Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Bình luận vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại vô hiệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.89 KB, 14 trang )

Bình luận vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại vô hiệu

I. Khái quát chung về hợp đồng thương mại vô hiệu.
1. Khái niệm:
• Khái niệm hợp đồng thương mại được hiểu dựa trên khái niệm hợp
đồng được quy định tại Điều 388 Bộ luật dân sự như sau: “Hợp đồng thương
mại là sự thỏa thuận giữa các thương nhân với nhau hoặc với người có liên
quan về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt nghĩa vụ của các bên trong hoạt
động thương mại”. Ngoài sự điều chỉnh của Luật thương mại, hợp đồng
thương mại còn chịu sự điều chỉnh của Bộ Luật dân sự 2005
• Thuật ngữ “hợp đồng thương mại vô hiệu” hiện nay được sử dụng một
cách phổ biến. Tuy nhiên, cũng như thuật ngữ “hợp đồng thương mại”, hiện
nay chưa có một tài liệu nào đưa ra khái niệm chính thức về hợp đồng thương
mại vô hiệu. Để nhận biết hợp đồng thương mại vô hiệu cần phải đặt chúng
trong mối tương quan với hợp đồng vô hiệu nói chung. Vô hiệu được hiểu là
không có hiệu lực, như vậy, hợp đồng thương mại vô hiệu có thể được hiểu là
hợp đồng thương mại không có giá trị pháp lý, không có giá trị ràng buộc
thực hiện đối với các chủ thể của hợp đồng. Hợp đồng thương mại vô hiệu là
những hợp đồng thương mại chứa đựng các yếu tố gây vô hiệu như giả tạo,
nhầm lần, lừa dối, đe dọa… dẫn tới không đảm bảo một hoặc một số các điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng thương mại. Thời điểm xác định sự vô hiệu của
hợp đồng thương mại được tính từ thời điểm hợp đồng được xác lập. Hợp
đồng đã ký kết không có giá trị thực hiện kể từ khi hợp đồng bị tuyên bố vô
hiệu, trường hợp hợp đồng đã và đang được thực hiện thì việc thực hiện hợp
đồng sẽ bị chấm dứt.
• Hợp đồng thương mại vô hiệu hoàn toàn khác với hợp đồng thương
mại mất hiệu lực hoặc hợp đồng thương mại chấm dứt hiệu lực. Điểm khác
biệt cơ bản giữa các loại hợp đồng này chính là thời điểm không có hiệu lực
của hợp đồng. Đối với hợp đồng thương mại mất hiệu lực, cần phải nhấn
mạnh rằng hợp đồng thương mại đó đã có hiệu lực trên thực tế, song vì lý do
khách quan mà nó mất đi hiệu lực của mình. Với hợp đồng thương mại chấm


dứt hiệu lực cũng vậy, đó là hợp đồng đã có hiệu lực nhưng trong quá trình
thực hiện các bên đã thỏa thuận không tiếp tục thực hiện hợp đồng nữa. Trái
với hợp đồng thương mại mất hiệu lực, chấm dứt hiệu lực, hợp đồng thương
mại vô hiệu về mặt lý thuyết là hợp đồng thương mại không có hiệu lực ngay
từ khi ký kết, kể cả trường hợp các bên chủ thể thừa nhận về viêc kí kết hợp
đồng.
Hợp đồng thương mại vô hiệu không có giá trị pháp lý, do đó dẫn tới các
hậu quả pháp lý sau:
1


Bình luận vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại vô hiệu

Thứ nhất, hợp đồng thương mại vô hiệu sẽ không làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ giữa các chủ thể ký kết hợp đồng kể từ thời điểm hợp đồng được xác
lập. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, hợp đồng thương mại chỉ có một
hoặc một số điều khoản bị vô hiệu mà các điều khoản này hoàn toàn độc lập
với những điều khoản còn lại thì các bên trong hợp đồng vẫn có quyền và
nghĩa vụ phát sinh từ phần hợp đồng có hiệu lực.
Thứ hai, khi hợp đồng thương mại vô hiệu, các bên phải “hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận” – đây cũng là nguyên tắc xử lý hợp đồng vô hiệu nói
chung và hợp đồng thương mại vô hiệu nói riêng. Bên cạnh việc khôi phục lại
tình trạng như trước khi kí kết hợp đồng, các bên phải bồi thường thiệt hại
nếu có đầy đủ căn cứ theo quy định của pháp luật đối với thiệt hại thực tế xảy
ra.
2. Phân loại hợp đồng thương mại vô hiệu
HĐTM vô hiệu ở Việt Nam cũng được phân loại như đối với hợp đồng
dân sự vô hiệu, tức là phân loại dựa trên nguyên nhân dẫn tới HĐTM bị vô
hiệu và căn cứ vào mức độ vô hiệu của HĐTM.
• Dựa vào nguyên nhân dẫn đến HĐTM vô hiệu, HĐTM vô hiệu bao

gồm: HĐTM vô hiệu do giả tạo, do nhầm lẫn, do lừa dối, do đe dọa, do có nội
dung trái với quy định của pháp luật, trái đạo đức xã hội; do có nội dung trái
với các quy định của pháp luật, trái với đạo đức xã hội; do chủ thể hợp đồng
không có năng lực chủ thể. Đây là cách phân loại được sử dụng để phân loại
giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại Bộ luật dân sự 2005 và cũng là cách
phân loại áp dụng cho HĐTM vô hiệu, theo đó có thể hiểu:
- HĐTM vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật là HĐTM có nội
dung hoặc mục đích vi phạm điều cấm của pháp luật, trái với đạo đức xã hội;
- HĐTM vô hiệu do giả tạo là HĐTM được các bên tạo lập nhằm che dấu
một hợp đồng khác;
- HĐTM vô hiệu do nhầm lẫn là HĐTM được tạo lập do một bên có lỗi
vô ý khiến bên kia hiểu lầm về nội dung của hợp đồng dẫn tới kí kết hợp
đồng;
- HĐTM vô hiệu do lừa dối là HĐTM được tạo lập khi một bên chủ thể
hoặc người thứ ba cố ý đưa ra thông tin sai lệch (lừa dối) về chủ thể, đối
tượng, nội dung hợp đồng để bên tham gia kí kết;
- HĐTM vô hiệu do đe dọa là HĐTM được tạo lập do một bên có hành
vi cố ý ép buộc bên kia tham gia hợp đồng nhằm tránh thiệt hại về tính mạng,
sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của họ hoặc người thân của họ;

2


Bình luận vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại vô hiệu

- HĐTM vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là HĐTM
thuộc nhóm hợp đồng mà pháp luật bắt buộc phải được kí kết dưới dạng văn
bản nhưng không tuân thủ quy định này.
• Dựa vào mức độ vô hiệu của HĐTM có thể chia HĐTM vô hiệu
thành HĐTM vô hiệu toàn bộ và HĐTM vô hiệu một phần:

- HĐTM vô hiệu toàn bộ là HĐTM vi phạm điều kiện có hiệu lực.
HĐTM vô hiệu toàn bộ hoàn toàn không có giá trị bắt buộc thực hiện với các
bên. HĐTM vô hiệu toàn bộ có thể là một trong các trường hợp: HĐTM vô
hiệu do giả tạo, vô hiệu do nhầm lẫn, hợp đồng thương mại vô hiệu do vi
phạm điều cấm của pháp luật….
- HĐTM vô hiệu một phần là HĐTM có một phần vô hiệu và phần này
tồn tại độc lập với phần còn lại của hợp đồng. Đối với hợp đồng vô hiệu một
phần, chỉ có phần vô hiệu không có giá trị bắt buộc thực hiện, phần còn lại
của hợp đồng vẫn phải thực hiện như với các hợp đồng thương mại có hiệu
lực khác.
Cách phân loại này không có căn cứ nguyên nhân dẫn tới sự vô hiệu của
hợp đồng mà chỉ dựa trên mức độ vô hiệu và khả năng khắc phục các khiếm
khuyết của hợp đồng, từ đó có các hình thức xử lý HĐTM vô hiệu phù hợp.
• Ngoài ra pháp luật một số nước còn có HĐTM vô hiệu khác.Ví dụ,
HĐTM vô hiệu được phân loại dựa vào tính trái pháp luật dẫn tới hợp đồng bị
vô hiệu.Theo đó, có thể chia HĐTM vô hiệu ra hai loại là HĐTM vô hiệu
tuyệt đối (đương nhiên vô hiệu) và HĐTM vô hiệu tương đối (vô hiệu có điều
kiện). Trong đó:
- HĐTM vô hiệu tương đối là HĐTM có những khiếm khuyết về sự
thống nhất, ý chí của các chủ thể hoặc xâm hại đến lợi ích của cá nhân và bị
tòa án tuyên vô hiệu theo yêu cầu của cá nhân có lợi ích liên quan. Nguyên
nhân dẫn đến HĐTM vô hiệu tương đối có thể do có sự nhầm lẫn, lừa dối
hoặc đe dọa khi giao kết hợp đồng.
- HĐTM vô hiệu tuyệt đối là HĐTM có nội dung trái với các quy định
của pháp luật, xâm hại tới lợi ích công cộng. Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối có
thế bị tuyên vô hiệu theo yêu cầu của cá nhân có lợi ích liên quan hoặc yêu
cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
HĐTM vô hiệu tuyệt đối bao gồm HĐTM vô hiệu do giả tạo, do trái quy
định của pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Việc phân loại HĐTM vô hiệu thành HĐTM vô hiệu tuyệt đối và HĐTM

vô hiệu tương đối là dựa trên lợi ích mà HĐTM khi có hiệu lực có thể xâm
hại tới và mức độ can thiệp của nhà nước vào quan hệ hợp đồng đó. Đối với
3


Bình luận vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại vô hiệu

HĐTM vô hiệu tuyệt đối, lợi ích có thể xâm hại là lợi ích chung của toàn xã
hội do chủ thể có quyền yêu cầu tuyên hợp đồng vô hiệu được mở rộng hơn,
bao gồm cả cá nhân có thẩm quyền. Như vậy, đối với loại hợp đồng này, Nhà
nước có thể tự động can thiệp sâu vào các thỏa thuận tự nguyện của các cá
nhân. Ngược lại, HĐTM vô hiệu tương đối xâm hại tới lợi ích của cá nhân cụ
thể, do đó chỉ những người có lợi ích liên quan mới có quyền yêu cầu tuyên
hợp đồng vô hiệu. Nhà nước chỉ có thể can thiệp vào quan hệ hợp đồng dựa
trên cơ sở yêu cầu của cá nhân có quyền đươc pháp luật bảo vệ.

4


Bình luận vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại vô hiệu

3. Các quy định của pháp luật về HĐTM vô hiệu:
3.1 Các quy định về điều kiện có hiệu lực của HĐTM: Ở Viêt Nam hiện
chưa có quy định cụ thể về điều kiện có hiệu lực của HĐTM nhưng do
HĐTM được coi là một dạng của hợp đồng dân sự nên nó có hiệu lực khi thỏa
mãn các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, bao gồm các điều kiện:
- Chủ thể tham gia giao kết phải có năng lực chủ thể
- Mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội
- Chủ thể tham gia giao kết hoàn toàn tự nguyện

- Hình thức hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp luật.
3.2. Các trường hợp HĐTM vô hiệu:
- Vô hiệu do nội dung, mục đích của hợp đồng vi phạm điều cấm của
pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội: Nội dung và mục đích của hợp đồng
thương mại không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái với đạo đức xã
hội là một trong những điều kiện để hợp đồng có giá trị pháp lý.
- Vô hiệu do một bên giao kết hợp đồng không có năng lực chủ thể theo
quy định của pháp luật: Năng lực chủ thể của các bên kí kết hợp đồng là điều
kiện tiên quyết để HĐTM có giá trị pháp lý.Chủ thế tha gia kí kết HĐTM hầu
hết là thương nhân, tức là phải thỏa mãn điều kiện về đăng ký kinh doanh.
- Vô hiệu do người đại diện kí kết không đúng thẩm quyền: Đây là một
trong hai trường hợp của HĐTM vô hiệu do chủ thể không đủ năng lực pháp
lý. Người đại diện kí kết không đúng thẩm quyền được hiểu là người đại diện
kí kết không phải là người đại diên theo pháp luật mà không có sự ủy quyền
của người đại diện theo pháp luật hoặc được hiểu là người đại diện theo ủy
quyền song việc ký kết hợp đồng là nằm ngoài phạm vi được ủy quyền. Tuy
nhiên không phải bất kỳ trường hợp nào hợp đồng đã ký đều bị tuyên vô hiệu
mà còn tùy thuộc vào thái độ thừa nhận hay không thừa nhận của các bên đối
với hợp đồng đã kí khi phát hiện ra người tham giam kí kết hợp đồng không
đủ thẩm quyền để kí kết. HĐTM không bị coi là vô hiệu toàn bộ nếu người kí
kết hợp đồng không đúng thẩm quyền nhưng trong quá trình thực hiện hợp
đồng, người có thẩm quyền đương nhiên kí kết HĐTM đó chấp thuận tức là
người đó đã biết hoặc phải biết HĐTM đã được kí kết mà không phản đối.
- Vô hiệu do vi phạm nguyên tắc tự nguyện: HĐTM vô hiệu do vi phạm
nguyên tắc tự nguyện bao gồm các trường hợp: HĐTM vô hiệu do lừa dối.
HĐTM vô hiệu do nhầm lẫn, HĐTM vô hiệu do đe dọa.
- HĐTM vô hiệu do vi phạm hình thức hợp đồng: HĐTM vô hiệu do vi
phạm các quy định pháp luật về hình thức của hợp đồng cũng là một trong
5



Bình luận vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại vô hiệu

những trường hợp vô hiệu thường gặp. Tuy nhiên, hiện nay do áp dụng song
song các quy định của Bộ luật dân sự và Luật Thương mại nên việc xác định
hợp đồng vô hiệu do vi phạm hình thức hợp đồng gặp phải nhiều khó khăn.
Áp dụng các qui định của Bộ luật Dân sự 2005, HĐTM có thể được kí
kết dưới hình thức lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể; hợp đồng không bị vô
hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật quy
định khác (Khoản 2, Điều 401, Bộ luật Dân sự 2005). Trong khi đó Luật
Thương mại 2005 quy định với một số loại HĐTM bắt buộc phải được giao
kết dưới dạng văn bản song lại không quy định rõ hình thức của hợp đồng
cũng là điều kiện có hiệu lực của HĐTM.
- HĐTM vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được: Theo quy
định tại điều 411 Bộ luật dân sự, HĐTM có đối tượng vì lý do khách quan
không thể thực hiện được ngay từ khi kí kết thì vô hiệu. Khi giao kết hợp
đồng, nếu một bên biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện
được mà không thông báo cho bên kia biết dẫn tới việc bên kia đã giao kết
hợp đồng thì có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên
kia đã biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện
được

6


Bình luận vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại vô hiệu

4. Nguyên tắc xử lý hợp đồng thương mại vô hiệu:
Hợp đồng thương mại vô hiệu dẫn tới hậu quả pháp lý là các quyền và
nghĩa vụ các bên thỏa thuận không được phát sinh kể từ thời điểm xác lập hợp

đồng. Trong một số trường hợp, hợp đồng thương mại vô hiệu đã được một
trong hai bên thực hiện trên thực tế. Như vậy, khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu,
nhất thiết phải có phương thức khôi phục lại quyền lợi của các bên đã bị việc
thực hiện hợp đồng xâm hại.
Khi xử lý hợp đồng thương mại vô hiệu, cần phải chú ý một số nguyên
tắc sau:
- Nếu nội dung công việc trong hợp đồng chưa được thực hiện thì các
bên không được phép thực hiện;
- Nếu nội dung công việc trong hợp đồng đã được thực hiện một phần thì
các bên phải chấm dứt việc tiếp tục thực hiện và bị xử lý về tài sản;
- Nếu nội dung công việc trong hợp đồng đã được thực hiện xong thì các
bên bị xử lý tài sản.
Khi thực hiện xử lý hợp đồng thương mại vô hiệu cần phải giải quyết các
vấn đề sau:
- Thứ nhất, tuyên bố hợp đồng thương mại vô hiệu;
- Thứ hai, xác định hợp đồng vô hiệu một phần hay vô hiệu toàn bộ;
- Thứ ba, chấm dứt thực hiện hợp đồng;
- Thứ tư, xử lý tài sản liên quan tới thực hiện HĐTM vô hiệu.

7


Bình luận vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại vô hiệu

II. Bình luận quy định của pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu.
1. Những điểm tích cực của pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu
Thực hiện chủ trương của Đảng, tại kỳ họp thứ 7, ngày 14/6/2005 Quốc
hội khóa XI đã thông qua Bộ luật Dân sự năm 2005 thay thế Bộ luật dân sự
1995. Bộ luật Dân sự năm 2005 được coi là gốc của ngành luật tư. Chính vì
vậy khi Bộ luật dân sự 2005 có hiệu lực đã thay thế Pháp lệnh hợp đồng kinh

tế và việc xem xét hợp đồng vô hiệu đã quy định thành các trường hợp cụ thể
cũng giống như pháp luật của nhiều nước trên thế giới.
Các trường hợp vô hiệu của hợp đồng quy định trong Bộ luật dân sự
2005 tuy không có quy định trực tiếp hai trường hợp: Hợp đồng vô hiệu do
người kí hợp đồng không đúng thẩm quyền và hợp đồng vô hiệu do không có
đăng kí kinh doanh để thực hiện công việc không có thỏa thuận trong hợp
đồng, nhưng pháp luật hiện hành có cách hiểu và cách giải thích từng trường
hợp vô hiệu của hợp đồng, có cách nhìn nhận và đánh giá về năng lực chủ thể,
về sự nhầm lẫn, lừa dối… để kết luận hiệu lực của hợp đồng thương mại. Dẫn
đến khi hợp đồng tranh chấp rơi vào hai trường hợp: người kí kết hợp đồng
không đúng thẩm quyền và chủ thể không đăng kí kinh doanh sẽ không có
khung pháp lý cụ thể ràng buộc. Vì vậy, Tòa án phải căn cứ và tổng hợp nhiều
yếu tố: nguyên nhân gây tranh chấp, lỗi… để phán quyết chính xác. Nếu hợp
đồng bị tuyên bố vô hiệu rơi vào hai trường hợp trên thì cũng là hợp đồng vô
hiệu tương đối, và theo cách giải thích luật hiện hành thì có thể khôi phục lại
hiệu lực của hợp đồng. Đây là một điểm tiến bộ của pháp luật hiện hành, vì
trong trường hợp này hợp đồng được giao kết để phục vụ mục đích kinh
doanh của các bên chủ thể, và khi có thiệt hại xảy ra chính các bên giao kết
phải gánh chịu nên không có lý do gì lại buộc họ phải giải quyết cứng nhắc
theo luật để dẫn đến thiệt hại nhiều hơn, nghiêm trọng hơn1.
Trước đây có sự phân biệt hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế giữa Bộ
luật dân sự với Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, hợp đồng trong Luật
thương mại 1997, nên dẫn đến có nhiều vướng mắc khi áp dụng để giải quyết
trong thực tiễn. Bộ luật dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản nhất, chung
nhất về hợp đồng, nghĩa vụ dân sự, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ… Phần quy định chung về hợp động được quy định trong Luật thương mại
1997 cũng đã không còn nữa và khi xây dựng Luật thương mại 2005 đã
không đưa vào thành quy định chung về hợp đồng. Việc này có ý nghĩa hết
sức quan trọng trong việc bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống
1


/>
8


Bình luận vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại vô hiệu

pháp luật, nhất là trong mối quan hệ giữa Bộ luật dân sự với luật chuyên
ngành tương ứng một cách hiệu quả, thuận lợi2.
Ngoài ra, những quy định về hợp đồng dân sự nói chung, hợp đồng
thương mại nói riêng vô hiệu trong Bộ luật dân sự 2005 đã được xây dựng với
các điều luật rõ ràng và minh bạch hơn so với Bộ luật dân sự 1995 về hợp
đồng vô hiệu, ví dụ như pháp luật hiện hành đã định nghĩa rõ thế nào là điều
cấm của pháp luật, đạo đức xã hội là gì… đây là những vấn đề luật cũ bỏ qua.
Tóm lại, những quy định của luật hiện hành là những quy định mở và
nhất quán giữa những quy định chung và riêng nên tránh được tình trạng
chồng chéo luật, từ đó Tòa án hay Trọng tài thương mại có thể linh hoạt xét
xử đúng luật phù hợp với thực tiễn và hạn chế thiệt hại. Tránh được tình trạng
mỗi cấp khác nhau thì xử rất khác nhau thậm chí trái ngược nhau mà vẫn
đúng luật.
2. Vướng mắc quy định của pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu
Qua thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh vấn đề hợp đồng
thương mại vô hiệu, có thể thấy quy định hiện hành về hợp đồng vô hiệu chưa thể
bao quát được các trường hợp về hợp đồng thương mại vô hiệu. Điều này xuất
phát từ việc quan hệ hợp đồng thương mại có những đặc thù về chủ thể và nội
dung giao kết. Những vướng mắc có thể kể đến như sau:
Thứ nhất, về năng lực chủ thể của hợp đồng thương mại.
Điều 122 Bộ luật dân sự quy định một trong những điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng là: “người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự”. Từ quy định
này, sẽ rất khó để xác định điều kiện năng lực chủ thể của thương nhân trong hoạt

động thương mại. Cụ thể, vướng mắc sẽ xảy ra nếu một trong các bên của hợp
đồng không có đăng ký kinh doanh hoặc kinh doanh không đúng ngành nghề đã
đăng ký thì hợp đồng có bị coi là vô hiệu không? Để giải quyết vấn đề này, pháp
luật hiện hành cụ thể là Bộ luật dân sự chỉ dự liệu năng lực hành vi đối với pháp
nhân nói chung, do đó xét từ năng lực chủ thể của hợp đồng thì phạm vi giao kết
hợp đồng của thương nhân không bị hạn chế. Vì vậy không có cơ sở để tuyên bố
hợp đồng trong trường hợp này là vô hiệu.
Tuy nhiên, nếu áp dụng cách quy định của Bộ luật dân sự như trên thì sẽ
mâu thuẫn với Luật doanh nghiệp Việt Nam vì Điều 9 Luật này quy định: “doanh
nghiệp có nghĩa vụ hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh”. Theo đó, trường hợp thương nhân tham gia hợp
đồng nhưng không có đăng ký kinh doanh hay kinh doanh không đúng ngành nghề
được ghi trong giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh là vi phạm quy định của pháp
luật doanh nghiệp, do đó hợp đồng do chủ thể này kí kết cần xác định là hợp đồng
2

/>
9


Bình luận vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại vô hiệu

vô hiệu do không đáp ứng yêu cầu về năng lực chủ thể, cụ thể là kinh doanh không
đúng mục đích, giấy phép kinh doanh.
Có thể thấy, trước ngày 01/01/2006 thì việc xử lý hợp đồng thương mại vô
hiệu được Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 quy định và điều chỉnh chi tiết về
vấn đề này, cụ thể: Điều 8 Pháp lệnh quy định những hợp đồng bị coi là vô hiệu
toàn bộ khi: “…một trong các bên kí kết hợp đồng không có đăng kí kinh doanh
theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thỏa thuận trong hợp đồng”.
Như vậy, nếu căn cứ quy định trên thì vướng mắc đã có thể giải quyết. Tuy nhiên

Pháp lệnh hợp đồng kinh tế nay đã hết hiệu lực và không sử dụng căn cứ trên đây
để tuyên bố hợp đồng thương mại vô hiệu. Việc tuyên bố hợp đồng thương mại vô
hiệu do căn cứ Bộ luật dân sự ra đời sau này đã khiến vấn đề này trở thành vướng
mắc khó có thể giải quyết. Lý do từ việc Bộ luật dân sự chưa tiên liệu được đặc thù
của tổ chức là thương nhân kinh doanh, đó là những đặc trưng nhất định phụ thuộc
ngành nghề mà pháp nhân đó tiến hành kinh doanh.
Tất nhiên, có ý kiến cho rằng có thể giải quyết vướng mắc này bằng việc
tuyên hợp đồng thương mại vô hiệu do có nội dung vi phạm điều cấm của pháp
luật. Cụ thể, Điều 9 Luật Doanh nghiệp có thể được hiểu là không cho phép doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh vượt ra ngoài phạm vi ngành nghề đã đăng kí và hợp
đồng thương mại kí kết trong hợp đồng. Do đó, hợp đồng thương mại được kí
trong trường hợp một bên chủ thể không đăng kí kinh doanh hay kinh doanh
không đúng ngành nghề sẽ thuộc vào trường hợp vô hiệu do vi phạm điều cấm của
pháp luật cụ thể tại Điều 128 Bộ luật dân sự 2005. Tuy nhiên, quan điểm này cũng
gặp phải vướng mắc khi vận dụng. Bởi vì pháp luật hiện hành chỉ quy định doanh
nghiệp có nghĩa vụ hoạt động kinh doanh theo đúng ngành nghề đã đăng kí mà
không có quy định “cấm” doanh nghiệp kinh doanh những ngành nghề chưa đăng
kí kinh doanh. Cho nên nhiều ý kiến cho rằng vi phạm nghĩa vụ trong hoạt động
kinh doanh không đồng nghĩa với việc thực hiện điều cấm của pháp luật.
Từ những phân tích trên đây có thể thấy rằng các hợp đồng thương mại
được kí kết không phù hợp với nội dung đăng kí kinh doanh hay nói cách khác là
không phù hợp điều kiện năng lực chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng thương mại
trên thực tế sẽ gặp phải nhiều quan điểm xử lý khác nhau nếu căn cứ quy định
pháp luật hiện hành về hợp đồng vô hiệu.
Thứ hai, về hình thức hợp đồng thương mại.
Hợp dồng thương mại vô hiệu do vi phạm các quy định của pháp luật về
hình thức của hợp đồng cũng là trường hợp vô hiệu thường gặp. Tuy nhiên, hiện
nay do áp dụng song song các quy định của Bộ luật dân sự và Luật Thương mại
nên việc xác định hợp đồng vô hiệu gặp phải nhiều khó khăn.
10



Bình luận vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại vô hiệu

Bởi vì, áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, hợp đồng
thương mại có thể được kí kết dưới hình thức lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể;
hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác (khoản 2 Điều 401 Bộ luật dân sự năm 2005).
Trong khi đó, Luật thương mại 2005 quy định với một số loại hợp đồng thương
mại bắt buộc phải giao kết dưới dạng văn bản song lại không quy định rõ hình thức
của hợp đồng cũng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thương mại. Vì vậy, hiện
nay có hai quan điểm của hợp đồng vi phạm quy định về hình thức của Luật
thương mại như sau:
- Quan điểm thứ nhất: hợp đồng không kí bằng văn bản nếu pháp luật pháp
luật quy định phải kí bằng văn bản sẽ vô hiệu do Luật thương mại là luật chuyên
ngành, nếu là quan hệ hợp đồng do Luật thương mại điều chỉnh thì phải tuân theo
quy định của Luật thương mại; pháp luật quy định phải kí kết bằng văn bản, nếu
không được kí kết bằng văn bản thì hợp đồng vô hiệu.
- Quan điểm thức hai: hợp đồng thương mại không vô hiệu do Luật Thương
mại không quy định cụ thể hình thức của hợp đồng là văn bản là điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng. Do đó, việc kí kết bằng hình thức khác vẫn phù hợp với nguyên
tắc “được làm những gì không cầm” của Bộ luật dân sự.
Thứ ba, quy định về việc phân loại hợp đồng vô hiệu.
Do có sự khác biệt giữa xử lý hợp đồng thương mại vô hiệu một phần và vô
hiệu toàn phần, nên việc xác định rõ hợp đồng vô hiệu theo loại nào là rất quan
trọng. Thông thường, nếu hợp đồng thương mại bao gồm hợp đồng chính và hợp
đồng phụ, khi hợp đồng chính vô hiệu thì hợp đồng phụ cũng sẽ vô hiệu. Hợp đồng
có nhiều điều khoản tồn tại độc lập với nhau, điều khoản nào không đủ điều kiện
có hiệu lực nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của các điều khoản còn lại thì
điều khoản đó vô hiệu, tức hợp đồng vô hiệu một phần. Tuy nhiên, đối với các điều

khoản chủ yếu của hợp đồng, nếu không đảm bảo được điều kiện có hiệu lực thì
không chỉ điều khoản đó vô hiệu mà toàn bộ hợp đồng cũng sẽ vô hiệu. Mặc dù
các nhà khoa học pháp lý vẫn thừa nhận cách phân loại hợp đồng thương mại vô
hiệu dựa vào tính chát trái pháp luật của hợp đồng vô hiệu, song pháp luật Việt
Nam hiện chưa có quy định về cách phân loại này.
Thứ tư, về xử lý hậu quả của hợp đồng thương mại vô hiệu.
Hiện nay theo quy định của Bộ luật dân sự, thì người đại diện kí kết trái
thẩm quyền phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ (hoặc phần nghĩa vụ vượt quá) phát
sinh từ hợp đồng mà họ kí kết. Quy định này trong hợp đồng dân sự thông thường
thì được xem là hợp lý, tuy nhiên trong hợp đồng thương mại thì trở thành vướng
mắc khó giải quyết. Bởi vì quan hệ hợp đồng thương mại có đặc thù là nghĩa vụ
11


Bình luận vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại vô hiệu

phát sinh từ hợp đồng thương mại thường lớn hơn nhiều so với hợp đồng dân sự
thông thường và trong nhiều trường hợp nghĩa vụ chỉ có thể thực hiện bởi thương
nhân. Do đó, nếu quy định bắt buộc cá nhân kí kết sai thẩm quyền thực hiện những
nghĩa vụ này trong nhiều trường hợp là không khả thi dẫn đến việc gây khó khăn
khi áp dụng.
3. Phương hướng giải quyết của nhóm:
Thứ nhất, về năng lực chủ thể của hợp đồng thương mại.
Hiện nay, việc áp dụng Nghị quyết 04 để xác định hợp đồng thương mại có
vô hiệu hay không đối với trường hợp 1 trong hoàn cảnh Pháp lệnh hợp đồng kinh
tế đã hết hiệu lực là không hợp lý. Tuy nhiên, các quy định của Nghị quyết 04 đối
với trường hợp này là khá hợp lý trong việc giải quyết vướng mắc nêu trên. Do
vậy, theo ý kiến của nhóm, cần có văn bản mới hướng dẫn về cụ thể về vấn đề này
(Nghị quyết 04 đã hết hiệu lực). Ngoài ra, các quy định về năng lực chủ thể khi
tham gia giao kết hợp đồng thương mại cũng cần được quy định chi tiết, rõ ràng

hơn, do trong hợp đồng thương mại việc xác định chủ thể có đầy đủ năng lực chủ
thể hay không khó khăn hơn so với trong hợp đồng dân sự. Bên cạnh đó, cũng cần
xác định rõ ràng xem hợp đồng được ký kết bởi các bên là cá nhân hoạt động
thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng kí kinh doanh có
được coi là hợp đồng thương mại hay không? Hơn nữa, cũng cần có quy định cụ
thể về điều kiện ngành nghề kinh doanh của các bên ký kết hợp đồng, qua đó tránh
các trường hợp ngành nghề kinh doanh của chủ thể ký kết không phù hợp với nội
dung công việc thỏa thuận trong hợp đồng.
Thứ hai, về điều kiện hình thức của hợp đồng thương mại.
Theo ý kiến của nhóm, nếu Luật Thương mại quy định “bắt buộc” phải ký
kết bằng văn bản thì hợp đồng phải được giao kết dưới hình thức văn bản. Như
vậy, để khắc phục tình trạng có 2 quan điểm đưa ra về cùng 1 vấn đề như trên và
tránh sự thiếu thống nhất giữa Luật Thương mại và Bộ luật dân sự, thì cần đưa quy
định cụ thể về việc có coi vi phạm về hình thức văn bản của hợp đồng thương mại
là một trong những trường hợp hợp đồng vô hiệu hay không. Trong trường hợp coi
vi phạm hình thức là một trong những trường hợp hợp đồng vô hiệu thì cần đưa
hình thức văn bản trở thành một trong những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
Trong trường hợp không coi vi phạm hình thức dẫn tới hợp đồng vô hiệu thì cần có
hướng dẫn cụ thể về hướng, thời hạn khắc phục khiếm khuyết về hình thức của
những hợp đồng này.
Thứ ba, về việc phân loại hợp đồng vô hiệu.
Theo ý kiến của nhóm cần có quy định cụ thể về phân loại hợp đồng thương
mại vô hiệu. Bởi việc phân loại này sẽ giúp đưa ra được phương thức xử lý thích
12


Bình luận vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại vô hiệu

đáng đối với từng loại hợp đồng thương mại vô hiệu. Từ đó, có thể đặt ra thời hiệu
yêu cầu tuyên bố hợp đồng thương mại vô hiệu; mở rộng đối tượng được quyền

yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu...
Thứ tư, về xử lý hậu quả của hợp đồng thương mại vô hiệu.
Như đã phân tích ở trên, có thể thấy việc bắt buộc cá nhân kí kết sai thẩm
quyền thực hiện những nghĩa vụ với người đã giao dịch với mình trong nhiều
trường hợp là không khả thi dẫn đến việc gây khó khăn khi áp dụng. Do đó, theo
nhóm thì nên sửa đổi Bộ luật dân sự theo hướng chỉ áp dụng biện pháp xử lý hậu
quả đối với các hợp đồng dân sự thông thường.

MỤC LỤC

I. Khái quát chung về hợp đồng thương mại vô hiệu.
1. Khái niệm………………………………………………………………....1
2. Phân loại hợp đồng thương mại vô hiệu…………………………...............2
3. Các quy định của pháp luật về HĐTM vô hiệu……………………………4
4. Nguyên tắc xử lý hợp đồng thương mại vô hiệu………………………...5
II. Bình luận quy định của pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu
1. Những điểm tích cực của pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu…6
2. Vướng mắc quy định của pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu…8
13


Bình luận vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại vô hiệu

3. Phương hướng giải quyết của nhóm…………………………………….10

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

14




×