2015, tổng vốn FDI đăng ký mới và tăng thêm đạt 22,76 tỷ USD, tăng 12,5%
so với năm 2014. Con số 22,76 tỷ USD là con số ấn tượng nhất là trong bối cảnh những tháng
đầu năm 2015.Trong khi đó, thành tựu các ghi nhận, đó là năm 2015, vốn FDI thực hiện đã đạt
mức kỷ lục, ước tính đạt 14,5 tỷ USD, tăng 17,4% so với năm trước.



Số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút FDI
lớn nhất với số vốn đăng ký đạt 15,23 tỷ USD, chiếm 66,9% tổng vốn đăng ký.
Trong tổng vốn FDI đăng ký mới vào Việt Nam, ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt,
nước nóng, hơi nước và điều hịa khơng khí đạt 2,8 tỷ USD, chiếm 12,4%; ngành kinh doanh bất
động sản đạt gần 2,4 tỷ USD, chiếm 10,5%; các ngành còn lại đạt 2,3 tỷ USD, chiếm 10,2%.
Cả nước có 48 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngồi
được cấp phép mới trong năm 2015, trong đó TP.HCM dẫn đầu với số vốn đăng ký đạt trên 2,8
tỷ USD, chiếm 18% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Trà Vinh, với trên 2,52 tỷ USD,
chiếm 16,2%; Bình Dương 2,465 tỷ USD, chiếm 15,8%; Đồng Nai 1,47 tỷ USD, chiếm 9,4%...
Trong số 58 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp mới tại Việt Nam năm 2015, Hàn
Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 2,67 tỷ USD, chiếm 17,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến
là Malaysia, với 2,44 tỷ USD, chiếm 15,7%; Xa-moa 1,3 tỷ USD, chiếm 8,4%; Nhật Bản 1,28 tỷ
USD, chiếm 8,2%...

*Năm 2016: Vốn FDI vào Việt Nam là 20,9 tỷ USD, giảm 8%; nhưng vốn giải ngân 15,8 tỷ
USD, tăng 9% so với năm 2015, đạt giải ngân cao nhất từ trước đến nay.


Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, từ đầu năm đến thời điểm 26/12/2016, Việt Nam thu hút đầu tư
trực tiếp của nước ngoài (FDI) đạt 2.556 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 15,182 tỷ
USD, tăng 27% về số dự án và giảm 2,5% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015. Bên cạnh
đó, có 1.225 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn
tăng thêm đạt 5,765 tỷ USD, tăng 50,5% về số dự án và giảm 19,7% về vốn tăng thêm.
Trong năm 2016 có 2.547 doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngồi góp vốn
mua cổ phần (với tỷ lệ vốn lớn hơn 50% vốn điều lệ hoặc thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện) với
tổng vốn đầu tư là 3,425 tỷ USD.
Như vậy, tính chung tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới, cấp vốn bổ sung và đầu tư theo
hình thức góp vốn, mua cổ phần trong năm 2016 đạt 24,372 tỷ USD, tăng 7,1% so với năm

trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi thực hiện năm 2016 ước tính đạt 15,8 tỷ USD, tăng 9% so
với năm 2015, đạt mức giải ngân vốn FDI cao nhất từ trước đến nay.


Trong năm này, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất
với số vốn đăng ký của các dự án được cấp phép mới đạt 9,812 tỷ USD, chiếm 64,6% tổng vốn
đăng ký cấp mới. Tiếp đến là hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 1,522 tỷ USD, chiếm
10,1%. Ngành bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 367
triệu USD, chiếm 2,4%; các ngành còn lại đạt 3.480 triệu USD, chiếm 22,9%.


Cả nước có 51 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngồi được
cấp phép mới trong năm 2016, trong đó Hải Phịng có số vốn đăng ký lớn nhất với 2,464 tỷ USD,
chiếm 16,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai, TP. Hồ Chí
Minh, Bắc Giang, Hà Nam.
Trong số 68 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam năm nay,
Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 5.518,6 triệu USD, chiếm 36,3% tổng vốn đăng ký cấp mới;
tiếp đến là Singapore, Trung Quốc, Nhật Bản.
*Trong 6 tháng đầu năm 2017: Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tổng
vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đăng ký cấp mới,tăng thêm và góp vốn,mua cổ phần là 19,22 tỷ
USD tăng 54,8% so với cùng kỳ năm 2016.


Cụ thể, tính đến ngày 20/6/2017, cả nước có có 1.183 dự án mới được cấp Giấy chứng nhận đầu
tư với tổng vốn đăng ký 11,83 tỷ USD, tăng 57,9% so với cùng kỳ năm 2016. Bên cạnh đó có
549 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm 5,14 tỷ USD, tăng
35,8% so với cùng kỳ năm 2016. Ngồi ra cịn có 2.501 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu
tư nước ngồi với tổng giá trị góp vốn là 2,24 tỷ USD, tăng 97,6% so với cùng kỳ 2016.
Theo lĩnh vực đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành lĩnh vực, trong đó cơng
nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài

với tổng số vốn 9,48 tỷ USD, chiếm 49,3% tổng vốn đầu tư đăng ký. Đứng thứ hai là lĩnh vực
sản xuất, phân phối điện với tổng vốn đầu tư 5,25 tỷ USD; đứng thứ ba là lĩnh vực khai khoáng
với tổng vốn đầu tư đăng ký 1,28 tỷ USD.
Theo lĩnh vực đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành lĩnh vực, trong đó cơng
nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài
với tổng số vốn 9,48 tỷ USD, chiếm 49,3% tổng vốn đầu tư đăng ký. Đứng thứ hai là lĩnh vực
sản xuất, phân phối điện với tổng vốn đầu tư 5,25 tỷ USD; đứng thứ ba là lĩnh vực khai khoáng
với tổng vốn đầu tư đăng ký 1,28 tỷ USD.
Trong 6 tháng đầu năm, có 94 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Trong
đó, Nhật Bản hiện đang dẫn đầu với tổng vốn đầu tư 5,08 tỷ USD, chiếm 26,45% tổng vốn đầu
tư. Hàn Quốc đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng ký 4,95 tỷ USD; Singapore đứng vị trí thứ
ba với tổng vốn đầu tư đăng ký 3,48 tỷ USD.
Về hoạt động của khu vực FDI, Cục Đầu tư nước ngoài cho biết, trong 6 tháng đầu năm xuất
khẩu của khu vực này (kể cả dầu thô) đạt 70,81 tỷ USD, tăng 21% so với cùng kỳ năm 2016 và
chiếm 72,4% kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu không kể dầu thô đạt 69,25 tỷ USD, tăng 20,6%
so với cùng kỳ 2016 và chiếm 70,83% kim ngạch xuất khẩu.
Trong khi đó, nhập khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài đạt 60,59 tỷ USD, tăng 28,3% so với
cùng kỳ năm 2016 và chiếm 60,3% kim ngạch nhập khẩu.
Như vậy, trong 6 tháng năm 2017, khu vực đầu tư nước ngoài xuất siêu 10,22 tỷ USD kể cả dầu
thô và xuất siêu 8,66 tỷ USD không kể dầu thô. Tổng vốn FDI đạt trên 306 tỷ USD.


Với hoạt động thu hút FDI trong 6 tháng đầu năm như vậy, lũy kế đến ngày 20/6/2017, cả nước
có 23.594 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 306,3 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế ước đạt
162,57 tỷ USD, bằng 53% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực.
Tính đến tháng 6/2017, có 120 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư vào Việt Nam, trong đó
đứng đầu là Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký 54,5 tỷ USD (chiếm 17,7% tổng vốn đầu tư); Nhật
Bản đứng thứ hai với 46,19 tỷ USD (chiếm 15% tổng vốn đầu tư); tiếp theo lần lượt là
Singapore, Đài Loan, Quần đảo Virgin thuộc Anh và Hồng Kông.
Tuy vậy, theo các chuyên gia Market Intello, về cơ bản, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của Việt

Nam trong tháng 1/2017 vẫn nằm trong kỳ vọng. Do đó, Market Intello vẫn dự báo GDP của Việt
Nam năm 2017 tăng trưởng 6,3%. Đóng góp vào mức tăng trưởng GDP năm 2017, lĩnh vực nơng
nghiệp vẫn chiếm vị trí quan trọng nhưng khơng nhiều, khi mà công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
xu hướng sẽ có tăng trưởng tốt hơn.
Lạm phát năm nay có thể trong khoảng 4,3 – 4,5%. Lạm phát, với tác động của kỳ nghỉ tết
nguyên đán, có thể sẽ ở mức trên 5% trong quý I. Tuy nhiên, các chuyên gia Market Intello tin
tưởng rằng, chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước sẽ đóng vai trị quyết định chính đối với
việc kiểm sốt lạm phát dưới 4% năm 2017.
Mặt bằng lãi suất dự báo sẽ được giữ ở mức ngang với năm 2016; tăng trưởng tín dụng sẽ chỉ
duy trì ở mức 17 – 18% trong năm 2017 do nền kinh tế còn yếu.
Tỷ giá tăng khoảng 1,5-2%. Triển vọng kinh tế Mỹ tăng trưởng nhanh dưới thời tân tổng
thống cùng việc Fed nâng lãi suất 3 lần trong năm sẽ khiến đồng USD tăng giá so với đa số các
đồng tiền trên thế giới bao gồm Việt Nam đồng. Tuy nhiên, VND sẽ không bị mất giá đáng kể
nhờ cán cân thương mại tiếp tục cân bằng trong khi cán cân vốn đạt thặng dư và nguồn dự trữ
ngoại hối dồi dào.
Nhìn chung, những năm gần đây việc thu hút FDI vào Việt Nam có những chuyển biến tích
cực,lượng vốn thu hút vào Việt Nam ngày càng có chiều hướng tăng. Điều này cũng cho thấy
nước ta đang dần chiếm được lòng tin từ những đối tác nước ngoài.Đây cũng là bước đánh dấu
sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây.
* 6 điều khiến nhà đầu tư nước ngoài tin tưởng bỏ vốn đầu tư của mình vào Việt Nam


- Những Hiệp đinh thương mại tự do: Các FTAs sẽ nâng cao tầm vóc của kinh tế Việt Nam trước
những đối tác kinh doanh hàng đầu tại Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Á
- Chi phí lao động rẻ: Chi phí lao động của Việt Nam hiện nằm trong nhóm rẻ nhất ở châu Á.
- Lực lượng lao động tiềm năng: Việt Nam đang ở trong thời kỳ dân số vàng với 40% dân số nằm
dưới độ tuổi 25. Lực lượng lao động trẻ ở đây được đào tạo đẩy đủ, có sự am hiểu về cơng nghệ.
Đồng thời, tỷ lệ sử dụng điện thoại di động ở đấy cũng chiếm tới 26% dân số.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh: Việt Nam là một trong số những nền kinh tế tăng trưởng
nhanh nhất thế giới. Tốc độ tăng trưởng GDP dự đoán sẽ ở mức 6% - 7% trong suốt từ năm

2016 – 2018.
- Nền chính chị ổn định và cam kết phát triển kinh tế: Việt Nam có một mơi trưởng chính trị ổn
định, với một Chính phủ cam kết sẽ tạo ra một mơi trường kinh doanh công bằng, đủ sức thu hút
các nhà đầu tư nước ngoài.
- Những nổ lực phát triển cơ sở hạ tầng: Những cơng trình cơ sở hạ tầng quy mô lớn sẽ cần
những nguồn vốn lớn đầu tư vào. Năm 2016, giá trị đầu ra của ngành xây dựng cơ bản ở Việt
Nam đã tăng trưởng tới 10%.

III. GIẢI PHÁP ĐỂ TĂNG THU HÚT FDI VÀO VIỆT NAM
Trong giai đoạn mới 2016 - 2020, thu hút FDI vào Việt Nam đứng trước những thuận lợi và
khó khăn đan xen.
Các thuận lợi Việt Nam có được là: Nền kinh tế tiếp tục phát triển với khả năng tăng trường
GDP cao hơn, trên cơ sở các cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, giải phóng mạnh mẽ
lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực đất nước của Chính phủ đã và tiếp tục
được ban hành trong thời gian tới; Các bộ ngành, địa phương đang rất quyết tâm cải cách môi
trường kinh doanh thúc đẩy thu hút đầu tư. Việt Nam đã và đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế
giới, trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư, sẽ tác động tích cực mở ra nhiều cơ
hội phát triển kinh tế trong nước như: Hiệp định FTA với Hàn Quốc đã có hiệu lực; Cộng đồng


Kinh tế ASEAN - Việt Nam đã kết thúc đàm phàn FTA với EU, Hiệp định đối tác kinh tế xuyên
Thái Bình Dương...
Tuy nhiên, bên cạnh các cơ hội trên, các khó khăn, thách thức cũng đặt ra rất rõ như:
- Dòng vốn FDI của các đối tác lớn trong tồn cầu có xu hướng giảm.
-Cạnh tranh trong thu hút FDI ngày càng gay gắt giữa các quốc gia. Sức cạnh tranh của môi
trường đầu tư mỗi nước sẽ quyết định thành tựu thu hút đầu tư của nước đó.
Đối với Việt Nam, những khó khăn nội tại của nền kinh tế đã tồn tại nhiều năm vần cần tiếp
tục được khắc phục:
-Nguồn nhân lực cao đã qua đào tạo cịn thiếu.
- hiệu quả đầu tư khơng cao so với tiềm năng và thế mạnh của doanh nghiệp FDI.

- Cơ sở hạ tầng và dịch vụ còn yếu kém so nhiều nước trong khu vực.
- hầu hết các nhà đầu tư FDI vào nước ta là từ các nước châu Á, có cơngnghệ và kỹ thuật lạc
hậu, các nước Hoa Kỳ,Tây Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc có cơng nghệ tiên tiến, hiện đại lại chiếm tỷ
trọng nhỏ.
- Công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển, cịn có khoảng cách giữa chính sách và việc thực thi...
Để đáp ứng hơn nữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh hội nhập sâu vào nền kinh
tế thế giới; đặc biệt là để thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn FDI trong thời gian tới, Việt
Nam cần phải sớm thực hiện một số biện pháp sau:
Thứ nhất, tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách phù hợp với yêu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế đã cam kết, góp phần tạo mơi trường kinh doanh thuận lợi, để thu hút
nguồn lực của các thành phần kinh tế, cả trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Phát triển
đồng bộ và quản lý có hiệu quả các loại thị trường (bất động sản, vốn, dịch vụ, lao động, khoa
học công nghệ)...
Thứ hai, tiếp tục cải cách hành chính hơn nữa theo cơ chế một cửa trong giải quyết thủ tục
đầu tư. Xử lý kịp thời vướng mắc trong vấn đề cấp phép điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư.
Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ công chức nhằm dảm bảo thực hiện theo quy định tại Luật
Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý đầu tư FDI.


Thứ ba, tập trung các nguồn lực để đầu tư nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là giao
thông, cảng biển… nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong quá trình tiến hành
hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Hồn thiện mơi trường pháp lý, sớm đưa vào và thực thi Luật
Đầu tư và Luật Doanh nghiệp cùng với các luật và pháp lệnh có liên quan đến đầu tư, trong đó có
FDI. Mạnh dạn cắt bỏ những rào cản, “giấy phép con”, “điều kiện kinh doanh” không phù hợp
với thực tiễn hội nhập kinh tế, nhằm bảo đảm lợi ích cho các nhà đầu tư và lợi ích của quốc gia.
Phải đặt chiến lược đầu tư trọng điểm phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế -xã hội của quốc
gia, ngành và vùng lãnh thổ, tránh tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả. Thu hút FDI phải gắn
với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tham gia chuỗi giá trị quốc gia và thế giới, gắn với phát triển bền
vững.
Thứ tư, Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức làm

công tác thu hút và quản lý FDI từ Trung ương đến địa phương.

Thứ năm, Nhà nước cần đầu tư phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của các
doanh nghiệp. Đồng thời, tăng cường hoạt động kiểm tra giám sát đối với các doanh nghiệp có
vốn FDI nhằm đảm bảo sự công bằng cho các doanh nghiệp trong nước và giữ vững mối quan hệ
thân thiện với các nước đầu tư. Đặc biệt, cần tạo được một hành lang pháp lý thống nhất, đảm
bảo việc quản lý có hiệu quả đối với mọi thành phần doanh nghiệp...


TÀI LIỆU THAM KHẢO
/> /> /> /> /> />


×