Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

LUẬN văn sư PHẠM NGỮ văn dấu ấn văn hóa NHẬT bản TRONG tác PHẨM SHOGUN – TƯỚNG QUÂN của JAMES CLAVEL

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (811.36 KB, 94 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM

BỘ MÔN NGỮ VĂN

NGUYỄN HỒI THANH

DẤU ẤN VĂN HĨA NHẬT BẢN
TRONG TÁC PHẨM SHOGUN – TƯỚNG QUÂN
CỦA JAMES CLAVELL
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Sư phạm Ngữ Văn

Cán bộ hướng dẫn:

NGUYỄN THỊ HỒNG HẠNH

Cần Thơ, 4 - 2011


ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG MỘT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Vài nét về tác giả, tác phẩm


1.1. Tác giả James Clavell
1.1.1. Cuộc đời
1.1.2. Sự nghiệp
1.2. Tác phẩm Shogun – Tướng quân
1.2.1.Vài nét về tác phẩm
1.2.2.Tóm tắt tác phẩm
2. Văn hóa và dấu ấn văn hóa:
2.1. Văn hóa
2.1.1. Định nghĩa văn hóa
2.1.2. Phân loại văn hóa
2.1.3. Các thành tố cấu thành nền văn hóa của một dân tộc
2.2. Dấu ấn văn hóa
3. Văn học và văn hóa
3.1. Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa
3.2. Giá trị văn hóa của một tác phẩm văn học
3.3. Phương diện thể hiện của yếu tố văn hóa trong tác phẩm văn học
CHƯƠNG HAI: DẤU ẤN VĂN HÓA NHẬT BẢN TRONG TÁC PHẨM
SHOGUN – TƯỚNG QUÂN CỦA JAMES CLAVELL
1. Thời gian, khơng gian văn hóa
1.1. Thời gian văn hóa


1.2. Khơng gian văn hóa
2. Tri thức văn hóa
3. Tư tưởng
3.1. Tư tưởng triết học
3.2. Tư tưởng chính trị - xã hội
4. Tín ngưỡng, tơn giáo
5. Pháp luật
5.1. Bộ máy tổ chức

5.2. Các luật lệ
6. Ngôn ngữ
7. Truyền thống, đạo đức
7.1. Các đức tính truyền thống
7.2. Các loại hình nghệ thuật truyền thống
8. Lối sống
8.1. Về vấn đề ăn, ở, sinh hoạt
8.2. Về các phong tục, tập quán
CHƯƠNG BA: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CỦA DẤU ẤN VĂN HÓA NHẬT
BẢN TRONG TÁC PHẨM SHOGUN – TƯỚNG QUÂN CỦA JAMES
CLAVELL
1. Kết cấu
1.1. Kết cấu hình tượng
1.1.1. Hệ thống nhân vật
1.1.2. Hệ thống sự kiện
1.2. Kết cấu trần thuật
2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
2.1. Xây dựng nhân vật qua miêu tả ngoại hình
2.2. Xây dựng nhân vật qua miêu tả nội tâm
2.3. Xây dựng nhân vật qua lời nói
2.4. Xây dựng nhân vật qua hành động
2.5. Xây dựng nhân vật qua cảm nhận của nhân vật khác
3. Nghệ thuật xây dựng thời gian, khơng gian văn hóa
3.1. Nghệ thuật xây dựng thời gian văn hóa


3.2. Nghệ thuật xây dựng khơng gian văn hóa
4. Ngơn ngữ

PHẦN KẾT LUẬN



PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nhật Bản là một quốc gia châu Á. Nhắc đến Nhật Bản người ta thường nghĩ
ngay đến xứ sở của hoa anh đào hay đất nước mặt trời mọc. Tuy nhiên, Nhật Bản
còn nổi tiếng bởi những nét văn hoá độc đáo, mang đậm tính cách và tâm lý của con
người Nhật Bản. Văn hố Nhật Bản có một sức hút rất lớn khơng chỉ đối với các
nhà nghiên cứu mà cịn đối với những khách tham quan, du lịch. Sự kì lạ xen lẫn
với những bất ngờ, thú vị luôn làm cho những ai lần đầu tiếp xúc với nền văn hoá
này đều bị lơi cuốn. Sự phong phú về loại hình, sự đa dạng về hình thức thể hiện đã
giúp cho văn hoá Nhật Bản trở thành nguồn đề tài bất tận cho các cơng trình nghiên
cứu, tham luận. Văn học, gương mặt của văn hố dân tộc, vì vậy cũng khơng thể
đứng ngồi luồng tác động của văn hóa. Văn học Nhật Bản đã sớm trở thành một
phương tiện lưu trữ và truyền tải văn hố Nhật Bản khơng chỉ trong phạm vi lãnh
thổ mà còn tiến xa ra bên ngoài thế giới. Đọc các tác phẩm văn học Nhật Bản,
chúng ta ln thấy ở đó một cái riêng, một cái độc đáo mang “dấu ấn Nhật Bản” in
hình trên từng nhân vật, từng hình ảnh, câu chữ.
Tuy nhiên, điều đặc biệt của đề tài “Dấu ấn văn hóa Nhật Bản trong tác
phẩm Shogun – Tướng quân của nhà văn James Clavell” không chỉ xuất phát từ vấn
đề khảo cứu mà còn từ tác phẩm khảo cứu: Shogun - Tướng quân, một tác phẩm in
đậm dấu ấn Nhật Bản nhưng tác giả của nó lại là một nhà văn người Anh, nhà văn
James Clavell. Xét về góc độ lý luận văn học, đây là một vấn đề khá thú vị. Bởi lẽ
trong mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá và văn học thì văn học là phương diện
phản ánh của văn hố dân tộc, điều đó cũng có nghĩa văn hoá mà nhà văn thể hiện
trong tác phẩm của mình ln bị chi phối bởi văn hố dân tộc mình. Nói cách khác
yếu tố văn hố trong tác phẩm ln mang đậm nét văn hố của dân tộc mà người
sáng tác thuộc về. Vậy văn hoá Nhật Bản thể hiện trong tác phẩm của một nhà văn
người Anh có thật sự chính xác và độc đáo? Đó là chưa kể đến việc James Clavell
viết tác phẩm này năm 1975, sau khi nhà văn tham gia thế chiến II và đã từng bị bắt

tại Nhật (1940) trong khi tác phẩm lại thể hiện bối cảnh của chế độ phong kiến Nhật
Bản những năm 1600. Đây cũng là một trong những lý do chúng tôi chọn đề tài này,


từ văn hoá Nhật Bản đến tác phẩm Shogun – Tướng quân, tất cả đều tạo chúng tôi
một sự lôi cuốn kì lạ.
Shogun – Tướng qn là tác phẩm có rất nhiều vấn đề để khảo sát như nghệ
thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật miêu tả tâm lý, yếu tố lịch sử, tính hiện thực,
tinh thần Nhật Bản,…nhưng dấu ấn văn hoá là yếu tố nổi bật nhất và gần như là bao
trùm tất cả. Đọc tác phẩm, chúng ta khơng chỉ có thêm những kiến thức về văn hố
Nhật Bản mà qua đó cịn cho chúng ta một sự nhận thức mới về con người và tinh
thần Nhật Bản cũng như ảnh hưởng to lớn của nó đối với tất cả các lĩnh vực, đối
tượng. Thông qua việc xây dựng, sắp xếp các tuyến nhân vật và nghệ thuật miêu tả
không gian, thời gian, James Clavell đã làm cho văn hoá Nhật Bản sinh động hơn
bao giờ hết. Với hơn 1500 trang sách khổ 14,3 x 20,3cm, nhà văn đã truyền tải một
lượng thông tin phong phú, đa dạng về hầu hết những gì làm bật nổi lên hình ảnh
con người và tinh thần Nhật Bản. Dấu ấn văn hố Nhật Bản trong tác phẩm vì vậy
có những điểm rất hay, rất độc đáo để chúng ta tìm tịi, nghiên cứu.
Từ những lý do trên, chúng tơi hồn toàn tin tưởng rằng đây sẽ là một đề tài
hấp dẫn, mới lạ, hứa hẹn mang đến cho người đọc những hiểu biết mới về con
người và đất nước Nhật Bản.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa là một vấn đề khơng mới. Đã có rất
nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết, tham luận về vấn đề này như: Giải mã văn
hóa trong tác phẩm văn học của Trần Lê Bảo, Quan hệ văn học và văn hóa từ cái
nhìn truyền thống của Đỗ Lai Thúy, Văn học và văn hóa truyền thống của Huỳnh
Như Phương, Mối quan hệ giữa nghiên cứu văn học và văn hóa học của Nguyễn
Văn Hiệu… Tuy nhiên vấn đề mà các tác giả này chỉ ra chỉ là mối quan hệ biện
chứng giữa văn học và văn hóa trên cơ sở hệ thống lý thuyết và phương pháp luận.

Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa là một vấn đề, biểu hiện của yếu tố văn
hóa trong văn học lại là một vấn đề khác. Xét trong một tác phẩm cụ thể, với từng
tác giả cụ thể thì khía cạnh, mức độ đánh giá cũng khác nhau. Chẳng hạn trong bài
nghiên cứu Bài thơ Vận nước và những giá trị văn hố Việt của Đồn Thị Thu Vân,
Khoa Ngữ văn - Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, tác giả đi từ việc phân tích
hình ảnh, từ ngữ sử dụng trong tác phẩm từ đó khái quát lên những triết lý sống
mang giá trị văn hoá đặc thù của dân tộc Việt. Còn trong bài Cội nguồn văn hoá dân


tộc trong truyện ngắn Cao Duy Sơn của Đào Thủy Nguyên, trường Đại học Thái
Nguyên, tác giả tập trung làm rõ sự ảnh hưởng của đời sống bên ngoài vào bên
trong tác phẩm, từ đó làm bật nổi những biểu hiện của văn hóa dân tộc thơng qua
việc khảo sát một vài tác phẩm tiêu biểu của nhà văn. Như vậy khi nghiên cứu vấn
đề này rõ ràng mỗi người viết đã tự tìm cho mình một cách khám phá riêng để tiếp
cận vấn đề một cách tốt nhất theo suy nghĩ của mình, chứ vẫn chưa đề ra một mơ
hình chung.
Với đề tài “Dấu ấn văn hóa Nhật Bản trong tác phẩm Shogun – Tướng quân
của nhà văn James Clavell”, chúng tơi có thể khẳng định đây là một đề tài hoàn
toàn mới, lạ. Ngay từ tên vấn đề khảo sát là “dấu ấn văn hóa” đã là một khái niệm
khá mới trong nghiên cứu văn học. Xưa nay, khi khảo sát vấn đề văn hóa trong tác
phẩm văn học, các nhà nghiên cứu chỉ dùng khái niệm là “yếu tố văn hóa” hoặc là
“giá trị văn hóa”, cịn “dấu ấn văn hóa” thì chưa thấy phổ biến. Thêm vào đó,
Shogun – Tướng quân lại là một tác phẩm văn học khá “mới” đối với độc giả Việt
Nam dù tác phẩm này đã được dịch và xuất bản vài lần, cốt truyện cũng đã được
chuyển thể thành phim, nhưng có lẽ đây là tác phẩm của một tác giả lạ và dung
lượng tác phẩm cũng khá lớn nên rất ít người biết và tìm đọc. Vì vậy, ở nước ta hầu
như chưa có bài nghiên cứu nào về tác phẩm này. Về “Văn hóa Nhật Bản” thì đây
là một vấn đề đã được rất nhiều các nhà nghiên cứu văn học, nhất là các nhà nghiên
cứu văn hóa học đề cập trên nhiều phương diện và khía cạnh khác nhau. Chẳng hạn
như có tác giả đi sâu vào nghiên cứu văn hóa giao tiếp Nhật Bản, có tác giả nghiên

cứu về tơn giáo, có người lại nghiên cứu về các biểu tượng văn hóa, các đức tính
truyền thống…Tuy nhiên tất cả chỉ là những cơ sở về mặt lý thuyết. Do đó, chúng
tơi phải tự tìm ra cho mình hướng giải quyết phù hợp nhất đối với đề tài này.

3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Như đã nói ở phần trên, tác phẩm Shogun – Tướng quân là một tác phẩm thể
hiện rất sâu sắc và tinh tế văn hóa Nhật Bản. Điều chúng tôi muốn thực hiện trong
đề tài này chính là chỉ ra những dấu ấn văn hóa riêng biệt, độc đáo đó. Từ đó giúp
bạn đọc có thêm những kiến thức mới, thú vị về Nhật Bản.
Thêm vào đó, đứng ở góc độ lý luận, chúng tơi cũng muốn tìm hiểu những
phương thức, biện pháp nghệ thuật nào đã được James Clavell sử dụng để thể hiện


dấu ấn văn hóa đó, nghĩa là xét nó từ góc độ xây dựng để thấy được kiến thức cũng
như tài năng nghệ thuật độc đáo của tác giả.
Có rất nhiều cách để tiếp cận một tác phẩm văn học mới, và hướng tiếp cận
tác phẩm văn học từ góc nhìn văn hố là một trong những hướng đi cần thiết và có
nhiều triển vọng. Cùng với những cách tiếp cận văn học bằng xã hội học, mỹ học,
thi pháp học…, cách tiếp cận văn học từ văn hoá giúp chúng ta lý giải trọn vẹn hơn
tác phẩm nghệ thuật. Những yếu tố văn hoá liên quan đến thiên nhiên, địa lý, lịch
sử, phong tục, tập qn, ngơn ngữ… có thể được vận dụng để cắt nghĩa những
phương diện nội dung và hình thức của tác phẩm. Nó cũng có thể góp phần lý giải
tâm lý sáng tác, thị hiếu độc giả và con đường phát triển nói chung của văn học.
Nghiên cứu về tính văn hố trong văn học cũng như mối quan hệ giữa văn hoá và
văn học sẽ cho chúng ta cái nhìn tồn diện hơn trong quá trình khảo sát bất kì một
tác phẩm nào. Đây là một trong những cơ sở quan trọng để chúng ta có được điểm
nhìn đúng đắn khi bước đầu tiếp xúc với một tác phẩm mới. Với đề tài này chúng
tơi hy vọng sẽ mang lại ít nhiều tác dụng thiết thực cho công tác giảng dạy và
nghiên cứu sau này, nhất là việc tìm hiểu các tác phẩm văn học nước ngồi dưới góc
nhìn văn hóa.


4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Tác phẩm Shogun – Tướng quân là một tiểu thuyết có dung lượng khá lớn,
nên có rất nhiều vấn đề để nghiên cứu, khảo sát.
Với đề tài “Dấu ấn văn hóa Nhật Bản trong tác phẩm Shogun – Tướng quân
của James Clavell”, chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu ở một phạm vi hẹp, đó là
“dấu ấn văn hóa” trong tác phẩm. Ở đây, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc tìm ra dấu ấn
văn hóa và các nghệ thuật biểu hiện của dấu ấn văn hóa.
Trong phần dấu ấn văn hóa, vì đây là tiểu thuyết của một nhà văn người Anh,
được viết theo hình thức của tiểu thuyết phương Tây hiện đại nên trong phần dấu ấn
văn hóa Nhật Bản, chúng tôi chỉ đề cập đến những dấu ấn về nội dung. Còn ở nghệ
thuật biểu hiện, chúng tôi cũng chỉ khảo sát qua những nghệ thuật mà chúng tơi cho
rằng nó có vai trị giúp nhà văn thể hiện được dấu ấn văn hóa trong tác phẩm này.

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Do yêu cầu của đề tài là tìm hiểu “dấu ấn văn hóa Nhật Bản” trong một tác
phẩm văn học nên chúng tôi về cơ bản phải tiến hành khảo sát trên cơ sở so sánh,


đối chiếu với lịch sử và văn hóa Nhật Bản (phương pháp lược sử) để tìm ra những
biểu hiện được xem là dấu ấn văn hóa. Ngồi việc khảo sát chúng tơi cịn phải tiến
hành phân tích, tổng hợp những dấu ấn văn hóa để khái quát lên các mặt biểu hiện
của dấu ấn văn hóa Nhật Bản trong tác phẩm này.
Về vấn đề nghệ thuật biểu hiện của dấu ấn văn hóa, chúng tơi một mặt dùng
hệ thống lý luận cơ sở để quy chiếu nhằm phát hiện, phân tích; mặt khác phải tiến
hành lý giải, chứng minh trên thực tế.
Như vậy, với đề tài này, chúng tôi đã có sự kết hợp của rất nhiều phương
pháp, từ so sánh, đối chiếu để xác minh đến khảo sát, sắp xếp, chọn lọc chi tiết để
làm rõ và cuối cùng là phân tích, chứng minh, lý giải để khẳng định tính đúng đắn
của vấn đề.



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG MỘT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Vài nét về tác giả, tác phẩm
1.1. Tác giả James Clavell
1.1.1. Cuộc đời
James Clavell tên thật là Charles Edmund Dumaresq Clavell, sinh ngày
10/10/1924 tại Australia. Ông là con trai của Richard Clavell, một viên tư lệnh của
Hải quân Hoàng gia Anh, người đã được cử tham gia vào Hải quân Hoàng gia Úc.
Năm 1940, sau khi học xong trung học tại Portsmouth Grammar School, James
Clavell gia nhập Pháo binh Hoàng gia theo truyền thống của gia đình.
Khi thế chiến thứ hai bùng nổ, ở tuổi 16, ông tham gia vào Pháo binh Hoàng
gia và được gửi đến Malaya để chống Nhật. Trong một trận tham chiến, ông bị
thương và bị bắt giam tại một nhà tù Nhật trên Java. Sau đó, ơng được chuyển đến
nhà tù Changi ở Singapore. Tại đây, ông đã chứng kiến cuộc sống cùng cực của
những người tù khổ sai và chế độ nhà tù khắc nghiệt, nơi mà có vào khơng có ra.
Năm 1946, sau khi Thế chiến kết thúc, ông được phong lên hàm Đại uý,
nhưng một tai nạn xe máy đã kết thúc sự nghiệp qn sự của ơng. Ơng theo học tại
Đại học Birmingham, nơi ông đã gặp Stride, một nữ diễn viên, sau này là vợ ông.
Năm 1953, Clavell và vợ di cư sang Hoa Kì và định cư ở Hollywood. Năm
1963, ơng chính thức trở thành cơng dân Hoa Kì. Trong những năm sinh sống tại
Mỹ, ông bắt đầu sự nghiệp của mình với vai trị là một tác giả tiểu thuyết, một nhà
đạo diễn và sản xuất phim truyền hình. Năm 1994, ơng qua đời vì chứng đột quỵ
(lúc này ơng cũng đang mang trong mình căn bệnh ung thư) tại Thụy Sĩ, một tháng
trước ngày sinh nhật 70 của mình. Để vinh danh ông, Thư viện của Bảo tàng Pháo
binh Hồng gia tại Woolwich, Ln Đơn đã đổi tên thành Thư viện James Clavell.

1.1.2. Sự nghiệp



Sự nghiệp của James Clavell chia làm hai lĩnh vực chính, là cơng nghiệp
điện ảnh và sáng tác tiểu thuyết. Ở lĩnh vực nào ơng cũng thành cơng và có những
tác phẩm nổi tiếng.

1.2.1.1. Về cơng nghiệp điện ảnh
Ơng được biết đến với nhiều vai trò như đạo diễn, nhà viết kịch bản, nhà sản
xuất… Trong đó, điều đặc biệt là hầu hết các tác phẩm văn học của ông đều được
chuyển thể thành phim. Ông là người viết kịch bản cho bộ phim khoa học viễn
tưởng kinh dị The Fly và Five Gates to Hell, một bộ phim về chiến tranh.
Năm 1963, ông giành được giải thưởng Kịch bản xuất sắc nhất cho bộ phim
The Great Escape với vai trị đồng tác giả.
Các bộ phim của ơng:


The Fly (1958) (kịch bản)



Watusi (1959) (kịch bản)



Five Gates to Hell (1959) (kịch bản, giám đốc sản xuất)



Walk Like a Dragon (1960) (kịch bản, giám đốc sản xuất)




The Great Escape (1963) (đồng viết kịch bản)



633 Squadron (1964) (đồng viết kịch bản)



The Satan Bug (1965) (đồng viết kịch bản)



King Rat (1965) (tác giả tiểu thuyết)



To Sir, with Love (1966) (kịch bản, giám đốc sản xuất)



The Sweet and the Bitter (1967) (kịch bản, giám đốc sản xuất)



Where's Jack? (1968) (giám đốc sản xuất)



The Last Valley (1970) (kịch bản, giám đốc sản xuất)




Shogun – loạt phim (1980)



Tai-Pan (1986) (tác giả tiểu thuyết)



Noble House- loạt phim (1988)

1.1.2.2. Tiểu thuyết
Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Clavell, King Rat , là một hư cấu từ kinh
nghiệm của mình tại nhà tù Changi . Khi cuốn sách được xuất bản vào năm 1962,
nó trở thành cuốn sách bán chạy nhất và ba năm sau, nó được chuyển thể thành
phim. Cuốn tiểu thuyết tiếp theo của ông, Tai-Pan, là một câu chuyện hư cấu về


nhân vật Jardine-Matheson, một nhân vật trỗi dậy và trở nên nổi tiếng tại Hồng
Kông những năm bốn mươi của thế kỉ XIX.
Tiếp theo đó là Shogun năm 1975, câu chuyện của một hoa tiêu người Anh
trôi dạt vào Nhật Bản ở thế kỷ XVII, dựa trên nhân vật có thật là William
Adams . Khi câu chuyện đã được làm thành một bộ phim truyền hình vào năm
1980, sản xuất bởi Clavell, nó đã trở thành loạt phim xếp hạng thứ hai cao nhất
trong lịch sử với doanh thu hơn 120 triệu USD. Năm 1981, Clavell xuất bản tiểu
thuyết thứ tư của ơng, Noble House, và sau đó cũng làm thành một loạt phim. Sau
thành công của Noble House, Clavell viết Whirlwind (1986), Gai-Jin (1993) cùng
The Children’s Story (1981) và Thrump-Oto-Moto (1985).

Các Saga châu Á (Những câu chuyện cổ về Châu Á) bao gồm sáu tiểu
thuyết:
• King Rat (1962): Viết về cuộc sống trong một trại tù binh ở chiến tranh
Nhật Bản năm 1945.
• Tai-Pan (1966): Viết về Hồng Kơng năm 1841
• Shogun (1975): Bối cảnh Nhật Bản những năm 1600
• Noble House (1981): Đất nước Hồng Kơng năm 1963
• Whirlwind (1986): Viết về Iran những năm 1979
• Gai-Jin (1993): Viết về Nhật Bản năm 1862
Ngồi ra cịn có một số tác phẩm khác như:
• The Children’s Story (1980)
• The Art of War , một bản dịch từ cuốn sách nổi tiếng Tơn Tử (1983)
• Thrump-O-Moto, minh họa bởi George Sharp (1986)
• Escape (1994) - cuốn tiểu thuyết ngắn được chuyển thể từ Whirlwind
• Love Story - từ Whirlwind

1.2. Tác phẩm Shogun- Tướng quân
1.2.1. Vài nét về tác phẩm
Shogun (Shogun- Tướng quân) là một trong sáu tiểu thuyết của bộ Saga
Châu Á, được James Clavell viết vào năm 1975, với bối cảnh là đất nước Nhật Bản
những năm 1600. Đây là câu chuyện về cuộc tranh giành quyền lực (địa vị Shogun)
của các Đaiymơ Nhật Bản, với nhân vật chính là Tơranaga (theo cứ liệu lịch sử đó
là Tokugawa Ieyasu của Mạc phủ). Tất cả được nhìn qua con mắt của một thủy thủ


Anh là Blách Thon (nhân vật hư cấu từ William Adams), nhân vật trung tâm của
câu chuyện.
Tác phẩm có sáu mươi mốt chương, gồm hai tập với 1524 trang (không tính
bìa, khổ 14.3x20.3cm). Đây là cuốn tiểu thuyết viết bằng tiếng Anh, thuộc đề tài
tiểu thuyết lịch sử. Năm 1980, chính James Clavell đã xây dựng loạt phim Shogun

từ nội dung của tiểu thuyết này.

1.2.2. Tóm tắt tác phẩm
Nhật Bản những năm 1600 là một quốc gia phong kiến trong một nền hịa
bình tạm thời. Người thừa kế uy quyền, thuộc dịng dõi Hồng đế là người trẻ tuổi
và quyền lực bấy giờ lại nằm trong tay Hội đồng nhiếp chính gồm năm thành viên
là năm lãnh chúa các vùng đất Nhật Bản (đaimyô). Các lãnh chúa này luôn tranh
giành nhau thế mạnh và tước vị Shogun (tước vị cao nhất ở Nhật Bản, sau Hồng
đế, có quyền độc tài về quân sự). Xã hội Nhật Bản coi việc tiếp xúc với thế giới bên
ngồi là khơng đáng tin cậy, vì vậy rất hạn chế. Giáo hội Cơng giáo, chủ yếu thơng
qua các linh mục dịng Tên và các luật dòng khác ở tu viện, đã giành được một
chỗ đứng và tìm cách mở rộng quyền lực của họ. Súng ít được sử dụng và xem
thường, làm cho khả năng quân sự của châu Âu rất hấp dẫn nhưng cũng rất nguy
hiểm đối với Nhật Bản.
Blách Thon, một hoa tiêu người Anh, là người lái tàu chiến Erasmus, được
biết đến là con tàu đầu tiên của những người theo đạo Tin Lành đến Nhật Bản. Tàu
Erasmus bị đắm và anh bị trôi dạt vào bờ biển. Anh và những người sống
sót của thủy thủ đồn bị bắt giữ bởi các samurai địa phương, đứng đầu là
Kasigi Ômi. Ômi coi họ là người ngoại lai, và hành vi của họ bị coi là dã
man và thiếu tôn trọng nên đã bỏ tù họ trong hầm cho đến khi đaimyô Kasigi Yabu,
chúa của miền Izu xem xét. Theo lệnh Yabu, Blách Thon được đưa tới một hộ gia
đình và những người bạn trong đoàn của anh bị bắt làm con tin, để ra sức ép buộc
anh phải khuất phục làm theo yêu cầu của chúng. Theo gợi ý của Ômi, Yabu lên kế
hoạch sử dụng kiến thức của Blách Thon để phục vụ cho chiến lược chống lại bọn
Thiên chúa giáo và làm giàu cho mình. Yabu ra lệnh tịch thu súng và tiền vàng
từ tàu. Nhưng những tin tức này đã đến tai vị lãnh chúa của ơng, quan nhiếp
chính quyền lực Tơranaga, và Yabu có nghĩa vụ phải chuyển Blách Thon, con
tàu, và những gì của nó qua cho Tơranaga.



Blách Thon được trao cho tên gọi là Anjin, nghĩa là “thí điểm” (người lái
tàu) của Nhật vì họ khơng thể phát âm được tên anh. Blách Thon được trân trọng
gọi là Anjin-san. Anh được đưa tới yết kiến Tôranaga với Cha dịng Tên Anvitơ
làm phiên dịch. Theo đạo Tin Lành ở nước Anh, Blách Thon cố gắng thuyết
phục Tôranaga chống lại các tu sĩ dòng Tên. Cuộc phỏng vấn kết thúc khi đối thủ
chính của Tơranaga, Ishiđơ, đi vào, tị mị về Blách Thon "man rợ". Tơranaga đã
tống Blách Thon vào tù như là một mưu mẹo để giữ anh ta khỏi tay Ishiđô.
Trong tù, Blách Thon kết bạn với Cha Fraia Đơmingơ, một thầy tu thuộc dịng
Thánh Franxít, người tiết lộ thông tin chi tiết về cuộc chinh phục của các thầy tu
dòng Tên và người Bồ Đào Nha qua việc mua lụa Nhật Bản và bán lụa lại cho các
nước châu Âu. Ông đã dạy cho anh một vài nét về văn hoá, lối sống của người Nhật
cũng như một vài câu tiếng Nhật thông dụng. Blách Thon được Ishiđô đưa ra khỏi
nhà tù, nhưng Toranaga can thiệp, "bắt lại” Blách Thon từ tay đối thủ của
mình.Trong

cuộc “bị phỏng vấn” tiếp theo của Blách Thon với Tôranaga, Marikô

là người phiên dịch. Marikô cùng chồng là Buntarô, một hatamôtô, là hai trong
những bề tôi đắc lực của Tôranaga. Marikô là một nữ samurai nhưng là người theo
đạo Kitô giáo, một phụ nữ xinh đẹp, thông minh, rất được Tơranaga sủng ái và kính
trọng. Cuộc gặp gỡ lần này đã khiến Tơranaga thú vị và tị mị về Blách Thon, cũng
như những hiểu biết của anh.
Tôranaga bị buộc phải tự sát (vì bị cho rằng có âm mưu lật đổ Thế tử) từ lệnh
của Hội đồng nhiếp chính mà chủ mưu là Ishiđơ. Để thốt khỏi sự đe doạ đó,
ơng trốn thốt bằng cách giả dạng vợ mình là Kiri để trở về đơ, thủ phủ của
mình. Blách Thon vơ tình phát hiện ra vở kịch ấy và với sự nhanh trí của mình, anh
đã giả điên để thu hút sự chú ý và giúp Tơranaga bình an ra khỏi lâu đài của
Ishiđơ. Anh

bắt


đầu

chiếm

được

cảm

tình



sự

tin

tưởng

của

Tơranaga. Tơranaga từ chức chủ tịch Hội đồng Nhiếp chính, làm tê liệt mọi âm mưu
của Ishiđơ vì khơng thể triệu tập cuộc họp Hội đồng và hơn thế Tơranaga biết rằng
việc tìm một thành viên mới để thay vào vị trí thứ năm sẽ làm cho nội bộ chính
quyền mâu thuẫn, đây là cơ hội để ông củng cố lực lượng và chuẩn bị các kế hoạch
chống lại Ishiđơ.
Trong cuộc thốt thân khỏi sự khống chế của Ishiđô, tàu của Tôranaga
đến bờ

biển nhưng lại


bị

phong

tỏa bởi tàu

thuyền của Ishiđô. Theo

gợi


ý của Rôđrigô, thuyền trưởng của Tàu Đen, người từng được Blách Thon cứu sống,
Tôranaga được Phêriêa, tên Thuỷ sư đô đốc của Tàu đen cho vay súng hỏa mai để
làm nổ tàu. Nhưng bù lại các linh mục dòng Tên phải nhìn thấy sự hiện diện
của một nhà thờ lớn cho Cơ đốc giáo ở Yêđô, Tàu Đen, con tàu buôn bán của họ
phải được tự do đi lại trong lãnh thổ của Tôranaga, và cuối cùng là phải giao nộp
Blách Thon. Tôranaga đồng ý. Rôđrigô trả nợ cho Blách Thon bằng cách giúp anh
ta thoát khỏi tay Phêriêa trong một kế hoạch được anh cố tình dựng nên.
Trên đường trở về Yêđô, Tôranaga ghé thăm Yabu tại Izu. Tại đây, bằng sự
khôn ngoan, ông đã kéo được Yabu về phía mình. Blách Thon được vinh dự phong
làm hatamơtơ của Tôranaga, và được gửi lại Izu để Blách Thon bắt đầu
học tiếng Nhật, dưới sự hướng dẫn của Marikô. Anh được Tôranaga ban cho phu
nhân Fujikô làm nàng hầu. Trong một lần nêu ý kiến của mình trước Yabu và không
được chấp nhận, Blách Thon đã seppuku (tự sát theo nghi thức Nhật Bản) như một
samurai đích thực. Đây là một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của Blách
Thon. Anh được cứu sống và từ lúc đó, mọi người đã coi anh là một samurai, một
hatamôtô đúng nghĩa. Trong thời gian này anh bắt đầu nảy sinh tình cảm sâu sắc
với Marikô.
Tôranaga quay trở lại Izu cùng với Buntarô, chồng của Marikô. Tại đây

Blách Thon một lần nữa cứu sống Tôranaga trong một trận động đất. Blách Thon
bị giằng xé bởi tình cảm ngày càng tăng của mình cho Marikơ, lịng trung thành, sự
ưu ái với Tơranaga và mong muốn trở về vùng biển trên chiếc tàu Erasmus của
mình. Anh đến thăm những người sống sót là các thuyền viên ban đầu của mình.
Tại đây, Blách Thon đã không thể chịu nổi sự dơ bẩn, ghê tởm trong cách sống của
những người bạn này, cách sống mà ông đã từng sống. Blách Thon đã thay đổi và
trở thành một người bị đồng hố bởi văn hố Nhật Bản.
Ishiđơ đang nắm giữ nhiều thành viên gia đình của các lãnh chúa khác làm
con tin tại Ôsaka. Hắn tin rằng khi có những con tin, các lãnh chúa khác, bao
gồm Tơranaga, khơng dám tấn cơng mình. Ishiđơ đã nhanh chóng tìm được vị nhiếp
chính thứ năm thay vào chỗ của Tôranaga. Bằng cách triệu tập cuộc họp của Hội
đồng, Ishiđô bắt buộc Tơranaga đến lâu đài của mình, và khi tất cả các quan nhiếp
chính hiện diện, thơng qua thì Tôranaga sẽ phải mổ bụng tự sát theo kế hoạch của
hắn. Để giải thốt Tơranaga từ tình huống này, Marikơ đến Ơsaka tìm mọi cách


đánh bại âm mưu của Ishiđơ và giải thốt các con tin. Trong chuyến đi này, Blách
Thon và Marikô đã u nhau và thuộc về nhau.
Tại lâu đài Ơsaka, Marikơ đã tìm cách chống lại Ishiđơ bằng cách quyết tâm
đưa người thân của Tôranaga rời khỏi lâu đài (đây cũng là một phần trong kế hoạch
của Tôranaga nhằm tạo nên sự ủng hộ của những con tin bị Ishiđô giam lỏng ở đây).
Một trận chiến nổ ra giữa các samurai của Ishiđô và người hộ tống Marikô cho đến
khi cô bị buộc phải quay trở lại. Tuy nhiên, Marikơ nói rằng vì cơ khơng thể chấp
hành mệnh lệnh đối với chúa cơng của mình, đối với cơ đó là điều sỉ nhục và cô
quyết định seppuku. Khi cô làm như vậy, Ishiđô buộc phải cung cấp cho cô các giấy
tờ để rời khỏi lâu đài ngày hôm sau. Nhưng tối hơm đó, một nhóm ninja do
Ishiđơ th đã tấn cơng lâu đài để bắt cóc Marikơ, dưới sự giúp đỡ của Yabu, chư
hầu của Tôranaga, đã bị Ishiđô mua chuộc. Cuộc bắt cóc đã khơng thành. Marikơ đã
tự sát chứ không để lọt vào tay bọn ninja.
Mariko chết và Blách Thon bị thương. Ishiđô buộc phải cho anh và tất

cả các phụ nữ khác rời khỏi lâu đài để không làm ảnh hưởng tới mình. Blách
Thon phát hiện ra rằng con tàu của mình đã được đốt cháy (thực chất là do
Tôranaga sai người phá hủy), làm hỏng cơ hội của mình tấn cơng các tàu Đen, đạt
được sự giàu có và trở về nước Anh. Tơranaga đồng ý cho Blách Thon tiền đóng
một con tàu mới nhưng thực chất đó chỉ là một mồi nhử để anh phục vụ cho lợi ích
của y. Tơranaga lệnh Yabu tự tử vì sự phản bội của mình, và thay vào vị trí của
Yabu là Ômi, cháu ruột của Yabu, người đã phản bội Yabu để đứng về phía
Tơrranaga.
Câu chuyện khép lại với chiến thắng của Tôranaga ở trận đánh tại
Sêkigahara. Ba ngày sau, Ishiđô bị bắt sống và bị chôn xuống đất, chỉ để thò lên cái
đầu. Rồi tất cả các người đi qua lại đều được yêu cầu lấy một các cưa bằng tre cưa
vào cái cổ trứ danh nhất vương quốc. Ishiđô ngoắc ngoải ba ngày sau rồi chết.
Song song với cốt truyện này, cuốn tiểu thuyết cũng có chi tiết về cuộc đấu
tranh quyền lực căng thẳng giữa Tôranaga và Ishiđơ, và vận động chính trị của Giáo
Hội Cơng Giáo, đặc biệt là các linh mục dịng Tên. Ngồi ra cịn có xung đột giữa
các lãnh chúa Kitơ giáo (những người được thúc đẩy bởi mong muốn bảo tồn và mở
rộng quyền lực của Giáo Hội) và các lãnh chúa đã chống lại các Kitô - Shinto (Thần
đạo), Phật giáo và tín ngưỡng khác.


Một câu

chuyện

nhỏ

xun

suốt lặp


lại trong cuốn

sách

là việc

Tơranaga ni chim ưng. Ơng so sánh các lồi chim khác nhau của mình với
các chư hầu của mình. Ơng ném chúng vào các mục tiêu, cho chúng mẩu thức ăn để
đưa chúng trở lại nắm tay của mình.

2. Văn hố và dấu ấn văn hoá
2.1. Văn hoá
2.1.1. Định nghĩa văn hoá
Văn hoá là một trong những yếu tố quan trọng đánh dấu sự tồn tại và phát
triển của nhân loại. Đã có hàng trăm bài viết, cơng trình nghiên cứu luận bàn về
khái niệm hay định nghĩa về văn hoá, nhưng cho đến nay vẫn chưa có được một
khái niệm thống nhất. Mỗi nhà nghiên cứu lại tự đặt ra một định nghĩa riêng cho
mình. Mỗi thể chế chính trị, mỗi quốc gia, mỗi ngành khoa học xã hội nhân văn
cũng có một khái niệm về văn hoá riêng. Vào năm 1952, hai nhà nhân học người
Mỹ là A. L. Kreber và K.Klaxon đã thu thập được 164 cách định nghĩa khác nhau
về thuật ngữ văn hoá. Trong cuốn “Triết học văn hoá” M.S.Kagan thu thập được
hơn 70 cách định nghĩa khác nhau. Tại Hội nghị về văn hố UNESCO tại Mêhicơ
năm 1982, người ta cũng đã đưa ra 200 định nghĩa về văn hố. Hiện nay thì số
lượng định nghĩa về văn hố ngày càng tăng thêm, khó mà thống kê hết được.
Về mặt thuật ngữ khoa học, văn hóa được bắt nguồn từ chữ Latinh Cultus mà
nghĩa gốc là gieo trồng, được dùng theo nghĩa Cultus Agri là “gieo trồng ruộng
đất” và Cultus Animi là “gieo trồng tinh thần” tức là “sự giáo dục bồi dưỡng tâm
hồn con người”..
Theo các định nghĩa miêu tả, nhà nhân loại học người Anh Edward Burnett
Tylor (1832 - 1917) đã định nghĩa văn hóa như sau: “Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng

trong dân tộc học là một tổng thể phức hợp gồm kiến thức, đức tin, nghệ thuật, đạo
đức, luật pháp, phong tục, và bất cứ những khả năng, tập quán nào mà con người
thu nhận được với tư cách là một thành viên của xã hội”.
Theo các định nghĩa lịch sử, Edward Sapir (1884 - 1939), nhà nhân loại học,
ngôn ngữ học người Mỹ định nghĩa:“Văn hóa chính là bản thân con người, cho dù
là những người hoang dã nhất sống trong một xã hội tiêu biểu cho một hệ thống
phức hợp của tập quán, cách ứng xử và quan điểm được bảo tồn theo truyền
thống”.


Theo các định nghĩa chuẩn mực, William Isaac Thomas (1863 - 1947), nhà
xã hội học người Mỹ cho rằng: “Văn hóa là các giá trị vật chất và xã hội của bất kỳ
nhóm người nào (các thiết chế, tập tục, phản ứng cư xử, vv….)”.
Theo tâm lý học, William Graham Sumner (1840 - 1910), viện sĩ Mỹ, giáo
sư Đại học Yale định nghĩa:“Văn hố là tổng thể những thích nghi của con người
với các điều kiện sinh sống của họ chính là văn hóa, hay văn minh...Những sự thích
nghi này được bảo đảm bằng con đường kết hợp những thủ thuật như biến đổi,
chọn lọc và truyền đạt bằng kế thừa”.
Ralph Linton (1893 - 1953), nhà nhân loại học người Mỹ theo định nghĩa cấu
trúc, cho rằng: “Văn hóa suy cho cùng là các phản ứng lặp lại ít nhiều có tổ chức
của các thành viên xã hội, là sự kết hợp giữa lối ứng xử mà các thành tố của nó
được các thành viên của xã hội đó tán thành và truyền lại nhờ kế thừa”.
Pitirim Alexandrovich Sorokin (1889 - 1968), nhà xã hội học người Mỹ gốc
Nga, người sáng lập khoa Xã hội học của Đại học Harvard định nghĩa văn hố theo
nguồn gốc của nó: “Với nghĩa rộng nhất, văn hóa chỉ tổng thể những gì được tạo
ra, hay được cải biến bởi hoạt động có ý thức hay vô thức của hai hay nhiều cá
nhân tương tác với nhau và tác động đến lối ứng xử của nhau”.
Một định nghĩa khác được coi là khá chuẩn do Edward B. Tylor đưa ra năm
1871:“Văn hố là tồn bộ những tri thức, những tín ngưỡng, những nghệ thuật,
những giá trị, những luật lệ, phong tục và tất cả những năng lực và tập quán khác

mà con người với tư cách thành viên của xã hội nắm bắt được”.
Trên trang điện tử Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (vi.wikipedia.org), văn
hoá được định nghĩa là “tất cả những sản phẩm của con người, và như vậy, văn hóa
bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngơn ngữ, tư
tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương tiện…”.
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa
nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất,
tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa
đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ
thống giá trị, truyền thống và đức tin”.
Cựu Tổng Giám đốc UNESCO Federico Mayor cũng từng đưa ra định nghĩa
về văn hố: “Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sống động mọi


mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ
cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành một hệ
thơng các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự
khẳng định bản sắc riêng của mình”.
Ở Việt Nam cũng có một số định nghĩa của các nhà nghiên cứu về văn hoá.
Chẳng hạn theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, khoa Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Viện Ngôn ngữ Việt Nam (xuất bản năm 2007) thì văn
hố được ghép từ hai từ văn (trong từ văn minh) và hoá (trong từ giáo hố), theo đó
văn hố có nghĩa là “nền giáo hoá theo mỗi văn minh của thời đại” hay là “điều
hiểu biết, kiến thức”.
Trong cuốn Cơ sở văn hoá Việt Nam, giáo sư - viện sĩ Trần Ngọc Thêm đưa
ra khái niệm: “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo và tích lũy qua q trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương
tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng đề cập đến vấn đề này. Người viết: “Vì
lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh

ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh
ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và địi hỏi của sự sinh tồn”.
Qua những khái niệm trên chúng ta có thể khẳng định văn hóa là sản phẩm
của lồi người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con
người với tự nhiên và xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
thơng qua q trình vận động, phát triển của xã hội. Văn hố có thể xem như yếu tố
đầu tiên và căn bản để xác lập tính độc lập của một dân tộc hoặc một cộng đồng
người. Văn hóa cịn là thước đo trình độ phát triển của con người và của xã hội,
được biểu hiện trong các kiểu hình thức tổ chức đời sống và hành động của con
người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra. Nói như
Nguyễn Trần Bạt trong bài viết Khái niệm và bản chất của văn hố thì: “Văn hố,
nói một cách giản dị, là những gì cịn lại sau những chu trình lịch sử khác nhau,
qua đó người ta có thể phân biệt được các dân tộc với nhau. Thông qua mỗi một


chu kỳ của sự phát triển, dân tộc đó tương tác với mình và với những dân tộc khác,
cái cịn lại được gọi là bản sắc, hay còn gọi là văn hóa”.

2.1.2 Phân loại văn hố
Có rất nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề phân loại văn hoá. Ở đây chúng tôi
xin theo ý kiến được phần đông các nhà nghiên cứu thống nhất, đồng thời đây cũng
là ý kiến mà chúng tôi cho rằng tương đối hợp lý, nghĩa là về cơ bản, văn hố có thể
chia làm hai loại: Văn hóa tinh thần và văn hố vật chất. Văn hố tinh thần (hay cịn
gọi là văn hóa phi vật chất) bao gồm những ý niệm, tín ngưỡng, phong tục, tập
quán, giá trị, chuẩn mực…Văn hoá vật chất (hay văn hoá vật thể) bao gồm tất cả
những sáng tạo hữu hình của con người mà trong xã hội học gọi chung là đồ tạo tác.
Những con đường, tòa cao ốc, đền đài, nhà cửa, phương tiện giao thông, máy móc

thiết bị, vật dụng, dụng cụ lao động... đều là đồ tạo tác. Tuy nhiên sự phân loại này
không có nghĩa là chúng ở trong trạng thái thuần tuý đối lập nhau mà chỉ là sự căn
cứ theo nội dung cơ bản và phương thức phát huy tác dụng của chúng mà thơi. Vẫn
phải thấy rằng trong văn hố vật chất vẫn có yếu tố văn hố tinh thần và ngược lại.
Sự xuyên thấm đối ngược của yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần trong hai loại hình
văn hố nói trên là một vấn đề rất tự nhiên, tất yếu theo quy luật hình thành và phát
triển của nó. Sự kết hợp giữa hai yếu tố vật chất và tinh thần trong hai loại hình văn
hố trên là theo tỷ lệ áp đảo, nghĩa là hoặc thiên về vật chất hoặc thiên về tinh thần.
Nhưng cũng có một sản phẩm, mà sự kết hợp ấy là cố ý, do một cá nhân sáng tạo ra,
và như vậy có thêm một loại hình văn hố thứ ba, văn hố tinh thần - vật chất, hay
cịn gọi là văn hố nghệ thuật (văn hố mang tính nghệ thuật). Loại hình văn hố
này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu chi tiết ở phần “mối quan hệ giữa văn học và văn
hoá”.

2.1.3. Các thành tố cấu thành nền văn hoá của một dân tộc
Văn hoá là một tổng thể được cấu thành từ rất nhiều thành tố. Tìm hiểu đặc
điểm của các thành tố văn hoá của một dân tộc sẽ giúp chúng ta thấy được bản sắc
cũng như những đặc trưng cơ sở của nền văn hoá ấy. Tất nhiên trong từng điều kiện
lịch sử, xã hội cụ thể, các thành tố này có thể sẽ có những vị trí và vai trò khác nhau
trong việc thể hiện và lưu trữ văn hoá của một dân tộc.

2.1.3.1. Tri thức


Tri thức là bộ phận quan trọng nhất của văn hố. Đó là những hiểu biết khoa
học, những kinh nghiệm và sự khơn ngoan mà con người tích luỹ được trong q
trình lao động sản xuất, đấu tranh và thích ứng với thiên nhiên cũng như với xã hội
nhằm duy trì và phát triển cuộc sống của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng trong
quá trình lịch sử lâu dài. Tri thức đó được thể hiện trên rất nhiều lĩnh vực như: lao
động sản xuất, chính trị, giáo dục, văn học, nghệ thuật, y tế, luật pháp, giao thông,

giao tiếp, chinh phục thiên nhiên… Nói một cách khái quát, tri thức văn hố chính
là tất cả những hiểu biết của một dân tộc được thể hiện thông qua sự hiểu biết của
mỗi cá nhân, nó thể hiện những kinh nghiệm, những kiến thức mà dân tộc đó có
được sau cả một quá trình sống và lý giải tất cả vấn đề của cuộc sống xung quanh.
Tuy nhiên tri thức chỉ có thể trở thành một bộ phận của văn hố khi nó định
hướng và được định hướng cho các ứng xử của con người và cộng đồng người. Và
tất nhiên khi đó, con người với vai trị là thành viên của xã hội, những người sống,
làm việc, hành động theo các quy tắc ứng xử đó, sẽ là người thể hiện những tri thức
văn hoá trong tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.

2.1.3.2. Tư tưởng
Hệ thống tư tưởng là sản phẩm của con người và chỉ có ở con người. Tư
tưởng là một sản phẩm vơ hình, là sản phẩm tinh thần. Sự đối lập giữa con người
với nhau nếu xét ở một khía cạnh nào đó đều xuất phát từ sự đối lập về tư tưởng.
Mỗi một dân tộc, mỗi một quốc gia đều hình thành và khẳng định cho mình những
hệ thống tư tưởng nhất định. Nó phản ánh con đường mà dân tộc, đất nước đó lựa
chọn để phát triển. Tư tưởng bên cạnh việc thể hiện lập trường, quan điểm của
mình, nó cịn là sự tự ý thức của con người về thân phận và vai trị của mình. Và khi
mọi người có được ý thức này thì tư tưởng đó sẽ được nâng cao thành sự tự ý thức
của dân tộc, của đất nước. Một đất nước có tính đa dạng về hệ thống tư tưởng (ở
đây là những tư tưởng tích cực) sẽ là một đất nước có nền văn hố phong phú và có
năng lực phát triển tốt.
Tư tưởng xét cho cùng chính là biểu hiện cách nhìn, cách nghĩ của một dân
tộc, một đất nước về các vấn đề của đời sống xã hội thông qua cách nhìn, cách nghĩ
của các thành viên sống trong cộng đồng đó. Với vai trị như vậy, tư tưởng trong
quan hệ với văn hố có thể được xem là một yếu tố quan trọng cấu thành nền văn
hoá dân tộc.


2.1.3.3. Tín ngưỡng

Tín ngưỡng là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế
giới và để mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng. Khi nói đến tín ngưỡng
người ta thường nghĩ ngay đến tôn giáo, tuy nhiên nếu xét một cách tường tận, tơn
giáo chỉ là một phần của tín ngưỡng. Tín ngưỡng mang tính dân tộc nhiều hơn tơn
giáo và khơng có tính tổ chức chặt chẽ. Khi nói đến tín ngưỡng người ta thường nói
đến tín ngưỡng của một dân tộc hay một số dân tộc có một số đặc điểm chung.
Nếu như tri thức hay tư tưởng được nhận thức bằng các biện pháp duy lí thì
tín ngưỡng lại được xem xét bằng bản năng hoặc bằng niềm tin (niềm tin được xây
dựng trên tâm lý ngờ vực các vấn đề xảy ra trong cuộc sống). Tín ngưỡng thể hiện
sự trơng đợi, hay thậm chí là sự kí sinh tinh thần của con người vào người khác, vào
các lực lượng siêu nhiên. Nó giúp cho con người hồn thành các lý giải mà ngay cả
tri thức khoa học cũng khơng thể nào giúp họ trả lời hết được.
Tín ngưỡng là một thành tố văn hố vơ cùng độc đáo bởi hơn hết nó là một
biểu hiện phong phú trong đời sống sinh hoạt tinh thần của con người, của niềm tin,
ước mơ và cả sự sợ hãi, lo lắng.

2.1.3.4. Các giá trị đạo đức
Đạo đức là một thành tố của văn hoá, được cấu thành từ các thành tố nhỏ là:
ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và quan hệ đạo đức.
Về ý thức đạo đức, đó là những nguyên tắc bảo đảm cho sự phù hợp giữa lợi
ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Những nguyên tắc này khi trở thành tình cảm,
quan điểm, quan niệm sống chính là ý thức đạo đức.
Hành vi đạo đức là những hành vi được thực hiện bởi sự thôi thúc của ý thức
đạo đức. Hành vi đạo đức là biểu hiện của ý thức đạo đức cá nhân ra bên ngoài, tác
động trực tiếp lên đối tượng tiếp nhận. Vì vậy, khi xem xét văn hố đạo đức chúng
ta không thể chỉ xem xét ý thức đạo đức một cách độc lập mà cần xem xét nó cũng
với những hành vi đạo đức.
Về quan hệ đạo đức, đó là những quan hệ đã được ý thức đạo đức điều chỉnh
giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập thể, xã hội. Những quan hệ này
thường được hình thức hố bằng những nghi thức xã hội, những phong tục, tập

qn… Vì thế một mặt nó vừa là phương diện thể hiện ý thức đạo đức, mặt khác nó
cũng đóng vai trị hình thành và củng cố ý thức đạo đức.


Đạo đức có một q trình hình thành, tồn tại và phát triển liên tục. Trong văn
hố có đạo đức nhưng như thế khơng có nghĩa là các yếu tố đạo đức của dân tộc này
khác biệt hoàn toàn với các yếu tố đạo đức của dân tộc khác, của thế kỉ này khác
với thế kỉ khác. Văn hoá thể hiện hình thức của đạo đức, là phương thức để con
người và các dân tộc thể hiện bản thân mình.

2.1.3.5. Truyền thống
Truyền thống là những giá trị đã được chọn lọc, kiểm nghiệm qua thời gian
và được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Một đất nước khơng có truyền
thống, khơng có lịch sử, khơng có các giá trị vĩnh hằng thì đất nước đó khơng thể có
hiện tại, càng khơng thể có tương lai.
Truyền thống tham gia vào định hướng đạo đức, tư tưởng, sự lựa chọn đức
tin. Truyền thống bao gồm các phong tục, tập quán, lối sống của cộng đồng được
hình thành và phát triển ổn định qua thời gian.

2.1.3.6. Thẩm mỹ
Nói đến thẩm mỹ người thường nghĩ đến khái niệm cái đẹp, nghĩ đến quan
điểm về cái đẹp. Tuy nhiên vấn đề này không thống nhất giữa người này với người
khác, giữa dân tộc này với dân tộc khác.
Cơ cấu nội tại của thẩm mỹ bao gồm ba thành tố nhỏ: Năng lực thẩm mỹ,
hoạt động thẩm mỹ và giá trị thẩm mỹ. Năng lực thẩm mỹ là năng lực sáng tạo và
thưởng thức cái đẹp, một trong những năng lực đặc thù của con người. Hoạt động
thẩm mỹ là hoạt động của nhà sáng tạo làm nên các giá trị thẩm mỹ - hoạt động tạo
ra cái đẹp cho cuộc sống. Còn giá trị thẩm mỹ chính là cái đẹp, giá trị của cái đẹp.
Nó được biểu hiện qua các tác phẩm nghệ thuật (văn học, hội hoạ, điêu khắc…),
qua phong cách ứng xử, giao tiếp…, nhưng cũng có thể dưới dạng những công

nghệ, kĩ thuật, cơ chế quản lý hay thậm chí thơng qua pháp luật.
Xét trong quan hệ với văn hoá, giá trị thẩm mỹ của một dân tộc được biểu
hiện như một thước đo của đời sống tinh thần. Nó khơng thể hiện trong một lĩnh
vực cụ thể trong đời sống xã hội mà là trong mọi hoạt động xã hội của con người.
Giá trị thẩm mỹ tham gia cấu tạo nên mơi trường văn hố của cộng đồng.

2.1.3.7. Pháp luật
Con người dù muốn hay không, khi đã sống trong một cộng đồng thì phải có
sự thống nhất giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi tập thể, nghĩa là phải có sự chi


phối của quan hệ tập thể. Mối quan hệ đó được điều chỉnh một mặt nhờ các quan
niệm đạo đức, mặt khác nhờ các thiết chế của pháp luật. Như vậy rõ ràng pháp luật
cũng là một thành tố văn hố xét về quan hệ ứng xử. Nó biểu thị cho sự thống nhất
về quyền và nghĩa vụ của con người trong một đất nước. Pháp luật cùng với đạo
đức có nghĩa vụ tạo ra mơi trường sống tốt đẹp cho con người.
Pháp luật của một dân tộc được biểu thị thông qua hệ thống luật pháp của
nhà nước cai trị, thống nhất trên toàn lãnh thổ. Tuy nhiên trong một số trường hợp,
mỗi vùng, miền sẽ có những quy ước khác nhau, lúc đó sẽ nảy sinh một hệ thống
pháp luật mới gọi là luật pháp địa phương (giống như phép vua và lệ làng của Việt
Nam ngày xưa). Nhưng dù dưới mơ hình, hình thức nào thì pháp luật vẫn là cơ sở
để đảm bảo uy quyền và lợi ích cho giai cấp trị vì. Đây cũng là yếu tố tạo nên sự
liên kết chặt chẽ và thống nhất cho mọi mặt của đời sống xã hội.

2.1.3.8. Lối sống
Lối sống là tiêu chí đầu tiên, tiêu chí tổng hợp nhất, thể hiện chất lượng văn
hố và trí tuệ của một con người. Xét trong quan hệ văn hoá, lối sống của một dân
tộc chính là yếu tố giúp chúng ta nhận chân giữa bản sắc dân tộc này với bản chất
dân tộc khác. Xét trong quan hệ với các thành tố văn hố thì lối sống là sản phẩm
tổng hợp của tất cả các thành tố còn lại.

Lối sống không chỉ là hành vi đơn thuần như cách đi lại, ăn nói mà là hành vi
theo nghĩa rộng, bao gồm tư duy, quan điểm và phương thức xử lý trong các mối
quan hệ. Lối sống là một thói quen có định hướng, có chất lượng lý tưởng. Đó là
phương thức thể hiện tổng hợp tất cả các cấu trúc, nền văn hoá, đặc trưng văn hoá
của một con người hay một cộng đồng.
Lối sống bao nhiều gồm thành tố cấu thành như: Cách thức lao động, làm ăn,
kinh doanh…; các phong tục, tập quán, tín ngưỡng; cách thức giao tiếp, ứng xử;
quan niệm về đạo đức và nhân cách. Theo đó, lối sống chi phối tồn bộ các hoạt
động, suy nghĩ của con người. Tìm hiểu văn hố của một dân tộc chúng ta có thể
khai thác triệt để thành tố này, thành tố được xem là sự hội tụ đầy đủ của bản sắc
văn hoá dân tộc.

2.2. Dấu ấn văn hoá


Từ điển tiếng Việt của nhà xuất bản từ điển Bách khoa, khoa Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Viện Ngôn ngữ Việt Nam (xuất bản năm 2007) định nghĩa về
“dấu ấn” như sau: “dấu ấn là dấu vết để lại do tác động về tư tưởng, tinh thần”.
Trên cơ sở đó, chúng ta có thể định nghĩa một cách khái quát về “dấu ấn văn
hoá”: Dấu ấn văn hoá là dấu vết để lại của một nền văn hoá được hình thành trong
một điều kiện xã hội cụ thể, dưới tác động của các mặt về tư tưởng, nhận thức, tinh
thần và được biểu hiện trong đời sống của mỗi dân tộc ở tất cả các lĩnh vực. Ở góc
độ tiếp cận văn hóa, dấu ấn văn hóa chính là “đặc điểm nhận dạng” của một nền văn
hóa. Mỗi đất nước, mỗi dân tộc trong quá trình hình thành và phát triển đều gắn liền
với những điều kiện lịch sử - xã hội nhất định. Theo quy luật tất yếu, những điều
kiện này sẽ chi phối đời sống của cộng đồng, tác động lên tư tưởng, tình cảm và
nhận thức của các thành viên trong xã hội. Sự tác động đó sẽ ít nhiều để lại những
dấu vết trong đời sống vật chất cũng như trong đời sống tinh thần của đất nước, dân
tộc đó. Những dấu vết cịn lại sau những chu trình lịch sử như vậy chính là dấu ấn
văn hóa.

Dấu ấn văn hố trong tác phẩm văn học có thể hiểu là những dấu vết của đời
sống văn hố bên ngồi được tái hiện trong tác phẩm văn học thơng qua ngơn từ và
hình tượng nghệ thuật. Những dấu vết đó giúp cho người đọc nhận biết được mình
đang tiếp xúc với tác phẩm viết về đất nước nào, về dân tộc nào. Mỗi một đất nước,
mỗi một dân tộc đều có những dấu ấn văn hóa riêng và dấu ấn văn hóa trong tác
phẩm văn học chính là dấu vết của sự riêng biệt, độc đáo đó.

3. Văn học và văn hố
3.1. Mối quan hệ giữa văn học và văn hố
Như đã nói ở phần trên, văn học nghệ thuật là một loại hình văn hố. Qua đó
chúng ta có thể thấy được vị trí khơng thể thay thế và vai trị to lớn của nghệ thuật
trong đời sống xã hội: “cái cao quý của một đất nước, một dân tộc là ở giá trị văn
hố…Văn học nghệ thuật có nhiệm vụ và có tác dụng to lớn trong việc sáng tạo nên
những giá trị cao quý ấy” (Phạm Văn Đồng).
Nghệ thuật là một loại văn hố đặc biệt. Nhưng riêng văn học thì có vị trí thế
nào trong nghệ thuật nói riêng và trong văn hố nói chung. Tuy nằm trong loại hình
văn hố “vật chất – tinh thần”, nhưng có thể thấy văn học có xu hướng gần với văn
hố tinh thần hơn. Bởi so với các thể loại nghệ thuật khác thì chất liệu của chúng


×